Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Thực trạng và giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại hà nội hiện nay.pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.72 MB, 79 trang )





BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƢƠNG
---------o0o---------


Công trình dự thi Cuộc thi
Sinh viên nghiên cứu khoa học trƣờng Đại học Ngoại thƣơng 2010

THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG
BÁN HÀNG RONG TẠI HÀ NỘI HIỆN NAY

Nhóm ngành: XH2b




Hà Nội, tháng 7 năm 2010



Hà Nội, tháng 7 năm 2010


1

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU _____________________________________________________ 4


CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG RONG TẠI VIỆT
NAM ____________________________________________________________ 8
1. Các khái niệm ___________________________________________________ 8
2. Phân loại hoạt động bán hàng rong ____________________________________ 9
3. ________________________________ 10
3.1. Bán hàng rong tại Singapore _________________________________________ 10
3.2. Bán hàng rong tại Ấn Độ____________________________________________ 12
3.3. Bán hàng rong tại các quốc gia khác ___________________________________ 15
CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG BÁN HÀNG RONG TẠI HÀ NỘI _______________ 18
1. Nguồn pháp lý điều chỉnh hoạt động bán hàng rong tại Việt Nam ______________ 18
1.1. Các văn bản pháp lý hiện hành _______________________________________ 18
1.2. Thực trạng áp dụng các nguồn luật ____________________________________ 19
2. Thực trạng hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội từ 1986 đến nay _____________ 21
2.1. Chủ thể tham gia hoạt động bán hàng rong ______________________________ 21
2.2. Những loại hàng hóa đƣợc bán rong ___________________________________ 23
2.3. Địa bàn của hoạt động bán hàng rong __________________________________ 25
2.4. Cách thức bán hàng rong ____________________________________________ 28
3. Tác động của hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội _______________________ 30
3.1. ________________________________________________ 30
3.1.1. __________________________________________________ 30
3.1.2. Xã hội ___________________________________________________ 34
3.1.3. Kinh tế ___________________________________________________ 40
3.2. Tác động tiêu cực _______________________________________________ 42


2

3.2.1. Văn hóa _______________________________________________________ 42
3.2.2. Xã hội _________________________________________________________ 44
Ảnh hƣởng tới an ninh trật tự xã hội ___________________________________ 44

Hàng hóa không đảm bảo chất lƣợng và nguồn gốc xuất xứ ________________ 46
Ô nhiễm môi trƣờng _______________________________________________ 48
Tạo điều kiện hối lộ, tham ô trong bộ máy quản lý _______________________ 49
Kẽ hở cho vi phạm nhân quyền ______________________________________ 50
3.2.3. ế ______________________________________ 51
Gây thất thoát về thuế, phí __________________________________________ 51
Giảm thu nhập của các ngành kinh tế liên quan __________________________ 52
4. Nguyên nhân những tồn tại trong hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội _________ 53
4.1. Chính sách trợ cấp và phúc lợi xã hội chƣa thỏa đáng ___________________ 54
4.2. Những bất cập trong văn bản luật và thực thi văn bản luật ________________ 55
4.3. Ý thức của ngƣời bán hàng rong ____________________________________ 57
4.4. Ý thức của ngƣời mua hàng ________________________________________ 58
CHƢƠNG III: GIẢI PHÁP CHO HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG RONG TẠI HÀ NỘI _ 59
1. Định hƣớng tổ chức, quản lý hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội ____________ 59
1.1. Đƣa hoạt động bán hàng rong vào hệ thống và có tổ chức ________________ 60
1.2. Liên hệ chặt chẽ giữa chính quyền, ngƣời bán hàng và ngƣời tiêu dùng _____ 61
1.3. Nâng cao dân trí cộng đồng và ngƣời bán rong _________________________ 62
2. Giải pháp _____________________________________________________ 62
2.1. Từ phía Chính quyền và các cơ quan chức năng ________________________ 63
2.1.1. Hoàn thiện văn bản luật _______________________________________ 63
2.1.2. Tạo công ăn việc làm cho ngƣời dân chuyển đổi nghề nghiệp __________ 65
2.1.3. Nâng cao chất lƣợng cán bộ quản lý ______________________________ 66


3

2.1.4. Hình thành những khu phố bán hàng rong tập trung, khu phố du lịch kết hợp
xây dựng hệ thống kiểm tra chất lƣợng, nguồn gốc chất lƣợng hàng hóa bán rong
________________________________________________________________ 67
2.1.5. Thu thuế, phí của những ngƣời bán hàng rong ______________________ 69

2.1.6. Xây dựng cơ chế thƣởng phạt hợp lý kết hợp với tiếng nói ngƣời dân ___ 70
2.2. Giải pháp từ phía ngƣời bán _________________________________________ 70
2.2.1. Có ý thức về bảo vệ môi trƣờng, giữ gìn an ninh trật tự xã hội _________ 70
2.2.2. Tạo một mạng lƣới phân phối theo mô hình đặt hàng qua điện thoại và giao
hàng tận nhà _____________________________________________________ 71
2.2.3. Xây dựng hình ảnh phục vụ văn minh hơn _________________________ 72
2.3.4. Có nghĩa vụ cung cấp thông tin cần thiết và chính xác về nguồn gốc và chất
lƣợng hàng hóa khi đƣợc kiểm tra ____________________________________ 73
2.2.5. Có nghĩa vụ nộp thuế, phí cho những cơ quan chức năng _____________ 73
2.3. Giải pháp từ phía ngƣời tiêu dùng _____________________________________ 74
2.3.1. Có ý thức bảo vệ môi trƣờng, giữ gìn an ninh trật tự xã hội ___________ 74
2.3.2. Kịp thời thông báo cho cơ quan chức năng khi bị xâm phạm về quyền lợi 75
KẾT LUẬN ______________________________________________________ 77
Danh mục tài liệu tham khảo____________________________________________ 74


