Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Giải pháp nâng cao chất luợng tín dụng đối với Ngân hàng thương mại tại chi nhánh ngân hàng NNo&PTNT Đống Đa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (358.25 KB, 60 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Chất lượng tín dụng là đề tài quen thuộc thường được nhắc đến đối
với hoạt động của Ngân hàng. Với tất cả các Ngân hàng thì tín dụng là phần
không thể thiếu. Tín dụng không phải là xuất hiện từ đầu khi có Ngân hàng,
nhưng vai trò của nó là rất quan trọng đối với sự tồn tại của Ngân hàng và cả
nền kinh tế.
Chất lượng tín dụng ngày càng phải được nâng cao, giúp cho các
Ngân hàng có thể kinh doanh cũng như giúp cho các doanh nghiệp, tổ chức,
cá nhân có nhu cầu có thể tiếp cận dễ dàng hơn với Ngân hàng để có thể thực
hiện phương án kinh doanh của mình. Tại mỗi thời điểm lại có thêm nhiều
vấn đề mới nảy sinh, vì thế mà hoạt động tín dụng mang lại lợi nhuận nhiều
nhất cho Ngân hàng nhưng nó cũng mang rủi ro cao nhất. chính vì thế nâng
cao chất lượng tín dụng không bao giờ là đề tài cũ trong hoạt động của Ngân
hàng. Vì vậy em quyết định chọn đề tài: “ Giải pháp nâng cao chất luợng
tín dụng đối với Ngân hàng thương mại tại chi nhánh ngân hàng
NNo&PTNT Đống Đa ” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình.
Trong chuyên đề này gồm có 3 chương trình bày các vấn đề có liên
quan đến chất lượng tín dụng.
Chương I Những vấn đề cơ bản về tín dụng và chất lượng tín
dụng
Chương II Thực trạng chất lượng tín dụng tại chi nhánh Ngân
hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Đống Đa
Chương III Các giải pháp để nâng cao chất lượng tín dụng
Như vậy, trong đề tài này cũng chỉ đề cập đến một phần về chất
lượng tín dụng trong giai đoạn hiện nay.
1
Chuyên đề tốt nghiệp
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG VÀ
CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG


1.1 Tổng quan về tín dụng ngân hàng:
1.1.1 Khái quát về hoạt động của ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt với
những hoạt động kinh doanh đa dạng và phức tạp. Ta có thể phân chia các
nghiệp vụ của ngân hàng theo các tiêu thức khác nhau, nhưng một trong
những cách phân chia hiệu quả nhất là:
- Nghiệp vụ huy động vốn.
- Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Các nghiệp vụ khác.
1.1.1.1 Hoạt động huy động vốn.
Ta có thể nhận thấy rằng bất kì một ngân hàng nào muốn đi vào hoạt
động thì việc đầu tiên là phải tạo được nguồn vốn cho mình. Nguồn vốn chủ
sở hữu là nền tảng ban đầu để hoạt động, còn các nguồn vốn khác rất là quan
trọng để ngân hàng có thể vận hành một cách trôi trảy chính là nguồn vốn huy
động và nguồn vốn vay. Vì thế nghiệp vụ huy động vốn là một nghiệp vụ rất
quan trọng của ngân hàng.
Nghiệp vụ huy động vốn: là nghiệp vụ đặc trưng của tất cả các ngân
hàng, trong đó ngân hàng sẽ nhận quyền sử dụng vốn của khách hàng trong
một khoảng thời gian và có trách nhiệm phải hoàn trả số vốn đó và lãi theo
đúng yêu cầu của khách hàng. Khối lượng huy động vốn thể hiện được tiềm
năng của ngân hàng trong khả năng đáp ứng yêu cầu vay vốn và rút vốn của
khách hàng. Trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng thì vốn huy động của
ngân hàng thường chiếm tỷ trọng lớn ( khoảng 70% - 80% trên tổng tài sản).
Trên cơ sở đặc điểm và kỳ hạn thực của nguồn vốn ta có thể chia nghiệp vụ
huy động vốn thành 2 nghiệp vụ nhỏ:
2
Chuyên đề tốt nghiệp
• Nghiệp vụ huy động tiền gửi thanh toán – tiền gửi phát séc: với
nguồn vốn này ngân hàng cần phải đảm bảo nhu cầu thanh toán của khách
hàng bất cứ lúc nào mà khách hàn có yêu cầu. Tuy vậy thì nghiệp vụ huy

