Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu nâng cấp trường trung học bưu chính viễn thông và công nghệ thông tin i thành trường cao đẳng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (717.17 KB, 95 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

Nguyễn Thị Thanh Vân

Những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng
yêu cầu nâng cấp trường Trung học Bưu chính Viễn
thông và Công nghệ Thông tin I thành trường cao đẳng

LUẬN VĂN THẠC SỸ

Hà nội - 2008


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA SƯ PHẠM

Nguyễn Thị Thanh Vân

Những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng
yêu cầu nâng cấp trường Trung học Bưu chính Viễn
thông và Công nghệ Thông tin I thành trường cao
đẳng

Luận văn Thạc sĩ Quản lý giáo dục
Mã Số: 60 14 05

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Viết Nhụ

Hà nội - 2008



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam đang trong giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập
quốc tế mạnh mẽ. Mười sự kiện nổi bật của ngành Bưu chính Viễn thông
trong năm qua cùng với sự kiện vệ tinh nhân tạo VINASAT-1 được phóng
thành công và đi vào khai thác đã khẳng định rằng ngành Bưu chính Viễn
thông đang ở giai đoạn phát triển vượt bậc, góp phần quan trọng vào sự phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Chương I, điều1, Nghị định số 109/1997/ NĐ-CP của Chính phủ ngày
12/11/1997 về Bưu chính và Viễn thông đã ghi rõ: “Bưu chính Viễn thông là
ngành kinh tế kỹ thuật thuộc kết cấu hạ tầng của nền kinh tế...”[6]
Ngày 10 tháng 5 năm 2007, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có buổi
làm việc với lãnh đạo Bộ Bưu chính Viễn thông (nay là Bộ Thông tin và
Truyền thông) về triển khai nhiệm vụ năm 2007 và kế hoạch đến năm 2010
của Bộ. Thủ tướng đã kết luận: Ngành Bưu chính Viễn thông là “...ngành cơ
sở hạ tầng quan trọng cần ưu tiên phát triển để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
góp phần thiết thực thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước...”[12].
Muốn đẩy mạnh khoa học kỹ thuật và đem lại sự thịnh vượng cho nền
kinh tế quốc dân thì không có cách nào khác là đầu tư cho giáo dục. Không có
giáo dục thì không có bất cứ sự phát triển nào đối với con người, đối với kinh
tế, văn hoá. UNESCO đã khẳng định “Ngày nay không có một sự tiến bộ nào,
một sự thành đạt nào tách rời với sự tiến bộ của giáo dục”[23].
Điều 9, Chương I, Luật Giáo dục 2005 ghi rõ: “Phát triển giáo dục phải
gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, tiến bộ khoa học, công nghệ, củng
cố quốc phòng, an ninh; thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá; bảo
đảm cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền...”[2].
Vì thế Chỉ thị số 07/CT-BBCVT ngày 07/7/2007 của Bộ trưởng Bộ
Thông tin và Truyền thông về định hướng phát triển công nghệ thông tin và
1



truyền thông Việt Nam giai đoạn 2011-2020 (gọi tắt là chiến lược “Cất cánh”)
đã chỉ rõ một trong những giải pháp tạo tiền đề cho việc thực hiện chiến lược
của ngành là “phát triển mạnh nguồn nhân lực”, “hoàn thiện hệ thống chương
trình đào tạo, dạy nghề thống nhất và chuyên nghiệp về công nghệ thông tin
trong cả nước ở tất cả các bậc học, nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cơ
sở vật chất và hợp tác quốc tế trong đào tạo công nghệ thông tin và truyền
thông, đảm bảo cung cấp nguồn nhân lực có trình độ và chất lượng cao”[12].
Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của ngành Bưu chính Viễn thông phần
lớn được đào tạo từ Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông và các
Trường Trung học của ngành. Đây là những cán bộ quản lý, kỹ sư Viễn
thông, kỹ sư Tin học, kỹ thuật viên vận hành và bảo dưỡng tổng đài, nhân
viên chăm sóc khách hàng, công nhân vận hành và bảo dưỡng đường dây thuê
bao, những kiểm soát viên và các giao dịch viên tại các quầy giao dịch...
Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đào tạo các bậc Hoàn chỉnh
kiến thức đại học, Đại học, Thạc sĩ và Tiến sĩ và một số lớp Cao đẳng.
Trường Trung học Bưu chính Viễn thông và Công nghệ Thông tin I
(tiền thân là Trường Công nhân Bưu điện I) là một trong bốn trường Trung
học thuộc Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam được thành lập theo
Quyết định số 03/2006/QĐ-BBCVT ngày 9/01/2006 của Bộ Bưu chính Viễn
thông Việt Nam, là một trong những trung tâm đào tạo, cung cấp nguồn nhân
lực, “...đào tạo và bồi dưỡng cán bộ có trình độ trung học chuyên nghiệp và
các trình độ thấp hơn trong lĩnh vực Bưu chính, Viễn thông và Công nghệ
thông tin...”[13].
Để đáp ứng yêu cầu về nguồn nhân lực cho ngành, nâng cao chất lượng
trong đào tạo, nâng cao thương hiệu của nhà trường, đáp ứng kế hoạch nâng
cấp để trở thành trường Cao đẳng, nhiều khó khăn thách thức đang đặt ra
trước mắt, một trong những vấn đề còn tồn tại và cơ bản nhất là việc nâng cao
chất lượng đội ngũ, đặc biệt là đội ngũ giáo viên. Vấn đề là sớm xây dựng

