Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Hoàn thiện các chỉ tiêu phân tích báo cáo tại công ty cổ phần lạc an hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (833.01 KB, 85 trang )

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thế giới tiến vào quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu xuất hiện hàng loạt các tổ
chức kinh tế thế giới cùng nhau vượt qua những khó khăn, thách thức để chung tay
xây dựng nền kinh tế ổn định và bền vững. Năm 2014 vừa qua là một năm đầy biến
động của nền kinh tế thế giới cũng như nền kinh tế của Việt Nam. Đánh dấu sự phục
hồi của nền kinh tế tuy còn chậm nhưng phần nào đã nói lên những sự cố gắng của
chính phủ các quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam trong năm qua đã có những sự phát
triển đáng mừng như tăng trưởng GDP đã vượt lên chỉ tiêu - đạt 5,93%, lạm phát đã
giảm đáng kể - đạt hơn 2%, lãi suất tín dụng giảm…tạo điều kiện cho người dân và
doanh nghiệp có thể tiếp cận được với nguồn vốn. Đây là những mảng sáng của nền
kinh tế Việt Nam bên cạnh đó thì nền kinh tế vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Vì thế các
doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp sản xuất vật liệu nói riêng đang phải đối mặt
với nhiều khó khăn, thách thức.Doanh nghiệp muốn đứng vững và phát triển trong nền
kinh tế như hiện nay thì nhà quản trị cần có cái nhìn tổng quát về tình hình tài chính
của đơn vị. Để làm được điều này thì việc phân tích báo cáo tài chính là một nhu cầu
cấp thiết. Với chức năng là công cụ quản lý tài chính, phân tích báo cáo tài chính cần
được chú trọng tổ chức thực hiện với các chỉ tiêu phân tích phù hợp giúp nhà quản lý
điều hành hoạt động quản lý doanh nghiệp hiệu quả nhất.
Ngành xây dựng, sản xuất vật liệu xây dựng là một ngành phần chiếm tỷ trọng
cao trong cơ cấu kinh tế của Việt Nam. Những năm qua các công ty trong ngành luôn
nỗ lực phấn đấu không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, lớn mạnh về
quy mô và có uy tính về chất lượng, đồng thời phải đặt việc nâng cao hiệu quả quản lý
là điều kiện thiết yếu để đạt được các mục tiêu trên. Công ty Cổ Phần Lạc An - Hà
Tĩnh là một công ty trong ngành xây dưng và sản xuất vật liệu xây dựng, được thành
lập và phát triển trong điều kiện nền kinh tế thị trường luôn biến động, không nằm
ngoài quy luật chung của toàn bộ nền kinh tế, khi nền kinh tế trong nước biến đổi thì


sẽ kéo theo hàng loạt sự thay đổi ở các công ty. Nhận thức được vấn đề đó công ty đã
chú trọng đến công tác tổ chức thực hiện và phân tích các chỉ tiêu phân tích phân tích
báo cáo tài chính để kiểm soát tốt quá trình hoạt động của mình cũng như theo dõi tình
trạng sức khỏe tài chính của công ty trong từng giai đoạn.
Tuy nhiên, trong quá trình thực tập tại Công ty Cổ Phần Lạc An - Hà Tĩnh em
thấy các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính của công ty chưa được xây dựng một cách
hợp lý và vẫn còn gặp một số hạn chế nhất định, chưa thực sự đáp ứng nhu cầu quản

SVTH: Phạm Thị Tuyết

1

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

lý cần tiếp tục nghiên cứu và bổ sung cho hoàn thiện. Xuất phát từ thực tế đó, em
quyết định chọn đề tài “Hoàn thiện các chỉ tiêu phân tích báo cáo tại Công ty Cổ
Phần Lạc An - Hà Tĩnh” làm chuyên đề tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
• Hệ thống hóa cơ sở lý luận về các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính tại các
doanh nghiệp.
• Tìm hiểu tình hình hoạt động kinh doanh của công ty, đồng thời xem xét và
đánh giá các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ Phần Lạc An - Hà Tĩnh.
• Từ cơ sở lý luận và thực tiễn các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính tại công ty
để đưa ra các giải pháp hoàn thiện các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính tại Công ty
Cổ Phần Lạc An - Hà Tĩnh.

3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý số liệu: Thông qua các báo cáo tài chính, giáo
trình, mạng internet...tiến hành thu thập, nghiên cứu để tìm hiểu về hoạt động phân
tích báo cáo tài chính tại Công ty.
Phương pháp phỏng vấn trực tiếp: Phương pháp hỏi trực tiếp người cung cấp
thông tin, dữ liệu cần thiết cho việc nghiên cứu đề tài. Phương pháp này sử dụng trong
giai đoạn thu thập những thông tin cần thiết và số liệu thô liên quan tới đề tài.
Phương pháp nghiên cứu và tham khảo tài liệu: Nghiên cứu những tài liệu, giáo
trình, khóa luận liên quan đến vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp phân tích: là phương pháp dựa trên những số liệu có sẵn để phân
tích nhằm hiểu rõ hơn về vấn đề từ đó tìm ra nguyên nhân và giải pháp khắc phục.
Phương pháp so sánh: phương pháp xem xét các chỉ tiêu phân tích bằng cách
dựa trên việc so sánh số liệu với một chỉ tiêu cơ sở (chỉ tiêu gốc). Tiêu chuẩn để so
sánh thường là: Chỉ tiêu kế hoạch của một kỳ kinh doanh, tình hình thực hiện các kỳ
kinh doanh đã qua, chỉ tiêu các doanh nghiệp tiêu biểu cùng ngành. Các chỉ tiêu so
sánh phải phù hợp về yếu tố không gian, thời gian, cùng nội dung kinh tế, đơn vị đo
lường, phương pháp tính toán. Với hai hình thức là so sánh tuyệt đối và so sánh tương
đối từ đó để thấy được sự tăng giảm chỉ tiêu của phân tích.
4. Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu các lý luận cơ bản và thực tiễn về các chỉ số phân tích báo cáo tài
chính tại Công ty Cổ Phần Lạc An - Hà Tĩnh.

SVTH: Phạm Thị Tuyết

2

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp


GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

5. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian
Đề tài nghiên cứu tại Công ty Cổ Phần Lạc An – Hà Tĩnh
Về thời gian
Đề tài đi sâu nghiên cứu và đề cập các chỉ tiêu phân tích báo cáo của Công ty
Cổ Phần Lạc An - Hà Tĩnh qua số liệu của ba năm 2012, 2013, 2014.
Thời gian nghiên cứu vấn đề từ ngày 12/01/2015 đến ngày 22/03/2015
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục, phụ lục,
chuyên đề được kết cấu theo 3 chương sau:
Chương I: Cơ sở lý luận chung về các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính
trong doanh nghiệp
Chương II: Thực trạng các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ
Phần Lạc An - Hà Tĩnh.
Chương III: Hoàn thiện các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính tại Công ty Cổ
Phần Lạc An - Hà Tĩnh – Hà Tĩnh.

SVTH: Phạm Thị Tuyết

3

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà


CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH
BÁO CÁO TÀI CHÍNH TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. KHÁI NIỆM VÀ MỤC ĐÍCH CỦA PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1.1. Khái niệm báo cáo tài chính
Trong quá trình hình thành và hoàn thiện báo cáo tài chính có nhiều khái niệm
về báo cáo tài chính đã được đưa ra, mỗi tác giả lại có một khái niệm riêng. Tác giả
trích dẫn một số khái niệm về báo cáo tài chính sau:
Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Quang: “ Báo cáo tài chính là sản phẩm cuối cùng
của kế toán tài chính, cung cấp nhưng thông tin hữu ích cho mọi đối tượng trong nền
kinh tế thị trường cạnh tranh và phát triển. Song để các thông tin trên hệ thống báo cáo
biết “ nói” phải thông qua các phương pháp phân tích, các chuyên gia đánh giá khi đó
các thông tin mới có ý nghĩa cho các đối tượng quan tâm đưa ra các quyết định có độ
tin cậy cao”[7]
Theo PGS. TS Nguyễn Văn Công: “ Báo cáo tài chính là những báo cáo tổng
hợp nhất về tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu và công nợ cũng như tình hình tài chính,
kết quả kinh doanh, tình hình lưu chuyển tiền tệ và khả năng sinh lời trong kỳ của
doanh nghiệp. Báo cáo tài chính cung cấp các thông tin kinh tế - tài chính chủ yếu cho
người sử dụng thông tin kế toán trong việc đánh giá, phân tích và dự đoán tình hình tài
chính kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính được sử dụng
như nguồn dữ liệu chính khi phân tích hoạt động tài chính”[1]
Cũng theo TS Phan Đức Dũng thì: “Báo cáo tài chính (còn gọi là báo cáo kế toán
định kỳ) bao gồm những báo cáo phản ánh các mặt khác nhau trong hoạt động kinh tế - tài
chính của doanh nghiệp nhằm phục vụ yêu cầu quản lý đa dạng ở cấp độ vĩ mô lẫn vi mô.
Báo cáo tài chính định kỳ được Nhà nước quy định thống nhất về danh mục hệ thống các
chỉ tiêu taì chính phương pháp tính toán và xác lập từng chỉ tiêu cụ thể”[2]
Mỗi khái niệm được nêu ra tuy khác nhau về câu từ nhưng đều tương đồng về
bản chất và chức năng của Báo cáo tài chính. Qua quá trình tìm hiểu và nghiên cứu tác
giả đưa ra một khái niệm về Báo cáo tài chính sau:
“Báo cáo tài chính là những báo cáo được tổng hợp số liệu từ các sổ kế toán

theo các chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh có hệ thống tình hình tài sản, nguồn hình
thành tài sản của doanh nghiệp, tình hình và kết quả hoạt động sản suất kinh doanh,
tình hình lưu chuyển các dòng tiền và tình hình vận động sử dụng vốn của doanh
nghiệp trong một thời kỳ nhất định”.