4

LỜI MỞ ĐẦU
Dù trong bối cảnh nền kinh tế khủng hoảng hay phát triển thì mọi nỗ lực
thúc đẩy tăng trƣởng đều đáng ghi nhận. Với kinh tế Việt Nam, một nền kinh tế
mà kinh doanh nhỏ lẻ là đặc trƣng thì đóng góp vào con số tăng trƣởng ấy, hoạt
động bán hàng rong đã góp phần không nhỏ. Thực tế, trải qua quá trình phát
triển lâu dài, hoạt động bán hàng rong đã có tác động tới mọi mặt: kinh tế, văn
hóa, xã hội của nƣớc ta. Một mặt nó giúp tăng trƣởng kinh tế, nuôi sống một bộ
phận không nhỏ ngƣời dân, đồng thời theo một khía cạnh nào đó, hàng rong
cũng đƣợc đánh giá là một nét văn hóa đặc trƣng. Mặt khác hoạt động bán hàng
rong vẫn tồn tại một số hạn chế nhƣ gây ô nhiếm môi trƣờng, mất trật tự xã
hội… Nghị định số 39/2007/NĐ-CP và Quyết định số 46/2009/QĐ-UBND đƣợc
ban hành và đã có hiệu lực nhằm điều chỉnh hoạt động bán hàng rong, tuy nhiên

đến nay vẫn chƣa đem lại nhiều hiệu quả. Hàng rong tại Hà Nội vẫn nằm tromg
tình trạng quản lý thiếu hệ thống, nhiều tiêu cực nhƣ tham ô, hối lộ, tạo ra lỗ
hổng trong nền kinh tế.
Mâu thuẫn giữa mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa và vấn đề giữ gìn
bản sắc dân tộc, không gây ảnh hƣởng lớn tới đời sống ngƣời dân luôn là bài
toán khó cho công tác phát triển đô thị. Hà Nội, thủ đô, trung tâm kinh tế, văn
hóa, chính trị của cả nƣớc cũng phải đối mặt với bài toán hƣớng đi cho hoạt
động bán hàng rong. Năm 2010 đánh dấu đại lễ chào mừng 1000 năm Thăng
Long Hà Nội, việc nghiên cứu vấn đề xã hôi này càng có ý nghĩa hơn. Bởi lẽ
nhiệm vụ đặt ra không chỉ là giải quyết vấn đề hàng rong một cách hợp tình hợp
lý mà còn phải tạo dựng bộ mặt văn minh cho thủ đô.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định lựa chọn và nghiên cứu đề tài:
“Thực trạng và giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội hiện nay”. Từ


5

những phân tích về vai trò, tác động, thực trạng hoạt động bán hàng rong,
chúng tôi đề xuất các giải pháp nhằm thúc đẩy phát triển đô thị thủ đô.
1. Đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là hoạt động bán hàng rong tại Hà
Nội trong thời gian gần đây. Đề tài tập trung vào hai mục tiêu chính: Thứ
nhất là phân tích, đánh giá tác động của hoạt động bán hàng rong tới các
mặt kinh tế, văn hóa, xã hội, thứ hai là tìm ra các giải pháp và hƣớng đi
cho hoạt động bán hảng rong.
2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu mang tính ứng dụng giả quyết các vấn đề kinh tế
xã hội, vì vậy, để đạt đƣợc hiệu quả cao và tận dụng đƣợc tính ƣu việt của
các phƣơng pháp nghiên cứu, chúng tôi sử dụng nhiều phƣơng pháp
nghiên cứu khác nhau, cụ thể: Phƣơng pháp chủ yếu là điều tra, quan sát,

phỏng vấn, thống kê để thu thập thông tin liên quan đến hoạt động bán
hàng rong tại Hà Nội. Sau đó áp dụng phƣơng pháp phân tích, đánh giá
nhằm tìm hiểu tác động của hoạt động bán hàng rong tới kinh tế, văn hóa,
xã hội.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các khu vực trọng điểm về bán hàng
rong tại các trung tâm văn hóa, di tích lịch sử, các trƣờng đại học, cơ quan
lớn… trên địa bàn trung tâm Hà Nội.
4. Ý nghĩa, ứng dụng và hướng phát triển của đề tài


6

Đề tài mang ý nghĩa cao về mặt thực tiễn. Kết quả nghiên cứu sẽ cung cấp
cái nhìn tổng quan về hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội trong thời gian gần
đây, đồng thời tổng hợp tác động của hoạt động bán hàng rong tới kinh tế, văn
hóa, xã hội. Bên cạnh đó, chúng tôi phân tích bài học kinh nghiệm từ các quốc
gia khác về vấn đề hàng rong và đƣa ra định hƣớng, giải pháp cho hoạt động
này, qua đó các nhà quản lý có thể sử dụng kết quả nghiên cứu nhằm đƣa ra các
chính sách phù hợp nhất cho giai đọan hiện nay
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến
Đƣa ra những giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội, đảm bảo
mục tiêu phát triển đô thị và quyền lợi của ngƣời dân.
6. Kết cấu của để tài
Chương I. Cơ sở lý luận của hoạt động bán hàng rong tại Việt Nam
1. Các khái niệm
2. Phân loại hoạt động bán hàng rong
3. Bài học kinh nghiệm từ các nƣớc khác
Chương II. Thực trạng hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
1. Nguồn pháp lý điều chỉnh hoạt động bán hàng rong tại Việt Nam

2. Thực trạng hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội từ 1989 đến nay
3. Tác động của hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
4. Nguyên nhân của những tồn tại trong hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
Chương III. Giải pháp cho hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội
1. Định hƣớng tổ chức, quản lý hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội


7

2. Giải pháp


8

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA HOẠT ĐỘNG BÁN HÀNG RONG
TẠI VIỆT NAM
1. Các khái niệm
Tại điều 2, Quy định số 46/2009/QĐ-UBND “Quy định về quản lý hoạt
động bán hàng rong trên địa bàn thành phố Hà Nội” đã nêu rõ: “Người bán hàng
rong là cá nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên, không
phải đăng ký kinh doanh, không có địa điểm kinh doanh cố định và không gọi là
"thƣơng nhân" theo quy định của Luật Thƣơng mại.”
Theo đó, cá nhân hoạt động thƣơng mại là cá nhân tự mình hàng ngày
thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các hoạt động đƣợc pháp luật cho phép về
mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi
khác nhƣng không thuộc đối tƣợng phải đăng ký kinh doanh theo quy định của
pháp luật về đăng ký kinh doanh và không gọi là “thƣơng nhân” theo quy định
của Luật Thƣơng mại.
Quy định về hàng rong, Điều 5, Nghị định số 39/2007/NĐ-Cp quy định:
các cá nhân hoạt động thƣơng mại đƣợc phép kinh doanh các loại hàng hóa, dịch

vụ theo quy định của pháp luật, trừ các loại hàng hóa, dịch vụ sau đây:
a) Hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ cấm kinh doanh theo
quy định của pháp luật;
b) Hàng lậu, hàng giả, hàng không rõ xuất xứ, hàng quá thời hạn sử dụng, hàng
không bảo đảm điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của pháp
luật; hàng không bảo đảm chất lƣợng, bao gồm hàng mất phẩm chất, hàng kém
chất lƣợng, hàng nhiễm độc và động, thực vật bị dịch bệnh;


9

c) Hàng hóa, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hóa, dịch vụ hạn chế kinh doanh
theo quy định của pháp luật.

2. Phân loại hoạt động bán hàng rong
Theo Điều 3, Nghị định 39/2007/NĐ-CP, bán hàng rong bao gồm các hoạt động
thƣơng mại:
a) Buôn bán rong (buôn bán dạo) là các hoạt động mua, bán không có địa
điểm cố định (mua rong, bán rong hoặc vừa mua rong vừa bán rong), bao gồm
cả việc nhận sách báo, tạp chí, văn hóa phẩm của các thƣơng nhân đƣợc phép
kinh doanh các sản phẩm này theo quy định của pháp luật để bán rong;
b) Buôn bán vặt là hoạt động mua bán những vật dụng nhỏ lẻ có hoặc không
có địa điểm cố định;
c) Bán quà vặt là hoạt động bán quà bánh, đồ ăn, nƣớc uống (hàng nƣớc) có
hoặc không có địa điểm cố định;
d) Buôn chuyến là hoạt động mua hàng hóa từ nơi khác về theo từng chuyến
để bán cho ngƣời mua buôn hoặc ngƣời bán lẻ;
e) Thực hiện các dịch vụ: đánh giày, bán vé số, chữa khóa, sửa chữa xe,
trông giữ xe, rửa xe, cắt tóc, vẽ tranh, chụp ảnh và các dịch vụ khác có hoặc
không có địa điểm cố định;

f) Các hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên không phải
đăng ký kinh doanh khác.


10

3.
Bán hàng rong không phải là một hoạt động kinh doanh mới mẻ và xa lại
với các quốc gia trên thế giới, thậm chí bán hàng rong còn đƣợc coi nhƣ là một
nét văn hóa lâu đời tại một số khu vực nhƣ Thái Lan, Việt Nam, Singapore, Ấn
Độ…Nghiên cứu hoạt động bán hàng rong, sẽ là thiếu sót nếu không nhìn nhận
hoạt động bán hàng rong trên góc độ của các thành phố ở các quốc gia khác
nhau từ đó có cái nhìn toàn cảnh hơn về thực trạng phát triển của loại hình kinh
doanh này.
3.1. Bán hàng rong tại Singapore
Singapore, quốc đảo sƣ tử vốn đƣợc biết đến là một quốc gia văn minh và
sạch sẽ bậc nhất trên thế giới cũng đã từng đối mặt với những ảnh hƣởng không
nhỏ của hoạt động bán hàng rong. Một số ngƣời đã nhận ra một bức gƣơng phản
chiếu giữa một Hà Nội, một thành phố Hồ Chí Minh ngày nay với một
Singapore ngày trƣớc, đây là lí do mặc dù trình độ phát triển chênh lệch của
Singapore và Viêt Nam, chúng tôi vẫn tìm đến Singapore nhƣ một mảnh ghép
hoàn thiện bức tranh bán hàng rong.
Singapore ngay từ đầu đã đánh giá cao sự đóng góp của hàng rong vào
nền kinh tế của nƣớc này. Hàng rong giữ vai trò ngƣời cung cấp các nhu yếu
phẩm, kể cả các bữa ăn hàng ngày cho những ngƣời có thu nhập thấp đồng thời
cũng đã giữ cho giá sinh hoạt của thành phố không tăng cao. Nhằm giải quyết
tình trạng ngƣời bán hàng rong chiếm lĩnh khắp các đƣờng phố, thay vì loại bỏ
loại hình kinh doanh này, từ đầu những năm 80 của thế kỷ 20, Singapre đã có kế
hoạch điều chỉnh hệ thống quản lý hàng rong. Một trong những giải pháp đƣợc
Chính phủ Singapore đƣa ra là thực hiện chƣơng trình xây dựng các khu trung



11

tâm mua bán thực phẩm, chợ…để đƣa ngƣời bán hàng rong vào buôn bán. Ở đó,
ngƣời bán hàng rong có nơi bày bán hàng tử tế, có nƣớc máy, điện để dùng, có
chỗ bỏ rác nên không phải vứt rác bừa bãi, làm bẩn môi trƣờng.
Singapore đƣợc biết tới là quốc gia duy nhất trên thế giới nơi mà những
ngƣời bán hàng rong đƣợc cấp giấy phép đăng ký kinh doanh. Tại Singapore
cũng có một phòng ban chuyên trách quản lý hoạt động bán hàng rong trực
thuộc Chính phủ, là nơi cấp phép cũng nhƣ quản lý những đối tƣợng bán hàng
rong không có giấy phép kinh doanh. Nhƣ hầu hết các quốc gia Đông Nam Á
khác, hàng rong tại Singapore phát triển từ lâu đời.
1
Năm 1971, một chƣơng
trình quốc gia nhắm mục đích xây dựng các trung tâm mua bán hàng rong
chuyên biệt và cấp phép cho những những ngƣời bán hàng rong đã đƣợc thực
hiện. Chƣơng trình này chủ yếu tập trung vào cung cấp các cơ sở vật chất và
dịch vụ cơ bản nhƣ đƣờng nƣớc, điện và thu gom và xử lý rác thải. Đến năm
1996, tất cả những ngƣời bán hàng rong đều đã đƣợc phân bổ vào các khu trung
tâm mua bán. Năm 1998, xấp xỉ 24 nghìn ngƣời bán rong buôn bán tại 184 trung
tâm mua bán gia nhập vào đội ngũ hơn 18 nghìn ngƣời buôn bán thực phẩm tại
đó. Hiện nay có khoảng gần 50.000 ngƣời bán rong tại quốc đảo này. Phòng
quản lý bán hàng rong đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo những ngƣời
bán rong giữ gìn môi trƣờng sạch sẽ và không gây phiến toái cho khách bộ hành.
Cơ quan này còn xây dựng các khóa học về vệ sinh cá nhân, vệ sinh thực phẩm
và dinh dƣỡng cho những ngƣời bán rong, chỉ tính từ năm 1990 đến 1996, có
khoảng 10.000 ngƣời đƣợc đào tạo.
2
Bên cạnh đó, Chính phủ Singapore cũng


