GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
MỤC LỤC
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
1
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
MỞ ĐẦU
1.
Lý do chọn đề tài
Khoản 1, Điều 16, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 quy định: “Mọi công
dân đều bình đẳng trước pháp luật”. Điều này đồng nghĩa với việc pháp luật
không thừa nhận cũng như không cho phép có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào vì
lý do giới tính hay xu hướng tính dục của cá nhân. Với sự ra đời của Luật Hôn
nhân và gia đình năm 2014 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2015), pháp luật nước ta
đã không cấm việc kết hôn của người đồng tính (hôn nhân giữa những người
cùng giới tính – hôn nhân đồng giới). Điều 8 về “Điều kiện kết hôn” của Luật
này quy định là “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng
giới tính”. Việc không thừa nhận này là dấu hiệu tích cực cho các cặp đôi cùng
giới. Thực trạng mối quan hệ đồng giới ở nước ta thời gian qua cho thấy, kết
hôn là một nhu cầu có thật và hoàn toàn chính đáng của những người đồng tính.
Mặc dù không được pháp luật thừa nhận nhưng trên thực tế nhiều người đồng
tính vẫn đang chung sống với nhau như một gia đình, từ đó phát sinh các quan
hệ về nhân thân, tài sản hoặc về con cái nhưng lại chưa có cơ chế pháp lý để
điều chỉnh các hậu quả về nhân thân, tài sản và con cái từ việc chung sống giữa
những người cùng giới tính. Thực tiễn xét xử của Tòa án trong thời gian qua
cũng cho thấy, đã có một số vụ việc tranh chấp về tài sản giữa những người
đồng tính có quan hệ sống chung, nhưng chưa có cơ sở pháp lý cụ thể để giải
quyết tranh chấp.
Để đi sâu phân tích nhằm làm hiểu rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ nghiên
cứu nó một cách cụ thể, chi tiết hơn về lý luận và đồng thời so sánh giữa lý luận
và thực tiễn để thấy được những bất cập chưa thực sự hợp lý giữa lý luận với
thực tiễn. Qua tìm hiểu, xem xét thực trạng hôn nhân đồng giới trên thế giới và ở
Việt Nam, từ đó, có thể đưa ra đề xuất giúp hoàn thiện hệ thống pháp luật về vấn
đề hôn nhân đồng giới.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
2
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
Vì vậy, tác giả đã đi đến thực hiện nghiên cứu với đề tài “Vấn đề kết hôn
đồng giới – lý luận pháp lý và thực tiễn”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Với mục đích là tìm hiểu một cách có hệ thống và toàn diện về mặt lý
luận về vấn đề hôn nhân đồng giới, đánh giá đúng thực trạng hôn nhân đồng giới
ở Việt Nam hiện nay. Qua đó phân tích quy định của pháp luật Việt Nam về vấn
đề này, cũng như chỉ ra những bất cập giữa thực tiễn và lý luận khi hôn nhân
đồng giới không được thừa nhận, trên cơ sở đó đưa ra các đề xuất nhằm hoàn
thiện pháp luật hôn nhân và gia đình về vấn đề hôn nhân đồng giới, tiến tới thừa
nhận hôn nhân đồng giới ở Việt Nam.
3.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Hôn nhân đồng giới là một vấn đề phức tạp trong pháp luật về hôn nhân
và gia đình, được nhiều người quan tâm hiện nay. Vì vậy, trong phạm vi nghiên
cứu của mình, tác giả chỉ dừng lại ở phạm vi nghiên cứu những vấn đề khái quát
chung về hôn nhân đồng giới bao gồm định nghĩa, đặc điểm của người đồng
tính, các hình thức thừa nhận hôn nhân đồng giới trên thế giới hiện nay, cũng
như những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Đề tài cũng chỉ ra
thực trạng hôn nhân đồng giới trên thế giới và Việt Nam, từ đó đưa ra những đề
xuất từng bước tiến tới thừa nhận hôn nhân đồng giới trong pháp luật Việt Nam.
4.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Niên luận nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về hôn nhân đồng giới,
từ đó đi sâu vào những quy định của pháp luật Việt Nam về vấn đề này, đồng thời
tìm hiểu thực trạng hôn nhân đồng giới ở một số nước trên thế giới và phân tích thực
trạng hôn nhân đồng giới ở Việt Nam hiện nay.
5.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Niên luận được tác giả nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Niên luận đặc biệt
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
3
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
coi trọng các phương pháp hệ thống, lôgic, tổng hợp, so sánh, dự báo, kết hợp
với phương pháp tham khảo ý kiến chuyên gia để chọn lọc tri thức khoa học,
kinh nghiệm thực tiễn trong vấn đề hôn nhân đồng giới.
6.
Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của đề tài
Với nội dung nghiên cứu đã đề cập, thông qua những kết quả thu được từ
việc nghiên cứu thể hiện trong đề tài để nói lên được những vấn đề đang mắc
phải trong lí luận cũng như thực tiễn, cái nhìn từ xã hội và từ luật pháp về vấn đề
hôn nhân đồng giới. Đồng thời, với việc đưa ra các đề xuất sẽ góp phần làm hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về lĩnh vực hôn nhân và gia đình nói chung
và lĩnh vực hôn nhân đồng giới nói riêng.
Ngoài ra, nội dung nghiên cứu này còn có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho những tác giả nghiên cứu khác về cùng vấn đề này, cho các bạn
sinh viên, cũng như tất cả những ai quan tâm đến vấn đề kết hôn đồng giới.
Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, niên
luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về hôn nhân đồng giới.
- Chương 2: Pháp luật về hôn nhân đồng giới ở Việt Nam và các vấn
đề pháp lý khi hôn nhân đồng giới không được thừa nhận.
- Chương 3: Thực trạng hôn nhân đồng giới trên thế giới và Việt Nam
– những đề xuất từng bước tiến tới thừa nhận hôn nhân đồng giới
trong pháp luật Việt Nam.
7.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
4
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
NỘI DUNG
Chương 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI
1
1
Định nghĩa và đặc điểm về người đồng tính
Định nghĩa về người đồng tính
Trên thế giới, thuật ngữ “giới” theo tiếng Anh là “gender” ban đầu xuất
phát từ khái niệm “Phụ nữ trong phát triển” (Women in development - WID).
Đây là quan điểm được tính đến trong chính sách và chương trình kinh tế - xã
hội của một số nước đang phát triển vào cuối những năm 1970, đầu những năm
1980. Như vậy, theo quan điểm xã hội học, “giới” dùng để chỉ các đặc điểm,
vị trí, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam và nữ. Hay nói cách khác, giới là
sự khác biệt giữa phụ nữ và nam giới trong quan hệ xã hội.
