Tải bản đầy đủ (.doc) (3 trang)

: Phân tích nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh qua Tuyên ngôn độc lập (hoặc tính luận chiến)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.02 KB, 3 trang )

TUYÊN NGÔN ĐỘC LẬP
Hồ Chí Minh
BÀI GIẢNGĐÃ CÔĐÚC,NGẮNGỌN, DỄ HIỂU

Phục vụ cho đề: Phân tích nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh qua Tuyên ngôn
độc lập (hoặc tính luận chiến)
I. KHÁI QUÁT CHUNG
(Học thuộc lòng phần này để làm mở bài và khái quát trước khi phân tích)
1. Tác giả: Hồ Chí Minh không chỉ biết đến là một vị lãnh tụ tài ba, kiệt xuất của dân tộc
Việt Nam mà còn được biết đến với tư cách là một nhà văn, nhà thơ lớn. Người để lại
nhiều tác phẩm lớn ở nhiều thể loại truyện, ký, thơ ca, văn chính luận. Trong đó “Tuyên
ngôn độc lập” là một áng văn chính luận mẫu mực, một nghệ thuật lập luận tài tình có
một không hai trong lịch sử văn học dân tộc.
2. Tác phẩm:
Cách mạng Tháng Tám thành công, chính quyền khắp cả nước về tay nhân dân. Ngày
2.9.1945, Hồ Chí Minh đã đọc bản tuyên ngôn này trước hàng vạn đồng bào thủ đô, mở
ra kỷ nguyên mới cho dân tộc – kỷ nguyên độc lập tự chủ. Tác phẩm là kết tinh của chủ
nghĩa yêu nước của khát vọng tự do, hòa bình và tự chủ.
II. NỘI DUNG TÁC PHẨM
1. Mở đầu, Người nêu lên cơ sở pháp lí và chính nghĩa của bản Tuyên Ngôn: Người trích
dẫn hai bản tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ: Tuyên ngôn độc lập của Mĩ (1776): “Tất
cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa đã cho họ những quyền không ai
có thể xâm phạm được. Trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền sung sướng
và quyền tự do”. Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp (1791) cũng đã nói:
“Người ta sinh ra tự do bình đẳng về quyền lợi và phải luôn tự do bình đẳng về quyền
lợi”. Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được.
Ý nghĩa của viêc trích dẫn: Có tính chiến thuật sắc bén, khéo léo, khóa miệng đối
phương. Đó chính là thành công của nghệ thuật “Gậy ông đập lưng ông” dùng chính lời
lẽ của kẻ thù để đánh lại chúng. Cái hay là ở chỗ là: Bác một mặt như ngợi khen, một mặt
lại hạ bệ chúng. Mặt khác người đọc có thể thấy Bác đã đặt ba cuộc Cách mạng, ba nền
độc lập, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau. Khẳng định tư thế đầy tự hào của một dân


tộc độc lập và có quyền để hưởng tự do và độc lập. Đây chính là sự kế thừa và phát huy
bản Tuyên ngôn thứ hai của Việt Nam là “Bình Ngô Đại Cáo” của Nguyễn Trãi.
Từ việc trích dẫn trên Bác đã đi đến một lập luận sáng tạo: Suy rộng ra điều đó có nghĩa
là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền
sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Như vậy, dựa trên hai bản tuyên ngôn nói về
quyền lợi của con người Bác đã nâng lên thành quyền lợi của dân tộc. Nghĩa là bản
Tuyên Ngôn của Việt Nam còn cao hơn cả hai bản Tuyên Ngôn của Pháp và Mỹ.
=>Tóm lại: Với lời lẽ sắc bén, đanh thép, Người đã xác lập cơ sở pháp lý của bản
Tuyên Ngôn, nêu cao chính nghĩa của ta. Đặt ra vấn đề cốt yếu là độc lập dân tộc. Đây
cũng là cơ sở để Người vạch tội chúng trong phần tiếp theo. Đúng như Chế Lan Viên
nhận định “Cách lập luận của Hồ Chí Minh về phía ta giống như một trái táo còn về phía


kẻ thù nó giống như một trái lựu đạn nhét vào cổ họng chúng. Nuốt không vô mà khạc
cũng không ra”.
2. Ở luận điểm tiếp theo, Hồ Chí Minh đã nêu cơ sở thực tế của bản Tuyên Ngôn:
Bác đã nêu lên lý lẽ và lập luận hết sức thuyết phục về mặt pháp lý và thực tế nhằm bác
bỏ luận điệu của bọn đế quốc thực dân. Để vạch trần luận điệu về công lao “khai hóa”
của Pháp đối với Đông Dương, Bác đã nêu rõ “Những hành động trái hẳn với nhân đạo
và chính nghĩa” của chúng trong 80 năm thống trị nước ta về hai phương diện: Chính trị
và Kinh tế.
Pháp kể công “Khai hóa”, Bác vạch trần tội ác của chúng về chính trị: chúng tuyệt
đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào… “Chúng thi hành những luật
pháp dã man. Chúng ... ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta
đoàn kết… Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học...Chúng thẳng tay chém giết những
người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể
máu. Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện,
rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược”.
Chưa hết, về mặt kinh tế: chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta
nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều. Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ,