động này có chi phí rất rẻ, hơn nữa ngân hàng còn có thể thu thêm được thông
qua nghiệp vụ thanh toán hộ khách hàng.
• Nghiệp vụ huy động tiền gửi có kì hạn: nguồn vốn huy động được ở
nghiệp vụ này sẽ có kì hạn xác định trước và lãi suất của loại huy động vốn
này sẽ cao hơn các loại hình huy động vốn khác.Vì thế có thể nói nguồn vốn
này có chi phí cao nhất nhưng ngân hàng có thể sử dụng nguồn vốn này để tài
trợ cho các khoản vay của khách hàng.
Ngoài nghiệp vụ huy động vốn trên thì ngân hàng còn một cách nữa
để huy động vốn đó là Vay vốn: nghiệp vụ này giúp ngân hàng huy động
được vốn nhưng chưa thể xác định được chi phí bỏ ra để huy động nguồn vốn
này. Hoạt động sử dụng vốn.
Các nguồn vốn sau khi được huy động thì ngân hàng sẽ sử dụng vào
nhiều mục đích với nguyên tắc là một phần vốn được đưa vào dự trữ dưới
dạng tiền mặt hoặc tài sản có tính lỏng cao. Phần còn lại sẽ được sử dụng vào
các hoạt động sinh lời chính phần này tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng và cũng
để bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng. Nghiệp vụ sử dụng vốn của ngân
hàng rất đa dạng, tuy nhiên căn cứ vào tính chất của nghiệp vụ thì có thể chia
thành 3 loại nghiệp vụ sau:
• Nghiệp vụ chiết khấu: là nghiệp vụ ngân hàng mua lại các loại giấy
tờ có giá và ngân hàng sẽ được hưởng một mức lợi tức chiết khấu tương ứng
với chi phí và rủi ro mà ngân hàng sẽ gặp phải khi sở hữu các giấy tờ có giá
này. Các giấy tờ có giá này thường là thương phiếu, trái phiếu, công trái…
Sau khi chấp nhận chiết khấu ngân hàng có thể giữ lại đến lúc đáo hạn hoặc
có thể chiết khấu lại trên thị trường.
3
Chuyên đề tốt nghiệp
• Nghiệp vụ đầu tư: Ngân hàng có thể mua các loại giấy tờ có giá
với mục đích thu lợi nhuận bao gồm lãi thu được từ phần chi lợi tức từ chứng
khoán ngân hàng sở hữu và lợi nhuận ngân hàng có được khi bán các giấy tờ
có giá này với mức giá cao hơn khi mua vào. Nghiệp vụ đầu tư được chia

thành 2 nhóm:
a. Đầu tư với mục đích thanh khoản: ngân hàng tối đa hóa khả năng sinh
lời của chứng khoán nhưng vẫn đảm bảo khả năng thanh khoản cao. Vì
thế chứng khoán ngắn hạn chính là dự trữ để thanh toán.
b. Đầu tư với mục đích lợi nhuận: các chứng khoán hoặc giấy tờ có giá
này chủ yếu là các loại có thời hạn dài ( như trái phiếu Chính phủ,
chứng khoán….)
c. Nghiệp vụ cho vay: đây chính là hoạt động quan trọng mang lại lợi
nhuận chủ yếu cho ngân hàng ( 70% - 80% trên tổng thu nhập). Tuy
nhiên đây cũng là nghiệp vụ mang tính rủi ro cao nhất.
1.1.1.2 Các hoạt động khác.
Ngân hàng còn nhiều nghiệp vụ khác để phục vụ cho nền kinh tế
ngày càng sôi động. Chính vì vậy còn có các dịch vụ và nghiệp vụ ngoại bảng
khác như:
- Dịch vụ thanh toán hộ ( thu hộ – chi hộ ).
- Dịch vụ chuyển tiền.
- Dịch vụ bảo quản các tài sản và giấy tờ có giá.
- Dịch vụ môi giới bất động sản, môi giới đầu tư chứng khoán.
- Dịch vụ tư vấn cho khách hàng.
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Nhờ các dịch vụ và hoạt động trên ngân hàng cũng có thể huy động
được vốn hoặc thu được phí.
4
Chuyên đề tốt nghiệp
Các nghiệp vụ ngoại bảng: để đảm bảo khả năng cạnh tranh và tăng
hiệu quả hoạt động của ngân hàng với các tổ chức phi tài chính, các ngân
hàng đã mở rộng thêm các hoạt động ngoại bảng như:
- Chứng khoán hóa tài sản: ngân hàng phát hành chứng khoán đối
với những nhóm tài sản nhất định, phần lớn là các khoản nợ. ở nghiệp vụ này
ngân hàng sẽ thu được các khoản phí dịch vụ quản lý, phí giám sát…Đồng

thời cũng có thể đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn tín dụng.
- Bán nợ: ngân hàng tiến hành chuyển quyền sở hữu về thu nhập
hoặc quyền sở hữu hoàn toàn với các khoản vay của mình. Đây là biện pháp
để giải quyết các khoản nợ khó đòi, nó sẽ giúp ngân hàng thu hồi một phần
các khoản nợ khó đòi.
- Bảo lãnh: ngân hàng cam kết dưới hình thức thư bảo lãnh về
thực hiện nghĩa vụ đúng như cam kết.
1.1.2 Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại.
1.1.2.1 Khái niệm về hoạt động tín dụng.
Tín dụng là quan hệ và vay mượn, gồm cả đi vay và cho vay. Tuy
nhiên khi gắn nó với chủ thể nhất định như ngân hàng ( hoặc các trung gian
khác ) ví dụ như tín dụng ngân hàng thì chỉ bao hàm nghĩa là ngân hàng cho
vay.
Tín dụng là hoạt động tài trợ của Ngân hàng cho khách hàng ( còn
được gọi là tín dụng Ngân hàng ). Tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của
các ngân hàng nói riêng và của các trung gian tài chính nói chung, tín dụng
chiếm tỉ trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất nhưng
cũng là hoạt động mang lại rủi ro cao nhất.
Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, điều 49 ghi “ Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá
5
Chuyên đề tốt nghiệp
nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của
Ngân hàng Nhà nước ”.
Tín dụng ngân hàng có 3 loại quan hệ chủ yếu là:
• Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
• Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng cá nhân hoặc hộ
gia đình.
• Quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các khách hàng khác trong