1
Street vendors in Asia: A review Sharit K Bhowmik
2
Sampling Singapore street fare at Whole foods, Rosemary Black, Daily news


12

phát triển tính điểm nghiêm ngặt, yêu cầu những ngƣời bán hàng phải đặt các
bảng điểm này trƣớc các gian hàng của mình và tiến hành kiểm tra thƣờng
xuyên. Hiện nay, ƣớc tính Singapore có khoảng 25.000 gian hàng nhƣ vậy.
Thành phần của những ngƣời bán hàng rong tại Singapore đã thay đổi
đáng kể trong thời gian qua với sự nổi lên của nhữn ngƣời trẻ tuổi, đƣợc đào tạo
học vấn. Thay đổi này đƣợc cho là do sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp đã đẩy xấp xỉ
13.000 sinh viên tốt nghiệp vào tình trạng không có việc làm và rất nhiều trong
số đó đã đi bán hàng rong.
Singapore đã chứng minh rằng không thể làm sạch đƣờng phố chỉ bằng
cách di rời những ngƣời bán hàng rong trái phép, việc quản lý hoạt động bán
hàng rong chỉ đƣợc thực hiện hiệu quả khi đã tạo ra đƣợc nhiều việc làm thay
thế cho những ngƣời bán hàng rong. Đồng thời thực hiện chế độ quản lý
nghiêm, áp dùng hình phạt hành chính đối với những hành vi vi phạm luật kinh
doanh, lấn chiếm lề đƣờng hoặc không có giấy phép đăng lý kinh doanh.
3.2. Bán hàng rong tại Ấn Độ
Trong số các quốc gia châu Á thì Ấn Độ là một nƣớc có nhiều điểm tƣơng
đồng với Việt Nam. Cùng là những quốc gia đang phát triển với nền văn hóa
phong phú, Ấn Độ cũng đang phát triển mạnh mẽ với những cải cách lớn về cả
kinh tế và xã hội. Cũng giống nhƣ tại Việt Nam, hoạt động bán hàng rong đã
hình thành khá lâu tại Ấn độ. Số lƣợng ngƣời bán hàng rong chiếm tới 2% dân
số và thu nhập của họ đóng góp không nhỏ vào GDP của hàng năm của nƣớc

này.
Tại Ấn Độ, hàng triệu ngƣời bán hàng rong tập trung tại các thành phố lớn
nhƣ Mumbai (khoảng 250.000 ngƣời), Delhi (khoảng 200.000 ngƣời), Calcutta


13

(hơn 150.000) và Ahmedabad (khoảng 100.000 ngƣời)
3
… Phần lớn trong
số họ là những ngƣời nghèo đến từ Bihar, Orissa, Uttar Pradesh, hay vùng
nông thôn Bengal để kiếm sống trong các thành phố lớn. Họ ngủ trong
khu nhà ổ chuột hoặc trên vỉa hè, và không có gia đình đi cùng. Những
ngƣời này thƣờng không có trình độ học vấn, thậm chí một phần không
nhỏ trong số đó là mù chữ và phải tự kiếm sống từ khi còn rất nhỏ. Hầu
hết mặt hàng mà những ngƣời bán hàng rong tại Ấn Độ cung cấp là các
sản phẩm sản xuất bởi các nhà sản xuất quy mô nhỏ. Hoạt động sản xuất
này thƣờng do những ngƣời dân tự tổ chức để đáp ứng nhu cầu, thị hiếu
và khả năng chi trả của ngƣời tiêu dùng địa phƣơng. Họ bán sản phẩm ở
những nơi thuận tiện nhất để bất kỳ ai cũng có thể mua đƣợc một cách dễ
dàng, thuận tiện và điều đó đƣợc ghi nhận là đã mang lại nhiều lợi ích cho
xã hội.
Ngƣời bán hàng rong đã góp phần đáng kể vào phát triển nền kinh
tế các đô thị Ấn Độ, cũng vì vậy mà hơn một nửa số ngƣời dân đô thị phụ
thuộc vào họ. Tại Ấn Độ, những ngƣời làm công việc này gốm cả nam
giới và phụ nữ. Trong khi ở các tỉnh thành phía Nam và Đông Bắc, số
lƣợng phụ nữ bán hàng rong chiếm đa số thì tại các thành phía Bắc và các
thành phố lớn thì nam giới lại có tỷ lên cao hơn hơn. Chẳng hạn nhƣ tại
Meghalaya, phụ nữ chiếm khoảng 70% số ngƣời bán hàng rong thì tại
Kanpur, tỷ lệ này là khoảng 20%. Vì vậy mà hoạt động bán hàng rong đã

