Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Môi trường pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt Nam hiện nay.Thực trạng và một số kiến nghị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.45 KB, 36 trang )

Lời mở đầu
Khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một bộ phận cấu thành thống
nhất của nền kinh tế quốc dân. Sự nhận thức lại của Đảng và Nhà nớc ta về vị trí
và vai trò của khu vực này trong nền kinh tế nớc ta đã có tác dụng to lớn thúc
đẩy sự phát triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh nói riêng và nền
kinh tế nớc ta nói chung. Từ đổi mới về nhận thức và t tởng, Đảng và Nhà nớc ta
đã đa ra nhiều chính sách mới. sửa đổi và bổ xung một số chính sách cũ nhằm
tạo ra một môi trờng thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế cản trở
quá trình hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Các
doanh nghiệp vẫn gặp nhiều khó khăn do các thủ tục hành chính phức tạp, sự
đối xử bất bình đẳng trong một số chính sách nh chính sách tín dụng, chính
sách đất đai
Xuất phát từ thực tế trên đồng thời đứng trớc những thách thức của quá
trình hội nhập khu vực và thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải mạnh để có thể
đủ sức cạnh tranh và phát triển. Từ nhận thức trên, em đã mạnh dạn chọn đề
tài : Môi trờng pháp luật của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở Việt
Nam hiện nay. Thực trạng và một số kiến nghị.
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Đề tài đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa lớn về lý luận cũng nh thực tiễn
trong quá trình nền kinh tế nớc ta chuyển sang cơ chế thị trờng và mở cửa để
hội nhập với khu vực và thế giới hiện nay. Nội dung nghiên cứu của đề tài nhằm
làm sáng tỏ những vấn đề sau:
- Đặc điểm, vị trí và vai trò của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh
trong nền kinh tế nớc ta.
- Thực trạng môi trờng pháp luật và những ảnh hởng của nó tới quá trình
hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Việc lý giải những vấn đề trên tạo điều kiện tìm ra những giải pháp nhằm
hoàn thiện môi trờng pháp luật để thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh nói riêng và của cả nền kinh tế nớc ta nói chung.
2. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu.


Đề tài tập trung nghiên cứu những ảnh hởng của môi trờng pháp luật tới
quá trình chuẩn bị thành lập và hoạt động của các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh. Do trình độ và thời gian nghiên cứu có hạn nên khu vực doanh nghiệp
1
ngoài quốc doanh mà em đề cập trong đề tài này chỉ là các doanh nghiệp đang
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày 12-6-1999 và
có hiệu lực từ ngày 1-1-2000.
3. Phơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, hoàn thành đề tài em có sử dụng một số ph-
ơng pháp nh phơng pháp phân tích hệ thống, phơng pháp ngiên cứu tài liệu và
một số phơng pháp khác.
4. Kết cấu của đề án
Lời mở đầu.
Phần I: Cơ sở lý luận về pháp luật và doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Phần II: Thực trạng môi trờng pháp luật của các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh ở nớc ta hiện nay.
Phần III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện môi trờng pháp luật của
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Kết luận.
2
Phần I
Cơ sở lý luận về pháp luật và doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.

1. Lý luận chung về pháp luật
1.1. Khái niệm và bản chất của pháp luật
Trong xã hội nhà nớc pháp quyền, các quan hệ xã hội chủ yếu đợc điều
chỉnh bằng các quy phạm pháp luật. Pháp luật trở thành công cụ tối quan trọng
của nhà nớc để điều chỉnh các quan hệ xã hội và quản lý sự vận hành của nền
kinh tế-xã hội theo mục tiêu đã định.

