1
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đã hội nhập kinh tế thế giới, trên con đường hội nhập đó
ngành ngân hàng cũng đang trở mình để thích ứng với xu thế của thời đại.
Nghiên cứu về ngân hàng và hoạt động ngân hàng là rất cần thiết. Đa dạng
hóa và mở rộng thị trường là điều kiện cần thiết để hạn chế rủi ro và cung
cấp cho khách hàng một hình ảnh ngân hàng toàn diện, vì vậy trước những
yêu cầu mới của cạnh tranh và hội nhập kinh tế, ngành ngân hàng phải
không ngừng phát triển và tìm kiếm những hướng đi mới phù hợp để vừa có
thể đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng vừa đứng vững trong
cơ chế thị trường. Mở rộng cho vay tiêu dùng là một điều khá đúng đắn tại
thời điểm hiện nay. Với những nước phát triển thì việc tài trợ cho vay tiêu
dùng là phát triển khá cao, nhưng với thị trường cho vay tiêu dùng ở Việt
Nam thì vẫn còn khá nhỏ lẻ, quy mô chưa thực sự lớn. Lý do giải thích điều
này là vì người dân Việt Nam vẫn chưa có thói quen tiếp xúc nhiều với ngân
hàng và sử dụng hết các dịch vụ mà ngân hàng cung cấp. Và ngân hàng hiện
nay chưa thực sự quan tâm một cách đúng mức tới hoạt động cho vay tiêu
dùng.
Với thời gian thực tập không dài tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội, em thấy rằng hoạt động cho vay tiêu
dùng ở chi nhánh vẫn còn chưa thực sự đủ mạnh so với năng lực của chính
bản thân ngân hàng. Việc thực hiện và mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng
có ý nghĩa to lớn đối với sự phát triển lâu dài của chi nhánh. Vì vậy em thực
hiện đề tài “Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng tại
NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội ” làm chuyên đề tốt nghiệp. Hy vọng
chuyên đề sẽ đóng góp phần nào đó vào việc mở rộng cho vay tiêu dùng tại
chi nhánh
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
1
2
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
Em xin bày tỏ lòng biết ơn tới giáo viên hướng dẫn TS.Cao Ý Nhi và
các cán bộ tín dụng ở NHNo&PTNT chi nhánh Nam Hà Nội đã đóng góp
những ý kiến quý báu giúp em hoàn thành chuyên đề này.
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
2
3
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
Chuyên đề gồm 3 chương:
- Chương 1: Lý luận chung về cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại
- Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng nông
nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội
- Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn chi nhánh Nam Hà Nội
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
3
4
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHO VAY TIÊU DÙNG
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1 Ngân hàng thương mại và các hoạt động chính của ngân hàng
thương mại
1.1.1 Khái niệm ngân hàng thương mại
1.1.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng thương mại
Hoạt động kinh doanh đầu tiên của các ngân hàng thời xưa là nghiệp
vụ đổi tiền hoặc đúc tiền nhằm đáp ứng nhu cầu thanh toán của người dân
thời bấy giờ, đồng thời gắn liền với thương mại quốc tế và dịch vụ. Những
người làm nghề đổi tiền còn thực hiện thêm nhiệm vụ giữ hộ tiền để phục vụ
những khách hàng có nhu cầu an toàn, bí mật và đa năng trong sử dụng.
Việc giữ tiền hộ của nhiều người dẫn đến khả năng thanh toán hộ và thanh
toán không dùng tiền mặt do đó xuất hiện nghề thanh toán hộ. Điều này
cũng tạo khả năng cho những người giữ hộ tiền sử dụng một phần tiền gửi
của người khác để cho vay. Từ những nghiệp sơ khai đầu tiên ngành ngân
hàng đã phát triển thành rất nhiều các nghiệp vụ khác nhau, phục vụ nhiều
nhu cầu của khách hàng.
1.1.1.2 Khái niệm ngân hàng thương mại
Ngân hàng thương mại là một trong các tổ chức tài chính quan trọng
nhất nền kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế, hiện nay có rất
nhiều các tổ chức tài chính khác nhau cung cấp các dịch vụ ngân hàng như
dịch vụ cho vay, uỷ thác đầu tư, nhận tiền gửi... và ngân hàng thương mại
cũng đang mở rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ của mình. Do đó rất
dễ có sự nhầm lẫn giữa loại hình ngân hàng thương mại và các tổ chức trung
gian tài chính khác nhau.
