Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Tổng hợp 4 bài phân tích văn bản Rừng xà nu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.55 KB, 13 trang )

TỔNG HỢP 4 BÀI PHÂN TÍCH – CẢM NHẬN VỀ NHÂN VẬT TNÚ
TRONG TRUYỆN NGẮN RỪNG XÀ NU

Bài 1: Phân tích hình tượng nhân vật Tnú trong truyện Rừng Xà Nu của Nguyễn
Trung Thành
Trước khi cầm vũ khí, ngay từ khi còn nhỏ Tnú đã là cậu bé gan góc, dũng cảm biểu lộ
một tính cách táo bạo mạnh mẽ. Tnú thay người già làm liên lạc, nuôi giấu cán bộ, nhanh nhẹn
luồn rừng đưa thư, vượt qua suối lũ một cách dũng cảm. Cậu thật sáng dạ khi biết rằng bọn Mĩ
ngụy ít khi phục kích ở chỗ nước chảy xiết. Người đọc cảm thấy một cái gì thật đáng yêu ở sự
quan tâm học chữ không chịu thua kém ai của Tnú. Cậu bé này dám “cầm đá tự đập vào đầu máu
chảy ròng ròng khi học cái chữ không thuộc” bằng Mai. Và đặc biệt sự gan dạ dũng cảm của Tnú
khi bị giặc bắt, chú bé nhỏ tuổi này đã chỉ vào bụng mình và nói: “Cộng sản ở đây này”. Mặc cho
những vết dao chém dọc ngang trên tấm lưng bé nhỏ, Tnú vẫn không khai báo, vẫn gan dạ kiên
cường. Trước những trận đòn roi tra tấn dã man của kẻ thù, Tnú thật may mắn khi được học cái
chữ và được giác ngộ cách mạng từ rất sớm. Đây là nét hơn hẳn mà nhân vật A Phủ trong “Vợ
chồng A Phủ” của Tô Hoài chưa có.
Khi thoát ngục trở về, Tnú đã là một chàng trai cường tráng, hiểu biết, được tôi luyện qua
nhiều thử thách. Giờ đây Tnú giống như một cây xà nu trưởng thành, vạm vỡ, căng đầy nhựa
sống và ham ánh sáng. Theo lời dạy của anh Quyết ngày nào, Tnú thay anh làm cán bộ và một lần
nữa anh đã đi ba ngày đường lên núi Ngọc Linh nhưng không phải là lấy đá để làm phấn mà là để
mài giáo mác chuẩn bị cho cuộc nổi dậy.
Không chỉ nhìn thấy rõ con đường để đi theo cách mạng, Tnú còn có một cuộc sống hạnh
phúc với tình yêu của Mai, với đứa con mới chào đời. Nhưng quãng thời gian hạnh phúc ấy thật
ngắn ngủi, giặc đã cầm súng kéo về, buôn làng còn chưa kịp cầm vũ khí. Tnú và thanh niên trong
làng phải trốn vào rừng để rồi một mình Tnú lại xông ra mong che chở cho mẹ con Mai trước đòn
roi của kẻ thù, nhưng cả hai đều không sống được. Cảnh tượng về cái chết đau thương trong đêm
ấy cứ trở đi trở lại trong lời kể của già làng và dòng hồi ức đau đớn của anh. Không những không


cứu được vợ con, Tnú còn bị kẻ thù đốt cháy mười đầu ngón tay “Mỗi ngón chỉ còn hai đốt….
không mọc lại được”. Nỗi đau thương này là minh chứng hùng hồn cho câu nói vừa giản dị vừa