nước và quốc tế.
Tín dụng của ngân hàng mang những đặc trưng:
• Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay: đây là giai đoạn vốn
tiền tệ chuyển từ ngân hàng đến người vay.
• Sử dụng vốn: người đi vay sau khi nhận được vốn vay sẽ sử dụng
vào những mục đích như mình đã trình bày để vay vốn.
• Hoàn trả tín dụng: đây là giai đoạn kết thúc chu trình quay vòng
vốn vay. Vốn tín dụng được quay trở lại hình thức cấp tín dụng ban đầu
nhưng có thêm một phần giá trị mới là phần lãi người đi vay trả cho việc sử
dụng khoản vốn đó.
1.1.2.2 Các hình thức tín dụng của Ngân hàng thương mại.
- Phân loại theo thời gian ( thời hạn tín dụng )
• Tín dụng ngắn hạn: từ 12 tháng trở xuống
• Tín dụng trung hạn: từ 1 năm đến 5 năm.
• Tín dụng dài hạn: trên 5 năm.
Tài sản lưu động thường có vòng quay hơn 1 vòng trong một năm, vì
vậy ngân hàng cấp tín dụng ngắn hạn với thời hạn 1 năm trở xuống.
Các tài sản cố định như phương tiện vận tải cây trồng vật nuôi, trang
thiết bị chống hao mòn có yêu cầu được tài trợ từ 1 đến 5 năm.
6
Chuyên đề tốt nghiệp
Công trình xây dựng như nhà, sân bay, cầu đường, máy móc thiết bị có
giá trị lớn thường có thời gian sử dụng lâu có yêu cầu tài trợ trên 5 năm, có
thể tới 10 hoặc 30 năm.
- Phân loại theo hình thức: gồm chiết khấu, cho vay, bảo lãnh và cho
thuê.
• Chiết khấu thương phiếu là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách
hàng tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của khách
hàng để sở hữu một thương phiếu trừ đi phần thu nhập của khách hàng để sở
hữu một thương phiếu chưa đến hạn, đây chỉ là hình thức trao đổi trái quyền.

• Cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết
khách hàng phải trả cả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định.
• Bảo lãnh là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính
hộ khách hàng của mình. Mặc dù không phải xuất tiền ra nhưng ngân hàng đã
cho khách hàng sử dụng uy tín của mình để thu lợi.
• Cho thuê là việc ngân hàng bỏ tiền mua tài sản để cho khách hàng
thuê theo những thỏa thuận nhất định, sau thời gian nhất định khách hàng
phải trả cả gốc và lãi cho ngân hàng.
- Phân loại theo tài sản đảm bảo:
Tài sản đảm bảo các khoản tín dụng cho phép ngân hàng có được
nguồn thu nợ thứ hai bằng cách bán các tài sản đó khi nguồn thu nợ thứ nhất
không có hoặc không đủ.
Có thể chia thành tín dụng có đảm bảo bằng uy tín của khách hàng,
có đảm bảo bằng thế chấp, cầm cố tài sản.
- Phân loại tín dụng theo rủi ro: tùy theo mỗi ngân hàng có một cách
phân loại khách nhau. Một số ngân hàng lớn chia thành 10 thang bậc rủi ro
theo các dấu hiệu rủi ro từ thấp đến cao. Cách phân loại này giúp ngân hàng
thường xuyên đánh giá lại tính an toàn của các khoản tín dụng, trích lập dự
phòng tổn thất kịp thời.
7
Chuyên đề tốt nghiệp
Tín dụng lành mạnh: các khoản tín dụng có khả năng thu hồi cao.
Tín dụng có vấn đề: các khoản tín dụng có dấu hiệu không lành
mạnh như khách hàng chậm tiêu thụ hàng hóa, tiến độ thực hiện chậm….
Nợ quá hạn có khả năng thu hồi: các khoản nợ đã quá hạn với thời
gian ngắn và khách hàng có kế hoạch khắc phục tốt, tài sản đảm bảo có giá trị
cao.
Nợ qua hạn khó đòi: nợ quá hạn quá lâu, khả năng trả nợ rất kém,
tài sản thế chấp nhỏ hoặc bị giảm giá…
- Phân loại khác

• Theo ngành kinh tế ( công, nông nghiệp )
• Theo đối tượng tín dụng ( tài sản lưu động, tài sản cố định…)
• Theo mục đích ( sản xuất, tiêu dùng…)
1.1.2.3 Các nghiệp vụ tín dụng
a. Chiết khấu thương phiếu.
Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu
hàng hóa và dịch vụ giữa các khách hàng với nhau. Người bán ( hoặc người
thụ hưởng ) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua ( hoặc
người phải trả ) hoặc mang đến ngân hàng để xin chiết khấu trước hạn.
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình 1.1: Chiết khấu thương phiếu
(1).Người bán chuyển hàng hóa hoặc dịch vụ cho người mua.
(2).Thương phiếu được lập, người mua kí, cam kết trả tiền cho người thụ
hưởng khi thương phiếu đến hạn và giao thương phiếu cho người bán đồng
thời là người thụ hưởng.
(3).Trong thời hạn có hiệu lực của thương phiếu, người bán có thể mang
thương phiếu đến ngân hàng để xin chiết khấu.
(4).Sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, ngân hàng có thể phát tiền
cho người bán và nắm giữ thương phiếu ( ngân hàng có thể yêu cầu người bán
ký hậu thương phiếu, cam kết trả tiền cho ngân hàng nếu người mua không
trả, quyền truy đòi đối với thương phiếu ).
(5).Đến hạn, ngân hàng chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền ( nếu
người mua không trả tiền, ngân hàng có quyền đòi tiền của các bên kí tên trên
thương phiếu )
b. Cho vay
• Thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội ( vượt ) trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến 1
Người bán
Người mua