Pháp luật là một hệ thống các quy phạm có tính bắt buộc chung, do nhà
nớc ban hành và đợc nhà nớc bảo đảm thực thi trong một thời gian dài để điều
chỉnh các quan hệ xã hội.
Cũng nh mọi nhà nớc khác, bản chất pháp luật của nhà nớc ta phù hợp
với bản chất của nhà nớc, do bản chất, đặc điểm và những nhiệm vụ của nhà nớc
trong từng thời kỳ quyết định.
Điều 2- Hiến pháp 1992 xác định:Nhà nớc cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là nhà nớc của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền
lực nhà nớc thuộc về mà nền tảng là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
công nhân và tầng lớp trí thức.
Vì lẽ đó, pháp luật của nhà nớc ta về bản chất là pháp luật xã hội chủ
nghĩa. Nó thể hiện ý chí của giai cấp công nhân, đồng thời phản ánh, thể hiện ý
chí, lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động khác và của cả dân tộc.
Nói pháp luật thể hiện ý chí và lợi ích của toàn thể nhân dân lao động
không có nghĩa là phủ nhận tính giai cấp của pháp luật nhà nớc ta. Vấn đề ở chỗ
khi pháp luật phản ánh, bảo vệ lợi ích của các giai cấp, của dân tộc phải đứng
trên quan điểm, lập trờng của Đảng. Đó là nguyên tắc hàng đầu của pháp luật
nhà nớc trong giai đoạn hiện nay.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, đơng nhiên còn tồn tại các lợi ích
khác nhau của các thành phần khác nhau. Pháp luật đơng nhiên phải bảo vệ lợi
ích và tạo điều kiện cho các thành phần đó phát triển phù hợp với định hớng
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nớc ta.
3
1.2. Vai trò của pháp luật
a. Pháp luật là công cụ thực hiện đờng lối, chính sách của Đảng.
Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định đảm bảo
thắng lợi của cách mạng nớc ta cả trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nớc
trớc đây cũng nh trong công cuộc đổi mới và thực hiện công nghiệp hoá, hiện
đại hoá ngày nay.
Đảng lãnh đạo trớc hết và chủ yếu bằng cách Đảng vạch ra đờng lối,

chính sách trên cơ sở phân tích khoa học tình hình thực tế và vận dụng sáng tạo
các nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lê Nin vào hoàn cảnh thực tế đó. Việc thực
hiện đờng lối, chính sách đó trớc hết và chủ yếu bằng nhà nớc và thông qua nhà
nớc.
Trên ý nghĩa đó, pháp luật là sự biểu hiện dới hình thức nhà nớc các đờng
lối, chính sách của Đảng thành hiện thực sinh động trong cuộc sống. Mặt khác
bằng việc thể chế hoá thành pháp luật, đờng lối chủ trơng của Đảng biến thành
quyết định quản lý mang tính quyền lực nhà nớc, trở thành các quyền và nghĩa
vụ pháp lý cụ thể của các cá nhân, tổ chức đợc thực hiện một cách trực tiếp,
chính xác, thống nhất trong cả nớc.
b. Pháp luật là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao
động.
Nhà nớc đảm bảo và không ngừng phát huy quyền làm chủ về mọi mặt
của nhân dân (Điều 2- Hiến pháp 1992).
Pháp luật quy định cụ thể, bảo đảm đầy đủ thực hiện nguyên tắc: Mọi
quyền lực trong nớc đều thuộc về nhân dân. Nhân dân phải là ngời thực sự xây
dựng nên nhà nớc của mình, tham gia vào các công việc nhà nớc, kiểm tra sự
hoạt động của các cơ quan nhà nớc. Pháp luật cũng phải quy định rõ nghĩa vụ
trung thành và phục vụ nhân dân một cách tận tuỵ của các cơ quan nhà nớc và
viên chức nhà nớc trong việc thực hành công vụ. Mặt khác mỗi công dân khi
thực hiện quyền làm chủ, thực hiện các quyền tự do, dân chủ của mình không đ-
ợc làm tổn hại đến lợi ích chung của xã hội, lợi ích và các quyền tự do, dân chủ
của công dân khác.
c. Pháp luật là công cụ quản lý của Nhà nớc.
Ngày nay, pháp luật không chỉ là công cụ quan trọng để cải tạo các quan
hệ xã hội cũ, tổ chức xây dựng và điều hành mọi lĩnh vực và mở đờng cho các
quan mới xã hội mới phát triển phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan mà
4
nó còn là công cụ hớng dẫn, khuyến khích, thúc đẩy, điều chỉnh sự phát triển
của xã hội, đặc biệt trong sự phát triển của nền kinh tế đất nớc.