SVTH: Phạm Thị Tuyết

4

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

1.1.2. Mục đích của báo cáo tài chính [9]
Báo cáo tài chính dùng để cung cấp thông tin về tình hình tài chính, tình hình
kinh doanh và các luồng tiền của một doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu quản lý của chủ
doanh nghiệp, cơ quan Nhà nước và nhu cầu hữu ích của những người sử dụng trong
việc đưa ra các quyết định kinh tế. Báo cáo tài chính phải cung cấp những thông tin
của một doanh nghiệp về:
-

Tài sản;

-

Nợ phải trả và vốn chủ sở hữu;


-

Doanh thu, thu nhập khác, chi phí kinh doanh và chi phí khác;

-

Lãi, lỗ và phân chia kết quả kinh doanh;

-

Thuế và các khoản nộp Nhà nước;

-

Tài sản khác có liên quan đến đơn vị kế toán;

-

Các luồng tiền.

Ngoài các thông tin này, doanh nghiệp còn phải cung cấp các thông tin khác
trong “Bản thuyết minh báo cáo tài chính” nhằm giải trình thêm về các chỉ tiêu đã phản
ánh trên các báo cáo tài chính tổng hợp và các chính sách kế toán đã áp dụng để ghi
nhận các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, lập và trình bày báo cáo tài chính.
1.2. KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ MỤC ĐÍCH PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI
CHÍNH
1.2.1. Khái niệm về phân tích báo cáo tài chính [7]
Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Quang: “ Phân tích báo cáo tài chính thực chất là
phân tích các chỉ tiêu tài chính trên hệ thống báo cáo hoặc các chỉ tiêu tài chính mà
nguồn thông tin từ hệ thống báo cáo nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh

nghiệp, cung cấp thông tin cho mọi đối tượng có nhu cầu theo những mục tiêu khác
nhau”. Các chỉ tiêu tài chính trên hệ thống báo cáo tài chính bao gồm tài sản, nguồn
vốn, vốn chủ sở hữu… có từ Bảng cân đối kế toán. Chỉ tiêu doanh thu bán hàng, lợi
nhuận,… có từ Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu ROA, ROE,
ROS,… Nguồn thông tin từ các báo cáo tài chính cung cấp
Phân tích báo cáo tài chính chủ yếu cung cấp thông tin cho các đối tượng bên
ngoài doanh nghiệp là chủ yếu đưa ra các quyết định theo những mục tiêu khác nhau.
1.2.2. Ý nghĩa của việc phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh
các số liệu tài chính hiện hành và quá khứ. Qua phân tích báo cáo tài chính mới đánh
giá đầy đủ, chính xác tình hình phân phối, sử dụng và quản lý các loại vốn, nguồn vốn,

SVTH: Phạm Thị Tuyết

5

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

vạch rõ khả năng tiềm tàng về vốn của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó đề ra biện pháp
nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Phân tích báo cáo tài chính là công cụ quan trọng trong các chức năng quản trị
có hiệu quả ở doanh nghiệp. Đây là quá trình nhận thức hoạt động kinh doanh, là cơ sở
cho ra quyết định đúng đắn trong tổ chức quản lý, nhất là chức năng kiểm tra, đánh giá
và điều hành hoạt động kinh doanh để đạt các mục tiêu kinh doanh.
Phân tích báo cáo tài chính là công cụ không thể thiếu phục vụ công tác quản lý

của cấp trên, cơ quan tài chính, ngân hàng như: đánh giá tình hình thực hiện các chế
độ, chính sách về tài chính của Nhà nước, xem xét việc cho vay vốn.
Các báo cáo tài chính phản ánh kết quả và tình hình thực hiện các mặt hoạt động
của doanh nghiệp bằng các chỉ tiêu kinh tế. Những báo cáo này do kế toán soạn thảo
định kỳ nhằm mục đích cung cấp thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh
nghiệp cho những người có nhu cầu sử dụng nó. Tuy nhiên nhu cầu sử dụng các thông
tin trên báo cáo tình chính lại rất khác nhau phụ thuộc vào mục đích của họ.
• Đối với nhà quản lý doanh nghiệp như chủ doanh nghiệp, Hội đồng quản trị,
Ban giám đốc: báo cáo tài chính cung cấp thông tin để doanh nghiệp phân tích, đánh
giá tổng hợp về thực trạng và tiềm năng tài chính, khả năng thanh toán, tình hình và
kết quả hoạt động kinh doanh, tình hình và thực trạng quản lý kinh tế tài chính, để từ
đó hoạch định các chính sách quản lý và sử dụng tài sản, chính sách huy động và sử
dụng vốn, chính sách quản lý doanh thu, chi phí và sử dụng các luồng tiền của doanh
nghiệp.
• Đối với những đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu
tư, các chủ nợ, ngân hàng: thông tin trên báo cáo tài chính có thể giúp họ đánh giá tiềm
năng và thực trạng tài chính, thực trạng hoạt động kinh doanh và khả năng sinh lời, khả
năng thanh toán và những rủi ro, để có những quyết định hợp lý đối với việc đầu tư,
mức độ và thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, đối với các nhà cung cấp và khách hàng
thông tin trên báo cáo tài chính có thể giúp họ có những đánh giá về triển vọng kinh
doanh và khả năng cung cấp nguồn hàng, khả năng thanh toán ngắn hạn, để có những
quyết định đúng đắn về các quan hệ kinh doanh, bạn hàng.
• Đối với người lao động: thông tin trên báo cáo tài chính giúp họ hiểu được
khả năng tiếp tục hoạt động, khả năng sinh lời và khả năng thanh toán, chi trả của
doanh nghiệp để họ có những quyết định việc làm và thu nhập.
• Đối với các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan quản lý tài chính, đăng
ký kinh doanh, cơ quan thuế và các cơ quan quản lý nhà nước khác: căn cứ vào thông
tin trên báo cáo tài chính để thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát tính tuân thủ pháp

SVTH: Phạm Thị Tuyết


6

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

luật kinh doanh, pháp luật về quản lý tài chính, thuế của các doanh nghiệp và đề ra các
quyết định quản lý Nhà nước phù hợp…
1.2.3. Mục đích của việc phân tích báo cáo tài chính
Phân tích báo cáo tài chính là nhằm để “hiểu được các con số” hoặc để “nắm
chắc các con số”, tức là sử dụng các công cụ phân tích tài chính như là phương tiện hỗ
trợ để hiểu các số liệu tài chính trong các báo cáo.
Do sự định hướng của công tác phân tích tài chính nhằm vào việc ra quyết định,
một mục tiêu quan trọng khác là đưa ra một cơ sở hợp lý cho việc dự đoán tương lai.
Do đó, người sử dụng các công cụ và kỹ thuật phân tích báo cáo tài chính nhằm cố
gắng đưa ra các đánh giá có căn cứ về tình hình tài chính tương lai của Công ty, dựa
trên sự phân tích tình hình tài chính trong quá khứ và hiện tại, và đưa ra ước tính tốt
nhất về khả năng của những sự cố kinh tế trong tương lai.
Phân tích báo cáo tài chính nhằm đánh giá các chính sách tài chính trên cơ sở
quyết định kinh doanh của một doanh nghiệp. Phân tích báo cáo tài chính nhằm nhận
biết được các tiềm năng tăng trưởng và phát triền của doanh nghiệp. Qua phân tích báo
cáo tài chính có thể nhận biết được những tồn tại về mặt tài chính của doanh nghiệp.
Phân tích báo cáo tài chính giúp cho doanh nghiệp có cơ sở để lập nhu cầu vốn cần
thiết cho năm kế hoạch
1.3. HỆ THỐNG CÁC CHỈ TIÊU PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH [3]
1.3.1. Khái niệm về các chỉ tiêu phân báo cáo tài chính

Các chỉ tiêu tài chính là một bộ phận cấu thành của hệ thống chỉ tiêu kinh tế
nhằm đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trong hiện tại và quá khứ để đưa ra
quyết định trong tương lai. Hệ thống chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính của doanh
nghiệp quyết định đến chất lượng của thông tin phục vụ cho các cấp quản lý, để đưa ra
các quyết định điều hành trên tất cả các lĩnh vực kinh doanh. Do vậy để đánh giá tổng
hợp kết quả của các hoạt động tài chính, cần xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phân tích
báo cáo tài chính hoàn chỉnh có độ chính xác cao phục vụ tốt các yêu cầu quản lý của
doanh nghiệp và tổng thể nền kinh tế.
1.3.2. Cơ sở xây dựng các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính
Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính được xây dựng dựa trên các nội dung phân
tích đã đề ra theo yêu cầu quản lý tài chính của doanh nghiệp. Thông thường các nội
dung phân tích bao gồm phân tích khái quát tình hình tài chính, khả năng thanh toán,
phân tích luồng tiền, phân tích hiệu quả sử dụng tài sản và phân tích khả năng sinh lãi.
Tuy nhiên, với những doanh nghiệp khác nhau có thể có những yêu cầu khác nhau về
nội dung phân tích.