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
4
5
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
Giáo trình ngân hàng thương mại định nghĩa về ngân hàng thương mại
như sau: "Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp một danh
mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch
vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”.
Có điều khác biệt giữa ngân hàng thương mại và các trung gian tài
chính đó là ngân hàng thương mại là tổ chức kinh tế duy nhất được phép mở
tài khoản tiền gửi thanh toán và làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế
quốc dân.
1.1.2 Các hoạt động chủ yếu của ngân hàng thương mại
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Bất cứ một tổ chức nào khi hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần sử
dụng tới vốn. Và ngân hàng cũng không nằm ngoại lệ, giống như bất kỳ một
doanh nghiệp,tổ chức nào trong nền kinh tế quốc dân, để duy trì hoạt động
ngân hàng cũng cần đến vốn. Nguồn vốn của ngân hàng gồm có vốn tiền
gửi, vốn tiền vay, vốn chủ sở hữu và vốn uỷ thác đầu tư. Để có được nguồn
vốn này ngân hàng nhận tiền gửi, phát hành các giấy nợ hoặc cổ phiếu với
cam kết sẽ hoàn trả khách hàng đúng hạn kèm theo một khoản tiền gọi là
tiền lãi. Nếu càng nhiều vốn thì càng tạo điều kiện cho ngân hàng mở rộng
kinh doanh do đó các ngân hàng luôn tìm kiếm các nguồn vốn với chi phí
thấp và ổn định, đa dạng hoá các hình thức và lãi suất tiền gửi, giấy nợ nhằm
thu hút được nhiều vốn nhất trong giới hạn có thể của nền kinh tế.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Là hoạt động mà ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để đầu
tư hoặc cấp tín dụng (cho vay, cho thuê ...). Với hoạt động tín dụng thì nó
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản của ngân hàng và là hoạt động mang lại
nhiều lợi nhuận nhất cho ngân hàng. Ngoài các hoạt động tín dụng ra ngân
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
5
6
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
hàng cũng mở rộng hơn nữa danh mục tài sản bằng nhiều cách khác nhau
như đầu tư vào các giấy tờ có giá đó là trái phiếu chính phủ, trái phiếu công
ty... Các hoạt động đầu tư và tín dụng mang lại phần lớn lợi nhuận cho ngân
hàng nhưng lại chứa đựng nhiều rủi ro nên các ngân hàng thường rất cẩn
trọng khi thực hiện các hoạt động mang tính chất như vậy.
1.1.2.3 Hoạt động kinh doanh ngoại tệ
Đây là hoạt động ngân hàng đứng ra mua hoặc bán một loại tiền này
lấy một loại tiền khác và thu được lợi nhuận nhờ chênh lệch tỷ giá và thu phí
dịch vụ này. Ngày nay hoạt động này đã mở rộng ra với rất nhiều các hình
thức và nghiệp vụ phong phú: mua bán, trao đổi, gửi vay các loại ngoại tệ
với các nghiệp vụ như hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng giao ngay, hoán đổi, hợp
đồng quyền chọn và hợp đồng tương lai. Các NHTM tham gia giao dịch
ngoại hối với hai mục đích . Thứ nhất, ngân hàng cung cấp dịch vụ cho
khách hàng, chủ yếu là mua hộ và bán hộ cho nhóm khách hàng riêng lẻ, và
ngân hàng thu một khoản phí . Mục đích thứ hai là ngân hàng kinh doanh
ngoại hối nhằm kiếm lời khi tỷ giá có những biến động.
1.1.2.4 Các hoạt động khác
Ngày nay các hoạt động của ngân hàng không ngừng được mở rộng
và phát triển đúng như nhận xét của Peter Rose “ thực hiện nhiều chức năng
tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế ”.
Một số hoạt động của ngân hàng ngày nay có thể nhắc tới ở đây như
là cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân
quỹ, hoạt động bảo quản vật có giá, tài trợ các hoạt động của chính phủ, cho
thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, cung cấp
dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, bảo hiểm, dịch vụ đại lý... Các hoạt
động này mang lại nguồn thu nhập cho ngân hàng thông qua việc thu phí và
chứa đựng ít rủi ro. Do vậy các ngân hàng hiện đại ngày nay đang ra sức mở
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
6
7
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
rộng hoạt động dịch vụ nhằm tăng nguồn thu và giảm rủi ro tới mức thấp
nhất có thể.