Nói cách khác pháp luật còn tạo môi trờng cho các quan hệ kinh tế mới
phát triển. Trên ý nghĩa đó, pháp luật của nhà nớc ta hiện nay có ý nghĩa vô
cùng quan trọng trong việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
theo cơ chế thị trờng có sự quản lý của nhà nớc, theo định hớng xã hội chủ
nghĩa. Để đáp ứng yêu cầu đó, pháp luật phải tạo nên một môi trờng pháp lý an
toàn, thuận lợi và bình đẳng cho các doanh nghiệp tồn tại và phát triển, nâng
cao sức cạnh tranh của mình cũng nh của nền kinh tế. Mặt khác, pháp luật cũng
tạo điều kiện cho nhà nớc có thể thực hiện đợc vai trò ngời điều hành nền kinh
tế thị trờng, hớng nó phát triển theo các mục tiêu đã định, khắc phục và hạn chế
những mặt trái vốn có của nền kinh tế thị trờng. Pháp luật cũng phải là công cụ
để nhà nớc kiểm soát các hoạt động kinh doanh, trừng trị các hành vi làm ăn phi
pháp, thực hiện sự công bằng trong sản xuất và phân phối. Một vai trò quan
trọng khác của pháp luật trong quản lý nhà nớc là nó xác lập, củng cố và hoàn
thiện những cơ sở pháp lý của quản lý nhà nớc, đặc biệt là quản lý nhà nớc về
kinh tế.
Trên ý nghĩa đó, pháp luật hiện nay của nhà nớc phải là cơ sở pháp lý để
hoàn thiện bộ máy nhà nớc phù hợp với cơ chế quản lý mới, từ hoạt động lập
pháp đến hoạt động hành pháp và t pháp.
2. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh và vị trí của nó trong nền kinh tế nớc
ta.
2.1 Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, mỗi đơn vị kinh doanh là một tổ
chức của những ngời sản xuất hàng hoá thuộc các thành phần kinh tế khác
nhau. Họ đầu t vốn, thuê mớn và sử dụng lao động để sản xuất một loại hàng
hoá hay thực hiện một loại dịch vụ nhất định qua đó tìm kiếm lợi nhuận.Trong
nền kinh tế thị trờng, tổ chức kinh tế thực hiện các hoạt động sản xuất và trao
đổi hàng hoá chủ yếu là các doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh bao gồm hoạt
động kinh doanh t nhân và hoạt động kinh doanh của Nhà nớc. Việc phân biệt
hoạt động kinh doanh t nhân với hoạt động kinh doanh của Nhà nớc căn cứ vào
việc ai là ngời tổ chức và chỉ đạo các hoạt động này.

5
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là tổ chức kinh tế do cá nhân, tổ chức
đầu t vốn, thành lập và tổ chức quản lý theo qui định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh.
ở hầu hết các nớc trên thế giới hiện nay, các hình thức sở hữu thờng đan
xen nhau. Có nhiều doanh nghiệp trong đó vừa có yếu tố t nhân vừa có sự tham
gia của Nhà nớc.
ở Việt Nam trớc đây, t liệu sản xuất của một cơ sở sản xuất kinh doanh
nào đó chỉ thuộc về một hình thức sở hữu duy nhất, sở hữu Nhà nớc. Hội nghị
trung ơng VI - Đại hội lần thứ 6 của Đảng cộng sản Việt Nam đã xem xét lại
các quan điểm cũ và khẳng định lại rằng: trong hoạt động sản xuất-kinh doanh
các hình thức sở hữu về t liệu sản xuất không ngăn cách nhau mà có nhiều loại
hình hỗn hợp, đan kết với nhau. Các doanh nghiệp quốc doanh có thể huy động
vốn cổ phần của các cá nhân và tổ chức khác. Còn các cơ sở sản xuất-kinh
doanh t nhân cũng có thể liên kết với các doanh nghiệp quốc doanh nhằm mở
rộng sản xuất. Do đó, khu vực doanh nghiệp ngoai quôc doanh không chỉ bao
gồm các cơ sở sản xuất-kinh doanh hoàn toàn thuộc sở hữu t nhân mà bao gồm
cả các cơ sở sản xuất-kinh doanh có phần vốn góp của Nhà nớc nhng hoạt động
của chúng lại do một hay một nhóm t nhân tơ chức và chỉ đạo.
2.2 Các hình thức của doanh nghiệp ngoài quốc doanh
Theo quan điểm của các nhà kinh tế học phơng tây thì chỉ có hai hình
thức sở hữu trong hoạt động kinh doanh, đó là sở hữu công cộng và sở hữu t
nhân. Sở hữu t nhân đợc biểu diễn dới nhiều hình thức, trong đó ba hình thức sở
hữu t nhân chung nhất là: sở hữu một chủ, sở hữu nhóm hay đồng sở hữu, sở
hữu công ty.
- Sở hữu một chủ là hình thức sở hữu phổ biến và lâu đời nhất. Doanh
nghiệp sở hữu một chủ là doanh nghiệp do một cá nhân nắm quyền sở hữu.
- Sở hữu nhóm là một nhóm gồm hai hay nhiều ngời với vai trò là các
thành viên đồng sở hữu cùng hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
- Sở hữu công ty là một thực thể nhân tạo, không nhìn thấy đợc và chỉ tồn