SVTH: Phạm Thị Tuyết

7

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

• Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính được xây dựng dựa trên đặc điểm hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp thuộc các ngành kinh
doanh khác nhau có các đặc thù về hoạt động kinh doanh khác nhau. Hệ thống chỉ tiêu

phân tích tài chính được xây dựng dựa trên các đặc điểm này mới giúp cho người phân
tích đánh giá được chuẩn xác tình hình tài chính và kết quả hoạt động của doanh
nghiệp.
• Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính cần được xây dựng dựa trên nhu cầu
thông tin của các chủ thể phân tích hay các đối tượng quan tâm. Mỗi đối tượng lại
có sự quan tâm đến các khía cạnh khác nhau. Nhà đầu tư sẽ quan tâm trước hết đến khả
năng sinh lãi, bên cạnh đó là mức độ tự chủ về tài chính nhằm đảm bảo cho sự tồn tại
và phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Các nhà cung cấp tín dụng dài hạn sẽ quan tâm
nhiều đến mức độ tự chủ tài chính và bên cạnh đó là khả năng sinh lãi nhằm đảm bảo
khả năng doanh nghiệp sẽ tồn tại lâu dài và thanh toán được các khoản nợ dài hạn. Còn
các nhà cung cấp tín dụng ngắn hạn thường quan tâm đến khả năng thanh toán nợ ngắn
hạn nhằm đảm bảo các khoản cho vay nợ ngắn hạn của họ được thu hồi. Các nhà quản
lý của doanh nghiệp thường phải quan tâm đến tất cả các khía cạnh phân tích để có các
quyết định phù hợp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, hệ thống chỉ
tiêu phân tích tài chính được xây dựng vừa cần phản ánh tổng quát tình hình tài chính,
vừa cần phản ánh chi tiết phù hợp với nhu cầu thông tin của các đối tượng khác nhau.
• Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính được xây dựng trên cơ sở các loại hình
phân tích được lựa chọn theo yêu cầu của quản lý. Phân tích có nhiều loại hình như
phân tích toàn diện, phân tích chuyên đề, phân tích tổng thể, phân tích bộ phận...Mỗi
loại hình phân tích có yêu cầu về loại thông tin khác nhau, mức độ tổng hợp hay chi
tiết của thông tin cũng khác nhau. Do đó, hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính cần
được xây dựng để có thể vừa phản ánh khái quát tình hình tài chính vừa phản ánh chi
tiết theo yêu cầu của các loại hình phân tích cụ thể.
• Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính được xây dựng trên cơ sở chế độ chính
sách tài chính kế toán hiện hành. Điều này có thể đảm bảo cho doanh nghiệp có khả
năng đáp ứng yêu cầu về báo cáo các chỉ tiêu phân tích tài chính theo quy định. Mặt
khác, điều này sẽ đảm bảo tính khả thi cho việc tính toán các chỉ tiêu dựa trên cơ sở
các số liệu kế toán tài chính sẵn có.
1.3.3. Hệ thống các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính
Hệ thống chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính là tổng thể các chỉ tiêu được sắp

xếp theo một trình tự xác định nhằm đánh giá hoạt động tài chính của doanh nghiệp
theo yêu cầu của các cấp quản lý và cung cấp thông tin cho các nhà quản lý để đạt
được các lợi ích mong muốn. Vì vậy ta có thể chia hệ thống các chỉ tiêu phân tích báo

SVTH: Phạm Thị Tuyết

8

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

cáo tài chính theo các tiêu thức khác nhau để thuận tiện cho quá trình quản lý và sử
dụng trong hoạt động kinh doanh.
Hệ thống chỉ tiêu phân tích tài chính doanh nghiệp thường bao gồm nhiều nhóm
chỉ tiêu nhằm phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp một cách toàn diện, trên
nhiều khía cạnh khác nhau, đảm bảo đáp ứng được nhu cầu về phân tích tài chính cho
nhiều đối tượng khác nhau. Mặc dù giữa các nhóm chỉ tiêu có sự giao thoa nhưng
thông thường, hệ thống chỉ tiêu được chia thành các nhóm như sau: chỉ tiêu đánh giá
khái quát tình hình tài chính, chỉ tiêu phân tích cấu trúc và tình hình tài chính, chỉ tiêu
phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán, chỉ tiêu phân tích hiệu quả kinh
doanh, chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lãi và chỉ tiêu phân tích rủi ro tài chính.
Ta có thể khái quát hệ thống chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính theo nội dung
kinh tế theo sơ đồ sau:

Sơ đồ 1.1: Các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính trong doanh nghiệp
a. Nhóm chỉ tiêu phân tích khái quát tài sản, nguồn vốn của doanh nghiệp

Phân tích khái quát tài sản, nguồn vốn là việc xem xét, nhận định về quy mô
của doanh nghiệp thông qua giá trị tài sản và nguồn vốn. Phân tích khái quát tài sản,
nguồn vốn thường sử dụng các chỉ tiêu trong bảng cân đối kế toán, chỉ tiêu được quan
tâm trước tiên là chỉ tiêu tổng tài sản và tổng nguồn vốn. Chỉ tiêu này phản ánh tổng
hợp quy mô vốn mà đơn vị sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn từ các
nguồn khác nhau của doanh nghiệp. Cơ cấu tài sản và nguồn vốn được tính toán để
đánh giá khả năng huy động vốn của doanh nghiệp từ các nguồn khác nhau và việc
phân bổ, sử dụng lượng vốn này đầu tư vào các loại tài sản có hợp lý không.
Cụ thể doanh nghiệp có thể sử dụng một số chỉ tiêu như sau:
Tài sản cố định đã và đang đầu tư
Tỷ suất đầu tư =
x 100 (%)
Tổng tài sản

SVTH: Phạm Thị Tuyết

9

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Chỉ tiêu này phản ánh tình hình đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật, máy móc
thiết bị của doanh nghiệp. Qua chỉ tiêu này có thể thấy được năng lực sản xuất và xu
hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Tuy nhiên, chỉ tiêu này sẽ phụ thuộc vào
đặc điểm kinh doanh của các ngành khác nhau. Ngoài ra, chỉ tiêu này cũng thay đổi tùy
thuộc vào điều kiện và các giai đoạn kinh doanh như đổi mới, thay thế, nâng cấp trong

nội bộ doanh nghiệp. Ngoài việc xem xét tình hình phân bổ vốn, doanh nghiệp và các
đối tượng quan tâm khác cần phân tích cơ cấu nguồn vốn nhằm đánh giá được khả
năng tự tài trợ về mặt tài chính của doanh nghiệp cũng như mức độ tự chủ, chủ động
trong kinh doanh. Điều này được phản ánh qua việc xác định tỷ suất tự tài trợ.
Tỷ suất tự tài trợ

=

Vốn chủ sở hữu
Tổng nguồn vốn

x 100 (%)

Chỉ tiêu này càng cao thì khả năng độc lập về mặt tài chính hay mức độ tự tài
trợ của doanh nghiệp càng lớn. Bên cạnh chỉ tiêu trên, doanh nghiệp cũng có thể sử
dụng chỉ tiêu tỷ lệ nợ để phân tích cơ cấu nguồn vốn. Chỉ tiêu này tính theo tỷ lệ giữa
nguồn vốn vay nợ và tổng nguồn vốn. Ngược với chỉ tiêu trên, tỷ lệ nợ càng lớn thì khả
năng độc lập về mặt tài chính hay mức độ tự tài trợ của doanh nghiệp càng thấp.
Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu là chỉ số phản ánh quy mô tài chính của công
ty. Nó cho ta biết về tỉ lệ giữa 2 nguồn vốn cơ bản (nợ và vốn chủ sở hữu) mà doanh
nghiệp sử dụng để chi trả cho hoạt động của mình. Hai nguồn vốn này có những đặc
tính riêng biệt và mối quan hệ giữa chúng được sử dụng rộng rãi để đánh giá tình hình
tài chính của doanh nghiệp. Tỷ lệ tổng nợ trên vốn chủ sở hữu được tính bằng cách
chia tổng nợ cho vốn chủ sở hữu:
Tỷ lệ nợ

=

Nợ phải trả
Tổng nguồn vốn


x

100 (%)