2


được chiến lược phát triển đội ngũ, đặc biệt là đội ngũ giáo viên có đủ về số
lượng, đảm bảo về chất lượng và cân đối về cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển
của nhà trường và của ngành. Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài
“Những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu nâng cấp
Trường Trung học Bưu chính Viễn thông và Công nghệ Thông tin I thành
Trường Cao đẳng” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Quản lý giáo dục.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số biện pháp
phát triển đội ngũ giáo viên của Trường Trung học Bưu chính Viễn thông và
Công nghệ Thông tin I đáp ứng yêu cầu nâng cấp thành Trường Cao đẳng
Bưu chính Viễn thông và Công nghệ Thông tin I.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện các mục đích đề ra, luận văn tập trung triển khai các
nhiệm vụ nghiên cứu dưới đây:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về xây dựng đội ngũ giáo viên.
- Khảo sát thực trạng đội ngũ giáo viên của Trường Trung học Bưu
chính Viễn thông và Công nghệ Thông tin I.
- Đề xuất những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên nhà trường đáp
ứng yêu cầu nâng cấp thành Trường Cao đẳng Bưu chính Viễn thông và Công
nghệ Thông tin I.
4. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên Trường Trung học Bưu chính
Viễn thông và Công nghệ thông tin I đáp ứng yêu cầu nâng cấp thành Trường
Cao đẳng.
4.2. Khách thể nghiên cứu
Đội ngũ giáo viên của Trường Trung học Bưu chính Viễn thông và

Công nghệ thông tin I.
3


5. Giả thuyết khoa học
Những biện pháp đề xuất trong Luận văn được áp dụng một cách đồng
bộ sẽ góp phần phát triển đội ngũ giáo viên của trường Trung học Bưu chính
Viễn thông và Công nghệ thông tin I cả về số lượng và chất lượng, đảm bảo
về cơ cấu để có thể đáp ứng yêu cầu nâng cấp thành trường Cao đẳng.
6. Phạm vi nghiên cứu
Đội ngũ giáo viên của Trường Trung học Bưu chính Viễn thông và
Công nghệ Thông tin I.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nghiên cứu các khái niệm, thuật ngữ liên quan đến đề tài.
- Nghiên cứu các văn bản, chỉ thị, nghị quyết của Đảng và của Nhà nước.
7.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
- Phương pháp phân tích và thống kê.
- Phương pháp chuyên gia.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, phụ lục luận văn được trình bày trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài.
Chương 2: Thực trạng Nhà trường và đội ngũ giáo viên Trường Trung học
Bưu chính Viễn thông và Công nghệ thông tin I.
Chương 3: Những biện pháp phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng yêu cầu
nâng cấp Trường Trung học Bưu chính Viễn thông và Công nghệ
thông tin I thành Trường Cao đẳng.


4


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Phát triển đội ngũ giáo viên là một đề tài đã được nghiên cứu tương đối
nhiều với những mục đích khác nhau và với những góc độ khác nhau.
Với các Luận văn học vị Thạc sĩ khoa học, có thể nêu một số đề tài như sau:
- Các giải pháp chủ yếu phát triển đội ngũ giảng viên Trường Đại học
Vinh trong giai đoạn hiện nay. Phạm Công Lý. Vinh, 2001.
- Các giải pháp xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên Trường Phổ
thông vùng cao Việt Bắc. Nguyễn Trường Sơn. Hà Nội, 2002.
- Những giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng Sư phạm
Hòa Bình trong giai đoạn 2006 – 2010. Nguyễn Thị Lệ Hường. Hà Nội, 2006.
- Các biện pháp phát triển đội ngũ giảng viên Trường Cao đẳng cộng
đồng Hà Nội trong giai đoạn hiện nay. Hoàng Ngọc Hiền. Hà Nội, 2007.
- Các giải pháp phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng nhu cầu nâng cấp
Trường Cao đẳng Kinh tế – Kỹ thuật công nghiệp I thành Trường Đại học.
Trần Ngọc Huy. Hà Nội, 2007.
Trong các Luận văn trên, với những góc độ, mục tiêu và hoàn cảnh cụ
thể, các đề tài cũng tập trung vào phát triển đội ngũ. Các đề tài đã đề xuất
nhiều giải pháp khác nhau trong xây dựng và phát triển đội ngũ, các giải pháp
tập trung vào phát triển đội ngũ ”đáp ứng yêu cầu giai đoạn...”, còn phát triển
đội ngũ để "nâng cấp trường” thì có đề tài nâng cấp từ trường Cao đẳng thành
trường Đại học, còn với góc độ từ trường Trung cấp thành trường Cao đẳng
của ngành Thông tin- Truyền thông thì chưa được nghiên cứu.
1.2. Một số khái niệm
1.2.1. Khái niệm về biện pháp

Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng, 1997): Biện pháp là: "Cách
5


làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể". Ví dụ: biện pháp hành chính, biện
pháp kỹ thuật, dùng biện pháp đúng [35].
Theo đó “Biện pháp phát triển” là cách làm cho một sự vật, một sự việc,
một hiện tượng nào đó phát triển.
1.2.2. Khái niệm về phát triển
Ta thấy mọi sự vật, hiện tượng trong xã hội đều luôn vận động, biến đổi
và phát triển không ngừng. Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng, 1997)
Phát triển là: Biến đổi hoặc làm cho biến đổi từ ít đến nhiều, hẹp đến rộng,
thấp đến cao, đơn giản đến phức tạp.
Đó có thể là sự biến đổi do vận động nội tại trong bản thân sự vật hiện
tượng, có thể do tác động của các tác nhân bên ngoài làm cho chúng biến đổi
cả về số và chất lượng.
Nhà hoạt động xã hội nổi tiếng người Mỹ David C.Kortel đã nói: Phát
triển là một quá trình qua đó các thành viên của xã hội tăng được những khả
năng của cá nhân và định chế của mình để huy động và quản lý các nguồn
nhân lực nhằm tạo ra những thành quả bền vững...
Theo Giáo trình triết học dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh
không thuộc chuyên ngành triết học - Nhà xuất bản lý luận Chính trị Hà Nội
2006, "cơ sở lý luận của nguyên tắc phát triển là nguyên lý về sự phát triển
của phép biện chứng duy vật. Theo đó phát triển là sự vận động tiến lên từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện
hơn. Phát triển là một trường hợp đặc biệt của sự vận động và trong sự phát
triển sẽ nảy sinh những tính quy định mới, cao hơn về chất, nhờ đó, làm cho
cơ cấu tổ chức, phương thức tồn tại và vận động của sự vật, hiện tượng cùng
chức năng của nó ngày càng hoàn thiện hơn"[21].
Phát triển là quá trình trải qua nhiều giai đoạn từ thấp đến cao, từ đơn

giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện. Mỗi giai đoạn phát triển
lại có những đặc điểm, tính chất, hình thức khác nhau, bởi vậy phải có sự
6


phân tích cụ thể để tìm ra những hình thức tác động phù hợp, hoặc để thúc
đẩy hoặc để hạn chế sự phát triển đó. "Nguyên tắc phát triển đòi hỏi trong
hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, phải nhạy cảm với cái mới, sớm
phát hiện ra cái mới hợp quy luật, tạo điều kiện cho cái mới đó phát triển, thay
thế cái cũ.... Trong quá trình thay thế cái cũ phải biết thừa kế dưới dạng lọc bỏ
và cải tạo những yếu tố tích cực đã đạt được, phát triển sáng tạo chúng trong
cái mới"[21].
Từ các quan niệm trên ta thấy:
- Phát triển là sự vận động biến đổi theo chiều hướng đi lên của mọi sự
vật, hiện tượng trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.
- Phát triển tuân theo quy luật vận động nội tại, khách quan.
- Phát triển là sự tăng tiến, tăng trưởng cả về số lượng và chất lượng.
- Trong hoạt động xã hội, phát triển bao giờ cũng nhằm mục đích cụ thể.
1.2.3. Khái niệm về đội ngũ giáo viên
1.2.3.1. Đội ngũ
Hiện tại có nhiều cách hiểu khác nhau về thuật ngữ “đội ngũ”. Trong
các tổ chức xã hội, ta có thể lấy ví dụ: Đội ngũ tri thức, đội ngũ văn nghệ sĩ,
đội ngũ thày thuốc.
Theo Từ điển Tiếng Việt (NXB Đà Nẵng, 1997), “Đội ngũ” là: Khối
đông người được tập hợp và tổ chức thành lực lượng chiến đấu. Tập hợp gồm
một số đông người cùng chức năng hoặc nghề nghiệp, thành một lực lượng.
Theo định nghĩa trên ta có thể hiểu đội ngũ với các ý nghĩa sau đây:
- Là một tập hợp người.
- Có cùng một lý tưởng, mục đích.
- Làm việc chung theo một kế hoạch.

- Gắn bó với nhau về quyền lợi vật chất và tinh thần.
1.2.3.2. Đội ngũ giáo viên
“Đội ngũ giáo viên” là tập hợp các nhà giáo làm nhiệm vụ giảng dạy,
7


nghiên cứu khoa học tại các trường học và các cơ sở GD khác. Họ làm việc
trong những tổ chức nhất định (những nhà trường và các cơ sở GD khác) để
thực hiện mục đích chung là hoàn thành nhiệm vụ dạy học và GD người học,
nghiên cứu khoa học, hoàn thành nhiệm vụ theo chương trình, kế hoạch mục
tiêu của từng môn học, khoá học tại một nhà trường nhất đinh.
1.3. Vị trí, mục tiêu, nội dung, phương pháp của đào tạo Trung cấp
chuyên nghiệp và đào tạo Cao đẳng
Theo Luật Giáo dục 2005, đào tạo trình độ TCCN thuộc hệ giáo dục
nghề nghiệp; đào tạo trình độ cao đẳng thuộc hệ giáo dục đại học.
1.3.1. Vị trí của giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học
Vị trí của giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học trong hệ thống giáo
dục quốc dân được thể hiện ở sơ đồ sau (www.edu.net.vn):
Tuổi
Tiến sĩ
24
Thạc sĩ
21

18

Cao đẳng

Đại học


18
15

Trung học
phổ thông

Trung cấp
chuyên nghiệp

Giáo

Dạy nghề

dục
thường

Trung học cơ sở
11
Tiểu học

xuyên

6
6

Mẫu giáo

3

Nhà trẻ


3 tháng
Sơ đồ 1.1: Vị trí trường TCCN và trường CĐ trong hệ thống GD quốc dân
Từ sơ đồ trên ta thấy, Trường TCCN trong hệ thống giáo dục nghề

8


nghiệp, còn Trường Cao đẳng thuộc hệ thống giáo dục đại học. Hai trình độ
đào tạo này được thể hiện ở mục tiêu, nội dung, phương pháp quy định trong
Luật Giáo dục 2005.
1.3.2. Mục tiêu, nội dung, phương pháp của giáo dục nghề nghiệp và giáo
dục đại học
Bảng 1.1. Mục tiêu, nội dung và phương pháp
giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học (Luật Giáo dục, 2005)
Giáo dục nghề nghiệp (TCCN)

Giáo dục đại học (Cao đẳng)