Ngân hàng
9
Chuyên đề tốt nghiệp
giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn bày được gọi
là hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin ngân hàng hạn mức
thấu chi và thời gian thấu chi. Trong thời gian hoạt động khách hàng có thể kí
séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ séc… vượt qua số dư tiền gửi để chi trả. Khi
khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi.
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ bị phạt với lãi xuất phạt và
không được sử dụng hình thức này.
Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản,
phần lớn là không có đảm bảo hay thế chấp cho cả doanh nghiệp và cá nhân
vài ngày hay vài tháng trong năm dùng để trả. Nhìn chung hình thức này chỉ
sử dụng với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu
nhập ngắn.
• Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ
biến của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường
xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi.
Mỗi lần vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương
án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho
vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và
yêu cầu bảo đảm nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (
khế ước nhận nợ ) khác nhau.
Theo từng kỳ hạn nợ hạn trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và
lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục
đích và hiệu quả. Nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng ngân hàng sẽ thu
nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi có thể cố định hoặc thả nổi theo
thời điểm tính lãi.
10

Chuyên đề tốt nghiệp
• Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân
hàng thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có
thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư vay tại thời điểm tính.
Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh
doanh, nhu cầu vay vốn của khách khàng.
Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần, song dư nợ
không được vượt quá hạn mức tín dụng.
Hình 1.1.b.1 : Cho vay theo hạn mức

Mỗi lần vay khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền
vay, nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu
vay. Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ
phát tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay
mượn thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất
kinh doanh. Trong nghiệp vụ này ngân hàng không xác định trước kì hạn nợ
và thời hạn tín dụng. Khi khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó
tạo chủ động quản lý ngân quỹ cho khách hàng.
11
Chuyên đề tốt nghiệp
• Cho vay luân chuyển: Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển
của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể
cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc
quí người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng
thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung
cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận
trong 1 năm hoặc nhiều năm.
Khi vay khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hóa
đơn nhập hàng và số tièn cần vay, ngân hàng sẽ cho vay và trả tiền cho người

bán.
Cho vay luân chuyển thường áp dụng đối với các doanh nghiệp
thương nghiệp hoặc doanh nghiệp sản xuất có chu kỳ tiêu thụ ngắn ngày, có
quan hệ vay trả thường xuyên với ngân hàng.
Cho vay luân chuyển rất thuận tiện cho khách hàng vì thủ tục vay
chỉ cần thực hiện 1 lần cho nhiều lần vay.
• Cho vay trả góp: cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó
ngân hàng cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng
đã được thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng cho các khoản vay
trung và dài hạn, tài trợ cho các tài sản cố định hoặc hàng lâu bền.
Ngân hàng thường cho vay trả góp với người tiêu dùng thông qua
hạn mức nhất định. Ngân hàng sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa
mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận được tiền ngay khi
bán hàng từ phí ngân hàng và làm đại lý thu tiền cho ngân hàng, hoặc khách
hàng trả trực tiếp cho ngân hàng. Đây là hình thức tài trợ cho người mua
nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa.
Cho vay trả góp rủi ro cao do khách hàng thường thế chấp bằng
hàng hóa mua trả góp. Khả năng trả nợ phụ thuộc vào thu nhập đều đặn của
người vay.
12
Chuyên đề tốt nghiệp
• Cho vay gián tiếp: Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ
chức trung gian.
Hình 1.1.b.2: Cho vay gián tiếp
(1).Phân tích tín dụng trước khi vay
(2).Ngân hàng trực tiếp phát tiền cho khách hàng
(3).Các tổ chức trung gian thu nợ hộ cho khách hàng
Ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang
các tổ chức trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng
có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong

nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay.
Ngân hàng cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào
của quá trình sản xuất. Việc cho vay này sẽ hạn chế người vay sử dụng sai
mục đích tiền vay.
Ngân hàng
Trung gian, tổ, đội, nhóm
Khách hàng ( thường là nông dân, người
buôn bán nhỏ )
13
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình 1.1.b.3: Cho vay gián tiếp
(1).Ngân hàng kí hợp đồng tín dụng với người vay
(2).Người vay mua hàng (nguyên liệu cho sản xuât, tài sản cố định, cây
giống…)
(3).Người bán tập trung các hóa đơn bán hàng gửi lên ngân hàng đề nghị
thanh toán, sau đó ngân hàng thu nợ của khách hàng.
Cho vay gián tiếp thường được áp dụng với thị trường có nhiều món
vay nhỏ, người vay phân tán, cách xa ngân hàng. Trong trường hợp này cho
vay qua trung gian sẽ tiết kiệm được chi phí cho vay.
Cho vay qua trung gian đều nhằm giảm bớt rủi ro của ngân hàng, tuy
nhiên nó cũng có nhiều điểm yếu, ví dụ như nhiều trung gian sẽ lợi dụng vị
thế của mình để thu lợi.
c. Cho thuê tài sản ( thuê – mua ): là hình tức tín dụng trung và dài
hạn. Ngân hàng mua tài sản cho khách hàng thuê với thời gian sao cho ngân
hàng phải thu gần đủ ( hoặc đủ) giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi ( thời hạn
gần 80 – 90% đời sống kinh tế của tài sản ). Hết hạn thuê khách hàng có thể
mua lại tài sản đó.
Ngân hàng Người bán lẻ
Người vay
14