Thông thường, nếu hệ số này sấp xỉ bằng 1, có nghĩa là tài sản của doanh
nghiệp được tài trợ chủ yếu bởi các khoản nợ, còn ngược lại thì tài sản của doanh
nghiệp được tài trợ chủ yếu bởi nguồn vốn chủ sở hữu. Về nguyên tắc, hệ số này càng
nhỏ, có nghĩa là nợ phải trả chiếm tỷ lệ nhỏ so với tổng tài sản hay tổng nguồn vốn
thì doanh nghiệp ít gặp khó khăn hơn trong tài chính. Tỷ lệ này càng lớn thì khả năng
gặp khó khăn trong việc trả nợ hoặc phá sản của doanh nghiệp càng lớn. Tuy nhiên,
việc sử dụng nợ cũng có một ưu điểm, đó là chi phí lãi vay sẽ được trừ vào thuế thu
nhập doanh nghiệp. Do đó, doanh nghiệp phải cân nhắc giữa rủi ro về tài chính và ưu
điểm của vay nợ để đảm bảo một tỷ lệ hợp lý nhất.
b. Nhóm chỉ tiêu phân tích tình hình công nợ và khả năng thanh toán

SVTH: Phạm Thị Tuyết

10

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Tình hình công nợ của doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản mà
các nhà quản trị quan tâm, các khoản công nợ ít không dây dưa kéo dài sẽ tác động
tích cực đến tình hình tài chính thúc đẩy các hoạt động kinh doanh phát triển. Các

khoản công nợ tồn đọng nhiều sẽ dẫn đến tình trạng chiếm dụng vốn của nhau ảnh
hưởng đến uy tín của doanh nghiệp và làm cho các hoạt động kinh doanh kém hiệu
quả. Tình hình công nợ của doanh nghiệp ảnh hưởng đến khả năng thanh toán và hiệu
quả sử dụng vốn do vậy doanh nghiệp phải thường xuyên phân tích tình hình công nợ
và khả năng thanh toán trong mối quan hệ mật thiết với nhau để đánh giá chính xác
tình hình tài chính của doanh nghiệp với thực trang như thế nào.
Phân tích tình hình công nợ
Các hệ số này đánh giá năng lực hoạt động thông qua tốc độ luân chuyển hàng
tồn kho, khả năng kiểm soát các khoản phải thu, phải trả thông qua tốc độ thu hồi các
khoản phải thu và thanh toán các khoản phải trả. Với năng lực hoạt động tốt và khả
năng kiểm soát các khoản phải thu, phải trả một cách hợp lý sẽ tạo cơ sở cho doanh
nghiệp có khả năng thanh toán tốt.
-

Phân tích tình hình phải thu của khách hàng thông qua các chỉ tiêu:

Số vòng quay phải thu khách
hàng KH

Doanh thu hoặc doanh thu thuần

=

Số dư bình quân phải thu khách hàng

Số dư bình quân các khoản phải thu của khách hàng được tính như sau:
Số dư bình quân phải thu của
khách hàng

=


Số dư phải thu khách hàng đầu kỳ và cuối kỳ
2

Hệ số này phản ánh hiệu quả thu hồi nợ của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết
trong kỳ phân tích các khoản phải thu quay được bao nhiêu vòng, chỉ tiêu này càng cao
chứng tỏ doanh nghiệp thu hồi tiền hàng kịp thời, ít bị chiếm dụng vốn. Tuy nhiên chỉ
tiêu này quá cao có thể ảnh hưởng không tốt đến quá trình tiêu thụ làm giảm doanh thu
do phương thức thanh toán tiền của doanh nghiệp quá chặt chẽ. Vì thế doanh nghiệp
cần cân nhắc thực hiện các chính sách mềm dẻo trong việc bán hàng để thu hút được
khách hàng.
Bên cạnh hệ số quay vòng các khoản phải thu, người phân tích còn có thể sử
dụng chỉ tiêu số ngày của một vòng quay khoản phải thu để đánh giá khả năng thu hồi
nợ của doanh nghiệp:
Số ngày của một vòng
quay các khoản phải thu KH

SVTH: Phạm Thị Tuyết

=

11

Số ngày của kỳ phân tích
Hệ số quay vòng các khoản phải thu

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp


GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Trong đó, số ngày của kỳ phân tích có thể là tính theo tháng (30 ngày), quý (90
ngày) hoặc năm (360 ngày). Nếu chỉ tiêu số ngày của một vòng quay các khoản phải
thu tính được lớn hơn thời hạn thanh toán thông thường của các hợp đồng bán hàng trả
chậm thì có nghĩa là doanh nghiệp đã không kiểm soát tốt các khoản nợ phải thu, điều
này là không tốt do làm tăng vốn bị chiếm dụng, tăng chi phí nợ quá hạn và có thể dẫn
đến không thu hồi được nợ.
-

Phân tích tình hình phải trả người bán thông qua các chỉ tiêu:
Để đánh giá khả năng kiểm soát các khoản phải trả, doanh nghiệp có thể sử

dụng hệ số quay vòng các khoản phải trả:
Hệ số quay vòng các
khoản phải trả NB

Giá trị hàng mua trả chậm/ Giá vốn

=

Số dư bình quân các khoản phải trả NB

Cũng tương tự như ở hệ số quay vòng hàng tồn kho và hệ số quay vòng các
khoản phải thu, trong hệ số trên, mẫu số được tính như sau:
Số dư bình quân các khoản

=


phải trả NB

Các khoản phải trả NB đầu kỳ và cuối kỳ
2

Hệ số này phản ánh khả năng kiểm soát các khoản nợ phải trả của doanh
nghiệp. Nếu kiểm soát không tốt, doanh nghiệp có thể bỏ lỡ các cơ hội được giảm giá
mua hàng khi thanh toán tiền sớm hơn thời hạn trả chậm được quy định, hơn nữa
doanh nghiệp sẽ bị giảm uy tín nếu thanh toán tiền chậm hơn thời hạn quy định. Trong
trường hợp này, có thể doanh nghiệp sẽ không được tiếp tục mua trả chậm trong tương
lai, làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh.
Bên cạnh hệ số này, cũng có thể sử dụng chỉ tiêu số ngày của một vòng quay
các khoản phải trả để đánh giá khả năng kiểm soát các khoản nợ của doanh nghiệp:
Số ngày của một vòng quay
các khoản phải trả NB

Số ngày của kỳ phân tích

=

Hệ số quay vòng các khoản phải trả NB

Trong đó, số ngày của kỳ phân tích có thể là tính theo tháng (30 ngày), quý (90
ngày) hoặc năm (360 ngày). Người phân tích có thể so sánh chỉ tiêu số ngày của một
vòng quay các khoản phải trả với thời hạn thanh toán thông thường của các hợp đồng
mua hàng trả chậm. Nếu chỉ tiêu này lớn hơn có nghĩa là doanh nghiệp đã không kiểm
soát tốt các khoản nợ phải trả của mình. Điều này có thể sẽ gây ra ảnh hưởng xấu đối
với hoạt động kinh doanh.
Phân tích khả năng thanh toán


SVTH: Phạm Thị Tuyết

12

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Khả năng thanh toán của doanh nghiệp là nội dung quan trọng để đánh giá chất
lượng tài chính và hiệu quả hoạt động. Để đánh giá khả năng thanh toán có thể sử dụng
các chỉ tiêu sau:
Hệ số khả năng thanh toán tổng quát

=

Tổng tài sản
Tổng nợ phải trả

Đây là chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán tổng quát của doanh nghiệp. Chỉ
tiêu này thể hiện mối tương quan giữa tổng tài sản mà doanh nghiệp có thể sử dụng để
trả nợ và tổng số nợ phải trả. Chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng thanh toán tổng quát
của doanh nghiệp cũng càng lớn. Ngược lại, nếu chỉ tiêu này càng nhỏ thì doanh
nghiệp càng mất dần khả năng thanh toán.
Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn

=


Tài sản ngắn hạn

Nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này được dùng để đánh giá khả năng thanh toán tạm thời các khoản nợ
ngắn hạn của doanh nghiệp. Chỉ tiêu phản ánh mối quan hệ giữa giá trị tài sản ngắn
hạn là loại tài sản mà doanh nghiệp có thể chuyển đổi thành tiền trong vòng 1 năm hay
1 chu kỳ kinh doanh và các khoản nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải thanh toán cũng
trong khoảng 1 năm. Qua đó, có thể thấy được khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp là cao hay thấp. Nếu chỉ tiêu này xấp xỉ 1 thì doanh nghiệp có đủ
khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, ngược lại nếu chỉ tiêu càng nhỏ hơn 1 thì
khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của doanh nghiệp càng thấp.
Để đánh giá khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn có thể sử dụng
chỉ tiêu hệ số thanh toán nhanh. Hệ số này phản ánh tỷ lệ giữa tổng số tiền và tương
đương tiền với tổng số nợ ngắn hạn
Tổng số tiền và tương đương tiền
Hệ số thanh toán nhanh
=
Tổng số nợ ngắn hạn
Trong đó, dữ liệu về tổng số tiền và tương đương tiền được lấy từ báo cáo lưu
chuyển tiền tệ. Các khoản đầu tư ngắn hạn được coi là tương đương tiền trình bày trên
báo cáo lưu chuyển tiền tệ chỉ bao gồm các khoản đầu tư ngắn hạn có thời hạn thu hồi
hoặc đáo hạn không quá 3 tháng kể từ ngày mua khoản đầu tư đó. Chỉ tiêu này càng
lớn thì khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp càng cao. Tuy nhiên, nếu hệ số
này quá cao thì cũng không tốt vì như vậy có nghĩa là doanh nghiệp duy trì lượng vốn
bằng tiền quá lớn sẽ làm giảm tốc độ luân chuyển vốn dẫn đến hiệu quả sử dụng vốn
thấp.
Nếu hệ số này > 0,5 thì tình hình thanh toán tương đối khả quan, nếu hệ số < 0,5
thì doanh nghiệp có thể gặp khó khăn trong việc thanh toán công nợ và do đó, có thể
phải bán gấp hàng hoá, sản phẩm để trả nợ vì không đủ tiền thanh toán. Bên cạnh đó,