tại trên giấy tờ pháp lý. Công ty là một pháp nhân và tách biệt hẳn với các chủ
sở hữu của nó.
Từ ba hình thức cơ sở hữu t nhân trên mà tơng ứng có các doanh nghiệp
sở hữu một chủ, doanh nghiệp sở hữu nhóm và doanh nghiệp thuộc hình thức sở
hữu công ty.
6
ở Việt Nam, phần đông các nhà kinh tế cho rằng có ba hình sở hữu trong
hoạt động kinh doanh là: sở hữu công cộng, sở hữu tập thể và sở hữu t nhân.
Trên cơ sở sở hữu t nhân và sở hữu tập thể, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc
doanh ở nớc ta bao gồm:
a. Doanh nghiệp t nhân
Doanh nghiệp t nhân là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu
trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Đây là một hình thức sở hữu tơng ứng với hình thức sở hữu một
chủ ở các nớc trên thế giới. Doanh nghiệp t nhân không có t cách pháp nhân và
chịu chế độ trách nhiệm vô hạn trong hoạt động kinh doanh.
b. Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên là công ty do một
tổ chức làm chủ sở hữu, chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa
vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty.
Theo Điều 14 Nghị định 03/2000/NĐ-CP thì chủ sở hữu công ty phải là
một pháp nhân và có thể là: cơ quan Nhà nớc, đơn vị vũ trang, các pháp nhân
của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, các loại
doanh nghiệp và các tổ chức khác theo qui định của pháp luật.
Nh vậy theo pháp luật, công ty TNHH một thành viên có thể là một
doanh nghiệp quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó là cơ quan Nhà nớc hay là một
doanh nghiệp ngoài quốc doanh nếu chủ sở hữu của nó không phải là các cơ
quan Nhà nớc. Công ty TNHH hạn một thành viên là loại hình doanh nghiệp có
t cách pháp nhân nhng không có quyền phát hành cổ phiếu.
c. Công ty trách nhiệm hữu hạn có từ hai thành viên trở lên

Công ty TNHH có từ hai thành viên trở lên là công ty đợc thành lập theo
sự góp vốn của nhiều thành viên. Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ
chức và tối đa là năm mơi, tối thiểu là hai. Công ty có t cách pháp nhân nhng
không có quyền phát hành cổ phiếu. Đây là loại hình công ty mà các doanh
nhân nớc ta a thích và hay thành lập.
d. Công ty cổ phần
Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có những đặc điểm sau:
Vốn điều lệ của công ty đợc chia thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Thành viên công ty có thể là cá nhân hay tổ chức đợc gọi là cổ đông. Số
lợng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lợng tối đa.
7
Công ty có t cách pháp nhân và có quyền phát hành các loại chứng
khoán.
e. Công ty hợp danh
Công ty hợp danh là loại hình doanh nghiệp có đặc điểm:
- Công ty phải có ít nhất hai thành viên hợp danh, ngoài thành viên hợp
danh công ty có thể có thnàh viên góp vốn. Thành viên hợp danh phải là cá
nhân có trình độ chuyên môn, có uy tín nghề nghiệp. Còn thành viên góp vốn
có thể là cá nhân hay tổ chức.
- Công ty không có t cách pháp nhân và không có quyền phát hành hay
kinh doanh chứng khoán.
f. Hợp tác xã
Hợp tác xã là tổ chức kinh tế tự chủ do những ngời lao động có nhu cầu,
có lợi ích chung tự nguyện cùng góp vốn, góp sức lập ra theo qui định của pháp
luật để phát huy sức mạnh của tập thể và của từng xã viên nhằm giúp nhau thực
hiện có hiệu quả hơn các hoạt động sản xuất. Hợp tác xã thuộc loại hình sở hữu
tập thể.
Hình 1. Các loại hình doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nớc ta hiện nay.
2.3 Vị trí và vai trò của doanh nghiệp ngoài quốc doanh trong nền kinh tế
nớc ta.