Khái niệm “giới” và “giới tính” hoàn toàn khác nhau, nhằm phân biệt hai
loại đặc điểm của phụ nữ và nam giới: một loại đặc điểm do quan niệm xã hội và
sự phân công lao động xã hội tạo nên, loại đặc điểm thứ hai do yếu tố sinh học
quy định - đặc điểm giới tính 1. Tính hoặc giới tính (sex) được dùng để chỉ các
đặc điểm sinh học của nam và nữ, bao hàm các đặc điểm về mặt tâm lý học, ý
thức và ý chí tính dục (gọi chung là xu hướng tính dục). Xu hướng tính dục được
định nghĩa là sự hấp dẫn có tính bền vững về tình cảm và/hoặc tình dục hướng
tới những người khác. Nó khác với ba cấu thành khác của tính dục bao gồm giới
tính sinh học (do các yếu tố sinh học quy định), bản dạng giới (cảm nhận tâm lý
mình là nam hay nữ), và thể hiện giới (sự thể hiện và vai trò về nam tính hay nữ
tính trong đời sống)2. Từ đó phân ra các loại xu hướng tính dục:
- Thấy hấp dẫn bởi người khác giới: Dị tính.
- Thấy hấp dẫn bởi người cùng giới: Đồng tính.
1 Tài liệu học tập: Luật Bình đẳng giới, Khoa Luật – Đại học Huế.
2 Báo cáo nghiên cứu về người đồng tính, song tính và chuyển giới – TS.Nguyễn Quỳnh Phương, Viện
Nghiên cứu Xã hội- Kinh tế và Môi trường.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
5
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
- Thấy hấp dẫn bởi cả hai giới: Song tính.
Theo thuyết đa dạng tình dục (Queer Theory), trên thực tế bản dạng tính
dục của con người phức tạp hơn nhiều so với cách phân chia giới tính thành nam
và nữ như hiện nay. Việc phân chia bản dạng thành hai cực thể hiện cách nhìn
đối lập nhị phân và không thể hiện được sự đa dạng của cuộc sống. Liên quan
đến xu hướng tính dục, trong một công trình xuất bản từ cuối những năm 1940,
Alfred Kinsey và đồng nghiệp chỉ ra rằng xu hướng tính dục có thể được chia ra
làm bảy loại, từ hoàn toàn dị tính cho tới hoàn toàn đồng tính, và song tính là
điểm giữa3.
Trong thuật ngữ tiếng Anh có từ LGBT4 dùng để chỉ nhóm người có xu
hướng tình dục thiểu số trên thế giới, bao gồm bốn nhóm người: đồng tính nữ
(lesbian), đồng tính nam (gay), người chuyển giới tính từ nam sang nữ hoặc từ
nữ sang nam (transsexual/transgender) và người song tính luyến ái (bisexual)5.
Quan niệm về người đồng tính rất đa dạng và điều này phản ảnh sự đa
dạng về cách hiểu thế nào là người đồng tính của xã hội. Sự đa dạng này xuất
phát từ cách nhìn nhận các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống xã hội – từ góc
độ con người sinh học, đặc điểm cấu tạo cơ thể, thay đổi nội tiết tố bên trong cơ
thể, thể hiện giới bên ngoài, hay vai trò giới v.v… Cho dù quan niệm về người
đồng tính được nói đến ở khía cạnh nào thì hầu hết cũng dựa trên bản chất “là
hai người cùng giới yêu nhau và có ham muốn quan hệ tình dục với nhau”. Như
vậy, có thể khái niệm: Người đồng tính thuộc nhóm đồng tính luyến ái
3 Một số khái niệm cơ bản về người đồng tính, song tính và chuyển giới – Lương Thế Huy, Viện
Nghiên cứu Xã hội- Kinh tế và Môi trường.
4 LGBT là từ viết tắt cụm từ tiếng anh Lesbian - Gay - Bisexual -Transgender.
5 Đồng tính luyến ái là vấn đề đã xuất hiện từ rất lâu, nhưng mãi đến giữa thế kỷ thứ 19, thuật ngữ
đồng tính luyến ái “homosexuality” mới lần đầu tiên được biết đến bởi một bác sĩ người Hungary,
Benkart (với bút danh là K.M.Kertbeny). Xem: J.Lauritsen and D.Thorstad, The Early Homosexual
Rights Movement (1864-1935).
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
6
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
(homosexual) là người bị hấp dẫn trên phương diện tình yêu hay tình dục hoặc
việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa những người cùng giới tính với nhau
trong hoàn cảnh nào đó hoặc một cách lâu dài. Người đồng tính nam thường gọi
là “gay” và người đồng tính nữ thường được gọi là “les”/“lesbian”.
Về phân loại, đối với đồng tính nam (gay) thì thường thấy có 3 típ chính:
-
Seme (hoặc top): có vẻ bề ngoài nam tính cả về thể chất (dáng vóc, cơ
bắp, giọng nói…) và tâm lý (mạnh mẽ, có tính cách quả quyết,…). Trong
-
quan hệ tình cảm, và tình dục, nhóm này tương tự như nam giới.
Uke (hoặc bot): có vẻ bề ngoài nữ tính chủ yếu được thể hiện dưới phương
diện tâm lý (thích làm đẹp, làm dáng, chiều chuộng…) hơn là phương diện
thể chất. Trong quan hệ tình cảm và tình dục, nhóm này tương tự như nữ
-
giới.
Seke: là mức trung tính được xếp ở mức độ giữa Seme và Uke.
Đối với đồng tính nữ (les) thì thường thấy có 3 típ chính:
-
B (đọc là bi): có vẻ bề ngoài nam tính. Nhóm này có xu hướng ngoại hình
(đặc biệt là ở trang phục) và tính các (mạnh mẽ, cứng cỏi,…) giống nam
giới. Trong quan hệ tình cảm, và tình dục, nhóm này tương tự như nam
-
giới.
F (đọc là fem): có vẻ bề ngoài nữ tính cả về thể chất và tâm lý đều giống
nữ giới. Trong quan hệ tình cảm và tình dục, nhóm này tương tự như nữ
2
giới.
SB (đọc là “ét-bi” hoặc “súp-bi”): được xếp giữa B (bi) và fem (phem).