sâu sắc của cụ Mết: “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo”.
Đặc biệt là hình ảnh của Tnú sau khi cầm vũ khí chiến đấu thật đẹp và lớn lao biết bao.
Hình ảnh Tnú hiện lên như những anh hùnh thời nào trong các khan, trong các trường ca Tây
Nguyên. Khi đốt cháy hai bàn tay của Tnú, kẻ thù muốn dập tắt ý chí phản kháng, muốn tiêu diệt
khát vọng chiến đấu của người dân Xô Man. Chúng muốn người dân nơi đây mãi mãi xuôi tay
trong kiếp nô lệ thấp hèn dưới nòng súng tàn bạo của chúng.Nhưng Tnú và người dân làng Xô
Man không cam chịu khuất phục, mà ngược lại họ đã phản kháng quyết liệt. Họ đã biết vượt lên
đau thương để vùng lên cầm vũ khí tự giải phóng mình. Lửa đã thiêu cháy mười đầu ngón tay
Tnú, lửa bùng cháy trên mười đầu ngón tay tẩm dầu xà nu. Nhưng Tnú không thấy đau đớn, anh
chỉ thấy lửa cháy ở trong long - ngọn lửa chiến đấu sẽ thiêu cháy kẻ thù. Và một tiếng hét căm
hờn, phẫn uất đã vang vọng khắp núi rừng Xô man, tiếng hét ấy như khơi dậy cao độ lòng căm
thù giặc của cả buôn làng. Xác mười tên giặc đã chết nằm ngổn ngang trên mặt đất. Đêm ấy lửa
cháy suốt trong bếp lửa nhà ưng. Nhà văn Nguyễn Trung Thành đã miêu tả cái đêm nổi dậy ấy
thật hào hùng, sôi động: “Tiếng chiêng nổi lên, đứng trên đồi xà nu gần con nước lớn suốt đêm
nghe cả rừng Xôman ào ào rung động và lửa cháy khắp rừng”. Cái đêm nổi dậy ấy đâu chỉ là của
dân làng Xôman mà là sự lớn dậy phi thường của cả một cộng đồng, dân tộc. Dường như trong
đêm ấy đang sống lại cái không khí linh thiêng hào hùng của những thiên sử thi Tây Nguyên”.
Một điều không thể thiếu khi nhắc tới cuộc đời của Tnú đó chính là hình ảnh hai bàn tay
của anh. Đôi bàn tay bị đốt cháy của Tnú đã nhóm lên ngọn lửa căm thù giặc sâu sắc của dân làng
Xôman, nó còn soi sáng cuộc đời anh. Anh đã thay mặt người dân làng Xôman lên đường theo
kháng chiến đi tìm những thằng Dục khác. Bởi lẽ không phải ngẫu nhiên tác giả lại để cho Tnú kể
với dân làng mình sự đối đầu của anh với kẻ thù sau này: “Tôi nói: này tao có súng đây, tao có cả
dao găm đây nhưng tao không giết mày súng, tao không đâm mày bằng dao nghe chưa Dục. Tao
giết mày bằng mười ngón tay cụt này thôi, tao bóp cổ mày thôi”. Nhà văn đã cố tình tô đậm hình
ảnh đôi bàn tay Tnú - đôi bàn tay có cả một lịch sử, một số phận.


Lúc còn nhỏ, đôi bàn tay ấy kiên trì học từng nét chữ của anh Quyết, cần cù làm nương
phát rẫy. Đôi bàn tay dám lấy đá đập vào đầu mình vì học cái chứ không thuộc.Và đôi bàn tay ấy
dám chỉ vào bụng mình mà nói với quân giặc “Cộng sản ở đây này” khẳng định lòng trung thành

với cách mạng. Lớn lên đôi bàn tay xúc động nắm lấy bàn tay người con gái anh yêu thương và
cũng đôi bàn tay ấy xé tấm dồ làm địu cho đứa con thơ dại, bàn tay bíu chặt gốc cây vả khi chứng
kiến vợ con bị giặc đáng đập bằng roi sắt, hai cánh tay rộng lớn ôm choàng lấy vợ con che chở,
yêu thương… Lửa đốt cháy mười đầu ngón tay để rồi mãi mãi chỉ còn hai đốt không bao giờ mọc
lại được… cho nên Tnú muốn dung đôi bàn tay ấy để giết chết kẻ thù. Bao uất hận căm hờn đã
dồn lên đôi bàn tay kia, nó đã trở thành biểu tượng cho ý chí bất khuất, cho sức sống mãnh liệt
của Tnú và người dân làng Xôman. Kẻ thù tàn ác có thể đốt cháy đôi bàn tay nhưng không thể
tiêu diệt được sức mạnh phi thường, tiềm ẩn trong con người họ. Đó là ý chí chiến đấu và khát
vọng chiến thắng. Đó là một dân tộc kiên cường dũng cảm như những khu rừng xà nu hàng vạn
cây không có cây nào bị thương mà vẫn xanh tươi bát ngát trải xa tít tắp tận chân trời.
Xây dựng thành công nhân vật Tnú, nhà văn đã khắc hoạ được hình ảnh tiêu biểu của con
người mang đậm dòng máu, tính cách của núi rừng Tây Nguyên.Và qua hình tượng Tnú, Nguyễn
Trung Thành còn gợi ra được số phận và phẩm chất của cả cộng đồng trong cuộc chiến đấu bảo
vệ buôn làng thân yêu. Đó là tình cảm gắn bó thiết tha sâu nặng với quê hương đất nước, với núi
rừng Tây Nguyên, căm thù giặc sâu sắc, một lòng một dạ đi theo cách mạng, không ngại khó
khăn, gian khổ, hi sinh, tin tưởng tuyệt đối vào sự thắng lợi của cách mạng.Có thể nói qua thiên
truyện ngắn xuất sắc này của Nguyễn Trung Thành, người đọc càng thêm hiểu và thêm trân trọng
con người Tây Nguyên với biết bao phẩm chất thật đẹp, thật cao quý. Họ cũng chính là hình ảnh
đẹp đẽ, tiêu biểu cho con người Việt Nam thời chống Mĩ.
Bài 2: Hãy phân tích nhân vật Tnú trong tác phẩm Rừng xà nu
I. Mở bài
Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và
chống Mĩ. Ông là nhà văn có công đưa mảnh đất Tây Nguyên hoang sơ đến với văn học hiện đại
Việt Nam. Truyện ngắn Rừng xà nu là tác phẩm tiêu biểu của ông. Tác phẩm đã xây dựng thành
công hình tượng nhân vật Tnú, người con kết tinh mọi vẻ đẹp của nhân dân Tây Nguyên trên nền


tập thể nhân dân anh hùng và hình tượng rừng xà nu hùng vĩ trong những ngày kháng chiến
chống Mĩ gay go, ác liệt.
II. Thân bài

Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền Trung
Trung bộ (số 2- 1965), sau đó được in trong tập Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, đất nước chia làm hai
miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam. Cách mạng
rơi vào thời kì đen tối. Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác
liệt ra miền Bắc. Rừng xà nu được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong không khí sục sôi
đánh Mĩ. Tác phẩm được hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung bộ. Thông
qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên những cánh rừng xà
nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn lao của dân tộc và thời đại:
Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn, không có cách nào khác hơn là
phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ thù tàn ác.
Tnú là nhân vật trung tâm của tác phẩm. Câu chuyện về cuộc đời anh là câu chuyện được
sử thi hóa qua lời kể của cụ Mết. Cuộc đời Tnú gắn liền với cuộc đời làng Xô Man. Âm hưởng sử
thi chi phối tác giả trong khi xây dựng nhân vật này. Tác giả xuất phát từ vấn đề cộng đồng để
phản ánh đời tư của Tnú.Tnú được xây dựng như hình tượng một nhân vật mang tính lí tưởng.
Nhà văn lấy nguyên mẫu từ anh Đề, người dân tộc Xơ-đăng, ỏ Tây Nguyên. Năm 1959, anh Đề
đã cùng mười chàng trai trong bản giết toàn bộ một tiểu đội lính Diệm và bắt đầu cuộc chiến đấu
vũ trang.
Tnú là con của dân làng Xô Man. Dân làng Xô Man nuôi dưỡng, đùm bọc anh, cưu mang
anh. “Nó là người Sa Trá mình, cha mẹ nó chết sớm, làng Xô Man này nuôi nó. Đời nó khổ
nhưng bụng nó sạch như nước suối làng ta”. Chính tình thương yêu của đồng bào đã đem lại cho
anh niềm tin yêu cuộc sống, tin vào chính mình, gắn bó sâu sắc với bản làng quê hương, với
những gì thân thuộc như tiếng chày giã gạo của những cô gái, con nước mát lạnh đầu bản, những


cụ già, những em nhỏ,… sau ba năm đi lực lượng, được về thăm làng, Tnú thấy bồi hồi, xúc động
trước cảnh vật thân thuộc quê hương.
Ngay từ nhỏ anh đã là người gan dạ, dám đi tiếp tế lương thực cho cán bộ, làm liên lạc cho
cán bộ từ xã lên huyện. Và cũng từ đấy Tnú bộc lộ một trí tuệ hơn người. “Nó không thích lội
nước chỗ êm cứ lựa chỗ thác mạnh mà bơi, vượt lên mặt nước, cưỡi lên thác băng băng như con

cá kình” bởi theo Tnú “Qua chỗ nước êm thàng Mĩ - Diệm hay phục, qua chỗ nước mạnh nó
không ngờ”. Giặc vây các ngả dường thì Tnú leo lên một cây cao, nhìn quanh một lượt rồi xé
rừng mà di, lọt qua tất cả các vòng vây. Tnú nghe theo anh Quyết, cố học chữ để sau này thay anh
lãnh đạo cách mạng. Quyết tâm học chữ của Tnú thể hiện dứt khoát trong hành động tự đạp hòn
đá vào đầu, máu chảy ròng ròng khi cậu thua Mai trong việc nhớ những con chữ. Tnú từ nhỏ đã
tâm niệm trong đầu câu nói của cụ Mết: Cán bộ là Đảng, Đảng còn, núi nước này còn.
Tnú là hiện thân của sự trung thành tuyệt đối với cach mạng, với Đảng, là hiện thân của sự
khoẻ mạnh với bộ ngực rộng rãi, hai cánh tay khoẻ chắc như lim, là sự bất khuất kiên cường đã
được thử thách qua tra tấn dã man và sự tù đày cuả kẻ thù. Tnú cường tráng như một cây xà nu
lớn. Tnú không hề biết sợ hãi, không hề biết khuất phục dù tàn bạo có hiện hình trong mũi súng
hay lưỡi dao chém ngang dọc trên lưng. Trong một lần chuyển thư của anh Quyết gửi về huyện,
Tnú bị giặc bắt. Họng súng chĩa vào tai lạnh ngắt, Tnú kịp nuốt luôn cái thư. Giặc giam cầm, tra
khảo Tnú dã man, lưng Tnú dọc ngang vết dao chém nhưng anh quyết không khai một lời. Anh
tìm cách vươt ngục về làng và tiếp tục sự nghiệp lãnh đạo dân làng chuẩn bị chiến đấu. Sức mạnh
của anh dường như tăng thêm bởi sự hun đúc của một tình yêu lớn với một người con gái luôn
luôn hiền dịu, nhượng nhìn, của một gia đình hạnh phúc cùng Mai và đứa con nhỏ.
Vậy mà bằng ấy cái có, Tnú đã không cứu dược mẹ con Mai khỏi bị kẻ thù giết hại. Cuộc
đời Tnú gắn liền với những đau thương mà không chỉ riêng anh gánh chịu. Cái đau đớn mang trên
thân xác Tnú là hiện hữu cái đau thương của dân làng Xô Man trong chiến tranh Mái ấm gia đình
từng là mơ ước của biết bao đôi thanh niên ấy bỗng chốc tan nát bởi sự tàn ác của kẻ thù. Mai và
con anh bị kẻ thù giết chết ngay trước mắt anh. Tnú không cứu được vợ, được con, đau đớn hơn
chính bản thân anh cũng trở thành nạn nhân của sự bạo tàn mà kẻ thù đang sử dụng. Vì Tnú cũng
chỉ có tay không giữa quân thù đầy vũ khí. Hình ảnh mười đầu ngón tay rừng rực cháy bởi nhựa