Chuyên đề tốt nghiệp
Hình 1.1.c.1: Thuê – mua
(1).Khách hàng làm đơn gửi ngân hàng nêu yêu cầu về tài sản cần thuê. Sau
khi phân tích dự án và tình hình tài chính của khách hàng, ngân hàng kí hợp
đồng thuê mua với khách hàng.
(2).Khách hàng gặp người sản xuất để nêu yêu cầu về quy cách, chất lượng tài
sản thuê, người sản xuất có thể phải cam kết bảo hành cho người thuê.
(3).Ngân hàng kí hợp đồng mua tài sản với người sản xuất.
(4).Người bán giao tài sản cho người thuê.
(5).Ngân hàng kiểm soát tình hình tài sản thuê, thu tiền thuê, hoặc thu hồi tài
sản nếu thấy người thuê vi phạm
Cho thuê ( thuê – mua ) giống với một khoản cho vay thông thường ở
chỗ ngân hàng phải xuất tiền với kì vọng thu về cả gốc lẫn lãi sau thời hạn
nhất định, khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kì.
Ngân hàng cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có
hiệu qủa, không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên ở hình thức
Ngân hàng
(người cho thuê)
Nhà cung cấp trang thiết bị
15
Khách hàng
(người thuê)
Chuyên đề tốt nghiệp
này thì tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của ngân hàng, ngân hàng có quyền
thu hồi nếu thấy người vay không thực hiện đúng hợp đồng. Cho thuê không
có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu
hồi chi phí tháo dỡ sẽ cao… vì thế cho thuê có rủi ro rất cao đối với ngân
hàng.
d. Bảo lãnh hoặc tái bảo lãnh: bảo lãnh của ngân hàng là cam kết của
ngân hàng dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện các nghĩa vụ tài

chính thay cho khách hàng của ngân hàng khi khách hàng không thực hiện
đúng nghĩa vụ như cam kế.
Bảo lãnh thường có 3 bên: bên hưởng bảo lãnh, bên được bảo lãnh và
bên bảo lãnh. Bảo lãnh của ngân hàng nghĩa là ngân hàng sẽ là người bảo
lãnh, khách hàng của ngân hàng sẽ là người được bảo lãnh và người hưởng
bảo lãnh sẽ là bên thứ ba.
• Các loại bảo lãnh phân theo mục tiêu:
- Bảo lãnh đảm bảo tham gia dự thầu: là cam kết của ngân hàng với
chủ đầu tư ( chủ thầu ) về việc trả tiền phạt thay cho bên dự thầu nếu bên dự
thầu vi phạm các quy định trong hợp đồng dự thầu.
Trong hoạt động kinh tế có rất nhiều hoạt động bên trong được thực
hiện thông qua đấu thầu như đấu thầu xây dựng, đấu thầu cung cấp thiết bị…
Để hạn chế rủi ro khi các nhà thầu vi phạm hợp đồng chủ đầu tư thường yêu
cầu các bên dự thầu phải kí quỹ ( đặt cọc ). Vì kí quỹ gây ra nhiều phiền phức
cho cả hai bên nên nhiều chủ đầu tư thường yêu cầu thay thế kí quỹ bằng bảo
lãnh của ngân hàng.
- Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: là cam kết của ngân hàng về việc chi
trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng
như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba.
Các hợp đồng được bảo lãnh như hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây
dựng, thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không
16
Chuyên đề tốt nghiệp
đúng hạn, không đúng chất lượng cam kết… đều có thể gây tổn thất lớn cho
bên thứ ba, mặt khác thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng.
- Bảo lãnh đảm bảo trả tiền ứng trước: nhiều người cung cấp yêu cầu
khách hàng ( người mua hàng hóa, dịch vụ ) phải đặt trước một phần tiền
trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một
phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải
mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng

đồng thời lại không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có
bảo lãnh của ngân hàng về việc sẽ trả tiền ứng trước. Vậy bảo lãnh hoàn trả
tiền ứng trước là cam kết của ngân hàng về việc hoàn trả tiền ứng trước cho
bên mua ( người hưởng bảo lãnh ) nếu bên cung cấp (người được bảo lãnh )
không trả.
- Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay ( bảo lãnh vay vốn ) : nhiều tổ
chức tín dụng khi cho vay đòi hỏi phải có đảm bảo hoặc bằng hàng hóa,
chứng khoán, bất động sản, hoặc bảo lãnh của bên thứ ba… Nhà nước, doanh
nghiệp, tổ chức tín dụng có nhu cầu vay vốn bằng cách phát hành trái phiếu.
Tuy nhiên nếu uy tín của người vay trên thị trườngđó chưa cao, việc phát
hành sẽ rất khó khăn. Bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay là cam kết của ngân
hàng đối với người vay về việc sẽ trả gốc và lãi đúng hạn nếu khách hàng
không trả được.
- Bảo lãnh đảm bảo thanh toán: là cam kết của ngân hàng về việc sẽ
thanh toán tiền theo đúng hợp đồng thanh toán cho người thụ hưởng nếu
khách hàng của ngân hàng không thanh toán đủ.
17
Chuyên đề tốt nghiệp
Hình 1.1.d.1: Bảo lãnh
(a).Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, về xây dựng
hay vay vốn. Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của ngân hàng.
(1).Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi ngân hàng. Ngân hàng sẽ thực
hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu của bảo lãnh cũng như mức
độ rủi ro. Nếu đồng ý, ngân hàng và khách hàng sẽ kí hợp đồng bảo lãnh và
phát thư bảo lãnh.
(2)Ngân hàng ( hoặc khách hàng ) thông báo về thư bảo lãnh cho bên thứ ba.
(3).Theo như đã thỏa thuận với khách hàng và bên thứ ba, ngân hàng thực
hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra.
(4)Theo đúng như hợp đồng bảo lãnh đã kí với khách hàng, ngân hàng yêu
cầu khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với ngân hàng ( trả