1.2 Cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
1.2.1 Khái niệm cho vay tiêu dùng
Tín dụng là loại tài sản chiếm tỷ trọng lớn nhất ở phần lớn các ngân
hàng thương mại, phản ánh hoạt động đặc trưng của ngân hàng. Tín dụng
ngân hàng được hiểu là quan hệ kinh tế trong đó ngân hàng chuyển cho chủ
thể khác trong nền kinh tế quyền sử dụng một lượng giá trị ( tiền hoặc tài
sản) với những điều kiện nhất định được thoả thuận trong hợp đồng.
Căn cứ theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành cho vay, cho
thuê, bảo lãnh, chiết khấu. Đây là cách phân loại phổ biến ở các ngân hàng
thương mại. Trong hoạt động tín dụng thì cho vay chiếm tỷ trọng lớn nhất và
cũng là tài sản mang lại thu nhập lớn nhất. Tuy nhiên hoạt động này luôn
gắn liền với nhiều rủi ro. Do đó cần thiết phải phân loại cho vay để có thể
quản lý tốt và hạn chế rủi ro tới mức thấp nhất có thể.
Có thể phân loại theo thời gian, thì cho vay gồm có cho vay ngắn hạn,
cho vay trung hạn và cho vay dài hạn.
Có thể phân loại theo đảm bảo, thì cho vay gồm có cho vay có đảm
bảo và cho vay không đảm bảo.
Có thể phân loại theo mục đích sử dụng tiền vay, thì cho vay gồm có
cho vay sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng. Bởi vì đối tượng nghiên
cứu của đề tài này là hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
nên chúng ta sẽ chỉ xem xét về hoạt động cho vay tiêu dùng thôi.
Vậy thì cho vay tiêu dùng tại ngân hàng là như thế nào? Cho vay tiêu
dùng của ngân hàng thương mại đó là một hình thức tài trợ của ngân hàng
cho chính sự tiêu dùng của cá nhân và hộ gia đình. Đó là quan hệ kinh tế
trong đó ngân hàng chuyển cho các cá nhân hoặc hộ gia đình quyền sử dụng
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
7
8
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
một khoản tiền với những điều kiện nhất định được thoả thuận trong hợp
đồng nhằm phục vụ mục đích tiêu dùng của khách hàng. Các mục đích tiêu
dùng có thể là: mua nhà, xây sửa nhà, mua xe hơi, các dụng cụ trong gia
đình, đồ gỗ, các dịch vụ chăm sóc y tế, chi phí cho các kỳ nghỉ hè, chi phí
cho việc đi du học …
1.2.2 Những đặc điểm cho vay tiêu dùng của ngân hàng thương mại
Đẻ làm nổi bật đặc điểm của cho vay tiêu dùng, ta so sách nó với cho vay
kinh doanh.
Về mục đích vay: thì cho vay tiêu dùng chỉ tài trợ cho nhu cầu tiêu
dùng cá nhân chứ không phải tài trợ cho nhu cầu kinh doanh, sản xuất.
Về đối tượng vay: các cá nhân và hộ gia đình là khách hàng của loại
hình cho vay tiêu dùng trong khi đó cho vay kinh doanh lại là các doanh
nghiệp, tổ chức, cá nhân, hộ gia đình.
Về nguồn trả nợ: nguồn trả nợ của cho vay tiêu dùng là các tài sản thế
chấp hay các khoản thu nhập có được khác như: lương, thưởng, bán cổ
phiếu, bán nhà, bán quyến sử dụng đất... còn đối với cho vay kinh doanh thì
nguồn trả nợ là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh
Về rủi ro: với phương thức cho vay tiêu dùng thì nó chứa đựng nhiều
rủi ro nhất trong danh mục các tài sản của ngân hàng. Sở dĩ như vậy là vì
nguồn trả nợ là thu nhập thường xuyên của người vay. Mà những khoản thu
nhập này lại phụ thuộc vào sức khỏe và công việc của người vay. Do đó khi
bị mất việc hoặc ốm đau, tai nạn... người vay khó có thể trả được nợ. Hơn
nữa việc thẩm định khả năng trả nợ của cá nhân và hộ gia đình cũng khó
khăn khăn hơn. Bởi đối với các hãng kinh doanh, ngân hàng có thể thẩm
định khả năng trả nợ thông qua các báo cáo tài chính đã được kiểm toán độc
lập, còn đối với người tiêu dùng thì ngân hàng chỉ có thể dựa vào tài sản cá
nhân, lương và các khoản thu nhập khác. Để có được khoản vay, khách hàng
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
8
9
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
có thể giấu các thông tin về tình hình sức khoẻ và công việc trong tương lai
của mình nên các ngân hàng rất khó xác định được rủi ro khi cho vay tiêu
dùng.