Đặc điểm của người đồng tính
Các yếu tố hình thành:
Có nhiều giả thuyết về các yếu tố hình thành nên thiên hướng tình dục
đồng tính, trong đó bao gồm:
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
7
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
-
Kiểu gen6 (bẩm sinh): Theo các nhà nghiên cứu Peter Bearman và Hannah
Bruckner, từ Đại học Columbia và Đại học Yale, khi nghiên cứu dữ liệu từ
Trung tâm Y tế quốc gia vị thành niên, kết luận: kiểu gen là một trong
-
những nguồn gốc của đồng tính luyến ái.
Môi trường sống và sự dạy dỗ, bao gồm: sự tương quan với môi trường
sống, yếu tố gia đình, chấn thương tâm lý và ảnh hưởng từ văn hóa – xã
-
hội.
Số lượng anh trai của đối tượng (đối với người đồng tính nam)7: Theo
nhiều nhiên cứu, có thêm một người anh trai sẽ tăng khả năng là đồng tính
lên 28%–48%. Hiệu ứng anh trai chiếm khoảng 1/7 trong số người đồng
tính nam. Không có sự tương quan giữa số chị gái và sự đồng tính của một
-
người nữ.
Hoócmôn trong giai đoạn bào thai.
Sự lo âu của người mẹ khi mang thai.
Tổng hợp của các yếu tố trên.
Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics) khẳng định
rằng: “Thiên hướng tình dục được quyết định bởi sự tổng hợp của kiểu
gen, hoocmon và ảnh hưởng môi trường”. Nhiều tranh cãi tiếp tục dựa trên các
yếu tố sinh học và/hoặc tâm lí như kiểu gen và sự hoạt động của một số
hoocmon ở bào thai. Năm 2012, nghiên cứu của trường Queen Mary và Viện
Nghiên cứu Karolinska ở Stockholm đã theo dõi 3.826 cặp song sinh cùng trứng,
kết luận: môi trường xã hội là yếu tố đóng vai trò chủ yếu trong việc hình thành
đồng tính luyến ái, trong khi yếu tố bẩm sinh chỉ là thứ yếu. Cụ thể, kiểu gen
chiếm 35% còn ảnh hưởng từ môi trường xã hội lên mỗi cá nhân (đã loại bỏ các
6 American Psychological Association, Answers to Your Questions For a Better Understanding of
Sexual Orientation & Homosexuality.
7 Blanchard, R., Cantor, J. M., Bogaert, A. F., Breedlove, S. M., & Ellis, L. (2006),"Interaction of
fraternal birth order and handedness in the development of male homosexuality." Hormones and
Behavior, 49, 405–414
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
8
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
yếu tố tương đồng) chiếm 64% trong việc hình thành đồng tính nam, tỷ lệ tương
ứng đối với đồng tính nữ là 18% và 80%.
Quan hệ tình cảm:
Mỗi người đồng tính có thể thể hiện tình dục của họ bằng cách này hay
cách khác, và cũng có thể không có hành vi nào thể hiện ra. Một số chủ yếu quan
hệ tình dục với người cùng giới, một số chủ yếu với người khác giới, cả hai giới
hoặc kiêng tình dục. Nghiên cứu cho thấy nhiều người đồng tính mong muốn có
mối quan hệ bền vững và một phần trong số họ cũng đã thực hiện được. Một kết
quả thống kê cho thấy 40% đến 60% đồng tính nam và 45% đến 80% đồng tính
nữ hiện đang có một quan hệ tình cảm. Có những nghiên cứu cho thấy các cặp
đồng tính và các cặp dị tính là tương đương nhau về mặt toại nguyện và sự gắn
kết nhiều hay ít trong quan hệ tình cảm.
Nhà nghiên cứu Brad Hayton cung cấp cái nhìn sâu sắc thái độ của nhiều
người đồng tính đối với cam kết hôn nhân: “Người đồng tính có niềm tin rằng
mối quan hệ hôn nhân chỉ là tạm thời và chủ yếu là vì bản năng tình dục. Quan
hệ tình dục giữa họ chủ yếu vì niềm vui chứ không phải vì sự sinh sản”8.
Người đồng tính không phải là người bị bệnh:
Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ (American Psychiatric Association) đã loại
đồng tính luyến ái khỏi danh sách các bệnh sau một cuộc bỏ phiếu năm 1973, với
58% phiếu thuận và 42% phiếu chống (chưa kể phiếu trắng). Ảnh hưởng bởi các
quyết định này, năm 1975, Hiệp hội Tâm lý học Hoa Kỳ (American
Psychological Association) cũng đưa ra kết luận tương tự và đến năm 1990 là Tổ
8 Timothy J. Dailey, Ph.D, Homosexual parenting: placing children at risk (Part II of III),
/>
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
9
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
chức y khoa thế giới. Tuy nhiên, đến nay vẫn có những tổ chức và nhà tâm lý
học phản đối những quyết định này. Họ cho rằng quyết định đó là do áp lực
chính trị dữ dội từ các tổ chức ủng hộ đồng tính chứ không phải vì các bằng
chứng khoa học vững chắc. Năm 2012, bác sĩ tâm thần học nổi tiếng Robert
Spitzer đã lên tiếng rút lại nghiên cứu của ông năm 2001 về hiệu quả “chữa trị”
đồng tính thành dị tính và xin lỗi cộng đồng đồng tính. Cùng với sự kiện này,
chứng cứ khoa học duy nhất mà những người muốn “chữa trị đồng tính” thường
dựa vào nay đã không còn nữa.
Người đồng tính không phải là người chuyển giới:
Người chuyển giới và người đồng tính thường bị đồng nhất một cách sai
lầm. Thực tế, người chuyển giới thường trải qua quá trình bối rối trong việc nhận
diện giới của chính mình cũng như đối mặt với những quyết định chuyển đổi,
khó khăn liên quan đến sử dụng hoocmon phẫu thuật và công khai thể hiện giới.
Người chuyển giới liên quan tới việc người đó nhận dạng mình là nam hay nữ,
trong khi người đồng tính liên quan tới việc người đó yêu người cùng giới hay
khác giới. Chuyển giới là một khái niệm liên quan đến bản dạng giới, trong khi
đồng tính, song tính hay dị tính là những khái niệm liên quan đến xu hướng tính
dục. Vì vậy người chuyển giới và người đồng tính khác nhau.
2
Các hình thức công nhận hôn nhân đồng giới trên thế giới
Pháp luật các nước trên thế giới tồn tại rất nhiều các chế định khác nhau,
thấp hơn hoặc tương tự như hôn nhân với các tên gọi khác nhau, ví dụ như: quan
hệ đối tác chung nhà (domestic partnership), kết đôi có đăng ký (registered
partnership), kết hợp dân sự (civil union) hay các tên gọi khác tùy vào từng quốc
gia. Nhìn chung, sự công nhận pháp lý đối với mối quan hệ giữa hai người cùng
giới tính có thể được phân vào ba hình thức kết đôi chính sau đây:
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
10
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
1
Hôn nhân
Hôn nhân là hình thức kết đôi có đăng ký với Nhà nước, được cấp giấy
chứng nhận đăng ký kết hôn với đầy đủ tất cả những quyền, nghĩa vụ và sự công
nhận pháp lý như những cặp khác giới.