xà nu như mười ngọn đuốc không chỉ có ý nghĩa tố cáo tội ác quân thù hay nói lên lòng dũng cảm
của người chiến sĩ cách mạng mà còn nói lên một chân lí sâu sắc và tàn nhẫn: khi một Tnú có ý
chí mà tay không thì ngay thứ nhựa xà nu thân thiết cái khối chất thơm ngào ngạt và như đọng
nắng quê hương kia cũng có thể trở thành ngọn lửa hủy diệt chính những bàn tay vẫn hằng ngày
chăm sóc, vun trồng cho nương rẫy.

Tnú không cứu được mẹ con Mai. Không thể chiến đấu với quân thù bằng tay không và
lòng căm thù mù quáng. Nhưng Tnú không chìm đắm trong đau thương mất mát, anh biết vượt
qua nỗi đau ấy, biến đau thương thành căm hờn và tôi luyện ý chí chiến đấu. Bị giặc bắt sau khi
Mai chết, Tnú không nghĩ đến bản thân mà chỉ lo lắng đến việc ai sẽ tiếp tục lãnh đạo dân làng
kháng chiến khi Đảng phát lệnh. Chỉ còn cách cầm vũ khí, lúc đó lửa xà nu sẽ tắt trên bàn tay của
Tnú. Lửa xà nu chỉ còn soi xác giặc ngổn ngang. Núi rừng Xô Man sẽ ào ào rung động. “Chúng
nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo…”. Đó là một chân lí lớn của cách mạng miền Nam: phải
dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Sau khi được cụ Mết và thanh niên giải thoát bằng chính giáo mác anh và buôn làng mài,
Tnú gia nhập lực lượng chính quy. Và có lẽ việc Tnú đi lực lượng cũng bắt nguồn từ lí tưởng đó.
Anh đi lực lượng để hiện thực hóa việc “cầm giáo” mà cụ Mết truyền dạy và cũng để có điều kiện
chiến đấu chống lại kẻ thù xâm lược. Ra đi để trả thù nước, rửa thù nhà. Dù bàn tay anh mỗi ngón
chỉ còn hai đốt, nhưng cử động được có nghĩa là cầm súng được. Anh đi bộ đội, trở thành tấm
gương lớn soi sáng cả một thế hệ ở làng Xô Man. Đối với dân làng, Tnú là một biểu tượng cho
sức mạnh, niềm tin và ý chí. Bên cạnh cụ Mết, người cha tinh thần, Tnú là hiện thân của những
khát vọng vươn lên. Mỗi một việc làm của anh đều đem lại sự nhận thức cho mọi lứa tuổi. Anh về
thăm quê, cấp trên cho chỉ có một đêm, mặc dù nhớ làng bản, nhớ người than nhưng anh vẫn vui
vẻ bởi có chấp hành nghiêm túc nội qui quân đội mới là Tnú. Chính những lúc vui vẻ nhất, anh
định đùa nhưng những ánh mắt chờ đợi của mọi người anh lại thôi. Bởi ở anh một lời nói, một
hành động đều có thể để lại một tầm ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống và tinh thần của người
dân Xô Man.
Khi xây dựng nhân vật Tnú, Nguyễn Trung Thành đặc biệt dụng công miêu tả đôi bàn tay
của anh. Từ đôi bàn tay này, người đọc có thể thấy hiện lên không những cả cuộc đời mà cả