Trong nền kinh tế của các nớc trên thế giới, vị trí và vai trò của doanh
nghiệp ngoài quốc doanh luôn thay đổi qua các giai đoạn lịch sử cùng với sự
8
Doanh
nghiệp
t nhân
Công
ty
TNHH
Công
ty
cổ
phần
Công
ty
hợp
doanh
Hợp
tác xã
Hệ thống
doanh nghiệp ngoài quốc doanh
tăng giảm vai trò của chính phủ đối với hoạt động kinh doanh. Qua nhiều năm,
ngời ta đã chứng minh những u thế của hoạt động kinh doanh t nhân so với hoạt
động kinh doanh của khu vực Nhà nớc và nhiều nớc đã thực hiện quá trình t
nhân hoá. Hiện nay ở hầu hết các nớc trên thế giới, khu vực kinh tế t nhân
chiếm tỷ trọng lớn về tổng sản phẩm quốc nội(GDP), về vốn đầu t và ngày càng
trở thành bộ phận có vị trí lớn và quan trọng đối với nền kinh tế mỗi nớc.
a. Vị trí của doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nớc ta hiện nay.
Qua phần trên, ta thấy rằng doanh nghiệp ngoài quốc doanh là một bộ
phận cấu thành không thể thiếu đợc trong nền kinh tế ở hầu hết các nớc trên thế

giới. Sự phát triển của các hình thức tổ chức kinh tế: kinh tế Nhà nớc, kinh tế t
nhân trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau là một tất yếu khách quan.
Tuy nhiên, ở nớc ta trớc đây lại không công nhận sự tồn tại của khu vực
kinh tế t nhân làm cho khu vực này phải hoạt động chui hoặc đội lốt kinh tế tập
thể. Việc coi kinh tế t nhân là thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa và muốn
tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội chỉ cần cải tạo nhanh thành phần kinh tế đó đã
dẫn đến tình trạng gần nh xoá sổ khu vực kinh tế t nhân, phát triển ồ ạt các xí
nghiệp quốc doanh dẫn đến nền kinh tế đình trệ, kém phát triển và đời sống
nhân dân gặp vô cùng khó khăn. Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) là một bớc
ngoặt lịch sử trong quá trình phát triển kinh tế ở nớc ta. Đại hội đã xác định việc
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, giải phóng mọi lực lợng sản xuất, cải
tiến cơ chế quản lý kinh tế là một chiến lợc phát triển kinh tế lâu dài. Đến Đại
hội Đảng lần thứ VII (1991) đờng lối đổi mới kinh tế của Đảng đợc khẳng định
lại một lần nữa Chúng ta chủ trơng thực hiện nhất quán chính sách kinh tế
nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1992 cũng đã
ghi nhận sự tồn tại của sở hữu t nhân (điều 15) và khuyến khích các thành phần
kinh tế ngoài Nhà nớc phát triển (điều 21).
Nh vậy, việc phát triển khu vực kinh tế t nhân trong đó có doanh nghiệp
ngoai quốc doanh là một tất yếu và có vị trí quan trọng trong việc thực hiện
nhiệm vụ chiến lợc là giải phóng mọi lực lợng sản xuất nhằm phát triển sản
xuất-kinh doanh đảm bảo dân giàu, nớc mạnh nghĩa là huy động mọi nguồn
9
vốn, lao động và tài năng của ngời dân vào hoạt động sản xuất-kinh doanh, tạo
công ăn việc làm cho ngời dân, nâng cao thu nhập cho ngời lao động và cho
ngân sách Nhà nớc.
b. Vai trò của doanh ngiệp ngoài quốc doanh ở nớc ta hiện nay.
Từ khi nền kinh tế nớc ta chuyển đổi sang cơ chế mới, khu vực doanh
ngiệp ngoài quốc doanh đợc chấp nhận chính thức về mặt pháp lý thì khu vực
này đã từng bớc hình thành, phát triển và hoạt động trên nhiều lĩnh vực của nền
kinh tế nh công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp và dịch vụ với mức độ khác