góp một phần không nhỏ vào sự tăng trƣởng của nền kinh tế Ấn Độ đồng

3
Theo số liệu từ: - Saving the street vendors of 'Incredible
India'



14

thời nó cũng cung cấp một số lƣợng công ăn việc làm cho khá nhiều ngƣời thất
nghiệp trong nƣớc.
Với đặc trƣng của nền kinh tế, hàng rong Ấn Độ cũng đã trải qua những
những giai đoạn giống nhƣ tại Việt Nam trƣớc khi đƣợc nhìn nhận là đã góp
góp phần vào sự phát triển của kinh tế địa phƣơng và sự giàu có của các đô thị.
Tuy nhiên, bên cạnh các mặt tích cực của nó thì vấn đề bán hàng rong tại Ấn Độ
cũng tồn tại nhiều điểm bất cập. Vì vậy đây cũng là một vấn đề gây ra không ít
tranh cãi cho các nhà quản lý Ấn Độ. Hiện tƣợng bán hàng không có tổ chức,
tràn lan, gây mất trật tự là điều không hề hiếm thấy. Tệ nạn xã hội và những vấn
đề đạo đức phát sinh. Điều đó yêu cầu có sự can thiệp của nhà nƣớc. Tuy nhiên,
một mặt những ngƣời bán hàng rong phải tự thu xếp địa điểm, một mặt, họ đƣa
hối lộ cho những cán bộ hay cảnh sát tham nhũng. Điều này càng làm cho quản
lý của Nhà Nƣớc mất hiệu quả và trở nên khó khăn hơn.
Những giải pháp mà các nhà quản lý đƣa ra đầu tiên đó là cung cấp giấy
phép bán hàng cho những ngƣời bán hàng rong. Ông Deshpande, Giám đốc
Viện nghiên cứu thay đổi kinh tế và xã hội (ISEC), cho biết “Họ đƣợc công
nhận quyền bán hàng và có quyền kinh doanh tại những khu vực nhất định. Tất
cả đều nằm trong quản lý của chính quyền”. Chính phủ Ấn Độ cũng ban hành
nhiều quy định trong đó thừa nhận những ngƣời bán hàng rong đã “cung cấp
thực phẩm cơ bản cho ngƣời dân với giá cả hợp lý và địa điểm bán thuận tiện

gần khu dân cƣ”. Quy định về vấn đề này, các điều luật cụ thể đã đƣợc ban hành
nhƣ Chính sách quốc gia về bán hàng rong tại khu vực đô thị tại Hindu năm
2004, Chính sách quốc gia về bán hàng rong tại khu vực đô thị năm 2004, Chính
sách quốc gia về bán hàng rong tại khu vực đô thị năm 2009. Những hội nghị
thƣờng niên, những cuộc họp của ủy ban các cấp thƣờng xuyên đƣợc tổ chức để


15

bảo vệ quyền lợi cũng nhƣ đƣa ra những giải pháp hợp lý nhất nhằm bảo
vệ và quản lý những ngƣời bán hàng rong.
Tuy nhiên, khi đô thị ngày càng mở rộng và nền kinh tế phát triển
mạnh mẽ hơn nữa thì càng không còn chỗ cho những ngƣời bán hàng
rong. Công ăn việc làm của họ đang bị đe dọa. NASVI (Nationa alliance
of street vendor of India) – Hiệp hội những ngƣời bán hàng rong Ấn Độ
đã đƣợc thành lập để đƣa hoạt động bán hàng rong vào quy mô, tổ chức.
Hàng năm, hiệp hội luôn tổ chức những hội nghị thƣờng niên tổng kết lại
những kết quả của các thành viên trong năm qua, tổ chức lên kế hoạch,
hình thành ngân sách cho hoạt động của năm sau. Hiệp hội cũng có những
hoạt động mang nhiều ý nghĩa nhƣ ngày hội bán hàng rong, diễn ra vào
ngày 20 tháng 1 hàng năm nhằm tăng cƣờng sự liên kết giữa những ngƣời
bán hang rong và khuyến cáo các nhà làm luật và quản lý thực hiện các
chính sách mang lại lợi ích cho ngƣời bán hang rong.
3.3. Bán hàng rong tại các quốc gia khác
Vấn nạn hàng rong hiện nay không chỉ dừng lại ở phạm vi một quốc gia
mà còn lan rộng trên phạm vi quốc tế. Thiếu việc làm và nghèo đói đã đẩy ngƣời
dân ở nông thôn khỏi làng quê của mình để tìm đến thành phố, nơi đƣợc kỳ
vọng là sẽ đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho họ. Những ngƣời dân di cƣ này vì
không có đủ các kỹ năng cũng nhƣ trình độ giáo dục để có đƣợc một công việc
ổn định với mức lƣơng tốt, buộc phải gắn mình với những khu vực kinh doanh

phi chính thức mà một trong số đó là hàng rong. Những đối tƣợng bán hàng
rong bao gồm những ngƣời dân nông thôn nghèo, thiếu kỹ năng làm việc cần
thiết ở các quốc gia châu Á nhƣ Bangladesh, Nepal, Campuchia, Việt Nam…


16

hoặc những công nhân bị mất việc do doanh nghiệp kinh doanh kiểu cũ bị phá
sản, sáp nhập tập trung nhiều tại Philippine, Triều Tiên, Thái Lan, Malaysia,
Indonesia hay Ấn Độ. Họ phải tìm các công việc trả lƣơng thấp trong khu vực
phi chính thức đê tồn tại.

4
Tại Bangladesh, số lƣợng ngƣời bán hàng rong rất lớn. Theo nhƣ số liêu
thống kê, có khoảng 90.000 ngƣời bán rong và bán hàng rong vẫn bị coi là một
hình thức kinh doanh trái phép, luôn đối mặt với sự phản đối của các nhà chức
trách. Họ phải chi một khoản lớn trong thu nhập của mình để hối lộ nhằm đƣợc
phép tiếp tục kinh doanh.

5
Hàng rong ở Srilanka có vẻ nhận đƣợc vị trí trong xã hội tốt hơn tại
Bangladesh và Ấn Độ. Hàng rong tại hầu hết khu vực đô thị không phải bị cấm
hoàn toàn, họ có thế bán hàng rong trên vỉa hè nếu họ đóng thuế hàng ngày cho
chính quyền thành phố. Mặc dù đƣợc sự công nhận về mặt pháp luật, những
ngƣời bán hàng rong vẫn bị xua đuổi nếu chính quyền thành phố cảm thấy hoạt
động bán hàng rong gây khó khăn cho cộng đồng chung.
Trong khi đó, bán hàng rong là một trong những đặc điểm dễ nhận thấy
nhất tại Thái Lan. Hầu hết các tuyến phố đều có sự xuất hiện của những ngƣời
bán rong quần áo, đồ điện tử, thực phẩm tƣơi và nấu sẵn. Trên thực tế, hàng
rong tại Thái Lan nổi tiếng không phải vì giá rẻ mà vì chất lƣợng dinh dƣỡng.