SVTH: Phạm Thị Tuyết

13

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

để phản ánh khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản ngắn hạn nhanh hay chậm, từ
đó xác định tiềm lực của doanh nghiệp trong việc thanh toán các khoản nợ ngắn hạn,
có thể xem xét chỉ tiêu hệ số khả năng chuyển đổi thành tiền của tài sản ngắn hạn:
Tổng số tiền và tương đương tiền
Hệ số khả năng chuyển đổi thành tiền
=
của tài sản ngắn hạn
Tổng tài sản ngắn hạn
Nếu hệ số này càng lớn thì doanh nghiệp càng nhiều tiền để đảm bảo thanh
toán, ngược lại hệ số này càng nhỏ thì doanh nghiệp càng thiếu tiền để chi trả cho các
khoản nợ của mình. Tuy nhiên, thừa hay thiếu tiền đều gây ảnh hưởng không tốt đến
tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu thừa sẽ gây ứ đọng vốn, còn nếu thiếu sẽ
không bảo đảm khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Thông thường, nếu hệ số này > 0,5 thì lượng tiền và tương đương tiền của
doanh nghiệp quá nhiều, thừa khả năng thanh toán, nếu < 0,1 thì doanh nghiệp lại
không đủ tiền để đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn.
Cũng có thể xem xét khả năng thanh toán của doanh nghiệp trên một góc độ
khác, đó là khả năng thanh toán các khoản lãi vay. Để đánh giá vấn đề này có thể sử
dụng hệ số phản ánh khả năng thanh toán lãi vay:

Hệ số thanh toán lãi vay

=

Lợi nhuận trước thuế và chi phí lãi vay(EBIT)

Chi phí lãi vay
Chỉ tiêu này cho biết lợi nhuận trước thuế và lãi vay có thể bù đắp chi phí lãi
vay hay không? Hay nói cách khác hệ số này phản ánh khả năng thanh toán lãi vay của
doanh nghiệp. Do trên thực tế, chi trả lãi vay thuộc lưu chuyển tiền từ hoạt động kinh
doanh nên hệ số trên cũng có thể được tính bằng cách khác là thay tử số bằng luồng
tiền thuần từ hoạt động kinh doanh trước thuế và lãi vay.
c. Nhóm chỉ tiêu phân tích luồng tiền trong doanh nghiệp
Khi phân tích luồng tiền, nhà phân tích thường sử dụng các chỉ tiêu sau:
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
Hệ số luồng tiền trên
=
doanh thu
Doanh thu
Hệ số này được phân tích để đánh giá khả năng tạo tiền của doanh nghiệp, phản
ánh tỷ lệ giữa luồng tiền thuần của hoạt động kinh doanh với doanh thu. Chỉ tiêu này
cho thấy “chất lượng” của doanh thu. Doanh nghiệp có thể có doanh thu lớn nhưng vẫn
khó khăn trong việc thanh toán do doanh thu bao gồm doanh thu trả chậm làm doanh
nghiệp thiếu tiền để trang trải các khoản nợ. Hệ số trên càng cao, khả năng tạo tiền từ
doanh thu càng lớn và tạo điều kiện tốt cho hoạt động thanh toán của doanh nghiệp và
ngược lại.
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
Hệ số luồng tiền trên
=
lợi nhuận

Lợi nhuận thuần từ hoạt động kinh doanh

SVTH: Phạm Thị Tuyết

14

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Tương tự như chỉ tiêu hệ số luồng tiền trên doanh thu thì chỉ tiêu hệ số luồng
tiền trên lợi nhuận cho ta thấy được khả năng tạo tiền từ lợi nhuận của công ty. Hệ số
này càng cao chứng tỏ khả năng tạo tiền từ lợi nhuận của doanh nghiệp càng lớn và
ngược lại.
Hệ số luồng tiền trên
tài sản

=

Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh

Tổng tài sản
Chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá khả năng tạo tiền nhưng ở mức độ tổng
quát hơn, phản ánh mức độ tạo tiền từ việc sử dụng toàn bộ tài sản của doanh nghiệp.
Cung như hai hệ số trên, chỉ tiêu này càng lớn thì mức độ tạo tiền từ việc sử dụng toàn
bộ tài sản của doanh nghiệp và càng tạo điều kiện tốt cho hoạt động thanh toán của
doanh nghiệp và ngược lại.

Ngoài ra để so sánh được mức độ tạo tiền của hoạt động kinh doanh với toàn bộ hoạt
động của doanh nghiệp thì ta còn có thể sử dụng chỉ tiêu sau:
Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
Mức độ tạo tiền từ hoạt
=
động kinh doanh
Lưu chuyển tiền thuần trong kỳ
Bên cạnh việc phân tích luông tiền để đánh giá khả năng tạo tiền của doanh
nghiệp, luồng tiền còn được phân tích để đánh giá khả năng thanh toán, trong mảng
này thì nhà phân tích có thể sử dụng các chỉ tiêu sau:
Hệ số đảm nhận nợ
của dòng tiền

Tổng số nợ

=

Lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh
Hệ số này phản ánh tỷ lệ nợ giữa tổng số nợ phải trả với luồng tiền tiền ròng

(lưu chuyển tiền thuần) của hoạt động kinh doanh, qua đó có thể thấy được khả năng
thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp. Do tổng số nợ bao gồm nợ ngắn hạn và nợ
dài hạn nên hệ số này phản ánh khả năng thanh toán tổng quát các khoản nợ. Hệ số này
càng nhỏ thì khả năng thanh toán nợ của doanh nghiệp càng cao và ngược lại.
d. Nhóm chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng tài sản
Hiệu quả sử dụng tài sản có thể được đánh giá chung một cách tổng hợp bằng
cách tính hiệu quả sử dụng tổng tài sản qua các chỉ tiêu như hệ số quay vòng tài sản, tỷ
suất lợi nhuận trên tổng tài sản. Ngoài ra thì hiệu quả cũng được đánh giá riêng rẽ theo
từng loại tài sản: hiệu quả sử dụng tài sản cố định và hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn.
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định

Để đánh giá hiệu quả sử dụng của TSCĐ thì sử dụng các chỉ tiêu sau:
Sức sản xuất của
TSCĐ

=

Doanh thu thuần

Tổng TSCĐ bình quân
Trong đó: Tổng tài sản bình quân được tính như sau:
TSCĐ đầu kỳ + TSCĐ cuối kỳ
Tổng TSCĐ bình quân =
2

SVTH: Phạm Thị Tuyết

15

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị TSCĐ đem lại cho doanh nghiệp bao
nhiêu đồng doanh thu thuần. Chỉ tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng TSCĐ càng
lớn và ngược lại, sức sản xuất của TSCĐ càng thấp thì hiệu quả sử dụng tài sản cố định
càng giảm.
Sức sinh lợi của

TSCĐ

=

Lợi nhuận sau thuế

Tổng TSCĐ bình quân
Tương tự như chỉ tiêu trên, cho biết một đồng giá trị TSCĐ bỏ ra thì doanh
nghiệp sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Sức sinh lợi của TSCĐ càng
lớn thì hiệu quả sử dụng TSCĐ càng cao và ngược lại.
Suất hao phí của
TSCĐ

Tổng TSCĐ bình quân

=

Doanh thu thuần hay Lợi nhuận sau thuế
Qua chỉ tiêu này, cho ta thấy để có được một đồng doanh thu thuần hay lợi
nhuận sau thuế thù doanh nghiệp phải bỏ ra bao nhiêu đồng TSCĐ bình quân. Chỉ tiêu
này càng lớn thì hiệu quả sử dụng TSCĐ càng thấp và ngược lại.
Hiệu quả sử dụng tài sản ngắn hạn
Hiệu quả sử dụng TSNH được phản ánh qua các chỉ tiêu như sau:
Lợi nhuấn sau thuế
Sức sinh lời của
=
TSNH
Tổng TSNH bình quân
Trong đó: Tổng TSNH được tính như sau
TSNH đầu kỳ + TSNH cuối kỳ

Tổng TSNH
=
bình quân
2
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng TSNH bình quân dùng sản xuất kinh doanh
trong kỳ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận. Sức sinh lợi của TSNH càng lớn thì hiệu
quả sử dụng TSNH càng cao và ngược lại. Bên cạnh chỉ tiêu sức sinh lợi của TSNH thì
ta cần xét đến chỉ tiêu suất hao phí TSNH như sau:
Suất hao phí của
TSNH