những tính cách của nhân vật. Khi còn lành lặn, bàn tay Tnú là bàn tay nghĩa tình, thẳng thắn.
Đấy là bàn tay cầm phấn học chữ do cán bộ dạy, bàn tay cầm đá ghè vào đầu để trừng phạt cái tội
không nhớ mặt chữ, bàn tay đặt lên bụng để chỉ cộng sản ở đây… Tuy vậy ấn tượng mạnh nhất về
đôi bàn tay của Tnú chính là đoạn cao trào của truyện, cũng là đọan đời bi tráng nhất của nhân
vật. Giặc quấn giẻ tẩm dầu xà nu vào mười đầu ngón tay và đốt. “Mười ngón tay anh đã trở thành

mười ngọn đuốc”, thiêu cháy cả ruột gan Tnú, anh “nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở trong
bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi”. Chứng kiến cảnh kẻ thù dã man đốt hai bàn tay của Tnú,
dân làng Xô Man không thể kiềm chế được nữa đã bột phát vùng lên tiêu diệt lũ giặc, mở ra tràn
sử đấu tranh mới của dân làng. Từ đây bàn tay của Tnú thành tật nguyền, mỗi ngón chỉ còn hai
đốt và như một chứng tích về tội ác của kẻ thù mà Tnú mang theo suốt đời. Đến cuối tác phẩm,
bàn tay tật nguyền đấy vẫn tiếp tục cầm súng giết giặc, vẫn có thể giết chết tên chỉ huy đồn địch
dù nó cố thủ trong hầm. Như vậy, có thể nói bàn tay Tnú được miêu tả trải dài theo suốt cả câu
chuyện. Dường như mọi nét tính cách cũng như số phận và chiến công của Tnú đều gắn liền với
hình ảnh hai bàn tay ấy.
III. Kết bài
Cũng như nhiều nhân vật văn học thời chống Mĩ, Tnú được xây dựng bằng bút pháp lãng
mạn, giàu chất lí tưởng, là kết tinh vẻ đẹp anh hùng của người dân Tây Nguyên. Qua nhân vật này
Nguyễn Trung Thành muốn thể hiện một số phận nhất là con đường của nhân dân Tây Nguyên,
nhân dân Miền Nam trong quá trình đấu tranh giải phóng: cần phải dùng bạo lực cách mạng để
chống lại bạo lực phản cách mạng.
Bài 3: Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của nhà văn Nguyễn
Trung Thành
Nguyễn Trung Thành là một nhà văn giàu tài năng. Ông có những thành công nổi bật ngay
từ sáng tác đầu tay (Đất nước đứng lên, giải nhất về tiểu thuyết, giải thưởng của đội văn nghệ Việt
Nam trao tặng 1954 – 1955). Trong cả hai cuộc kháng chiến của dân tộc ông gắn bó mật thiết với
chiến trường Tây Nguyên. Nhà văn sống hòa đồng, hiểu biết nhiều về lòng khát khao độc lập, tự
do, tinh thần cách mạng quật khởi, bất khuất của đồng bào dân tộc thiểu số. Đó cũng là một trong
những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thành công của truyện ngắn Rừng xà nu được ông sáng tác


vào mùa hè 1954, khi đế quốc Mĩ tấn công quyết liệt miền Nam nước ta. Tác phẩm này đã đạt
giải thưởng văn nghệ Nguyễn Đình Chiểu 1965 và được in trong tập Trên quê hương những anh
hùng Điện Ngọc. Tnú là hình tượng nhân vật được Nguyễn Trung Thành xây dựng rất thành công
trong thiên truyện.
Trước hết, ta thấy Tnú là một con người rất gắn bó với cách mạng, gan góc, dũng cảm, linh

hoạt, táo bạo và trung thực. Ngay từ thuở nhỏ, Tnú đã dám một mình vào rừng tiếp tế cho anh
Quyết, cán bộ cách mạng mà không sợ bị bắt treo cổ lên cây vả đầu làng hay bị chặt đầu cột tóc
treo đầu súng như anh Xút, bà Nhan. Còn khi học chữ thua Mai thì “nổi nóng, đập bể cái bảng
nứa trước mặt Mai và anh Quyết, bỏ ra suối ngồi một mình suốt ngày”, “cầm hòn đá, tự đập vào
đầu, chảy máu ròng ròng”. Khi bị giặc vây các ngả đường, Tnú “leo lên một cây cao nhìn quanh
một lượt rồi xé rừng mà đi”. Qua sông, “không thích lội chỗ nước êm, cứ lựa chỗ thác mạnh mà
bơi ngang, vượt lên một nước, cưỡi lên thác bang bang như một con cá kình” vì nghĩ rằng: “qua
chỗ nước êm, thằng Mĩ – Diệm hay phục, chỗ nước mạnh nó không ngờ”. Một lần, ngậm vào
miệng cái thư định vượt thác thì bị giặc bắt phục kích, Tnú linh hoạt, nhanh trí nuốt luôn cái thư.
Khi bị giặc bắt, quấn giẻ lên mười đầu ngón tay, lấy lửa đốt, Tnú không kêu lên một tiếng nào mà
còn trợn mắt nhìn kẻ thù trừng trừng: “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay nữa. Anh
nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chat đầu lưỡi. Răng anh cắn nát môi
anh rồi. Anh không kêu lên (…) Tnú không thèm, không thể kêu van”. Mặc dù mỗi ngón tay chỉ
còn hai đốt và phải chứng kiến tận mắt kẻ thù giết hại vợ con nhưng Tnú vẫn vượt lên mọi đau
đớn, bi kịch cá nhân mà hăng hái gia nhập bộ đội Giải phóng để trả thù cho quê hương và những
người thân.
Mặt khác, Tnú là một con người có tính kỉ luật cao. Mặc dù ba năm đi lực lượng vũ trang
của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, phải xa quê hương, xa mái ấm gia đình, xa
người thâ, xa bạn bè, nỗi nhớ choán đầy cả cõi lòng nhưng anh không tự ý về thăm làng. Anh xin
giấy phép của cấp trên, có chữ kí của người chỉ huy, trung thực trình cho chị Dít và dân làng kiểm
tra trong chuyến về phép. Sau một đêm nghỉ phép, anh trở lại đơn vị đúng qui định, gửi lại sau
lưng một khoảng trời nhung nhớ, luyến lưu.