Mục tiêu của giáo dục nghề

Mục tiêu của giáo dục đại

nghiệp là đào tạo người lao động học là đào tạo người học có
có kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp phẩm chất chính trị, đạo đức,
ở các trình độ khác nhau, có đạo có ý thức phục vụ nhân dân,
đức, lương tâm nghề nghiệp, ý có kiến thức và năng lực thực
thức kỷ luật, tác phong công hành nghề nghiệp tương xứng
nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo với trình độ đào tạo, có sức
điều kiện cho người lao động có khoẻ, đáp ứng yêu cầu xây

Mục
tiêu

khả năng tìm việc làm, tự tạo việc dựng và bảo vệ Tổ quốc.
làm hoặc tiếp tục học tập nâng cao
trình độ chuyên môn, nghiệp vụ,
đáp ứng yêu cầu phát triển KTXH, củng cố quốc phòng, an ninh.
Trung cấp chuyên nghiệp nhằm

Đào tạo trình độ cao đẳng

đào tạo người lao động có kiến giúp sinh viên có kiến thức
thức, kỹ năng thực hành cơ bản của chuyên môn và kỹ năng thực
một nghề, có khả năng làm việc hành cơ bản để giải quyết những
độc lập và có tính sáng tạo, ứng vấn đề thông thường thuộc
dụng công nghệ vào công việc.

9

chuyên ngành được đào tạo.


1. Nội dung giáo dục nghề

1. Nội dung giáo dục đại

nghiệp phải tập trung đào tạo học phải có tính hiện đại và
năng lực thực hành nghề nghiệp, phát triển, bảo đảm cơ cấu
coi trọng giáo dục đạo đức, rèn hợp lý giữa kiến thức khoa
luyện sức khoẻ, rèn luyện kỹ học cơ bản, ngoại ngữ và công

năng theo yêu cầu đào tạo của nghệ thông tin với kiến thức
từng nghề, nâng cao trình độ học chuyên môn và các bộ môn
vấn theo yêu cầu đào tạo.

khoa học Mác-Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh; kế thừa và phát
huy truyền thống tốt đẹp, bản
sắc văn hoá dân tộc; tương
ứng với trình độ chung của
khu vực và thế giới.

Nội

Đào tạo trình độ cao đẳng

dung,

phải bảo đảm cho sinh viên có

Phương

những kiến thức khoa học cơ

pháp

bản và kiến thức chuyên môn
cần thiết, chú trọng rèn luyện
kỹ năng cơ bản và năng lực
thực hiện công tác chuyên môn.
2. Phương pháp giáo dục


2. Phương pháp đào tạo

nghề nghiệp phải kết hợp rèn trình độ cao đẳng, trình độ đại
luyện kỹ năng thực hành với học phải coi trọng việc bồi
giảng dạy lý thuyết để giúp dưỡng ý thức tự giác trong
người học có khả năng hành học tập, năng lực tự học, tự
nghề và phát triển nghề nghiệp nghiên cứu, phát triển tư duy
theo yêu cầu của từng công việc.

sáng tạo, rèn luyện kỹ năng
thực hành, tạo điều kiện cho
người học tham gia nghiên
cứu, thực nghiệm, ứng dụng.

10


Từ Bảng 1.1. ta thấy :
- Về mục tiêu đào tạo, TCCN có mục tiêu "đào tạo người lao động có
kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề, có khả năng làm việc độc
lập và có tính sáng tạo, ứng dụng công nghệ vào công việc”.
Trong khi đó, mục tiêu đào tạo của Cao đẳng "sinh viên có kiến thức
chuyên môn và kỹ năng thực hành cơ bản để giải quyết những vấn đề thông thường
thuộc chuyên ngành được đào tạo”.

- Về nội dung đào tạo, đối với TCCN "tập trung đào tạo năng lực thực
hành nghề nghiệp”.

Đối với Cao đẳng lại yêu cầu "bảo đảm cho sinh viên có những kiến thức

khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn cần thiết, chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ
bản và năng lực thực hiện công tác chuyên môn”.

Rõ ràng ta thấy yêu cầu đối với sản phẩm đào tạo ở hai trình độ rất khác
nhau, đương nhiên, đối với trình độ cao đẳng đòi hỏi cả "kiến thức khoa học
cơ bản và kiến thức chuyên môn cần thiết”. Trong khi đó, đối với TCCN chỉ
yêu cầu "kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề”.
- Về phương pháp, đối với TCCN "kết hợp rèn luyện kỹ năng thực hành
với giảng dạy lý thuyết.
Đối với Cao đẳng lại yêu cầu "phải coi trọng việc bồi dưỡng ý thức tự
giác trong học tập, năng lực tự học, tự nghiên cứu, phát triển tư duy sáng tạo,
rèn luyện kỹ năng thực hành"
Từ mục tiêu, nội dung, phương pháp của hai hệ khác nhau đòi hỏi số
lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên cũng khác nhau.
1.4. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ và quyền hạn đối với giáo viên Trung cấp
chuyên nghiệp và giảng viên Cao đẳng
1.4.1. Tiêu chuẩn, nhiệm vụ đối với nhà giáo
* Tiêu chuẩn chung đối với nhà giáo (Điều 70, Luật Giáo dục, 2005):
a) Phẩm chất, đạo đức, tư tưởng tốt;
11


b) Đạt trình độ chuẩn được đào tạo về chuyên môn, nghiệp vụ;
c) Đủ sức khỏe theo yêu cầu nghề nghiệp;
d) Lý lịch bản thân rõ ràng.
* Nhiệm vụ chung đối với Nhà giáo (Điều 72, Luật Giáo dục, 2005):
a) Giáo dục, giảng dạy theo mục tiêu, nguyên lý giáo dục, thực hiẹn đầy
đủ và có chất lượng chương trình giáo dục;
b) Gương mẫu thực hiện nghĩa vụ công dân, các quy định của pháp luật
và điều lệ nhà trường;