Chính quyền thành phố Bangkok đã cái tạo các địa điểm chuyên biệt cho ngƣời
bán hàng rong kinh doanh. Hiện nay ƣớc tính có khoảng 287 địa điểm nhƣ vây.
Những địa điểm chính thức dành riêng cho hoạt động bán hàng rong, tuy nhiên

4
International status of street hawkers, Report on Stress Hawkers
5
International status of street hawkers, Report on Stress Hawkers


17

vẫn không đáp ứng đủ nhu cầu và những địa điểm này không phủ hết các khu
vực của thành phố và do vậy không tiếp cận đƣợc hết các khách hàng.
Malaysia là một trong ít các quốc gia Châu Á đã đƣa ra các tiêu chuẩn nhận diện
cho những ngƣời bán hàng rong. Năm 1990, Malaysia đã thiết lâp hệ thống
chính sách quốc gia điều chỉnh hoạt động bán hàng rong và việc kiểm tra do một
phòng ban chuyên trách đảm nhận. Theo thống kê của cơ quan này, số lƣợng
ngƣời bán rong đƣợc cấp giấy phép tăng 30% từ năm 1990 đến năm 2000.
6
Chính phủ Hàn Quốc, nhƣ hầu hết các Chính phủ khác ở châu Á, đã từng tỏ ra
không khôn ngoan trong quản lý hoạt động bán hàng rong. Những ngƣời bán
hàng rong và vô gia cƣ liên tục bị tấn công. Chính phủ Hàn Quốc thậm chí đã
từng thuê các tổ chức gangster để xua đuổi những nhóm ngƣời này. Khủng
hoảng kinh tế Hàn Quốc năm 1998 kéo theo hàng loạt cuộc tái cơ cấu, một bộ
phận lớn công nhân mất việc làm và phải rời tới khu vực kinh doanh bất hợp
pháp để kiếm sống. Hiện nay, tại Seoul có khoảng 800.000 ngƣời bán hàng rong.
Rõ ràng, Chính phủ ở các quốc gia ít nhiều đã từ chối thừa nhận bán hàng
rong nhƣ một hoạt động kinh doanh hợp pháp và thực tế coi hàng rong nhƣ một
nhân tố tác động xấu đến phát triển kinh tế.


6
International status of street hawkers, Report on Stress Hawkers


18

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG BÁN HÀNG RONG TẠI HÀ NỘI
1. Nguồn pháp lý điều chỉnh hoạt động bán hàng rong tại Việt Nam
1.1. Các văn bản pháp lý hiện hành
Hoạt động bán hàng rong càng phát triển thì những vấn đề liên quan đến
các mặt kinh tế, văn hóa, xã hội… ngày càng phát sinh. Trƣớc ngày 16/3/2007,
khi chƣa có quy định của chính phủ, bán hàng rong còn chƣa đƣợc công nhận là
một hoạt động thƣơng mại. Nghị định 39/2007/NĐ-CP của chính phủ ra đời,
quy định về cá nhân hoạt động thƣơng mại một cách độc lập, thƣờng xuyên
không phải đăng ký kinh doanh. Theo đó, bán hàng rong đã đƣợc xem xét nhƣ
một loại hình kinh doanh mà những ngƣời bán hàng rong không phải đăng ký
kinh doanh nhƣng vẫn chịu quản lý ở các cấp xã, phƣờng.
Theo Nghị định này, UBND xã, phƣờng, thị trấn lập sổ theo dõi hoạt động
thƣơng mại và việc tuân thủ pháp luật của những ngƣời bán rong, buôn bán vặt,
buôn chuyến, kinh doanh lƣu động tại địa phƣơng và từ nơi khác thƣờng xuyên
lui đến địa bàn. Đồng thời, các cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm thông báo với
các cá nhân về các khu vực đƣợc phép buôn bán, thực hiện quy định về thuế và
lệ phí hoạt động thƣơng mại, báo cáo về việc quản lý các cá nhân hoạt động
thƣơng mại trên địa bàn.
Nghị định cũng đã quy định chi tiết về hàng hóa, dịch vụ đƣợc phép kinh
doanh, phạm vi và địa điểm kinh doanh… của cá nhân hoạt động thƣơng mại.
Bên cạnh đó, nghị định cũng yêu cầu bảo đảm an ninh, trật tự, vệ sinh, an toàn
trong hoạt động của cá nhân hoạt động thƣơng mại, trách nhiệm cụ thể của Ủy
ban nhân dân cấp xã, cấp huyện, các Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh,



19

trong quản lý nhà nƣớc đối với cá nhân hoạt động thƣơng mại cũng nhƣ
phạm vi xử phạt cụ thể
Riêng với thành phố Hà Nội, UBND thành phố đã ban hành Quy
định số 46/2009/QĐ-UBND “Quy định về quản lý hoạt động bán hàng
rong trên địa bàn thành phố Hà Nội”, thay thế Quyết định 02/2008/QĐ-
UBND ngày 09/01/2008 của Uỷ ban nhân dân Thành phố ban hành "Quy
định về quản lý hoạt động bán hàng rong trên địa bàn Thành phố Hà Nội".
Đây là quy định riêng áp dụng cho thành phố Hà Nội - nơi tập trung rất
nhiều ngƣời bán hàng rong.
Hà Nội với đặc điểm là thành phố thủ đô, nơi hàng rong đã trở
thành vấn đề gây nhiều tranh cãi và cần có một quy chế nhất định để thực
hiện. Việc ban hành những quy định cụ thể giúp việc thực hiện đi vào
thống nhất và toàn diện. Ngoài những quy định về phạm vi, trách nhiệm
của các cá nhân hoạt động thƣơng mại cũng nhƣ trách nhiệm của các cơ
quan chức năng, Quy định còn nêu rõ các khu vực đƣợc phép bán hàng
rong – trong đó liệt kê 63 tuyến phố không đƣợc bán hàng rong. Tuy
nhiên, để đánh giá nguồn luật này có tính thực tế cao đến đâu thì còn phải
xem hiệu lực thực tiễn của nó ra sao.
1.2. Thực trạng áp dụng các nguồn luật
Nguồn pháp lý thì đã đƣợc quy định cụ thể nhƣng để áp dụng
những quy định này vào thực tế thì lại gặp những vƣớng mắc. Ngay từ khi
mới ra đời, quy định về cấm bán hàng rong đã gây nhiều tranh cãi. Một
mặt, các ý kiến đồng thuận cho rằng cấm bán hàng rong sẽ tạo đƣợc bộ
mặt đô thị văn minh, chấm dứt tình trạng lấn chiếm lòng đƣờng, vỉa hè, từ