nhau và dần có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế.
Nếu nh năm 1991 chỉ có 123 doanh ngiệp đăng ký kinh doanh theo luật
thì năm 1993 là 12.131 doanh ngiệp và đến nay là trên 60.000 doanh nghiệp.
Nộp ngân sách của khu vực này từ 51 tỷ đồng năm 1991 nâng lên 1.051 tỷ đồng
vào cuối năm 1994. Số lao động bình quân trong các doanh ngiệp là 25 ngời vào
thời điểm giữa năm 1998, trong đó có một số ít doanh ngiệp có số lao động lên
tới 2.000, 5.000 thậm chí là 10.000 ngời. Vào năm 1999, mặc dù nền kinh tế có
nhiều khó khăn do ảnh hởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực và thế
giới thì khu vực này vẫn tạo ra hơn 7% GDP của cả nớc và cho đến nay con số
này là khoảng 9%. Qua số liệu trên có thể thấy vai trò tích cực của các doanh
ngiệp ngoài quốc doanh đó là:
Thu hút và giải quyết việc làm cho lực lợng lớn lao động, giảm bớt sự
căng thẳng dôi thừa lao động trong xã hội, góp phần tạo sự ổn định tình hình xã
hội.
Thu hút một phần vốn lớn trong dân c vào hoạt động sản xuất-kinh doanh
qua đó phát huy đợc nguồn nội lực của đất nớc.
Sản xuất một khối lợng sản phẩm và dịch vụ nhằm đáp ứng một phần nhu
cầu về hàng tiêu dùng của các tầng lớp dân c, mặt khác đóng góp cho Nhà nớc
một khoản ngân sách không nhỏ góp phần tăng ngân sách Nhà nớc.
Trong nền kinh tế thị trờng, các DNNQD phải bằng mọi cách hiện đại
hoá kỹ thuật, công nghệ để cạnh tranh với các doanh ngiệp trong nớc, đồng
thời cạnh tranh với các nớc trong khu vực và trên thế giới về mặt hàng, mẫu mã,
10
giá cả nghĩa là nâng cao chất lợng hàng hoá sản xuất ra. Đó chính là sự góp
phần vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nớc.
11
Phần II
Thực trạng môi trờng pháp luật của các doanh
nghiệp ngoai quốc doanh ở nớc ta hiện nay.
Các doanh nghiệp ngoai quốc doanh cũng giống nh tất cả các doanh

nghiệp khác đều nằm trong một môi trờng vĩ mô nhất định và chịu sự tác động
của các yếu tố thuộc môi trờng này. Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp ngoai
quốc doanh với môi trờng vĩ mô có thể đợc thể hiện theo sơ đồ sau:
Hình 2. Sơ đồ mối quan hệ giữa DNNQD với môi trờng vĩ mô
Môi trờng pháp luật là một trong những yếu tố thuộc môi trờng vĩ mô, nó
là điều kiện tiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của các loại hình doanh
nghiệp. Một môi trờng pháp luật ổn định, thuận lợi và bình đẳng sẽ đảm bảo
cho các doanh nghiệp yên tâm đầu t vào sản xuất-kinh doanh.
12
Môi trường Môi trường
pháp luật VH-XH
Môi trường Môi trư
ờng
KH-CN kinh tế
Khách hàng
Nhà
phân phối
Nhà cung Đối
thủ
cấp cạnh tranh
Doanh
nghiệp ngoài
quốc doanh
1. Quá trình đăng ký kinh doanh và các thủ tục hành chính trớc khi đi vào
hoạt động của doanh nghiệp.
Trong nhiều năm qua, nhiều văn bản pháp luật nói chung và pháp luật về
kinh tế nói riêng đã đợc ban hành nhằm thể chế hoá đờng lối đổi mới kinh tế
của Đảng, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho sự phát triển của các loại hình doanh
nghiệp, đặc biệt là khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Năm 1990, Luật Công ty và Luật doanh nghiệp t nhân đợc ban hành. Các