c) Giữ gìn phẩm chất, uy tín, danh dự của nhà giáo, tôn trọng nhân cách
của người học, đối xử công bằng với người học, bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của người học;
d) Không ngừng học tập, rèn luyện để nâng cao phẩm chất, đạo đức,
trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, đổi mới phương pháp dạy học, nêu
gương tốt cho người học;
đ) Các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật [2].
1.4.2. Tiêu chuẩn và nhiệm vụ đối với giáo viên Trung cấp chuyên nghiệp
và giảng viên Cao đẳng
Các tiêu chuẩn và nhiệm vụ được quy định trong :
- Điều lệ Trường Trung cấp chuyên nghiệp (Ban hành kèm theo Quyết
định số 43/2008/QĐ-BGDĐT ngày 29/7/2008)[18];
- Điều lệ Trường Cao đẳng (Ban hành kèm theo Quyết định số
56/2003/QĐ-BGD&ĐT ngày 10/12/2003)[14];
Bảng 1.2. Tiêu chuẩn và nhiệm vụ của giáo viên TCCN, giảng viên Cao đẳng
Giáo viên trường TCCN
Tiêu
chuẩn

- Phẩm chất, đạo đức, tư
tưởng tốt;

Giảng viên trường Cao đẳng
- Có phẩm chất đạo đức, tư
tưởng, sức khoẻ tốt và lý lịch

- Có bằng tốt nghiệp đại học bản thân rõ ràng.

12



sư phạm hoặc có bằng tốt

- Tối thiểu phải có một bằng

nghiệp đại học và chứng chỉ bồi tốt nghiệp đại học và phải được
dưỡng nghiệp vụ sư phạm theo bồi dưỡng về nghiệp vụ sư
quy định của Bộ GD&ĐT;

phạm.

- Đủ sức khỏe theo yêu cầu
nghề nghiệp;
- Lý lịch bản thân rõ ràng.
- Giáo dục, giảng dạy theo

- Phải chấp hành nghiêm

mục tiêu, nguyên lý giáo dục, chỉnh chủ trương, nghị quyết của
thực hiện đầy đủ và có chất Đảng, chính sách, pháp luật của
lượng chương trình giáo dục;

Nhà nước, thực hiện các quy chế

- Gương mẫu thực hiện nghĩa của Bộ giáo dục và Đào tạo và
vụ công dân, các quy định của của Nhà trường quy định: Viết
pháp luật và điều lệ nhà trường; giáo trình, phát triển tài liệu phục
- Giữ gìn phẩm chất, uy tín, vụ giảng dạy và học tập theo sự
danh dự của nhà giáo, tôn trọng phân công của nhà trường,
Nhiệm nhân cách của người học, đối phòng đào tạo và của khoa.

vụ

xử công bằng với người học,

- Chịu sự giám sát của các cấp

bảo vệ quyền, lợi ích chính quản lý về chất lượng, nội dung,
đáng của người học;

phương pháp đào tạo và nghiên

- Không ngừng học tập, rèn cứu khoa học.
luyện để nâng cao phẩm chất,

- Tham gia hoặc chủ trì các đề

đạo đức, trình độ chính trị, tài nghiên cứu khoa học, ứng
chuyên môn, nghiệp vụ, đổi dụng chuyển giao công nghệ
mới phương pháp dạy học, nêu theo sự phân công của nhà
gương tốt cho người học;

trường, phòng đào tạo và của

- Các nhiệm vụ khác theo khoa.

13


quy định của pháp luật.


- Giữ gìn phẩm chất uy tín
danh dự của nhà giáo, tôn trọng
nhân cách của người học, bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của
người học, hướng dẫn người học
trong học tập, nghiên cứu khoa
học, rèn luyện tư tưởng đạo đức,
tác phong, lối sống.
- Không ngừng tự bồi dưỡng
nghiệp vụ, cải tiến phương pháp
giảng

dạy để nâng cao chất

lượng đào tạo.
- Hoàn thành tốt công tác
được nhà trường, phòng đào tạo
và khoa giao.
Rõ ràng, về tiêu chuẩn, người giảng viên trường Cao đẳng yêu cầu "tối
thiểu” có trình độ đại học. Trong thực tế, số giảng viên ở các trường Cao đẳng
phải có một tỷ lệ nhất định sau đại học.
Theo Nghị quyết 14/2005/NQ-CP ngày 02/11/2005 của Chính phủ về
Đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục Đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020
đã đưa ra chỉ tiêu về chất lượng đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng: ”...Đến
năm 2010 có ít nhất 40% giảng viên có trình độ thạc sĩ và 25% có trình độ
tiến sĩ; đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên có trình độ thạc sĩ và 35% có
trình độ tiến sĩ”[9].
- Về chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên TCCN:

14



Thực tế hiện nay, giáo viên TCCN có trình độ chuyên môn không đồng
đều: có giáo viên dạy được cả lý thuyết và thực hành, có giáo viên chỉ dạy
được lý thuyết, lại có giáo viên chỉ dạy được thực hành.
Như trên đã nêu, để thực hiện được mục tiêu đào tạo của TCCN "đào
tạo người lao động cú kiến thức, kỹ năng thực hành cơ bản của một nghề.."
thì người giáo viên cần có cả năng lực về lý thuyết và năng lực hướng dẫn
thực hành.
Trong khi đó, đối với giảng viên trường Cao đẳng cần "bảo đảm cho
sinh viên có những kiến thức khoa học cơ bản và kiến thức chuyên môn cần
thiết, chú trọng rèn luyện kỹ năng cơ bản". Ở đây ta thấy, đối với giảng viên
Cao đẳng đòi hỏi một năng lực cao mới "bảo đảm cho sinh viên có những
kiến thức khoa học cơ bản" và "rèn luyện kỹ năng cơ bản". Nghĩa là người
thày vừa có trình độ chuyên môn sâu, vừa có năng lực rèn luyện cho sinh viên
những kỹ năng cơ bản. Nghĩa là, giảng viên trường Cao đẳng vừa có trình độ
giảng dạy lý thuyết, vừa có trình độ hướng dẫn thực hành.
Đây chính là những yêu cầu khi phát triển đội ngũ giáo viên của trường
TCCN thành giảng viên của trường Cao đẳng cần được quan tâm và đây cũng
là yếu tố quyết định chất lượng một trường đào tạo trong hệ thống đại học.
Mặt khác, một năng lực khác đòi hỏi người giảng viên phải có, đó là
năng lực nghiên cứu khoa học.
Trong nhiệm vụ của người giảng viên cao đẳng (Bảng 1.2) đã nêu
"Tham gia hoặc chủ trì các đề tài nghiên cứu khoa học, ứng dụng chuyển
giao công nghệ". Rõ ràng, nghiên cứu khoa học là một nhiệm vụ chính của
giảng viên. Trong hệ thống giáo dục đại học, việc nghiên cứu khoa học là một
trong những hoạt động cơ bản của các nhà trường và là nhiệm vụ chủ yếu (thứ
hai) của mỗi giảng viên.
Đây cũng là một trong những yêu cầu cần nâng cao đối với việc phát
triển đội ngũ trong các trường đại học, cao đẳng.

15


1.5. Những yêu cầu phát triển đội ngũ giảng viên hệ trường Cao đẳng
1.5.1. Những yêu cầu cơ bản nâng cấp trường trung cấp thành trường cao đẳng
Để trở thành trường cao đẳng, cần đảm bảo các tiêu chuẩn đánh giá
chất lượng giáo dục của hệ thống giáo dục đại học. Các nội dung (tiêu chuẩn)
cơ bản của đánh giá chất lượng là:
1.5.1.1. Xác định sứ mạng và mục tiêu:
Đây là “Tuyên ngôn” của một nhà trường, nó phải được xác định một
cách rõ ràng nhằm đáp ứng các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục của
Đảng “Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, tiến
bộ khoa học- công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh...”.
Khi phát biểu sứ mạng của nhà trường nói chung và Trường Cao đẳng
nói riêng cần trả lời được các câu hỏi sau (4 W):
- Là ai (Who)?
- Làm gì (What)?
- Tại sao (Why)?
- Khi nào (When)?
Sự khác nhau cơ bản giữa Trường Trung cấp chuyên nghiệp với
Trường Cao đẳng là “Làm gì” và “Tại sao”. Các khác nhau cơ bản là mục
tiêu, nội dung và phương pháp đào tạo (xem Bảng 1.1 và 1.2).
1.5.1.2. Xây dựng chương trình, giáo trình
Vì chuyển từ trường Trung cấp chuyên nghiệp lên trường Cao đẳng là
chuyển cả về chất và lượng, thay đổi cả mục tiêu, nội dung và phương pháp
đào tạo; thay đổi đối tượng đào tạo. Các chương trình đào tạo được xây dựng
theo một hệ thống mới. Phải hoàn thiện chương trình, giáo trình đào tạo trình
độ cao đẳng trên tinh thần kế thừa chương trình, giáo trình đào tạo trình độ
trung cấp và trên cơ sở chương trình khung, theo đúng quy định của các
chương trình khung của các ngành nghề đào tạo. Ngoài ra, trong khi xây dựng


16


chương trình cần chú ý: “Tiến hành đổi mới mạnh mẽ chương trình đào tạo
theo hướng đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá, tạo điều kiện để mau chóng
tiếp thu có chọn lọc những chương trình đào tạo của các nước phát triển về
khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ..., phù hợp với yêu cầu của đất
nước...”[5].
Điều 41, Luật Giáo dục 2005 quy định:
“Chương trình giáo dục đại học thể hiện mục tiêu giáo dục đại học; quy
định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi và cấu trúc nội dung giáo dục đại học,
phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá kết quả đào tạo đối với
mỗi môn học; bảo đảm yêu cầu liên thông với các chương trình giáo dục khác”.
“...Căn cứ vào chương trình khung, trường cao đẳng, trường đại học
xác định chương trình giáo dục của trường mình”.
“Hiệu trưởng các trường cao đẳng, đại học có trách nhiệm tổ chức biên
soạn và duyệt giáo trình các môn học để sử dụng chính thức trong trường trên
cơ sở thẩm định của Hội đồng thẩm định giáo trình do Hiệu trưởng thành lập;
bảo đảm đủ giáo trình phục vụ giảng dạy, học tập”[2].
Để thực hiện được nhiệm vụ này, mỗi trường cao đẳng, đại học phải có
một đội ngũ giảng viên có năng lực và trình độ chuyên môn tốt.
1.5.1.3. Tổ chức, quản lý đào tạo
- Phương thức quản lý, tổ chức các quá trình đào tạo cũng được thay
đổi. Đây là hoạt động cơ bản có tính chất thường xuyên. Nhà trường phải xây
dựng được bộ phận quản lý đào tạo, thực hiện các công việc từ kế hoạch hoá
quy mô, hình thức, chương trình đào tạo đến việc điều hành, quản lý giảng
dạy học tập cho đến việc nâng cao chất lượng đội ngũ, mở rộng loại hình đào
tạo... Hiện nay đang chuyển từ đào tạo theo niên chế sang đào tạo theo hệ
thống tín chỉ. Việc chuyển đổi này phải có sự thay đổi về phương thức quản