Sự hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới hoặc khả năng thực hiện hôn nhân
đồng giới được những người ủng hộ xem là quyền bình đẳng hôn nhân hoặc hôn
nhân bình đẳng. Thế kỷ 21 được xem là thế kỷ của bình đẳng hôn nhân, sau khi
đã có quyền bình đẳng của người da màu, quyền bình đẳng của phụ nữ và quyền
bình đẳng tôn giáo.
Những điều luật đầu tiên trong thời kỳ hiện đại cho phép hôn nhân đồng
giới được thông qua vào thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Cho đến thời điểm
cuối năm 2014, trên thế giới có 16 nước, 34/50 bang ở Hoa Kỳ, nhiều bang ở
Mexico và nhiều vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới và luật hóa
các quyền của người đồng tính (xem phụ lục bảng 1). Tại những quốc gia hợp
pháp hóa hôn nhân cùng giới, pháp luật đã định nghĩa lại khái niệm hôn nhân,
bãi bỏ điều kiện về giới tính của hai bên phối ngẫu (vợ/chồng) dẫn đến việc ban
hành một luật hôn nhân thống nhất không phân biệt giới tính. Ví dụ, Thụy Điển
ghi trong luật hôn nhân của mình là “luật này áp dụng cho tất cả mọi người”.
Hôn nhân đồng giới đem đến cho những người đồng tính được sử dụng
những dịch vụ công và hiện thực nhu cầu tài chính như những cặp khác giới
khác. Hôn nhân đồng giới cũng đem đến cho họ sự bảo vệ hợp pháp ví dụ như
quyền thừa kế và quyền thăm nuôi. Hôn nhân đồng giới có thể được thực hiện
một cách đơn giản hoặc theo nghi thức tôn giáo. Nhiều cộng đồng tín ngưỡng
trên thế giới đã cho phép hai người cùng giới kết hôn hoặc thực hiện hôn lễ cùng
giới, ví dụ như: Phật giáo ở Đài Loan, Úc; Nhà thờ ở Thụy Điển; Giáo hội
Presbyterian; Do Thái giáo bảo thủ; Giáo hội Thống Nhất Canada...
2
Kết hợp dân sự
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
11
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
Kết hợp dân sự là hình thức kết đôi có đăng ký với Nhà nước, được cấp
giấy chứng nhận “có quan hệ gia đình”, “kết đôi có đăng ký”,“kết hợp dân sự”
hoặc các tên gọi tương tự khác tùy vào từng quốc gia. Đây là dạng chung sống
như vợ chồng không phát sinh hậu quả hôn nhân trước pháp luật. Pháp luật
không bảo hộ đầy đủ quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng trong pháp luật. Trong
quá trình chung sống, người ta phải thực hiện quyền, nghĩa vụ với nhau như thế
nào về tài sản. Việc đăng ký nhằm công khai hóa quyền, nghĩa vụ với nhau trong
quá trình chung sống đó. Nếu sau quá trình chung sống mà chia tay, dẫn đến
tranh chấp, phân chia tài sản thì thỏa thuận khi đăng ký là luật đối với chính họ.
Tòa án căn cứ vào thỏa thuận đó để xác định tài sản phân chia, giải quyết tranh
chấp và giải quyết quyền, nghĩa vụ các bên. Giống như một dạng hợp đồng đã có
hiệu lực miễn là không vi phạm pháp luật. Chế định này quy định cho những cặp
cùng giới một tình trạng, quyền, nghĩa vụ và sự công nhận pháp lý tương đương
(có thể có một vài ngoại lệ).
Tại những quốc gia hợp pháp hóa kết đôi giữa hai người cùng giới, bên
cạnh hôn nhân giữa hai người khác giới, trong hầu hết trường hợp, luật pháp
nhiều nơi quy định các quyền, nghĩa vụ dành cho kết đôi có đăng ký giữa hai
người cùng giới là hoàn toàn giống với quyền, nghĩa vụ dành cho hôn nhân giữa
hai người khác giới. Ví dụ, Bộ luật Gia đình của bang California (Hoa Kỳ) có
một hình thức kết đôi dành riêng cho người đồng tính có tên gọi là “quan hệ gia
đình có đăng ký”. Bộ luật Gia đình của bang tại đoạn 297.5(a) quy định rằng
“các bên trong quan hệ gia đình có đăng ký có đầy đủ các quyền, sự bảo hộ,
quyền lợi, trách nhiệm, nghĩa vụ và bổn phận giống như các quy định dưới luật
này”.
Hay Bộ luật Dân sự của Pháp dự liệu hai hình thức sống cặp đôi đối với
người đồng tính đó là PACS và quan hệ sống chung thực tế bên cạnh hình thức
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
12
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
hôn nhân hợp pháp chỉ áp dụng đối với người khác giới 9. Theo đó, PACS (pacte
civil de solidatité) là một hợp đồng ký kết bởi hai thể nhân đã thành niên cùng
hoặc khác giới tính nhằm tổ chức sống chung; ràng buộc hai người chung sống
về các quyền và nghĩa vụ nhân thân và tài sản. Còn quan hệ sống chung thực tế
(concubinage) là một sự liên kết thực tế thể hiện một quyền sống chung có tính
chất ổn định và liên tục giữa hai người khác hoặc cùng giới tính chung sống cặp
đôi; không đương nhiên làm phát sinh các hậu quả về nhân thân và về tài sản
giữa hai người chung sống. Chẳng hạn, họ sẽ là đồng sở hữu đối với những tài
sản mua được nhân danh hai người, hai bên có thể thỏa thuận, tuy nhiên không
vi phạm nguyên tắc tự do cá nhân.
Hiện nay, có 17 quốc gia và 17 vùng lãnh thổ công nhận hình thức kết hợp
dân sự (xem phụ lục bảng 2). Có hai nguyên nhân chủ yếu mà nhiều nước bắt
đầu thừa nhận quan hệ cùng giới bằng hình thức “kết đôi có đăng ký” hoặc “kết
hợp dân sự” là do các nhà lập pháp không muốn thay đổi định nghĩa hôn nhân là
giữa một nam và một nữ. Bên cạnh đó, các nhà lập pháp cũng muốn có một bước
đệm, một khoảng thời gian chuyển tiếp để xã hội có thể thay đổi quan niệm về
hôn nhân là giữa nam và nữ.