luật này đã củng cố tính an toàn về mặt pháp lý của các doanh nghiệp và các tổ
chức mà chúng có quan hệ kinh doanh nhờ vậy đã tác động tích cực tới sự phát
triển của khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Theo thống kê, đến năm
1998 đã có gần 40.000 doanh nghiệp đợc thành lập với tổng số vốn đăng ký
kinh doanh lên tới 21.000 tỷ đồng. Tuy nhiên các thủ tục để thành lập doanh
nghiệp theo 2 luật này là rất phức tạp. Để có thể thành lập thì các doanh nghiệp
phải có:
- Đơn Đăng ký kinh doanh
- Điều lệ công ty
- Danh sách thành viên(công ty TNHH), danh sách cổ đông(công ty cổ
phần).
Ngoài ra các doanh nghiệp còn phải có xác nhận về vốn của ngân hàng,
hợp đồng thuê văn phòng, vốn pháp định tối thiểu là những giấy tờ mà doanh
nghiệp thờng khó đáp ứng vào lúc thành lập. Vì vậy mà luật đã làm giảm đi tính
linh hoạt, nhiệt tình của các nhà đầu t, cha tạo điều kiện phát huy tối đa các
nguồn nội lực cho phát triển kinh tế của đất nớc.
Để khắc phục những hạn chế của hai luật kể trên thì Luật Doanh nghiệp
đã ra đời. Đợc Quốc hội thông qua ngày 12-6-1999 và có hiệu lực từ ngày 1-1-
2000, luật mới đã đánh dấu một bớc tiến dài về chất từ chỗ quy định ngời kinh
đoanh phải xin phép chuyển sang một cách tiếp cận mới cho phép mọi ngời đợc
làm những gì mà pháp luật không cấm. Luật đã quy định rõ ràng, cụ thể một số
thủ tục liên quan đến quá trình thành lập và đăng ký kinh doanh, bãi bỏ một số
đòi hỏi mà doanh nghiệp thờng khó đáp ứng vào lúc thành lập, đồng thời đặt ra
một số đòi hỏi đối với các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến việc đăng ký
13
kinh doanh. Nhờ vậy thủ tục thành lập doanh nghiệp đã trở nên thuận tiện và
đơn giản hơn rất nhiều.
Sau hơn 2 năm thi hành Luật Doanh nghiệp (tính đến 1-5-2002) đã có
42576 doanh nghiệp mới đăng ký thành lập với số vốn mới đăng ký xấp xỉ
50.000 tỷ đồng, đồng thời tạo ra khoảng 700.000 chỗ làm việc mới. Các doanh

nghiệp cũng tăng thêm đầu t, mở rộng thêm qui mô và địa bàn kinh doanh dới
nhiều hình thức nh mở thêm chi nhánh, văn phòng đại diện, bổ xung thêm vốn
đầu t...(cả nớc đã có khoảng 9200 chi nhánh và 900 văn phòng đại diện đăng ký
thành lập). Bên cạnh sự gia tăng nhanh chóng về số lợng doanh nghiệp thì các
ngành nghề kinh doanh đợc đăng ký cũng đa dạng và phong phú hơn cũ rất
nhiều. Đa số doanh nghiệp đã nhận thức đợc sự thay đổi về quyền kinh doanh
và nhanh chóng phát huy sáng kiến, tận dụng các cơ hội kinh doanh trên
nguyên tắc đợc kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật không cấm.
Cái đợc lớn nhất của Luật doanh nghiệp là đã tạo bớc đột phá trong việc
cải cách thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nớc đối với doanh nghiệp ở nớc
ta. Trong 2 năm qua, các cơ quan Nhà nớc đã bãi bỏ 175 loại giấy phép khác
nhau (tức khoảng 44% tổng số giấy phép kinh doanh đã tồn tại trong nền kinh
tế), thể hiện sự thay đổi căn bản về t duy và phơng thức quản lý nhà nớc theo h-
ớng chuyển từ tiền kiểm sang hậu kiểm, tách bạch rõ quyền SX-KD của doanh
nghiệp với hoạt động quản lý của Nhà nớc.
Tuy nhiên theo các doanh nghiệp, vẫn còn nhiều trở ngại trong quá trình
thành lập doanh nghiệp cần phải giải quyết. Đó là:
- Hiện vẫn còn thiếu các thông tin cần thiết vầ hớng dẫn rõ ràng về thủ
tục đăng ký kinh doanh. Thêm vào đó, vẫn cha có một văn bản chi tiết hoá
những nghành nghề và lĩnh vực đòi hỏi vốn pháp định. Nhiều doanh nghiệp gặp
khó khăn trong việc tìm kiếm những văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động
kinh doanh phải có giấy phép kinh doanh chuyên ngành, một số khác thì phải
mất thêm thời gian đến sở kế hoạch và đầu t để tra cứu tên doanh nghiệp đã
thành lập trớc đó nhằm tránh sự trùng lặp.
- Các doanh nghiệp cho biết vẫn còn ít nhất hai vấn đề cần đợc bổ xung
trong các qui định đăng ký kinh doanh hiện hành là: không có hớng dẫn đăng
ký kinh doanh cho một số doanh nghiệp thành lập từ hộ kinh doanh hay doanh
14

×