Tổng TSNH bình quân

=

Doanh thu thuần hay lợi nhuận sau thuế
Chỉ tiêu này giúp nhà phân tích biết được để tạo ra một đồng doanh thu thuần
hay lợi nhuận sau thuế thì cần phải đầu tư bao nhiêu đồng giá trị TSNH bình quân. Chỉ
tiêu này càng cao thì hiệu quả sử dụng TSNH càng thấp và ngược lại.
Bên cạnh hai chỉ tiêu trên, thì để đánh giá hiệu quả của TSNH nhà phân tích có
thể sử dụng chỉ tiêu hệ số vòng quay TSNH để phân tích tốc độ luân chuyển TSNH.
Hệ số vòng quay
TSNH

SVTH: Phạm Thị Tuyết

=

Doanh thu thuần
Tổng TSNH bình quân


16

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Chỉ tiêu cho biết trong một kỳ kinh doanh TSNH quay được bao nhiêu vòng, chỉ
tiêu này càng cao chứng tỏ TSNH vận động nhanh,tốc độ luân chuyển cao góp phần
tăng doanh thu, và là điều kiện để nâng cao lợi nhuận cho doanh nghiệp.
Số ngày của kỳ phân tích
Số ngày của một vòng
=
quay TSNH
Hệ số vòng quay TSNH
Trong đó, số ngày của kỳ phân tích có thể tính theo tháng (30 ngày), quý (90
ngày) và năm (360 ngày).
Chỉ tiêu này cho biết số ngày cần thiết để TSNH luân chuyển được một vòng.
Thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển càng lớn, hiệu
quả sử dụng TSNH càng cao và ngược lại.
e. Nhóm chỉ tiêu phân tích khả năng sinh lãi
Lợi nhuận của doanh nghiệp là vấn đề được các nhà đầu tư cũng như các nhà
cung cấp tín dụng coi trọng, bởi nó gắn liền với lwoij ích của họ. Để đánh giá khả năng
sinh lãi thì nhà phân tích có thể dùng các chỉ tiêu sau:
- Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu ROS
Lợi nhuận sau thuế
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế

=
trên doanh thu (ROS)
Doanh thu thuần

x

100 (%)

Trong chỉ tiêu trên, mẫu số là doanh thu thuần để tăng tính chính xác của chỉ
tiêu do doanh thu thuần phản ánh giá trị doanh thu thực sự được thực hiện trong kỳ.
Chỉ tiêu này đánh giá số lợi nhuận thực tế để lại cho doanh nghiệp chiếm bao nhiêu
phần trong doanh thu thuần. Do vậy, chỉ tiêu này càng cao thì phản ánh khả năng sinh
lãi của doanh nghiệp càng lớn.
- Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA):
Để đánh giá khả năng sinh lãi của doanh nghiệp một cách khái quát hơn, người
phân tích thường sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản. Chỉ tiêu này phản
ánh một đồng tài sản bình quân của doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
trước hoặc sau thuế.
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế

Lợi nhuận sau thuế

x
100 (%)
Tổng tài sản bình quân
Trong chỉ tiêu này, mẫu số được dùng có thể là giá trị tài sản bình quân hoặc giá
trị tài sản cuối kỳ. Tuy nhiên, tử số trong chỉ tiêu này phản ánh lợi nhuận được tạo ra
trong suốt cả kỳ nên việc lấy mẫu số là số bình quân sẽ hợp lý hơn là chỉ lấy số cuối
trên tổng tài sản (ROA)


=

kỳ. Cụ thể, giá trị tài sản bình quân được tính như sau:
Tổng tài sản đầu kỳ + cuối kỳ
Tổng tài sản bình quân
=
2
Mặt khác, để loại bỏ ảnh hưởng của cơ cấu nguồn vốn, người phân tích có thể
sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên tổng tài sản. Hai doanh

SVTH: Phạm Thị Tuyết

17

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

nghiệp với cùng một giá trị tổng tài sản và hiệu quả sử dụng tài sản như nhau nhưng
nếu cơ cấu nguồn vốn khác nhau thì chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản sẽ khác
nhau do có chi phí lãi vay khác nhau làm cho lợi nhuận khác nhau. Do đó, nhằm loại
bỏ ảnh hưởng của yếu tố cơ cấu nguồn vốn bằng cách loại trừ yếu tố lãi tiền vay, chỉ
tiêu tỷ suất lợi nhuận trước thuế và lãi vay trên tổng tài sản sẽ được sử dụng:
Lợi nhuận trước thuế và lãi vay
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
=
x 100 (%)

và lãi vay trên tổng tài sản
Tổng tài sản bình quân
- Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE)
Để đánh giá khả năng sinh lãi của vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp, người
phân tích có thể sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu, chỉ
tiêu này chỉ rõ một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế thu
nhập doanh nghiệp:
Tỷ suất lợi nhuận sau thuế

Lợi nhuận sau thuế

x 100 (%)
VCSH bình quân
Cũng tương tự như ở chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản, mẫu số
có thể sử dụng vốn chủ sở hữu bình quân hoặc vốn chủ sở hữu cuối kỳ nhưng ta sử
dụng vốn chủ sở hữu bình quân với lý do tương tự .
trên VCSH(ROE)

=

Cũng với lý do để loại bỏ ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp, người
phân tích có thể sử dụng chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu
Lợi nhuận trước thuế
Tỷ suất lợi nhuận trước thuế
=
x 100 (%)
trên VCSH(ROE)
VCSH bình quân
Trong khi sử dụng các chỉ tiêu trên, người phân tích cũng có thể xem xét mối
quan hệ và tác động lẫn nhau giữa các chỉ tiêu này. Mối quan hệ đó được thể hiện như sau:

Lợi nhuận
Lợi nhuận
Doanh
Tài sản
Tỷ suất sinh lời
sau thuế
sau thuế
thu
bình quân
của vốn chủ sở
=
=
x
x
Vốn chủ sở
Doanh
Tài sản
Vốn chủ
hữu (ROE)
hữu
thu
bình quân
sở hữu
Tỷ suất sinh lời của

Tỷ suất sinh lợi của
Số vòng
Đòn bẩy
Vốn chủ sở hữu
=

x
x
doanh thu ROS
quay Tài sản
tài chính
(ROE)
Như vậy, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu chịu ảnh hưởng của ba yếu tố là

tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu, hệ số quay vòng của tài sản và đòn bẩy tài chính. Ba
yếu tố này tác động cùng chiều đến tỷ suất lợi nhuận trên VCSH
f.

Chỉ tiêu phân tích hiệu quả sử dụng chi phí
Chi phí trong kỳ doanh nghiệp chi ra thường bao gồm: Giá vốn bán hàng, chi

phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp, chi phí tài chính, chi phí khác,…Đó là các

SVTH: Phạm Thị Tuyết

18

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

khoản chi phí bỏ ra để thu lợi trong kỳ. Để đánh giá hiệu quả sử dụng chi phí thường
thông qua số liệu trên báo cáo kết quả kinh doanh. Bao gồm các chỉ tiêu sau:

- Tỷ suất sinh lời của giá vốn bán hàng
Tỷ suất sinh lời của
giá vốn bán hàng

=

Lợi nhuận gộp về bán hàng

x 100%

Giá vốn bán hàng
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng giá vốn
bán hàng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận gộp, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ
mức lợi nhuận trong giá vốn bán hàng càng lớn, thể hiện các mặt kinh doanh có lời nhất.
- Tỷ suất sinh lời của chi phí bán hàng
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
Tỷ suất sinh lời của chi
=
x 100%
phí bán hàng
Chi phí bán hàng
Chi tiêu này cho biết, trong kỳ phân tích doanh ngiệp đầu tư 100 đồng chi phí
bán hàng thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng cao thì cho thấy
mức lợi nhuận trong chi phí bán hàng càng lớn, doanh nghiệp đã tiết kiệm được chi phí
bán hàng.
- Tỷ suất sinh lời của chi phí quản lý doanh nghiệp
Lợi nhuận thuần từ HĐKD
Tỷ suất sinh lời của chi
=
x 100%

phí quản lý DN
Chi phí quản lý DN
Chỉ tiêu này cho biết, doanh nghiệp dầu tư 100 đồng chi phí quản lý DN thì thu
được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ DN càng tiết kiệm chi
phí quản lý.
- Tỷ suất sinh lời của tổng chí phí
Lợi nhuận trước thuế
Tỷ suất sinh lời của tổng
=
x 100%
chí phí
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích doanh nghiệp đầu tư 100 đồng chi phí
thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế, chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ mức
lợi nhuận trong chi phí càng lớn, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được các chi phí chi ra
trong kỳ.
h. Phân tích rủi ro tài chính thông qua đòn bẩy tài chính
Đòn bẩy TC là mối quan hệ giữa tổng số nợ và vốn chủ sở hữu, hay hệ số nợ.
Thông qua hệ số nợ người ta xác định được mức vốn góp của vón chủ sở hữu vơi số nợ
vay, nó có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt và được coi như một chính sách tài chính
của doanh nghiệp. Gồm các chỉ tiêu:
Nợ phải trả
Hệ số nợ
=
Tổng nguồn vốn
Chỉ tiêu này phản ánh trong một đồng vốn kinh doanh mà doanh nghiệp đang sử
dụng thì có bao nhiêu đồng được hình thành từ các khoản nợ. Hệ số này càng lớn thì