nợ gốc, lãi…)
1.1.2.4 Vai trò của hoạt động tín dụng
Tín dụng là hoạt động cơ bản mang lại thu nhập chính cho các ngân
hàng. Chính vì thế hoạt động tín dụng là hoạt động quan trọng nhất của ngân
Ngân hàng
( bên bảo lãnh)
Khách hàng của ngân hàng
( bên được bảo lãnh)
Người thứ ba
( bên hưởng bảo lãnh)
18
Chuyên đề tốt nghiệp
hàng, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, nhất là trong nền
kinh tế thị trường với nhiều thách thức và cạnh tranh gay gắt. Tín dụng
thường chiếm tỷ trọng cao 70 -80% trên tổng tài sản của ngân hàng, và vì thế
mà tín dụng mang lại lợi nhuận nhiều nhất cho ngân hàng. ở các nước phát
triển thì tín dụng mang lại khoảng 60% cho các ngân hàng. Còn ở Việt Nam
thì khoảng gần 90%. Như vậy ta có thể thấy tầm quan trọng của tín dụng đối
với ngân hàng, không những thế mà tín dụng còn có ảnh hưởng đến cả nền
kinh tế.
Ngân hàng huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế, thông
qua tín dụng ngân hàng sẽ đáp ứng nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp
cũng như các cá nhân khác đang cần vốn để kinh doanh hoặc thực hiện các kế
hoạch đầu tư của mình. Nhờ đó mà việc sản xuất kinh doanh được mở rộng,
hiệu quả sử dụng vốn được nâng cao, tăng cường vốn đầu tư vào nền kinh tế.
Vốn là nhân tố rất quan trọng trong quá trình hoạt động của các tổ
chức kinh tế. Có đủ vốn các doanh nghiệp cũng như các cá nhân có thể thực
hiện kế hoạch đầu tư hoặc sản xuất kinh doanh của mình. Khi không có vốn
thì các bản kế hoạch cũng như dự định không thể thực hiện được, các chủ thể
kinh doanh không thể đưa ra kế hoạch kinh doanh khi họ không có vốn. Vì

vậy họ phải kiếm các ngồn vốn nhàn rỗi trên thị trường để huy động phục vụ
cho mục đích của mình. Tuy vậy để tìm kiếm được nguồn vốn đang nhàn rỗi
từ rất nhiều chủ thể khác là rất khó khăn. Tín dụng ngân hàng sẽ giúp họ giải
quyết bớt phần khó khăn trong khâu tìmcác đối tượng đang trong tình trạng
có vốn nhàn rỗi. Nhờ đó mà vốn tiền tệ được luân chuyển trong nền kinh tế
một cách liên tục, góp phần tăng tích lũy cơ bản và tăng trưởng kinh tế thông
qua nguồn thu từ việc cung cấp tín dụng.
Tín dụng ngân hàng góp phần cơ cấu lại nền kinh tế quốc dân. Nền
kinh tế thị thường luôn có các trạng thái phát triển đối lập nhau . Các ngành
có sự phát triển lâu đời, điều kiện thuận lợi sẽ phát triển được mạnh mẽ,
19
Chuyên đề tốt nghiệp
nhưng một số ngành khác không có điều kiện được như thế thì sẽ gặp nhiều
khó khăn. Để thúc đẩy được các ngành yếu kém có thể phát triển hơn, cơ cấu
lại nhằm cân đối so với nền kinh tế thì phải cần có vốn. Chính vì thế vốn tín
dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng đối với việc cơ cấu lại nền kinh tế.
Tín dụng ngân hàng tác động đến hiệu quả sản xuất doanh và thúc
đẩy cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế.
1.2. Chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
1.2.1. Khái niệm về chất lượng tín dụng
Trước đây khái niệm chất lượng tín dụng chỉ được bó hẹp trong phạm
trù an toàn tín dụng. Điều đó có nghĩa là chất lượn tín dụng được đo lường
bằng mức tổn thất phát sinh trực tiếp từ rủi ro đối với mỗi khoản vay của ngân
hàng đó có ít các khoản nợ xấu và thiệt hại từ các khoản vay đó là thấp. Một
khoản tín dụng có chất lượng là khoản tín dụng được hoàn trả cả gốc và lãi
theo đúng hợp đồng.
Cho đến nay việc đánh giá chất lượng tín dụng của một ngân hàng
cần nhiều chỉ tiêu hơn và phức tạp hơn. Tín dụng thực chất là quan hệ giữa
hai chủ thể ngân hàng và khách hàng, do đó hoạt động tín dụng được đánh giá
là có chất lượng khi nó đáp ứng được nhu cầu của của hai chủ thể.