Việc cho vay tiêu dùng phụ thuộc nhiều vào sự tăng trưởng ổn định về
thu nhập và đảm bảo việc làm bởi nó cho phép người tiêu dùng mua được
hàng hoá và dịch vụ ngày hôm nay dựa trên thu nhập của ngày mai. Vì vậy
khi nền kinh tế có xu hướng mở rộng thì nhu cầu vay tiêu dùng tăng cao và
ngược lại khi nền kinh tế suy thoái nhu cầu vay tiêu dùng cũng bị giảm sút
theo.
Lý do giải thích cho việc tại sao lãi suất cho vay tiêu dùng thường cao
hơn các khoản cho vay khác của ngân hàng! Đó là để bù đắp cho chi phí ( về
thời gian và nhân lực để thẩm định, quản lý các khoản vay với giá trị nhỏ
nhưng số lượng lớn, chi phí trên một đơn vị cho vay lớn ) và rủi ro cao mà
ngân hàng có thể gặp phải khi cho vay tiêu dùng.
Bởi vì các khoản cho vay tiêu dùng có tỷ lệ rủi ro cao nhất nên các
ngân hàng thường yêu cầu phải có tài sản bảo đảm khi vay và yêu cầu người
vay phải mua bảo hiểm thất nghiệp, nhân thọ, bảo hiểm cho hàng hoá đã
được mua bởi khoản vay.
Thêm một đặc điểm khác của cho vay tiêu dùng là người vay thường
chỉ vay một lần, ít khi có nhu cầu vay lại; không giống như các khoản cho
vay thương mại: nhu cầu phát sinh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, lặp đi
lặp lại. Do đó nếu không có các giải pháp mở rộng cho vay tiêu dùng thì
ngân hàng sẽ dần mất đi nguồn khách hàng tiềm năng này.
Về quy mô khoản vay: hầu hết các khoản vay tiêu dùng đều có giá trị
không lớn trừ những khoản vay để mua quyền sử dụng đất, mua nhà, mua
ôtô sang trọng, đi du học, mua sắm những đồ dùng xa xỉ nhưng số lượng các
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
9
10
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
món vay tiêu dùng lại khá nhiều( vì nhu cầu của người tiêu dùng ngày càng
tăng).
1.2.3 Lợi ích của cho vay tiêu dùng trong ngân hàng thương mại
Hoạt động cho vay tiêu dùng có từ rất sớm ngay từ những ngày đầu
khi ngân hàng mới hình thành, khi đó họ thực hiện cho vay với các cá nhân,
chủ yếu là những người giàu: quan lại, địa chủ, nhằm mục đích phục vụ tiêu
dùng. Do lợi nhuận từ cho vay rất cao nhiều ngân hàng đã phát hành chứng
chỉ tiền gửi khống để cho vay. Chính điều này đã đẩy nhiều ngân hàng đến
chỗ mất khả năng thanh toán và phá sản nên sau đó để đảm bảo an toàn các
ngân hàng thương mại đã không cho vay tiêu dùng, chỉ cho vay kinh doanh.
Tuy nhiên các ngân hàng đã ngày càng phát triển và khả năng quản lý rủi ro,
thẩm định khách hàng ngày một tốt hơn nên bên cạnh việc duy trì và đẩy
mạnh cho vay kinh doanh các ngân hàng cũng cần thiết chú trọng mở rộng
cho vay tiêu dùng. Chúng ta khẳng định được như vậy là vì có các lý do sau:
Cho vay tiêu dùng của ngân hàng đem lại lợi ích cho nền kinh tế
( trong đó có cả người vay ). Chúng ta đã biết sản xuất là một quá trình từ
sản xuất đến lưu thông và tiêu dùng. Do đó tiêu dùng là cái đích của sản
xuất, sản xuất các sản phẩm ra để tiêu dùng. Muốn đẩy mạnh sản xuất thì
cần thiết phải đẩy mạnh tiêu dùng và ngược lại muốn tiêu thụ được nhiều
sản phẩm thì sản xuất phải thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng.