SVTH: Phạm Thị Tuyết


19

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

vốn chủ sở hữu càng có lợi vì khi đó vốn chủ sở hữu phải đóng một lượng nhỏ nhưng
được sử dụng một lượng tài sản lớn.
Đòn bẩy tài chính

Tổng tài sản

=

Vốn chủ sở hữu
Tổng tài sản so với vốn chủ sở hữu thấp chứng tỏ đòn bẩy tài chính thấp độ rủi
ro tài chính cao. Để hạn chế rủi ro tài chính cần duy trì một cơ cấu vốn vay và vốn chủ
sở hữu phù hợp. Đòn bẫy tài chính là sự đánh giá chính sách vay nợ được sử dụng
trong việc điều hành doanh nghiệp. Vì lãi vay phải trả không đổi khi sản lượng thay
đổi, do đó đòn bẩy tài chính sẽ rất lớn trong các doanh nghiệp có hệ số nợ cao và
ngược lại trong các doanh nghiệp có hệ số nợ thấp. Những doanh nghiệp không mắc
nợ ( hệ số nợ bằng không) sẽ không có đòn bẩy tài chính. Vì vậy, đòn bẩy tài chính đặt
trong trọng tâm vào hệ số nợ.
Đòn bẩy tài chính ảnh hưởng tới lợi nhuận sau thuế và lãi vay, hay lợi nhuận
ròng sẵn có để chia cho các chủ sở hữu. Độ lớn của đòn bẩy tài chính là tỷ lệ % thay
đổi của lợi nhuận sau thuế hoặc lợi nhuận trên cổ phiếu khi có một tỷ lệ % thay đổi của
lợi nhuận trước thuế và lãi vay (EBIT)

Độ nhạy của đòn bẩy tài chính

=

% thay đổi của lợi nhuận sau thuế
% thay đổi của lợi nhuận trước thế và lãi vay

1.4. TÀI LIỆU PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH [9]
Để tiến hành phân tích báo cáo tài chính yêu cầu phải có những tài liệu cần
thiết, cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời. Thông tin mà nhà phân tích cần để phân
tích các chỉ tiêu là chính dựa trên cơ sở của bốn bản báo cáo tài chính của doanh
nghiệp. Bốn bản báo cáo này được lập theo Chế độ kế toán doanh nghiệp ban hành
theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ trưởng Bộ
Tài Chính bao gồm:
+ Bảng cân đối kế toán
+ Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
+ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ
+ Bản thuyết minh báo cáo tài chính
• Đây chính là những tài liệu chủ yếu được sử dụng khi phân tích hoạt động tài
chính của doanh nghiệp.
1.5. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Phương pháp phân tích là sự tổng hợp các cách thức, thủ pháp, công thức, mô
hình,… được sử dụng để nghiên cứu bản chất và quy luật vận động của các hiện tượng kinh
tế. Trong phân tích các chỉ tiêu báo cáo tài chính, nhà phân tích sủ dụng các phương pháp sau:

SVTH: Phạm Thị Tuyết

20

Lớp ĐH Kế Toán K53



Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

1.5.1. Các phương pháp phân tích định tính
- Phương pháp chi tiết hóa chỉ tiêu phân tích: Trong tổng thể các phương pháp
phân tích kinh doanh nói chung, phân tích báo cáo tài chính nói riêng, phương pháp chi
tiết hoa chỉ tiêu phân tích giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Đây là phương pháp tuân theo
quy luật của quá trình nhận thức từ khái quát đến cụ thể.
Theo phương pháp phân tích này, các chỉ tiêu nghiên cứu thường được chi tiết
theo thời gian, không gian và yếu tố cấu thành.
Phân tích chỉ tiêu tài chính được chi tiết theo thời gian cho biết nhịp độ phát
triển, tính thời vụ, khả năng mất cân đối trong quá trình kinh doanh của các chỉ tiêu.
Tùy theo đặc điểmcủa hoạt động kinh doanh, mục đích của việc phân tích, nội dung
kinh tế của chỉ tiêu có thể chi tiết hóa các đối tượng nghiên cứu theo tháng, quý,
năm,…
Chi tiết theo không gian có ý nghĩa đánh giá kết quả thực hiện của các đơn vị,
bộ phân theo địa điểm phát sinh công việc nhằm tăng cường công tác hạch toán nội bộ.
Chi tiết theo thời gian và không gian thường bổ sung cho nhau trong quá trình nghiên
cứu vừa được chi tiết theo thời gian vừa được chi tiết theo không gian thì kết qur phân
tích càng đầy đủ và sâu sắc.
- Phương pháp phân tích tác nghiệp: Là một trong nhưng phương pháp giải quyết
nhanh các tình huống về các tình huống bất thường nhằm đáp ứng nhu cầu thông tin
kịp thời cho quản lý sản xuất. Nội dung của phương pháp này thể hiện các cuộc giao
ban định kỳ, các cuộc họp bất thường để thảo luận, bàn bạc một vấn đề tài chính nào
đó nhằm đưa ra các quyết định.
1.5.2. Các phương pháp phân tích định lượng
1.5.2.1. Phương pháp so sánh

Đây là phương pháp chủ yếu dùng trong phân tích hoạt động kinh doanh để xác
định xu hướng, mức độ biến động của các chỉ tiêu phân tích. Để tiến hành được cần
xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện để so sánh, mục tiêu để so sánh.
- Xác định số gốc để so sánh:
+ Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ tăng trưởng của các chỉ tiêu, số gốc
để so sánh là chỉ tiêu ở kỳ trước.
+ Khi nghiên cứu nhịp độ thực hiện nhiệm vụ kinh doanh trong từng khoảng
thời gian trong năm thường so sánh với cùng kỳ năm trước.
+ Khi nghiên cứu khả năng đáp ứng nhu cầu của thị trường có thể so sánh mức
thực tế với mức hợp đồng.
- Điều kiện để so sánh được các chỉ tiêu kinh tế:

SVTH: Phạm Thị Tuyết

21

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

+ Phải thống nhất về nội dung kinh tế của chỉ tiêu
+ Đảm bảo tính thống nhất về phương pháp tính các chỉ tiêu
+ Đảm bảo tính thống nhất về đơn vị tính, các chỉ tiêu về cả số lượng, thời gian
và giá trị.
- Mục tiêu so sánh trong phân tích kinh doanh:
+ Xác định mức độ biến động tuyệt đối và mức độ biến động tương đối cùng xu
hướng biến động của chỉ tiêu phân tích.

+ Mức biến động tuyệt đối: được xác định trên cơ sở so sánh trị số của chỉ tiêu
giữa hai kỳ: kỳ phân tích và kỳ gốc.
+ Mức độ biến động tương đối: là kết quả so sánh giữa số thực tế với số gốc đã
được điều chỉnh theo một hệ số của chỉ tiêu có liên quan theo hướng quy mô của chỉ
tiêu phân tích.
• So sánh tuyệt đối: Số tuyệt đối là mức độ biểu hiện quy mô, khối lượng giá trị
về một chỉ tiêu kinh tế nào đó trong thời gian và địa điểm cụ thể. Đơn vị tính là hiện
vật, giá trị, giờ công. Mức giá trị tuyệt đối được xác định trên cơ sở so sánh trị số chỉ
tiêu giữa hai kỳ.
• So sánh tương đối: Mức độ biến động tương đối là kết quả so sánh giữa thực tế
với số gốc đã được điều chỉnh theo một hệ số chỉ tiêu có liên quan theo hướng quyết
định quy mô của chỉ tiêu phân tích.
• So sánh con số bình quân: Số bình quân là số biểu hiện mức độ về mặt lượng
của các đơn vị bằng cách sau: Bằng mọi chênh lệch trị số giữa các đơn vị đó, nhằm
phản ánh khái quát đặc điểm của từng tổ, một bộ phận hay tổng thể các hiện tượng có
cùng tính chất.
Số so sánh bình quân ta sẽ đánh giá được tình hình chung, sự biến động về số
lượng, chất lượng trong quá trình sản xuất kinh doanh, đánh giá xu hướng phát triển
của doanh nghiệp.
1.5.2.2. Phương pháp loại trừ
Là phương pháp xác định xu hướng và mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến
kết quả kinh doanh bằng các loại trừ ảnh hưởng của các nhân tố khác.
• Phương pháp thay thế liên hoàn: Đây là phương pháp xác định ảnh hưởng của
các nhân tố bằng cách thay thế lần lượt và liên tục các yếu tố giá trị kỳ gốc sang kỳ
phân tích để xác định trị số của chỉ tiêu thay đổi. Xác định mức độ ảnh hưởng của các
nhân tố đến đối tượng kinh tế nghiên cứu. Nó tiến hành đánh giá so sánh và phân tích