lý, về hệ thống chương trình và giáo trình, v.v.... Hiện nay các trường cao

17


đẳng, đại học khi thực hiện phương thức đào tạo này cũng gặp những khó
khăn nhất định.
- Phương pháp đào tạo cũng thay đổi (như trên đã nói, Bảng 1.2.).
- Đối tượng đào tạo: chuyển từ đào tạo hệ Trung cấp chuyên nghiệp
sang đào tạo hệ Cao đẳng. Tiêu chuẩn người học và cách thức tuyển chọn
được thực hiện ở việc tuyển sinh hàng năm.
- Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và nhân viên phải đảm bảo cả về số
lượng và chất lượng, có bồi dưỡng trọng điểm, có kế thừa, có chọn lọc. Trong
mục tiêu phát triển giáo dục của Đảng ta đến năm 2010 có nhấn mạnh đến
Giáo dục cao đẳng, đại học và sau đại học phải “đáp ứng nhu cầu nguồn nhân
lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế - xã hội của thời kỳ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá...” [32].
- Tài chính và quản lý tài chính: Cần đổi mới cơ chế quản lý tài chính
cũng như tăng đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó có chính sách
khuyến khích cán bộ giáo viên và người học.
Các yếu tố này thay đổi, đòi hỏi một loạt các yếu tố khác thay đổi,
trong đó một yếu tố quyết định chất lượng đào tạo là đội ngũ giảng viên.
1.5.1.4. Phát triển đội ngũ giảng viên
Đây là việc làm quan trọng số một của nhà trường vì đội ngũ giảng
viên là điều kiện trung tâm, nhân tố lao động tác động trực tiếp quyết định
nhiệm vụ đào tạo của nhà trường; Phát triển đội ngũ giảng viên phải đảm bảo
về số lượng, hợp lý về cơ cấu và chuẩn về chất lượng đáp ứng nhu cầu vừa
tăng quy mô vừa nâng cấp chất lượng và hiệu quả giáo dục.
Như trên đã nói, đội ngũ giảng viên có đủ năng lực và trình độ chuyên
môn thì mới đảm bảo được các nhiệm vụ chính trị trung tâm của các trường

cao đẳng, đại học. Các nhiệm vụ đó là đào tạo và nghiên cứu khoa học. Hai
nhiệm vụ này thực chất là một. Đối với các trường cao đẳng, đại học, để giảng

18


dạy tốt phải tiến hành nghiên cứu khoa học; ngược lại, kết quả nghiên cứu
khoa học là căn cứ cho đào tạo...
1.5.1.5. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học
Ở trường trung cấp hoạt động nghiên cứu khoa học còn ở mức độ thấp,
nhưng chuyển lên trình độ cao đẳng thì đây là hoạt động chủ yếu có tính chất
bắt buộc đối với các giảng viên; hoạt động nghiên cứu khoa học có tác dụng
rất lớn đối với việc nâng cao trình độ chuyên môn của giáo viên và chất lượng
đào tạo.
1.5.1.6. Về cơ sở vật chất, thiết bị dạy học
Trong cơ sở vật chất, thiết bị dạy học (CSVC-TBDH), cần quan tâm đến
thư viện, các phương tiện dạy học. Đối với thư viện, đầu tư nhiều đầu sách, cách
thức cung cấp tài liệu, v.v.... Về trang thiết bị dạy học, cần tập trung trang bị các
thiết bị dạy học hiện đại phục vụ cho việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo - mục tiêu chính của nhà trường;
Tóm lại khi nâng cấp nhà trường từ Trung cấp lên Cao đẳng cần thực
hiện tất cả các nội dung trên một cách đồng bộ, triệt để, chặt chẽ để đáp ứng
nhu cầu và nhiệm vụ mới. Tuy nhiên trong đề tài này chúng tôi chỉ đề cập đền
vấn đề phát triển đội ngũ giáo viên.
1.5.2. Những căn cứ để phát triển đội ngũ giảng viên trường Cao đẳng
1.5.2.1. Căn cứ mục tiêu của chiến lược phát triển GD đến năm 2010
Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: Để có thể “đưa
nước ta thoát khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất,
văn hoá, tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản
trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại hoá” thì “giáo dục và

khoa học công nghệ có vai trò quyết định, nhu cầu phát triẻn giáo dục là rất
bức thiết”, trong đó có giáo dục nghề nghiệp. Tuy nhiên một trong những tồn
tại của giáo dục Việt Nam hiện nay là “đội ngũ nhà giáo thiếu về số lượng và

19


nhìn chung thấp về chất lượng, chưa đáp ứng được yêu cầu...” “đội ngũ giảng
viên ít nghiên cứu khoa học”[1].
Một trong những giải pháp phát triển giáo dục là phát triển đội ngũ nhà
giáo trong đó có giảng viên đại học, cao đẳng: “Khẩn trương đào tạo, bổ sung
và nâng cao trình độ đội ngũ giảng viên đại học, cao đẳng để một mặt giảm tỷ
lệ sinh viên/giảng viên trung bình đang quá cao hiện nay (30) xuống khoảng
20, trong đó 10-15 đối với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công
nghệ, 20-25 đối với các ngành khoa học xã hội và nhân văn...” [10].
Trong đề án đổi mới giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn 2006-2020,
một trong những mục tiêu phát triển giáo dục đại học đến năm 2020 đã nêu
các chỉ tiêu: ”Xây dựng đội ngũ giảng viên và CBQL giáo dục đại học đủ về
số lượng, có phẩm chất đạo đức và lương tâm nghề nghiệp, có trình độ
chuyên môn cao, phong cách giảng dạy và quản lý tiên tiến; bảo đảm tỷ lệ
sinh viên/giảng viên của hệ thống giáo dục đại học không quá 20. Đến năm
2010 có ít nhất 40% giảng viên có trình độ thạc sĩ và 25% có trình độ tiến sĩ;
đến năm 2020 có ít nhất 60% giảng viên có trình độ thạc sĩ và 35% có trình
độ tiến sĩ” [5].
1.5.2.2. Căn cứ chỉ thị của Ban Bí thư về việc xây dựng, nâng cao chất lượng
đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục
Chiến lược phát triển giáo dục 2001-2010 đã đưa ra mục tiêu là “... xây
dựng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chuẩn hoá, đảm bảo
chất lượng, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu, đặc biệt chú trọng nâng cao
bản lĩnh chính trị, phẩm chất, lối sống, lương tâm, tay nghề của nhà giáo;