20

đó hƣớng tới trật tự xã hội. Một mặt, những ý kiến phản đối cho rằng cấm hàng
rong là điều không thể và không nên thực hiện mà trƣớc mắt, chỉ nên đƣa hàng
rong vào tổ chức. Bởi đây không chỉ là vấn đề bộ mặt mà là vấn đề kinh tế, văn
hóa liên quan tới hàng triệu ngƣời.
Do điều kiện kinh tế nƣớc ta còn chƣa phát triển, việc bán hàng luật cấm
bán hàng rong trên nhiều tuyến phố đã là điều khó thực hiện. Trong khi đó, thời
gian đi vào hiệu lực của luật cũng quá gấp gáp làm cho các quy định thiếu tính
thực tiễn. Một số ý kiến cho rằng, so sánh quy định quản lý hoạt động bán hàng
rong với quy định sử dụng hè phố, lòng đƣờng cũng không khác gì mấy so với
những tiêu chí của tuyến phố văn minh đô thị. Trƣớc đây, việc thực hiện quy
định ở tuyến phố văn minh đô thị chỉ trong thời gian từ 7h đến 17h hằng ngày
thì nay các tuyến phố cấm bán hàng rong, để xe dƣới lòng đƣờng, vỉa hè thực
hiện triệt để trong 24/24h. Tuy nhiên, lại có một tình trạng khá giống nhau là
ngƣời dân chỉ chấp hành khi có bóng dáng của lực lƣợng chức năng đi kiểm tra,
còn khi lực lƣợng này đi khỏi thì mọi chuyện đâu lại vào đấy.
Cũng không thể nói những nỗ lực của các cơ quan chức năng là vô ích,
bởi phần nào, hiện tƣợng bán hàng rong tại các khu phố cấm đã không còn tràn
lan nhƣ trƣớc. Nhƣng cấm ở đây thì lại mọc lên ở chỗ khác. Bởi khi ngƣời bán
hàng không còn chỗ, đa phần họ sẽ thay đổi địa điểm kinh doanh sang các khu
vực không bị cấm. Số lƣợng những ngƣời chuyển nghề, bỏ nghề là không nhiều.
Trong khi đó, nếu tiếp tục nhìn vào kết quả của tình trạng mất việc làm của
những ngƣời bán hàng rong, khi họ trở thành những ngƣời thất nghiệp, làm nghề
tự do…cũng không tích cực hơn với nền kinh tế và xã hội so với việc để họ tiếp
tục bán hàng rong.


21




2. Thực trạng hoạt động bán hàng rong tại Hà Nội từ 1986 đến nay
2.1. Chủ thể tham gia hoạt động bán hàng rong
Từ 1986, chính sách cải cách đã làm thay đổi căn bản chế độ kinh
tế nƣớc ta. Nền kinh tế quan liêu bao cấp dần đƣợc thay thế bởi nền kinh
tế thị trƣờng. Hàng rong đƣợc phép hoạt động và bắt đầu phát triển mạnh
tại các đô thị từ 1989.
Với đặc thù công việc là không ổn định, nay đây mai đó, đòi hỏi
công việc không cao… những ngƣời bán hàng rong hiện nay tại Hà Nội
hầu hết là bất đắc dĩ, do cuộc sống ở nông thôn khốn khó, đành bƣơn
thành phố kiếm kế sinh nhai. Những ngƣời này phần lớn đến từ các tỉnh
lân cận Hà Nội nhƣ Hƣng Yên, Bắc Giang, Hà Tây, Vĩnh Phúc... Ngoài ra
cũng có những ngƣời đến những địa phƣơng xa hơn nhƣ Thanh Hóa,
Quảng Bình… Những ngƣời ở gần có thể sáng đi, tối về. Những ngƣời do
điều kiện không thể về đƣợc thì trọ lại các khu nhà trọ nghèo nàn, tiền
thuê trọ rẻ và chấp nhận sống thiếu thốn, đạm bạc.
Trong xóm hàng rong, mỗi ngƣời mỗi cảnh, đa phần đều nghèo
khó, phải kiếm tiền gửi về quê cho gia đình. Hầu hết họ lên thành phố một
mình và sống xa nhà. Có ngƣời trở về quê mỗi dịp mùa vụ, xong lại trở ra
với gánh hàng rong. Có ngƣời cả năm chỉ về nhà đƣợc đôi lần vào những
dịp giỗ tết, cũng có những ngƣời đón năm mới ở nhà trọ, hàng tháng họ
chỉ gửi tiền về cho gia đình…