Hình thức kết hợp dân sự là mô hình của kỹ thuật lập pháp “tách biệt
nhưng bình đẳng” (“seperate but equal”), với ý tưởng rằng không đụng chạm
đến những chế định truyền thống, nhạy cảm mà vẫn tạo ra được sự công bằng
cho tất cả mọi người một cách hợp pháp. Tuy nhiên, quan điểm của những người
ủng hộ hôn nhân không phân biệt giới tính là mặc dù quyền lợi của hai hình thức
như nhau, nhưng khi nào vẫn còn sự phân biệt nghĩa là vẫn chưa có được công
bằng thật sự. Ở những quốc gia này, điều mà pháp luật hướng tới là thống nhất
9 Bùi Minh Hồng - Nghiên cứu sinh về luật dân sự tại Cộng hòa Pháp, Về dự án luật cho phép kết hôn
giữa những người cùng giới tính hợp pháp, Hội thảo kinh nghiệm quốc tế về bảo vệ quyền của LGBT
trong quan hệ hôn nhân và gia đình, Bộ Tư pháp, 2012.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
13
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
lại thành một chế định hôn nhân duy nhất dành cho tất cả mọi người. Đó cũng là
lý do ngày càng có nhiều nước chuyển từ hình thức kết hợp dân sự hay sống
chung có đăng ký sang hình thức hôn nhân cùng giới. Tùy vào từng quốc gia mà
thời gian chuyển đổi nhanh hay chậm.
3
Sống chung không đăng ký
Sống chung không đăng ký là hình thức kết đôi tự nguyện giữa hai người,
không đăng ký với Nhà nước. Chế định này áp dụng cho cả cặp cùng giới và
khác giới, tự động phát sinh khi hai người đã chung sống thực tế với nhau một
thời gian theo luật định. Hai người chung sống không đăng ký có một số quyền
lợi và nghĩa vụ hạn chế liên quan tới tài sản, nhân thân. Hiện có 3 quốc gia công
nhận hình thức sống chung không đăng kí, đó là: Úc, Croatia, Israel.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
14
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
Chương 2. PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI Ở VIỆT NAM VÀ
CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ KHI HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI KHÔNG ĐƯỢC
THỪA NHẬN
Hiện nay, trên thực tế, có không ít những người đồng tính đang chung
sống một cách hợp pháp hay bất hợp pháp. Nghiên cứu và khảo sát của một số
cơ quan, tổ chức thời gian gần đây về thực trạng hôn nhân đồng giới ở nước ta
xung quanh các vấn đề như: tỷ lệ những người đồng tính hiện đang có mối quan
hệ sống chung với một người cùng giới; mức độ sống chung và chia sẻ của các
mối quan hệ này; khó khăn gặp phải của mối quan hệ này và nhu cầu, mong
muốn từ luật pháp liên quan đến thực trạng cuộc sống chung; bản chất mối quan
hệ chung sống… đã phần nào phản ánh hiện tượng hôn nhân đồng giới ở Việt
Nam trong giai đoạn này. Họ là những công dân, là những con người và có
quyền lựa chọn việc kết hôn cho mình. Vì vậy, họ cho rằng việc thừa nhận quyền
kết hôn đối với mình là một điều đương nhiên. Vậy pháp luật Việt Nam quy định
như thế nào về vấn đề hôn nhân đồng giới?
1
Pháp luật về hôn nhân đồng giới ở Việt Nam
Ở Việt Nam, hầu như pháp luật không ghi nhận quyền của người đồng
tính. Tuy nhiên, một số tài liệu về lịch sử ở nước ta đã từng đề cập vấn đề này,
như thế kỷ thứ 16 và 17 có một vài vua chúa có thê thiếp là đàn ông 10 hoặc sách
sử có chép rằng, vua Khải Định tuy có tất cả 12 bà vợ nhưng bất lực hoặc không
thích gần đàn bà, chỉ thích đàn ông. Luật Hồng Đức có đề cập đến hành vi hãm
hiếp, ngoại tình và loạn luân nhưng không nhắc gì đến đồng tính 11. Chính quyền
10 Jakob Pastoetter (1997-2001),“The International Encyclopedia of Sexuality: Vietnam (Bách khoa
toàn thư quốc tế về tình dục: Việt Nam)”, The Continuum Publishing Company.
11 Helmut Graupner, International Bar Association Conference, Phillip Tahmindjis (2005), Sexuality
and Human Rights (Tình dục và quyền con người), Haworth Press, 192, ISBN 1560235551,
/>
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
15
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
thực dân Pháp cũng không cấm đoán các hành vi đồng tính trong các thuộc địa.
Thời điểm hiện nay, tuy không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính, nhưng
Luật Hôn nhân và gia đình không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng
giới tính.
Luật Hôn nhân và gia đình (Luật HNGĐ) 1986 không quy định cấm hôn
nhân đồng tính, sau đó có một vài đám cưới đồng tính được tổ chức nhưng
không nhận được sự đồng tình của dư luận 12. Đến Luật HNGĐ năm 2000, có
khoản 2 Điều 8 xác định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng
theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Và cũng
trong luật này, quy định các trường hợp cấm kết hôn, theo đó, khoản 5, điều 10,
Luật Hôn nhân và gia đình 2000 quy định: “Việc kết hôn bị cấm […] giữa những
người cùng giới tính”. Theo quan điểm của luật Hôn nhân và gia đình năm 2000,
có thể giải thích rằng: Hôn nhân là sự liên kết giữa một người nam và một người
nữ nhằm xây dựng gia đình với một chức năng vô cùng quan trọng đó là duy trì
nòi giống. Xét về thực chất, nó là một hình thức để nhà nước xác nhận hai người
là vợ chồng, đồng thời là cha mẹ cho đứa trẻ được sinh ra. Vì mục đích của hình
thức hôn nhân là để tạo nên một gia đình, mà gia đình có chức năng là “cái nôi
nuôi dưỡng con người” như trong lời nói đầu của luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam đã dẫn. Đây là chức năng quan trọng nhất của gia đình, và là mục đích của
việc thành lập gia đình. Ai cũng biết loài người muốn tồn tại thì con người phải
được sinh ra, con người ta sinh ra thì đã cần phải có gia đình để nuôi dưỡng khôn
lớn đến trưởng thành. Vậy ai chịu trách nhiệm nuôi dưỡng? Chính là cha mẹ đã
sinh ra con người đó phải chịu trách nhiệm nuôi dưỡng. Muốn người cha người
12 Năm 1997, đám cưới đồng tính từng được tổ chức đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh và bị nhiều
người dân phản đối. Sau đó, thêm một vụ hai người đồng tính nữ làm đám cưới tại Vĩnh Long, nhưng
giấy xin phép kết hôn không được chấp nhận. Năm 2002, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã liệt
kê đồng tính luyến ái vào trong các "tệ nạn xã hội" cần phải bài trừ như mại dâm và ma túy, nhưng đến
nay Chính phủ chưa có chính sách nào về quan hệ đồng tính.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
16
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
mẹ này phải chịu trách nhiệm nuôi dưỡng con người sinh ra đó thì nhà nước phải
quy định hình thức kết hôn của cha mẹ của con người đó. Mục đích là để xác
định ai là cha mẹ của con người đó, nhằm buộc hai người là cha, là mẹ đó phải
có trách nhiệm nuôi dưỡng con người họ đã sinh ra. Như vậy, ai cũng thấy mục
đích của hình thức hôn nhân là nhằm để đảm bảo cho đứa trẻ được sinh ra bởi
cha mẹ của nó thì được cha mẹ nó phải có trách nhiệm nuôi dưỡng nó từ khi nó
lọt lòng đến khi trưởng thành. Cặp tình nhân đồng giới không thể sinh con với
nhau được, thì chẳng có đứa trẻ nào được họ tạo ra để phải xác định họ là cha mẹ
để họ phải có trách nhiệm nuôi dưỡng cả. Như vậy, rõ ràng không cần phải quy
định hai người đồng tính sống với nhau như vọ chồng thì phải đăng kí kết hôn.