Hơn nữa, Tnú là một con người giàu tình yêu thương. Anh yêu bản làng tha thiết. Anh xúc
động khi trở về thăm làng. Anh vừa đi theo sự hướng dẫn tận tình của bé Heng, vừa bồi hồi nhớ
lại những kỉ niệm ngày trước. Gặp lại môt cây lớn ngã ngang đường, anh nhớ lại lúc cây này chưa
ngã, anh đã gặp Mai lần đầu. Chính Mai đã bày tỏ tình yêu chân thành, thắm thiết đối với anh.
Mai cầm hai bàn tay anh lúc ấy còn lành lặn, “ứa nước mắt khóc, không phải như một đứa trẻ nữa
mà như một người con gái đã lớn, vừa xấu hổ vừa yêu thương. Kỉ niệm đó cắt vào lòng anh như

một nhát dao cứa. Anh trợn mắt lên, như những lúc bị tra tấn đau quá trước đây”. Anh thổn thức
nỗi lòng khi nhận ra tiếng chày dồn dập của làng anh – “tiếng chày chuyên cần, rỗn rã của những
người đàn bà và những cô gái Strá, của mẹ anh ngày xưa, của Mai, của Dít”. Tiếng chày ấy chính
là trung tâm nỗi nhớ day dứt, nhớ mênh mang khiến ngực đập liên hồi dù cố giữ bình tĩnh và
“chân cứ vấp mãi mấy cái rễ cây ở chỗ quẹo vào làng”. Còn khi cụ Mết dẫn anh ra mái nước đầu
làng, đu đã rửa ở suối rồi, nhưng anh vẫn xúc động để cho vòi nước của làng mình giội lên khắp
người như ngày trước. Thêm vào đó, anh là người yêu thương vợ con da diết. Không đi Kon Tum
mua vải được, anh tự tay xé đôi tấm đồ (mảnh vải đắp) duy nhất của mình ra để làm tấm choàng
cho Mai địu con. Trong cơn bi kịch, nấp ở gốc cây cạnh máng nước đầu làng, nhìn thấy cảnh kẻ
thù hành hạ vợ con một cách man rợ, thú tính, lòng anh quặn thắt, tái tê. Anh đã bứt đứt hàng
chục trái vả mà không hề hay biết. Rồi anh bỏ gốc cây, “chồm dậy”, “hét dữ dội”, “nhảy xổ vào
bọn lính”. Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai. Anh
nguyền rủa: “Đồ ăn thịt người, tau đây! Tnú đây!…” nhưng anh đã không cứu được vợ con thoát
khỏi bàn tay hung bạo, đẫm máu của bọn giặc dữ. Đó là nỗi xót xa, đau đớn, cay đắng nhất của
một người chồng, một người cha. Hơn nữa, yêu thương mọi người bằng tất cả tấm lòng mình: vì
lẽ đó nên Tnú vừa về đến làng, dân làng từ trẻ đến già như lũ trẻ, bé Heng, các cô gái, anh Pre, chị
Blom, bà cụ Leng, bà già Prôi, ông già Tâng, cụ Mết đều ré lên, reo lên, vồn vã, vây chặt quang
Tnú mừng rỡ không xiết.
Đặc biệt, Tnú là một con người có lòng căm thù giặc sâu sắc. Chứng kiến cảnh người thân
bị hành hạ tàn nhẫn, ngọn lửa căm thù trong lòng Tnú bốc cháy ngùn ngụt. Hai con mắt của anh
như hai cục lửa lớn. Khi bị giặc dùng nhục hình, anh thét lên một tiếng. Chỉ một tiếng thôi.
Nhưng tiếng thét của anh bỗng vang dội thành nhiều tiếng thét dữ dội hơn! Sau này, anh dứt