Nhưng để có thể sản xuất hay tiêu dùng thì đều cần có một số tiền nhất định,
số tiền đó có thể có được qua nhiều nguồn khác nhau: tự tích luỹ; vay mượn
người thân, bạn bè; mua hàng trả chậm; vay các trung gian tài chính. Ngân
hàng là một kênh cung cấp vốn hiệu quả cho tất cả các hoạt động đó. Xã hội
ngày càng phát triển nhu cầu tiêu dùng của các cá nhân, hộ gia đình ngày
càng cao. Và trong xã hội luôn sẵn có nhu cầu vay tiêu dùng do các cá nhân
và hộ gia đình mặc dầu chưa có đủ phương tiện thanh toán trong hiện tại
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
10
11
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
nhưng lại có những nhu cầu cần thiết cần được thoả mãn ngay như đi du
học, tiền viện phí, tang lễ, sửa chữa nhà cửa...Họ có thu nhập ổn định, hoặc
chắc chắn sẽ có thu nhập trong tương lai như thừa kế, cổ tức, lãi trái phiếu...
đảm bảo cho họ khả năng trả nợ, do đó họ có nhu cầu vay tiêu dùng và sẽ trả
được nợ. Khi đã có nhu cầu thì lẽ dĩ nhiên sẽ có người cung ứng và ngân
hàng- một tổ chức kinh doanh tiền tệ chắc chắn không thể bỏ qua một thị
trường với sức mua lớn như thị trường cho vay tiêu dùng.
Không chỉ có thế, trên thị trường đó, ngân hàng thường được cho là
nhà cung cấp có khả năng cung ứng tốt nhất so với các nhà cung cấp khác.
Bởi vì so với các nguồn cung ứng vốn khác thì ngân hàng có những ưu điểm
vượt trội hơn hẳn. Khi cần tiền để mua sắm, sửa chữa mà số tiền tự tích luỹ
không đủ, kênh vay tiền người ta thường nghĩ đến đầu tiên là vay mượn
người thân, bạn bè. Nhưng những người thân, bạn bè thường chỉ đồng ý cho
vay món tiền nhỏ, do họ cũng không có năng lực tài chính lớn và họ không
chắc chắn về khả năng trả nợ của bạn. Vì thông thường người quen cho nhau
vay tiền thường không yêu cầu phải có tài sản đảm bảo cho món vay đó, và
cũng không có được hợp đồng vay nợ chặt chẽ nhằm đảm bảo thu hồi món
vay. Khi có nhu cầu vay số tiền lớn, khó có thể nhờ cậy vào những người
quen, bạn bè. So với các trung gian tài chính khác, ngân hàng thương mại có
khả năng thẩm định tín dụng tốt do có cán bộ thông thạo nghiệp vụ, có mạng
lưới thu thập thông tin rộng lớn, có khả năng tài chính vững mạnh có thể
đáp ứng mọi nhu cầu vay của khách hàng. Không chỉ vậy, đến với ngân
hàng các khách hàng có thể nhận được sự tư vấn của các nhân viên ngân
hàng, cùng khách hàng tháo gỡ khó khăn do họ là những người am hiểu về
thị trường và khách hàng còn được cung cấp nhiều dịch vụ tiện ích khác nữa
như là dịch vụ thanh toán, tiền gửi…
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
11
12
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
Không những thế cho vay tiêu dùng còn mang lại nhiều lợi ích cho
ngân hàng. Mặc dù hoạt động cho vay tiêu dùng chứa đựng nhiều rủi ro
nhưng chính điều đó lại mang lại nhiều lợi nhuận lớn cho ngân hàng. Ngân
hàng có thể ngăn ngừa và hạn chế rủi ro bằng cách đưa ra những quy chế
cho vay chặt chẽ và thẩm định kỹ càng. Mặt khác tài trợ cho tiêu dùng là
ngân hàng gián tiếp tài trợ cho sản xuất. Khi tiêu dùng được đẩy mạnh thì
hoạt động sản xuất sẽ tăng lên do vậy gia tăng nhu cầu vay kinh doanh và
hoạt động cho vay kinh doanh của ngân hàng cũng được mở rộng hơn. Vì
thế, ngân hàng cung cấp sản phẩm cho vay tiêu dùng không chỉ đáp ứng nhu
cầu tiêu dùng của khách hàng mà còn đáp ứng chính nhu cầu đa dạng hóa
sản phẩm của ngân hàng, thu thập nhiều thông tin về khách hàng và thị
trường, mở rộng các dịch vụ hỗ trợ, phân tán rủi ro... để cho ngân hàng thực
sự là một trung gian tài chính cung cấp nhiều dịch vụ đa dạng nhất trong nền
kinh tế quốc dân.