Chỉ những người khác giới tính kết hôn với nhau mới có thể cùng nhau thực hiện
được chức năng cơ bản đó.13
Tuy nhiên, trước thực trạng dư luận, báo chí, pháp luật trên thế giới quan
tâm và đề cập nhiều trong khoảng vài thập kỷ trở lại đây, tháng 6/2014, Quốc hội
đã thông qua Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, trong đó khoản 5 điều 10 của
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định cấm kết hôn “giữa những người
cùng giới tính” đã bị loại bỏ. Dù đã bãi bỏ quy định cấm kết hôn cùng giới,
nhưng Luật Hôn nhân và gia đình 2014 cũng đồng thời quy định tại Điều 8 về
“Điều kiện kết hôn” là “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người
cùng giới tính”. Việc không thừa nhận này đồng nghĩa với việc các đôi cùng giới
sẽ không thể đăng ký kết hôn, không được cấp chứng nhận kết hôn, hay việc
chung sống của họ sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, các đôi cùng
giới có thể tổ chức đám cưới hay chung sống với nhau theo quyền công dân của
mình. Nhà nước sẽ không can thiệp, không xử phạt hành chính việc này. Về việc
hỗ trợ pháp lý những cặp hôn nhân đồng giới, trong quá trình xây dựng dự thảo
13 Phạm Mạnh Hà, Sửa đổi Luật Hôn nhân và gia đình, một số vấn đề cần giải quyết, ngày
15/05/2013, />
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
17
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
đã có quy định về giải quyết quan hệ chung sống và tài sản, hay nuôi con chung,
con riêng, giải quyết những tranh chấp xảy ra, tuy nhiên đến giai đoạn tiếp thu ý
kiến, đại biểu Quốc hội đã bác bỏ, nên những quy định như thế này không có
trong luật. Mặc dù vậy, không cấm nhưng không công nhận vẫn được xem là sự
nhìn nhận bước đầu về hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước
ta, cho thấy Việt Nam đã cởi mở hơn, biết chấp nhận sự đa dạng của cuộc sống.
Tiêu chí
Giới tính
Luật hiện hành
điều chỉnh
Hậu quả pháp lí
Hôn nhân theo Luật hôn
Quyền hôn nhân của
nhân gia đình năm 2014
người đồng tính
Khác giới tính: một nam –
một nữ.
Hai người cùng giới tính.
Luật Hôn nhân và gia đình Pháp luật không thừa nhận
năm 2014 thừa nhận và bảo hôn nhân giữa những người
hộ.
cùng giới tính.
Phát sinh quan hệ pháp luật Không làm phát sinh quan
giữa vợ - chồng.
hệ pháp luật vợ - chồng.
Xây dựng gia đình, thực hiện Thỏa mãn quyền con người
Chức năng
chức năng xã hội duy trì nòi của một số đối tượng đặc
giống.
Thủ tục
Độ tuổi
biệt.
Phải đăng kí kết hôn tại cơ
quan có thẩm quyền.
Nam từ đủ 20 tuổi, nữ từ đủ
18 tuổi trở lên.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
18
Không quy định.
Không quy định.
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
Tập quán, truyền thống văn
Tính chất
hóa được pháp luật ghi nhận, Hiện tượng xã hội.
bảo hộ.
- Ly hôn, do Tòa án tuyên
theo trình tự, thủ tục chặt chẽ. - Không công nhận là hôn
Chấm dứt hôn
nhân
- Chấm dứt do một bên vợ, nhân do đó không có cơ chế
chồng chết hoặc có quyết pháp luật điều chỉnh.
định của Tòa án tuyên bố vợ, - Áp dụng theo Luật dân sự.
chồng đã chết.
Bảng 2.1. So sánh theo luật hiện hành về vấn đề hôn nhân và hôn
nhân của những người đồng tính
2
Các vấn đề pháp lý khi hôn nhân đồng giới không được thừa nhận
Cách đây vài tháng, nhiều tờ báo tại Việt Nam đã phát động phong trào
“Tôi đồng ý” để kêu gọi luật pháp chấp nhận hôn nhân đồng tính. Tuy nhiên,
phong trào này chỉ dừng lại ở kết quả “chấp nhận đám cưới đồng tính”, điều mà
hầu hết những người kêu gọi vẫn không vừa lòng14. Điều này chỉ ra rằng, kết hôn
là một nhu cầu thực tế của những người đồng tính. Việc không thừa nhận hôn
nhân đồng giới dẫn đến một số hệ lụy. Dù pháp luật không công nhận thì họ vẫn
đang sinh sống với nhau, từ đó phát sinh các quan hệ về nhân thân, tài sản hoặc
về con cái (ví dụ sinh con riêng hoặc cùng nhận con nuôi), tuy nhiên lại chưa có
cơ sở pháp lý để điều chỉnh các vấn đề này.