Về phía ngân hàng, chất lượng tín dụng được thể hiện ở chỗ phạm vi
và giới hạn tín dụng phải phù hợp với thực lực của bản thân ngân hàng. Đồng
thời phải đảm bảo được tính cạnh tranh của ngân hàng trên thị trường. Chất
lượng tín dụngnphải được gắn liền với độ an toàn của cốn vay ( nghĩa là đảm
bảo nguyên tắc hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi khi kết thúc hợp đồng)
Về phía khách hàng, một khoản tín dụng có chất lượng khi khoản tín
dụng đó đáp ứng được nhu cầu về vốn của khách hàng ( về khối lượng vốn
cần thiết để kinh doanh ). Khoản tín dụng đó phải phù hợp về lãi suất, kỳ hạn
20
Chuyên đề tốt nghiệp
khoản vay, đáp ứng được nhu cầu vốn của khách hàng về cả khối lượng vốn
và thời hạn sử dụng vốn.
Nói tóm lại, sản phẩm tín dụng của ngân hàng được coi là chất
lượng khi khoản tín dụng đó dáp ứng được nhu cầu của khách hàng, phù hợp
với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội của Nhà nước và đảm bảo sự tồn tại
và phát triển của ngân hàng.
1.2.3. Một số chỉ tiêu về chất lượng tín dụng
1.2.2.1 Doanh số cho vay
Ngân hàng là người cho vay của nền kinh tế, hoạt động của chính
ngân hàng là cho vay vì thế nên doanh số cho vay thể hiện rõ hoạt động của
ngân hàng có hiệu quả không. Doanh số cho vay mang tính thời kì, nó thể
hiện quy mô hoạt động tín dụng trong năm của ngân hàng. Đây cũng chính là
chỉ tiêu để đánh giá ngân hàng một cách chính xác. Các số liệu sẽ được so
sánh với nhau để nhận thấy sự thay đổi giữa các năm, tình hình hoạt động của
ngân hàng tốt hay xấu cũng sẽ thể hiện qua chỉ tiêu này.
Một ngân hàng hoạt động có hiệu quả thì doanh số cho vay sẽ cao và tăng đều
theo từng năm, còn nếu doanh số cho vay không cao và biến động nhiều
chứng tỏ tình hình hoạt động của ngân hàng không ổn định hoặc có biến động
lơn trong nền kinh tế. Doanh số cho vay nhiều chứng tỏ hoạt động tín dụng
của ngân hàng được phát triển và được chú trọng về khâu nâng cao chất

lượng.
1.1.1.3 Nợ quá hạn
Nợ quá hạn chính là các khoản nợ đến hạn thanh toán của hợp đồng
mà khách hàng đã kí với ngân hàng thế nhưng khách hàngkhông thể trả được.
Đây là một chỉ tiêu rất quan trọng để đánh giá chất lượng tín dụng của ngân
hàng, nó thể hiện tình hình thu nợ của ngân hàng, các khó khăn mà ngân hàng
21
Chuyên đề tốt nghiệp
gặp phải trong quá trình hoạt động. Ngân hàng là người cho vay xong cũng lại
là người đi vay nên khi khách hàng không thể trả được nợ đúng hạn như cam
kết thì khó khăn của ngân hàng sẽ rất lớn, trong báo cáo kết quả kinh doanh
của ngân hàng mà tỉ lệ nợ quá cao thì gây ảnh hưởng xấu tới uy tín của ngân
hàng, khó khăn hơn trong hoạt động kinh doanh về sau.
Với một ngân hàng có số nợ quá hạn cao qua hàng năm không có
dấu hiệu khả thi hơn, như vậy có thể kết luận chất lượng tín dụng của ngân
hàng rất kém, chỉ tiêu nợ quá hạn rất quan trọng trong việc đánh giá chất
lượng tín dụng của ngân hàng vì thế có đôi khi trong báo cáo các ngân hàng
sẽ không đưa ra con số chính xác của dư nợ các nhóm 3 đến 5. Nếu một ngân
hàng có chất lượng tín dụng không tốt, tình trạng nợ quá hạn cao, điều hiển
nhiên là ngân hàng không thu được lợi nhuận cao, hoạt động sẽ không có
hiệu quả.
1.1.1.4 Thời hạn hoàn vốn và vòng quay vốn
Thời hạn hoàn vốn: là khoảng thời gian tính từ lúc cho vay đến khi
ngân hàng thu hết nợ. Việc xác định chính xác thời hạn cho vay có ý nghĩa
quan trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc cho vay. Thời hạn hoàn vốn lớn
hơn tốc độ luân chuyển vốn thì người sử dụng vốn vay sẽ sử dụng vốn để
thực hiện mục đích khác, gây khó khăn trong việc thu nợ của ngân hàng và
hơn nữa còn chứa đựng những rủi ro tiềm tàng. Nếu thời hạn cho vay ngắn thì
sẽ tạo áp lực về thời gian đối với khách hàng, khiến cho khách hàng không
thể trả nợ cho ngân hàng đúng thời hạn. Chính vì vậy, ngân hàng cần phải xác

định chính xác thời gian cho vay hợp lý và tạo điều kiện thuận lợi cho cả
khách hàng và chính ngân hàng.
Vòng quay vốn tín dụng: Đây là chỉ tiêu thường được các NHTM
tính toán hàng năm để đánh giá khả năng tổ chức, quản lý vốn tín dụng và
chất lượng tín dụng trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Vòng quay
của vốn tín dụng càng cao càng chứng tỏ nguồn vay ngân hàng luân chuyển
22
Chuyên đề tốt nghiệp
càng nhanh, tham gia càng nhiều vào chu kì sản xuất và lưu thông hàng hóa.
Một đồng vốn khi cho vay được nhiều lần sẽ đem lại nhiều lợi nhuận hơn.
Tuy nhiên, cần xét đến yếu tố quan trọng là “dư nợ bình quân” . Khi dư nợ
bình quân thấp sẽ làm cho vòng quay lớn nhưng lại không phản ánh chất
lượng khoản tín dụng là cao bởi thực tế nó thể hiện khả năng cho vay kém của
ngân hàng. Đồng thời, nếu tốc độ quay quá nhanh cũng thể hiện cơ cấu tín
dụng chưa hợp lý, cần sửa đổi.
Về chất lượng tín dụng mà nhận xét thì 2 chỉ tiêu trên được đánh
giá dựa trên việc so sánh số liệu hàng năm của ngân hàng được tính toán theo
công thức riêng, thời hạn vay vốn không hoàn toàn do người vay vốn có thể
tự quyết định được mà còn phải qua khâu thẩm định của ngân hàng về mục
đích sử dụng vốn, sau khi thẩm định ngân hàng có thể tính toán sơ qua được
thời hạn cần vay vốn của khách hàng, từ đó có thể ra quyết định cho khách
hàng đó vay vốn với hời hạn là bao lâu: Thời hạn hoàn vốn có ảnh hưởng
không nhỏ tới chất lượng tín dụng của ngân hàng bởi khi ngân hàng đưa ra thì
hạn hoàn thành kế hoạch kinh doanh và có đủ tiền để thanh toán với ngân
hàng.
Còn về vòng quay vốn tín dụng cũng ảnh hưởng nhiều đến chất
lượng tín dụng của ngân hàng, không phải lúc nào vòng quay vốn với tốc độ
nhanh hay chậm đều là tốt, tùy từng thời điểm và điều kiện kinh tế chung mà
người ta có thể kết luận là vòng quay vốn với tốc độ thế nào là tốt.
23