22

Thông thƣờng, khoảng vài chục phụ nữ bán hàng rong ở chung một dãy trọ.
Ngƣời nào ít vốn thì buôn bán những đồ rẻ tiền, một chiếc rổ đựng lót giày, đĩa
nhạc, khẩu trang, bấm móng tay… đến mủng hoa quả. Ai dày vốn hơn thì bán

vật dụng gia đình, giày dép, đồ sành sứ, hàng ăn…
7
Theo đó, trong hai năm trở lại đây số lƣợng ngƣời bán hàng rong tăng lên
“từng ngày”. Cho đến 2008, số ngƣời bán rau là khoảng 5000 - 7.000 ngƣời, bán
hoa quả khoảng 5000 - 9.000 ngƣời... Trong lực lƣợng bán hàng rong, phụ nữ
chiếm đến 93%, với độ tuổi trung bình là 40 tuổi. Ngƣời ngoại tỉnh chiếm đến
70-80% và có đến 93% ngƣời bán “chƣa qua đào tạo”. Do trình độ học vấn
không có, họ cũng không có lựa chọn nào khác ngoài công việc đòi hỏi không
quá cao về cả trình độ lẫn vốn liếng, đó là bán hàng rong. Những ngƣời này chủ
yếu là dân nghèo không có việc làm ổn định... Nếu không cho phép họ bán hàng
rong thì cuộc sống của họ sẽ thật sự rơi vào khó khăn.
Tuy nhiên, công việc bán hàng rong vất vả nhƣng cũng chẳng mang lại
cho họ là bao. Ngày bán đƣợc nhiều bù cho ngày bán ít. Làm việc xong lại trở
về khu nhà trọ chật chội. Số phận những ngƣời phụ nữ bán rong trong các đô thị
vốn đã khó khăn. Có ngƣời nhà đông con những cũng chỉ có vài sào ruộng,
ngƣời ở nhà thì nhiều mà việc làm không có. Bán hàng rong là cách duy nhất để
kiếm kế sinh nhai. Có ngƣời thì chồng ốm, con nhỏ phải gửi lại quê cho ngƣời
nhà, ra thành phố kiếm việc. Có ngƣời mất đất, hết tuổi lao động để xin vào các
nhà máy đành phải ra thành phố kiếm cơm. Cũng có ngƣời một thời lầm lỡ, đến

7

- “Tôi đã mất ngủ cả đêm trƣớc khi nói về hàng rong”



23

lúc có tuổi thì giật mình đã muộn, việc làm không có cũng đành làm nghề
bán rong…

Và nhƣ một vòng tròn luẩn quân, hàng rong xuất hiện rồi dai dẳng
tồn tại, gắn chặt với những hoàn cảnh nghèo khổ, khó khăn... Càng ngày
càng nhiều ngƣời từ các tỉnh lân cận, các huyện ngoại thành đổ về trung
tâm. Họ không có trình độ, không có tay nghề hoặc không còn đất… đành
đổ ra thành thị kiếm sống. Với tâm lý thay đổi cuộc sống tại Hà Nội,
thành phố đã trở thành địa điểm kinh doanh, buôn bán của tất cả những
con ngƣời có cảnh ngộ éo le.
2.2. Những loại hàng hóa được bán rong
Theo quy định số 46/2009/QĐ-UBND của UBND thành phố Hà
Nội, những mặt hàng đƣợc phép bán rong là tất cả những hàng hóa, dịch
vụ không thuộc nhóm hàng quy định tại Nghị định số 59/2006/NĐ-CP
ngày 12/6/2006 của Chính Phủ và không bao gồm “ Hàng lậu, hàng giả,
hàng không rõ xuất xứ, hàng quá thời hạn sử dụng, hàng không đảm bảo
điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm theo quy định của pháp luật; hàng
không đảm bảo chất lƣợng, bao gồm hàng mất phẩm chất, hàng kém chất
lƣợng, hàng nhiễm độc và động thực vật bị dịch bệnh”.
Quy định nhƣ vậy nhƣng trên thực tế, các mặt hàng bán rong rất
khó kiểm soát vì không có cơ quan nào đứng ra xác nhận chất lƣợng cho
những mặt hàng này. Bên cạnh đó, hàng bán rong tiêu thụ trong thời gian
ngắn, gây khó khăn cho quản lý và khó có thể xác định nguồn gốc. Một
phần trong số các mặt hàng đƣợc bán rong là tự ngƣời bán sản xuất, chế


24

biến nên cũng không thể xác định về phẩm chất, hàng giả, hay có đúng nguốn
gốc xuất sứ…
Phải thấy một điều rằng, so sánh hàng rong thời Hà Nội xƣa, với hàng
rong thời Hà Nội hiện đại ngày nay đã có nhiều cái rất khác xa. Nếu nhƣ trƣớc
đây, các mặt hàng đƣợc bán rong chủ yếu là quà bánh nhƣ hạt cốm, thanh kẹo,

bánh mì… thì ngày nay, những mặt hàng thƣờng đƣợc bán rong khá phong phú,
chủ yếu là thực phẩm, hoa quả, đồ gia dụng, giày dép, sách báo, những mặt hàng
dễ vận chuyển và có giá trị thấp.
Thời Hà Nội xƣa, hàng rong quả thật mang phong vị riêng đặc sắc, nhƣng
hàng rong Hà Nội thời hiện đại này mật độ bán hàng qua dày đặc với các loại
hình tạp nham, thậm chí đến cả những mặt hàng tôm, cua, ốc, cá, thịt lợn, thịt
chó… Những mặt hàng này ngày càng đƣợc bày bán rộng rãi, nhiều khi gây ô
nhiễm môi trƣờng sống và mất vệ sinh. Hàng rong loại này đang ngày càng
chiếm chỗ trong thành phố, làm mất mỹ quan đƣờng phố Hà Nội. Làm ảnh
hƣởng đến chất lƣợng hàng rong nói chung.
Bên cạnh những ngƣời bán hàng đảm bảo vệ sinh, an toàn thực phẩm thì
cũng có những ngƣời bán hàng ôi thiu, quá hạn… nhƣng ngƣời tiêu dùng không
để ý thì cũng khó phát hiện. Những mặt hàng đảm bảo chất lƣợng mà giá cả phải
chăng thì cũng là một lựa chọn tiêu dùng tốt nhƣng bên cạnh đó luôn có khả
năng ngƣời tiêu dùng phải lựa chọn những mặt hàng chất lƣợng kém. Những
mặt hàng này làm ảnh hƣởng tới hình ảnh của ngƣời bán hàng rong, đe dọa sức
khỏe và chất lƣợng cuộc sống của ngƣời tiêu dùng.
Quan sát quanh khu vực các trƣờng đại học, các bệnh viện… hàng rong
mọc lên liên tiếp. Những quán hàng đảm bảo vệ sinh thì ít mà đa phần đều chế

×