SVTH: Phạm Thị Tuyết

22


Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

từng nhân tố ảnh hưởng trong khi đó giả thiết là các nhân tố khác cố định. Do đó để áp
dụng nó phân tích hoạt động kinh tế cần áp dụng một trình tự thi hành sau:
- Căn cứ vào mối liên hệ của từng nhân tố đến đối tượng cần phân tích mà từ đó
xây dựng nên biểu thức giữa các nhân tố
- Tiến hành lần lượt để xác định ảnh hưởng của từng nhân tố trong điều kiện giả
định các nhân tố khác không thay đổi.
- Ban đầu lấy kỳ gốc làm cơ sở, sau đó lần lượt thay thế các kỳ phân tích cho
các số cùng kỳ gốc của từng nhân tố.
- Sau mỗi lần thay thế tiến hành tính lại các chỉ tiêu phân tích. Số chênh lệch
giữa kết quả tính được với kết quả tính trước đó là mức độ ảnh hưởng của các nhân tố
được thay đổi số liệu đến đối tượng phân tích. Tổng ảnh hưởng của các nhân tố tương
đối tương đương với bản thân đối tượng cần phân tích.
• Phương pháp số chênh lệch: Là trường hợp đặc biệt của phương pháp thay thế
liên hoàn. Phương pháp này sử dụng khi các nhân tố có quan hệ với chỉ tiêu phân tích
được biểu diễn dưới dạnh tích, các nhân tích được sắp xếp theo thứ tự nhân tố số lượng
rồi đến nhân tố chất lượng. Khi thực hiện phương pháp này, muốn phân tích sự ảnh
hưởng của một nhân tố ta lấy phần chênh lệch của nhân tố đó nhân với trị số các nhân
tố khác, nhân tố chưa thay đổi trị số giữ nguyên ở kỳ gốc, nhân tố đã thay đổi trị số
chuyển sang kỳ phân tích, cứ như thế cho đến khi hết.
Phương pháp loại trừ được sử dụng trong cả ba loại hình phân tích: phân tích
trước, phân tích tác nghiệp và phân tích sau.
1.5.2.3. Phương pháp liên hệ

Các chỉ tiêu tài chính thường có mối liên hệ mật thiết với nhau, để lượng hóa
các mối liên hệ đó ta thường nghiên cứu trong mối quan hệ tác động qua lại với nhau
của các chỉ tiêu. Phương pháp này thường bao gồm: liên hệ cân đối, liên hệ thuận và
ngược chiều, liên hệ tương quan.
Liên hệ cân đối thường thể hiện bằng phương trình kinh tế hoặc quan hệ tương
xứng giữa các chỉ tiêu tài chính với nhau:
Tổng Tài sản = Tổng Nguồn vốn
∑TS = NPT + NVCSH
Phương pháp này thường sử dụng trong phương pháp phân tích sau nhằm kiểm
tra các kết quả thu được. Từ mối liên hệ đó ta xác định ảnh hưởng của các nhân tố biết

SVTH: Phạm Thị Tuyết

23

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

được tính quy luật liên hệ giữa các nhân tố. Phương pháp này sử dụng trong phân tích
trước, phân tích tác nghiệp để lập kế hoạch tài chính, luận cứ cho việc ra quyết định
1.5.2.4. Phương pháp phân tích theo mô hình Dupont
Mô hình Dupont là kỹ thuật có thể được sử dụng để phân tích khả năng sinh lãi
của một công ty bằng các công cụ quản lý hiệu quả truyền thống. Mô hình Dupont tích
hợp nhiều yếu tố của báo cáo thu nhập với bản cân đối kế toán. Trong phân tích tài
chính, người ta vận dụng mô hình Dupont để phân tích mối liên hệ giữa các chỉ tiêu tài
chính. Chính nhờ sự phân tích mối liên kết giữa các chỉ tiêu tài chính, chúng ta có thể

phát hiện ra những nhân tố đã ảnh hưởng đến chỉ tiêu phân tích theo một trình tự nhất định.
Dưới góc độ nhà đầu tư cổ phiếu, một trong những chỉ tiêu quan trọng nhất là
hệ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE). Do vốn chủ sở hữu là một phần của tổng
nguồn vốn hình thành nên tài sản, nên ROE sẽ phụ thuộc vào hệ số lợi nhuận trên tổng
tài sản. Mối quan hệ này được thể hiện bằng mô hình Dupont như sau:
Lợi nhuận

Tỷ suất sinh lời
của vốn chủ sở

=

hữu (ROE)

sau thuế
Vốn chủ sở
hữu

Tỷ suất sinh lời của
Vốn chủ sở hữu (ROE)

=

Lợi nhuận

Doanh

sau thuế

=


x

Doanh thu

Tỷ suất sinh lợi của
doanh thu ROS

x

thu
Tài sản
bình quân

Số vòng
quay Tài sản

Tài sản bình
quân

x

Vốn chủ sở
hữu

x

Đòn bẩy
tài chính


Như vậy qua khai triển chỉ tiêu ROE chúng ta có thể thấy chỉ tiêu này được cấu
thành bởi ba yếu tố chính là lợi nhuận ròng biên, vòng quay tài sản và đòn bẩy tài
chính.Trên cơ sở nhận biết ba nhân tố trên, doanh nghiệp có thể áp dụng một số biện
pháp làm tăng ROE như sau:
– Tác động tới cơ cấu tài chính của doanh nghiệp thông qua điều chỉnh tỷ lệ nợ
vay và tỷ lệ vốn chủ sở hữu cho phù hợp với năng lực hoạt động.
– Tăng hiệu suất sử dụng tài sản. Nâng cao số vòng quay của tài sản, thông qua
việc vừa tăng quy mô về doanh thu thuần, vừa sử dụng tiết kiệm và hợp lý về cơ cấu
của tổng tài sản.
– Tăng doanh thu, giảm chi phí, nâng cao chất lượng của sản phẩm. Từ đó tăng lợi
nhuận của doanh nghiệp.
1.5.2.5. Phương pháp đồ thị

SVTH: Phạm Thị Tuyết

24

Lớp ĐH Kế Toán K53


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

GVHD: Th.S Phan Thị Thu Hà

Phương pháp này dùng để minh họa các kết quả tài chính thu được trong quá
trình phân tích bằng các biểu đồ, sơ đồ, đồ thị qua đó mô tả xu hướng, mức độ biến
động của các chỉ tiêu nghiên cứu hay mối quan hệ kết cấu của các bộ phận trong tổng
thể. Phương pháp đồ thị gồm nhiều dạng: đồ thị hình cột, đồ thị hình tròn, đồ thị hình
đường, …được sử dụng tùy theo nội dung phân tích cho phù hợp.
Do đó trong quá trình phân tích báo cáo tài chính của doanh nghiệp cần phải áp

dụng một cách linh hoạt, hợp lý và khoa học các phương pháp phân tích để nâng cao
chất lượng của nguồn thông tin. Nhờ vào đó, thực trạng hoạt động của doanh nghiệp
được phản ánh một cách trung thực, chính xác, đầy đủ và được minh họa bằng số liệu
một cách thuyết phục người sử dụng hơn.
Phương pháp phân tích báo cáo tài chính rất phong phú và đa dạng, sử dụng
thành thạo các phương pháp phân tích góp phần nâng cao hiệu quả của hệ thống chỉ
tiêu phân tích. Do vậy sự đa dạng của các chỉ tiêu phân tích báo cáo tài chính dẫn đến
sự hình thành một hệ thống các phương pháp phân tích khác nhau để phù hợp với từng
nội dung phân tích cụ thể. Khi sử dụng phương pháp phân tích còn phụ thuộc vào loại
hình phân tích, mục đích và nhu cầu thông tin phân tích và các điều kiện vật chất, trình
độ của người sử dụng để khai thác tối đa thông tin của chỉ tiêu phân tích.
1.6. TỔ CHỨC CÔNG TÁC PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH
Tổ chức công tác phân tích chỉ tiêu tài chính bao gồm các công việc cơ bản là
lựa chọn loại hình phân tích phù hợp với yêu cầu mục đích phân tích, xây dựng quy
trình phân tích phù hợp và tổ chức bộ máy thực hiện. Các công việc này cụ thể như sau:
Thứ nhất là lựa chọn loại hình phân tích phù hợp. Các loại hình phân tích được
phân chia theo nhiều tiêu thức khác nhau. Người phân tích cần nắm vững đặc điểm của
từng loại hình, cụ thể được phân loại như sau:
- Theo thời điểm phân tích, phân tích tài chính bao gồm phân tích trước, phân tích
hiện hành và phân tích sau: Phân tích trước là phân tích khi chưa tiến hành hoạt động
kinh doanh như phân tích dự án, kế hoạch, dự toán…Để một dự án hay kế hoạch có
tính thuyết phục cao, người ta cần tính toán hiệu quả của dự án trên cơ sở phân tích các
chỉ tiêu tài chính, đây cũng là căn cứ để đánh giá và lựa chọn dự án hay kế hoạch kinh
doanh. Phân tích hiện hành là phân tích được tiến hành đồng thời với quá trình kinh
doanh. Dựa trên đó, nhà phân tích có thể xác minh hiệu quả của hoạt động kinh doanh
và tính đúng đắn của các dự án, kế hoạch nhằm điều chỉnh kịp thời các bất hợp lý trong
các dự án, kế hoạch đó. Phân tích sau là phân tích được tiến hành khi dự án, kếhoạch…
đã hoàn thành. Phân tích sau nhằm đánh giá hiệu quả toàn bộ dự án, kế hoạch…
- Theo nội dung phân tích, phân tích chỉ tiêu tài chính bao gồm phân tích toàn
diện và phân tích chuyên đề. Phân tích toàn diện là phân tích tất cả các khía cạnh tài


SVTH: Phạm Thị Tuyết

25

Lớp ĐH Kế Toán K53


×