Chuyên đề tốt nghiệp
1.1.1.5 Thu nhập từ hoạt động cho vay
Tỷ trọng thu nhập từ
hoạt
động tín dụng
=
Thu nhập từ hoạt động tín dụng
Tổng thu nhập
Hoạt động tín dụng tuy chứa nhiều rủi ro nhưng lại là hoạt động mang
lại thu nhập chính cho ngân hàng. Do vậy, chất lượng hoạt động tín dụng
được nâng cao chỉ thực sự có ý nghĩa khi nó góp phần nâng cao khả năng sinh
lợi nhuận cho ngân hàng. Thu nhập từ hoạt động cho vay là chỉ tiêu cần thiết
để đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng do hoạt động tín dụng mang lại.
chính vì vậy ngoài việc giảm tỉ lệ nợ quá hạn thì ngân hàng còn phải tăng
được thu nhập từ hoạt động cho vay. Thu nhập từ hoạt động cho vay thể hiện
hoạt động cho vay của ngân hàng phát triển đến đâu, đương nhiên là khi thu
nhập cao nghĩa là ngân hàng hoạt động có hiệu quả và chất lượng tín dụng
của ngân hàng tốt.
1.1.1.6 Hiệu suất sử dụng vốn
Chỉ tiêu này phản ánh tỉ lệ vốn cho vay trong tổng nguồn vốn huy
động. Hiệu suất sử dụng vốn xem xét, đánh giá tỉ trọng cho vay đã phù hợp
với khả năng đáp ứng về vốn của bản thân ngân hàng cũng như nền kinh tế
hay chưa.
Chỉ tiêu này được thể hiện bằng công thức:
Hiệu suất sử dụng vốn =
Tổng dư nợ
Tổng vốn huy động
Tỷ lệ này trên thực tế giao động từ 30% đến 100%. Thông thường
vào khoảng trên 80% là tốt, còn nếu dưới hoặc trên mức độ đó, thậm chí xấp
xỉ 100% có thể gây ảnh hưởng không tốt cho ngân hàng. Lúc đó tính thanh

khoản của ngân hàng sẽ bị đe dọa do khối lượng dự trữ không được đảm bảo.
Tuy nhiên, để xác định một tỉ lệ thế nào là phù hợp còn phụ thuộc kết cấu của
vốn lưu động, lĩnh vực ngân hàng tập trung tài trợ và nhiều nhân tố khác.
24
Chuyên đề tốt nghiệp
Tỉ lệ này rất quan trọng trong hoạt động tín dụng của ngân hàng, thông
qua tỉ lệ này mà ngân hàng có thể biết được so với số vốn huy động được
mình sử dụng thế nào.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của NHTM
1.3.1. Nhân tố chủ quan
Đây chính là các nhân tố xuất phát từ bên trong ngân hàng gây ảnh
hưởng đến chất lượng tín dụng. Có rất nhiều nguyên nhân liên quan nhưng có
thể tóm gọn lại một số nguyên nhân chính sau:
1.3.1.1 Chiến lược kinh doanh của ngân hàng
Đây là một trong số các nguyên nhân chính ảnh hưởng trực tiếp đến
chất lượng tín dụng của ngân hàng. Các ngân hàng có thể đưa ra kế hoạch
kinh doanh, các chiến lược thực hiện mục tiêu của mình qua đó cải thiện tình
hình kinh doanh cũng như chất lượng tín dụng. Tuy nhiên không phải lúc nào
các chiến lược để mở rộng thị trường hay cải thiện tình hình kinh doanh cũng
đạt được kết quả tốt, đôi khi các chiến lược kinh doanh không đúng thời điểm
sẽ khiến cho tình hình không được tốt hơn như lúc trước khi thực hiện.
Nhưng hầu hết các chiến lược của ngân hàng đã được tính toán kỹ
lưỡng, xem xét một cách cẩn thận cho phù hợp với tình hình phát triển cũng
như khả năng hoạt động của ngân hàng.
1.1.1.7 Chính sách tín dụng của ngân hàng
Để đạt được các mục tiêu trong kinh doanh các ngân hàng đều phải
đưa ra các chính sách để thực hiện. Với tín dụng cũng thế, để cải thiện chất
lượng tín dụng ngân hàng cần nghiên cứu thảo luận để có thể đưa ra các chính
sách thiết thực để có thể nâng cao chất lượng tín dụng, các chính sách được
đưa ra phải phù hợp với tình hình hoạt động của ngân hàng, phù hợp với các

điều kiện kinh tế xã hội.
25

×