nguyên liệu. Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và
dân buôn, trở nên bần cùng. Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc
lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.
Ở hai đoạn văn trên, cái tài tình của Hồ Chủ Tịch là nghệ thuật lập luận: câu văn
lặp cấu trúc, phép điệp liên tục “chúng tuyệt đối... chúng thi hành...chúng lập ra...chúng
tắm các cuộc khởi nghĩa... chúng dùng thuốc phiện...chúng cướp không...” tạo nên một
liên hoàn lời, tố cáo mạnh mẽ, đanh thép khiến chúng “không thể chối cãi” và trở tay
không kịp. Mặt khác, Bác cũng tranh thủ quan tâm đến giai cấp tư sản, công nhân, nông
dân khơi dậy tình đoàn kết hữu ái giai cấp. Đặc biệt từ tội ác trên của thực dân bác đanh
thép kết án chúng đã gây ra cái chết thảm thương cho hơn 2 triệu đồng bào miền Bắc vào
nạn đói năm 1945.
Pháp kể công “Bảo hộ”: bảo hộ nghĩa là bảo vệ nhưng chúng đã không làm được.
Bác đã tố cáo tội ác của chúng: Tội ác trong 5 năm (1940 – 1945). Trong năm năm chúng
đã bán nước ta hai lần cho Nhật. Đó là mùa thu năm 1940, Nhật xâm lăng Đông Dương
để mở rộng căn cứ đánh Đồng Minh... bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng mở cửa nước
ta rước Nhật. Ngày 9 tháng 3 năm 1945, khi Nhật tước khí giới của quân đội Pháp, bọn
thực dân Pháp hoặc là bỏ chạy, hoặc là quỳ gối đầu hàng. Bác vạch trần thái độ nhục nhã
của Pháp: quỳ gối đầu hàng, bỏ chạy... Như vậy là chúng đã phản bội đồng minh, không
đáp ứng liên minh cùng Việt Minh để chống Nhật, thậm chí thẳng tay khủng bố, giết nốt
tù chính trị ở Yên Bái, Cao Bằng. Đó là lời khai tử dứt khoát cái sứ mệnh bịp bợm của
thực dân Pháp đối với nước ta ngót gần một thế kỉ.
3. Trong phần tiếp theo của bản tuyên ngôn, Người đã nêu cao những tự hào của Cách
mạng Việt Nam: Ta luôn đứng về lập trường chính nghĩa “Đem đại nghĩa để thắng hung
tàn/ Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Việt Nam khoan hồng với kẻ thù bị thất thế: giúp
người Pháp chạy qua biên giới, bảo vệ tài sản và tính mạng, của cải cho họ. Láy đi láy lại
hai chữ “Sự thật” nhằm nhấn mạnh thắng lợi to lớn của Cách mạng ta khi đứng về phe
Đồng minh chống phát xít, đồng thời Bác cũng dứt khoát bác bỏ sự có mặt của Pháp trên
đất nước ta cũng có nghĩa là Pháp không có cớ gì để quay trở lại Việt Nam :“Sự thật là từ



mùa thu năm 1940, nước ta đã trở thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải là của Pháp
nữa... Sự thật là nhân dân ta đã lấy lại Việt Nam từ tay Nhật chứ không phải là tay Pháp”.
Thắng lợi to lớn của Cách mạng Việt Nam là: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái
vị”. Chế độ Dân chủ Cộng Hòa từ đó được ra đời.
4. Ở phần cuối, chủ tịch Hồ Chí Minh đã phủ định chế độ thuộc địa của thực dân Pháp và
khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc. Phủ định dứt khoát, triệt để: “Tuyên bố
thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về
nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”. Cuối
cùng Bác đưa ra Lời tuyên bố độc lập trước thế giới : Lời tuyên bố thể hiện lí lẽ đanh
thép vững vàng của Người về quyền dân tộc đồng thời thể hiện khát vọng tự do của cả
dân tộc. Điều đó thể hiện qua giọng văn hào hùng mãnh liệt đầy niềm tin: “Nước Việt
Nam có quyền được hưởng tự do độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do và độc
lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của
cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”.
5. Nghệ thuật:
“Tuyên ngôn độc lập” có lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng xác thực, giàu sức
thuyết phục. Ngôn ngữ vừa chính xác vừa gợi cảm. Giọng văn linh hoạt, đa giọng điệu
khi mãnh liệt hùng hồn, khi trang nghiêm tha thiết. Tuyên ngôn Độc lập của Bác đã trở
thành một áng văn chính luận mẫu mực nổi tiếng.
III. TỔNG KẾT
"Tuyên ngôn Độc lập" xứng đáng là một áng văn mẫu mực về nghệ thuật lập luận. Nó đã
kế tục truyền thống vinh quang của "Nam quốc sơn hà" và "Bình Ngô đại cáo". Nó là lời
nước non cao cả và thiêng liêng, thể hiện sâu sắc tư tưởng vĩ đại: "Không có gì quý hơn
độc lập, tự do". Đọc đoạn văn cuối bản "Tuyên ngôn Độc lập", chúng ta càng thấm thía tự
hào về độc lập, tự do mà dân tộc ta đã giành được bằng xương máu của bao thế hệ, của
bao anh hùng liệt sĩ.




×