1.2.4 Các loại hình cho vay tiêu dùng
Ta có thể phân loại cho vay tiêu dùng theo rất nhiều các hình thức
khác nhau như: phân theo thời gian, theo hình thức bảo đảm, mức độ tín
nhiệm, mục đích, hình thái giá trị cuat tín dụng, xuất sứ tín dụng, hình thức
hoàn trả, hình thức cho vay giữa ngân hàng và khách hàng. Tuy nhiên em
chỉ xin đưa ra một số cách phân loại thôi.Ta có sơ đồ sau:
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
12
Theo hình thức hoàn trả
Theo hình thức cho vay
Theo hình thức bảo đảm
Cho vay tiêu dùng
Có đảm bảo
Không đảm bảo
Trả một lần
Trả góp
Trả tuần hoàn
Trực tiếp
Gián tiếp
Theo thời gian
Ngắn hạn
Trung hạn
Dài hạn
13
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
1.2.4.1 Phân loại theo thời gian
Nếu phân loại theo thời gian thì ta có thể chia thành các khoản tín
dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Khoản tín dụng ngắn hạn: đây là một khoản tín dụng có thời gian
ngắn thường là dưới 1 năm. Với khoản tín dụng này thì chủ yếu phục vu cho
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
13
14
Chuyên đề tốt nghiệp GVHD:TS. Cao Ý Nhi
nhu cầu trong ngắn hạn mang tính tức thì của người dân ví dụ như họ cần
một khoản tiền ngay tức thì mà chưa kịp bán nhà chẳng hạn
Khoản tín dụng trung hạn : đây là khoản tín dụng có thời gian dài hơn
thường là từ 1- 2 năm. Khoản này phục vụ cho nhu cầu vốn trung hạn của
khách hàng, như vay mua xe máy, vay để sửa nhà..
Khoản tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời gian dài thường là
trên 2 năm. Khoản vay này phục vụ nhu cầu vốn dài hạn của khách hàng như
mua xe ôtô, mua nhà..
1.2.4.2 Phân loại theo hình thức bảo đảm tiền vay
Ngân hàng cho khách hàng vay tiền để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của
khách hàng trên cơ sở thế chấp bằng lương hay còn gọi là tín chấp. Hình
thức này chủ yếu được áp dụng đối với các khách hàng có việc làm và thu
nhập ổn định, thu nhập ngoài việc trang trải các chi tiêu thường xuyên còn
có tích luỹ để trả nợ vay ( công chức, viên chức trong biên chế nhà nước,
nhân viên có hợp đồng lao động dài hạn...) Hình thức vay thế chấp bằng
lương phù hợp với những món vay giá trị không lớn, thời hạn vay ngắn và
trung hạn.
Hoạt động cho vay tiêu dùng thường yêu cầu có tài sản đảm bảo, cho nên
theo tiêu thức này cho vay tiêu dùng được phân chia thành hai loại:
Loại 1: Cho vay có bảo đảm bằng tài sản hình thành từ tiền vay
Khách hàng có nhu cầu vay vốn nhưng không có tài sản đảm bảo hoặc tài
sản đó không đáp ứng các điều kiện của ngân hàng thì ngân hàng có thể yêu
cầu khách hàng sử dụng chính tài sản được hình thành từ nguồn tài trợ của
ngân hàng làm vật đảm bảo. Chẳng hạn khách hàng vay tiền mua ôtô thì
ngân hàng sẽ yêu cầu lấy chính chiếc ôtô đó làm vật đảm bảo, khi khách
hàng không có khả năng trả nợ ngân hàng sẽ phát mại ôtô đó thể thu nợ. Để
đảm bảo rằng khách hàng sẽ không bán tài sản hoặc sử dụng không cẩn thận
SV: Nguyễn Đức Toàn Lớp: TCDN 46Q
14