1
Quan hệ nhân thân
Thực tế cho thấy việc sống chung của cặp đôi đồng tính là điều đang diễn
ra phổ biến tại Việt Nam hiện nay. Trong khi các cặp đôi dị tính đã kết hôn, một
14 Bạn biết và nghĩ gì về LGBT? (Phần 1), />
biet-va-nghi-gi-ve-lgbt-phan-1-44288.html
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
19
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
trong hai người được hưởng chế độ bảo hiểm y tế của cơ quan làm việc và chế
độ bảo hiểm này cũng bao phủ cho vợ/chồng và con cái của người đó thì khá
nhiều cặp đôi đồng tính đã sống với nhau nhiều năm, có các đóng góp chi tiêu và
sở hữu tài sản chung, bộc lộ mối quan hệ sống chung của mình với gia đình hai
bên và bạn bè, nhưng mối quan hệ có bản chất hôn nhân này vẫn chưa được thừa
nhận về mặt pháp lý. Do vậy, người cùng chung sống không được hưởng chế độ
phúc lợi dành cho vợ/chồng.
Bên cạnh đó, một số chế độ phúc lợi liên quan đến các tổ chức công đoàn
của các cơ quan nhà nước dành cho vợ/chồng của các cán bộ cũng không thể áp
dụng đối với cặp đôi đồng tính (đau ốm, hiếu,…). Điều này cho thấy, thực tế
sống chung của người đồng tính là có thật nhưng chưa được pháp luật công nhận
nên vô hình chung khiến cho họ không được hưởng những phúc lợi đáng ra phải
được hưởng.
2
Quan hệ tài sản
Thực tiễn xét xử của Tòa án trong thời gian qua cho thấy, đã có một số vụ
việc tranh chấp về tài sản giữa những người đồng tính có quan hệ sống chung
nhưng chưa có cơ sở pháp lý cụ thể để giải quyết tranh chấp. Mặc dù các cặp đôi
cùng giới hoàn toàn có thể đứng tên chung khi mua một mảnh đất, một căn nhà
nhưng trong thực tế có nhiều cặp đôi tin tưởng nhau hoặc thiếu hiểu biết pháp
luật nên chỉ có một người đứng tên. Điều này đã làm cho quyền lợi của một bên
không được đảm bảo, mất tài sản do chính mình tạo ra. Cho dù hai người trong
cặp đôi đồng tính đã có sự sắp xếp tài sản trong quá trình chung sống, nhưng
người này sẽ không được quyền thừa kế tài sản của người kia nếu một trong hai
người qua đời đột ngột (trừ khi di chúc có quy định khác). Trong hoàn cảnh này,
sẽ có những tài sản chung phải bán đi để trả phần giá trị đó cho người nhà của
người đã mất. Trong cuộc sống chung, nhiều tài sản không chỉ mang ý nghĩa giá
trị vật chất mà còn có thể mang giá trị tinh thần, đặc biệt khi một người đã ra đi.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
20
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
Điều này có thể gây ra những trải nghiệm tâm lý rất nặng nề cho người ở lại. Bên
cạnh đó, không phải lúc nào mua một món đồ chung, hai người đều thực hiện thủ
tục đăng ký dân sự về sở hữu chung tài sản. Do không được thừa nhận quan hệ
hôn nhân hợp pháp, cặp đôi cùng giới không có sự ràng buộc của pháp luật một
cách chặt chẽ trong việc sử dụng và định đoạt khối tài sản chung này. Từ đó có
thể dẫn đến những rủi ro pháp lý khi một trong hai người tự ý định đoạt tài sản
chung mà chưa có sự chấp thuận của bên kia, có thể làm ảnh hưởng đến nguồn
sống của gia đình, thậm chí xâm hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của người kia.
3
Quan hệ về con cái
Pháp luật hiện hành chỉ quy định hỗ trợ sinh sản cho các cặp vợ chồng
hiếm muộn. Như vậy, nếu những người đồng tính nam muốn có con đẻ, họ phải
sử dụng đến dịch vụ đẻ thuê. Trong trường hợp này, người nam đồng tính cùng
chung sống cũng không thể nhận là bố nuôi vì pháp luật quy định khi mối quan
hệ con nuôi đã được xác định thì bố mẹ đẻ không còn quyền và nghĩa vụ với
người con này nữa (khoản 4, điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010). Như vậy,
rất khó duy trì cả quyền và nghĩa vụ của hai người đồng tính với đứa con. Tương
tự như vậy, khi một người đồng tính nữ sinh con, người đồng giới cùng chung
sống cũng không thể nhận là mẹ nuôi của đứa con và do đó không thể thực hiện
quyền giám hộ khi cần thiết.
4
Những vấn đề pháp lý khác
Hiện nay, vấn đề bảo vệ quyền của người đồng tính đang thực sự dần trở
thành một trong những mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới. Quyền
được sống, được hưởng chính sách an sinh xã hội bình đẳng như các chủ thể
khác trong xã hội và quyền được kết hôn là những quyền đặc biệt, ảnh hưởng lớn
đến chất lượng nhân quyền của những đối tượng dễ bị tổn thương này. Trong khi
cuộc sống của con người dần phát triển, nhu cầu của con người cũng không
ngừng nâng lên, thì dường như cuộc sống của những người đồng tính lại đi
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
21
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
ngược với xu thế đó. Bởi lẽ, xã hội không có cái nhìn đúng đắn về họ, có thái độ
dè bỉu, khinh miệt nên ít người trong số họ dám đối diện với sự thực, phải sống
trong vỏ bọc khác của con người mình.
Theo số liệu từ cuộc khảo sát về mối quan hệ đồng giới do Trung tâm
nghiên cứu về quyền của người đồng tính, song tính và chuyển giới cho thấy,
việc không thừa nhận kết đôi đồng giới sẽ tác động đến những người đồng tính ở
các khía cạnh: sự kỳ thị xã hội tiếp tục tiếp diễn (87%), người đồng tính có thể bị
trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình hoặc bạo lực học đường (87.8%), không
dám bộc lộ xu hướng tính dục (95.5%), nhiều người kết hôn dị tính giả (89%),
không được đảm bảo quyền yêu thương và kết đôi (94%), không được đảm bảo
sức khoẻ tinh thần (93.9%), không có được đời sống và sức khoẻ tình dục viên
mãn (92.5%).
Về các tác động đến gia đình của những người đồng tính, kết quả điều tra
cho thấy: nếu không có sự công nhận của pháp luật, gia đình của những người
đồng tính họ tiếp tục phải chịu sự kỳ thị xã hội nặng nề (74.9%), vấn đề bạo
hành gia đình sẽ còn tiếp diễn (62.4%). Với xã hội nói chung, khi không có sự
công nhận pháp luật với kết hôn cùng giới, sự kỳ thị của xã hội đối với người
đồng tính sẽ còn tiếp diễn nặng nề (71.2%), từ đó khiến người đồng tính không
tự tin tham gia đóng góp tích cực vào các hoạt động kinh tế - xã hội (78.1%),
làm gia tăng nguy cơ lây lan Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải
(HIV/AIDS15) và các bệnh lây truyền qua đường tình dục (82.1%).