khoát, lạnh lùng trừng trị đích đáng kẻ đã gây tàn tật cho mình. “Anh bóp chết kẻ thù bằng chính
hai bàn tay cụt của mình”.
Nhìn chung, cuộc đời và vẻ đẹp riêng của nhân vật Tnú được kết tụ lại trong hai bàn tay ấn
tượng: bàn tay hận thù và bàn tay rửa thù.
Có thể nói, Tnú là hình tượng nhân vật mang ý nghĩa điển hình cho số phận và con đường
cách mạng của dân làng Xô Man. Bi kịch của cuộc đời Tnú không phải là bi kịch riêng của một

cá nhân. Cả làng Xô Man có không ít người có số phận cay đắng, đau đớn, chua xót, ngậm ngùi,
bất hạnh như nhân vật Tnú. Vậy nên, bi kịch cuộc đời Tnú mang ý nghĩa điển hình. Vả lại, Tnú là
một anh hùng. Cụ Mết, anh Quyết, Mai, Dít, bé Heng cũng là những anh hùng. Cả làng Xô Man
anh hùng. Do đó, Tnú là biểu tượng cao đẹp cho những phẩm chất anh hùng, hiên ngang, bất
khuất, kiên cường, dũng cảm của núi rừng Tây Nguyên. Hơn thế nữa, con đường cách mạng của
nhân vật Tnú gắn liền với con đường cách mạng do anh Quyết làm đại diện, gắn liền với con
đường cách mạng của dân làng Xô Man, gắn liền với con đường đấu tranh giải phóng dân tộc
dưới sự lãnh đạo sáng suốt, tuyệt vời của Đảng ta. Vì vậy, hành động cách mạng của Tnú có sức
thôi thúc, ảnh hưởng đến toàn bộ dân làng: “Thế là bắt đầu rồi. Đốt lửa trên! Tất cả người già,
người trẻ, người đàn ông, người đàn bà, mỗi người phải tìm lấy một cây giáo, một cây mác, một
cây vụ, một cây rựa. Ai không có thì vót chông, năm trăm cây chông. Đốt lửa lên!”.
Tóm lại, nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành là một hình
tượng mang vẻ mĩ học sâu sắc và dạt dào chất sử thi. Tnú chính là nhân vật điển hình đại diện cho
cả cộng đồng, sống chết với cộng đồng, gắn bó mật thiết, chặt chẽ với số phận lich sử của cộng
đồng. Tnú xứng đáng là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của chủ nghĩa anh hùng Cách
mạng Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Bài 4: Cảm nhận về nhân vật Tnú trong truyện ngắn Rừng xà nu
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè 1965 khi đến quối Mỹ bắt đầu đổ
quân ào ạt vào miền Nam nước ta.
Rừng xà nu được Nguyễn Trung Thành viết vào mùa hè 1965 khi đến quối Mỹ bắt đầu đổ
quân ào ạt vào miền Nam nước ta. Câu chuyện trở về những năm 60 nói về sự kiện đồng khởi của


nhân dân Tây Nguyên với chân lý “chúng nó cầm súng, ta phải cầm giáo mác”. Việc nhắc lại sự
kiện xảy ra trước 1965 có ý nghĩa cảnh tỉnh và vạch ra con đường duy nhất: phải cầm vũ khí để
chống lại đội quân viễn chinh của Mỹ. Rừng xà nu là bản anh hùng ca mang đậm lính sử thi và
cảm hứng lãng mạn về cuộc chiến đấu của nhân dân Tây Nguyên, của dân tộc Việt Nam trong
cuộc chiến tranh thần thánh chống đế quốc Mỹ. Nhân vật tiêu biểu nhất trong tác phẩm là Tnú.
Đây là một nhân vật anh hùng, là người con vinh quang của làng Xô Man đã được
Nguyễn Trung Thành khắc họa bằng những đường nét độc đáo giàu chất sử thi. Tính chất sử thi