Một hậu quả không nhỏ của việc không thừa nhận hôn nhân đồng giới là
đã có rất nhiều người đồng tính phải tạo vỏ bọc cho mình. Ví dụ, người đồng
tính nữ phải lập gia đình và có con, sau đó mới tìm đến hạnh phúc cho riêng
mình bằng cách ly dị chồng hoặc duy trì những mối quan hệ bên ngoài với người
15 HIV/AIDS: Viết tắt từ Acquired Immunodeficiency Syndrome hay từ Acquired Immune Deficiency
Syndrome.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
22
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
đồng giới. Trong mẫu nghiên cứu với 63 người đồng tính, tỷ lệ người nữ đồng
tính cho biết họ kết hôn với người khác giới vì nguyên nhân bị gia đình ép buộc
chiếm 27,3%, do bản thân mong muốn có một gia đình bình thường như những
người khác chiếm 43.5% và kết hôn vì muốn có gia đình để sinh con chiếm
28.6%. Tỷ lệ này ở người đồng tính nam lần lượt là 61%, 46.3% và 39%.
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
23
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
Chương 3. THỰC TRẠNG HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI TRÊN THẾ GIỚI
VÀ VIỆT NAM – NHỮNG ĐỀ XUẤT TỪNG BƯỚC TIẾN TỚI THỪA
NHẬN HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1
1
Thực trạng hôn nhân đồng giới trên thế giới và ở Việt Nam
Trên thế giới16
Từ năm 1973, các nhà tâm lý học không còn xem đồng tính luyến ái là
một bệnh tâm thần nữa. Trong vài ba thập kỉ nay, tại các nước Tây phương có sự
hình thành của một nền văn hóa của những người đồng tính. Tuy nhiên, cũng có
nhiều người đồng tính không tham gia trong xã hội đó. Trong lĩnh vực tôn giáo,
một số tôn giáo cũng bắt đầu tỏ ra cởi mở với người đồng tính. Một giáo phái Do
Thái giáo cũng bắt đầu mở dịch vụ làm lễ kết hôn cho người đồng tính, trong khi
nhóm Anh giáo đã nhận một mục sư đồng tính.
Theo báo cáo của tổ chức ILGA (International Lesbian, Gay, Bisexual,
Trans and Intersex Association) cho đến tháng 5/2010, có 32 quốc gia trên thế
giới chấp nhận đồng tính nữ nhưng không chấp nhận đồng tính nam. Cũng theo
báo cáo này, quan hệ đồng tính bị cấm tại 44 quốc gia trên thế giới, trong đó có
một số quốc gia như Iran, Mauritania, Saudi Arabia, Sudan, Yemen và một phần
của Nigeria + Somalia có thể xử phạt đến chết nếu phát hiện quan hệ đồng tính 17.
Có thể thấy, dù đã có những tiến bộ trong việc giảm kỳ thị và từng bước tôn
trọng quyền của người đồng tính nhưng những nỗ lực đó còn quá ít ỏi. Nhìn
chung, trên phạm vi toàn thế giới hiện nay, người đồng tính vẫn chưa thực sự
được bảo vệ bởi hệ thống chính sách pháp luật và thêm vào nữa một số quyền tự
do cơ bản của họ vẫn bị vi phạm. Cho đến thời điểm cuối năm 2014, trên thế giới
16 Xem thêm tại: Tường Linh, Hôn nhân đồng giới nhìn từ thế giới, ngày 03/08/2012,
/>17 Trương Hồng Quang, Pháp luật một số quốc gia trên thế giới về quyền của người đồng tính,
/>
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
24
Khoa Luật – Đại học Huế
GVHD: TS. Hoàng Thị Hải Yến
có 16 nước, 34/50 bang ở Hoa Kỳ, nhiều bang ở Mexico và nhiều vùng lãnh thổ
đã hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới và luật hóa các quyền của người đồng tính
(xem thêm tại Phụ lục).
Hà Lan là quốc gia nổi tiếng với phong trào đòi quyền bình đẳng cho
người đồng giới vào thập niên 1980. Vào giữa những năm thập niên 80 của thế
kỷ XX, một nhóm các nhà hoạt động nhân quyền của người đồng tính đã yêu cầu
Chính phủ phải cho phép người đồng tính kết hôn. Năm 1995, Quốc hội Hà Lan
quyết định thành lập một Ủy ban đặc biệt nghiên cứu khả năng của hôn nhân
đồng tính. Ủy ban này đã hoàn thành công việc vào năm 1997 và kết luận rằng
quan hệ hôn nhân dân sự nên được mở rộng18. Sau các cuộc bầu cử năm 1998,
Chính phủ hứa sẽ giải quyết vấn đề này. Vào tháng 9-2000, dự thảo luật cuối
cùng đã được đưa ra tranh luận trong Quốc hội. Dự luật được 109 phiếu ủng hộ
trong khi có 33 phiếu phản đối. Sau đó, Thượng viện thông qua dự luật vào ngày
19/12/2000. Như vậy, Hà Lan là quốc gia đầu tiên hợp pháp hóa kết hôn đồng
tính. Đạo luật công bố ngày 21/12/2000 đã sửa đổi phần 1 của Bộ luật dân sự
liên quan đến việc mở rộng quan hệ hôn nhân đối với những người cùng giới
tính (tên tiếng Anh đầy đủ là Act on the Opening up of Marriage), chính thức có
hiệu lực từ ngày 1/4/2001. Theo đạo luật nói trên, điều 30 của Bộ luật dân sự Hà
Lan được sửa đổi thành: “Một hôn nhân có thể được xây dựng bởi hai người
cùng giới hoặc khác giới tính. Pháp luật chỉ xem xét hôn nhân trong những mối
quan hệ dân sự của nó”. Luật cũng yêu cầu ít nhất một người trong cặp đôi là
công dân Hà Lan19. Cũng trong ngày 1/4/2001, 4 cặp đôi bao gồm 6 nam và 2 nữ
đã kết hôn dưới sự chứng nhận của Thị Trưởng thành phố Amsterdam. Các cặp
18 Xem: Marriage in the Netherlands, />
19 Xem: The Freedom to Marry Internationally,
/>
Đặng Thị Kiều Sa – K36G
25
Khoa Luật – Đại học Huế