được thể hiện rõ nhất ở chỗ cuộc đời ngỡ như có số phận riêng nhưng thực ra Tnú lại đại diện cho
số phận và con đường đi lên của dân tộc. Đời Tnú sống chết với cộng đồng, gắn bó với những sự
kiện có ý nghĩa nhất của cộng đồng. Anh là một cây xà nu trong muôn vàn những cây xà nu khác
nằm dưới tầm đại bác của giặc. Không cây nào không bị thương vì thế mà số phận của cây xà nu Tnú cũng phải chịu những thương tích do giặc gây ra. Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở
thành nạn nhân của tội ác quân thù. Làng Xô Man có bao nhiêu người đã trở thành nạn nhân của
tội ác quân thù: “Bà Nhan bị chặt đầu, anh Xút bị bắn chết, cô bé Dít đã trở thành bia cho bọn
giặc nhắm bắn vui cười... Tnú cũng có số phận như cộng đồng nhưng nghiệt ngã và cay đắng hơn,
tiêu biểu hơn: Anh chứng kiến cảnh giặc dùng roi sắt quật cho vợ con mình chết, và chính mình
khi lao vào cứu vợ con cũng bị giặc tẩm lửa xà nu vào mười đầu ngón tay... rồi Tnú cũng lên
đường tham gia lực lượng cũng như cộng đồng người Xô Man của anh nhất tề cầm vũ khí và xây
dựng làng chiến đấu.
Nhân vật Tnú có những nét tính cách tiêu biểu sau:
Trước hết anh là một thanh niên gan góc, dũng cảm kiên cường có lính kỷ luật cao.
Lúc nhỏ anh đã vào rừng nuôi cán bộ dù biết rằng bà Nhan, anh Xút đã bị bắt sát hại để
cảnh cáo. Tnú đi liên lạc “thường xé rừng mà đi, lựa thác mạnh mà vượt”, học chữ chậm thua
Mai, Tnú đã lấy “đá đập vào đầu máu chảy ròng ròng”. Bị giặc bắt tra khảo anh đã quyết không
khai, anh đã chỉ vào bụng mình - nói “Cộng sản ở đây”. Ghê gớm nhất đó là khi giặc đốt mười
đầu ngón tay, mình vẫn cắn răng không kêu van. Hành động xông ra cứu vợ con với hai bàn tay
trắng phần nào cũng biểu hiện được sự gan góc bất chấp cái chết của Tnú.


Câu chuyện về Tnú được cụ Mết kể trong một đêm nhân sự kiện anh nhớ làng xin đơn vị
về nghỉ phép trong một ngày, sáng mai Tnú đã lên đường, điều này chứng tỏ anh chấp hành rất
đúng kỷ luật của đơn vị, tôn trọng kỷ luật của làng, ý chí kiên cường đã chiến thắng được tình
cảm yếu mềm của anh.
Tính cách thứ hai của Tnú đó là con người giàu ý chí biết vượt lên bi kịch cá nhân để
sống đẹp.
Từ nhỏ Tnú đã đi nuôi cán bộ, vượt ngục về anh lại cùng cộng đồng mình mài giáo mác
chuẩn bị cho cuộc chiến đấu dữ dội ác liệt hơn trong nay mai.
Không gì đau đớn hơn có người vợ hiền thục có đứa con bụ bẫm, thế mà Tnú lại chứng

kiến những đòn roi man rợ cùng với cái chết của vợ con. Không những thế, Tnú còn là nạn nhân
của bọn giặc man rợ. Mười ngón tay tàn tật nhưng anh đã tình nguyện đi bộ đội chủ lực để giết
được nhiều giặc hơn.
Nét tính cách thứ ba của Tnú là con người giàu tình nặng nghĩa. Anh gắn bó với cách
mạng, hết lòng với anh Quyết, nghe theo lời anh Quyết năng học hành để làm cán bộ.
Đứa con vừa mới sinh, Tnú đã xé tấm chăn của mình làm địu. Dù không cứu được vợ con
nhưng anh xông ra trong tuyệt vọng để giặc bắt là một biểu yêu thương vợ con hết mức.
Tnú mồ côi cha mẹ lại mất vợ con cho nên buôn làng, cộng đồng đối với giờ đây là tất cả.
Được về phép anh bồi hồi xao xuyến khi nghe một tiếng chày giã gạo khi nhận ra từng mặt người,
từng sự thay đổi của quê hương.
Nói đến Tnú người ta thường nghĩ về chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa tay Tnú. Đó là bàn
tay đã từng cầm đá đập vào đầu mình, bàn tay dắt Mai làm nương rẫy, bàn tay chỉ vào bụng mình
nói đó là cộng sản, bàn tay sau vượt ngục đã run run nắm lấy tay Mai ở đầu con nước lớn của
làng, bàn tay mài rìu, rựa, giáo mác... và rồi cũng bàn tay ấy đã ngắt những trái vả. Hai cánh rộng
lớn như hai cánh lim chắc của anh đã ôm chặt lấy mẹ con Mai lần cuối, rồi mười đầu ngón tay
của Tnú bốc lửa. Bàn tay thương tật ấy đã tham gia trận đánh đã giết những thằng chỉ huy đồn
giặc, bàn tay ấy lại cầm đèn pin soi rõ mặt xác quân thù (bởi Tnú luôn coi mỗi cái xác thù mà anh
giết là một thằng Dục).


Rừng xà nu dạt dào âm hưởng sử thi, nó đã sáng tạo ra một nhân vật sử anh hùng. Cuộc
đời bi tráng của Tnú chính là cuộc đời của dân tộc Việt Nam mộ: thời điểm lịch sử trọng đại:
Chúng muốn đốt tu thành tro bụi
Ta hỏa vàng nhân phẩm lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm.
(Tố Hữu)




×