thông qua việc quản lý, phát triển đúng định hướng và có hiệu quả sự nghiệp
giáo dục để nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng những đòi
hỏi ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”[10].
Một trong những nhiệm vụ mà Ban Bí thư yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức
Đảng chỉ đạo thực hiện tốt là: “Tiến hành rà soát, sắp xếp lại đội ngũ nhà
20


giáo, cán bộ quản lý giáo dục để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng bảo đảm đủ
số lượng và cân đối về cơ cấu; nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đạo
đức cho đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục”[3].
1.5.2.3. Căn cứ cơ cấu nhân lực và cơ cấu đào tạo nhân lực ở nước ta trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Sự tăng nhanh tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ đã làm
biến đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của đất nước. Tỷ trọng nông, lâm nghiệp
trong cơ cấu GDP giảm xuống từ 27,2% (1995) xuống còn 24,3% (2000),
đồng thời tỷ trọng công nghiệp và xây dựng tăng từ 28,7% lên 36,6%; ngành
dịch vụ giảm từ 41,1% xuống còn 39,1%. Đời sống xã hội phát triển, dân trí
ngày càng cao đã thúc đẩy những nhu cầu mới về nhân lực, về cơ cấu ngành
nghề, trình độ đào tạo, phân bố theo vùng lãnh thổ, ngành kinh tế. Từ đó đòi
hỏi phải có những nhận thức mới và những giải pháp mới về đào tạo và quản
lý, sử dụng nguồn nhân lực. Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ IX đã xác định,
cần “điều chỉnh hợp lý cơ cấu bậc học, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu vùng trong
hệ thống giáo dục và đào tạo phù hợp với yêu cầu học tập của nhân dân, yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội nước ta trong giai đoạn phát triển mới” [1].
1.5.3. Những yêu cầu đối với đội ngũ giảng viên hệ trường Cao đẳng
1.5.3.1. Những yêu cầu về chất lượng
a) Yêu cầu về phẩm chất đạo đức
Để có thể thực hiện được mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5
năm 2006-2010 mà Đại hội Đảng X đã đưa ra là: “...sớm đưa nước ta ra khỏi

tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”. Vấn đề cơ bản là phát
triển nguồn nhân lực có đủ về số lượng và đảm bảo về chất lượng. Đây chính
là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và hội nhập quốc tế. Vì vậy phải đào tạo người lao động có phẩm chất và
năng lực đáp ứng yêu cầu của giai đoạn mới; Rèn luyện, giáo dục người học
21


có sự phát triển hài hoà về: kiến thức, thái độ, kỹ năng, hành động để có:
Tâm hồn trong sáng, Trí tuệ vững vàng, Thể chất cường tráng.
Giáo viên là nhân tố quyết định cho chất lượng, hiệu quả giáo dục, vì
vậy hơn ai hết những người làm công tác đào tạo, mà chủ yếu là những người
thày, người cô đứng trên bục giảng phải gương mẫu, quý trọng và hăng say lao
động, có lòng nhân ái, tôn trọng và nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật; có đạo
đức nghề nghiệp trong sáng, quan tâm và tham gia giải quyết các vấn đề nóng
bỏng của xã hội. Giáo viên phải hạnh phúc khi người học hạnh phúc và luôn
coi “người học là nhân vật quan trọng của nhà trường, là dòng máu của nhà trường, là nhân tố quyết định sự sống còn của nhà trường”. Có như vậy thì người
thầy mới làm tốt và tròn trách nhiệm với học sinh, với xã hội, mới có thể đào
tạo ra đội ngũ lao động “vừa hồng, vừa chuyên”.
Để có thể hình thành, hoàn thiện và phát triển nhân cách cho học sinh,
một trong những yếu tố cơ bản là sự nêu gương của người thày. Người thày
phải là một tấm gương, có đạo đức, tác phong, lối sống văn minh, lịch sự; từ
đó xây dựng môi trường sư phạm trên cơ sở tôn trọng-kỷ cương-tình thươngbao dung-trách nhiệm- sáng tạo.
b) Yêu cầu về trình độ chuyên môn
Trình độ chuyên môn là yếu tố cần đối với người thày. Chúng ta còn
luôn ghi nhớ lời dạy của Bác Hồ “...Có đức mà không có tài thì làm việc gì
cũng khó”.
Trong xã hội khoa học công nghệ phát triển và thông tin bùng nổ như
hiện nay, đòi hỏi người thày không những chỉ có trình độ, kiến thức tiếp thu

được từ mái trường mà phải thường xuyên cập nhập thông tin mới, tiếp cận
công nghệ mới; từ đó có thể truyền thụ tới học trò, tới những người công dân
trẻ của đất nước. Vì thế đòi hỏi chính người thày phải “học mọi nơi, học mọi
lúc, học mọi vấn đề, học mọi người và học bằng mọi cách”, và giúp học sinh

22


“Học để biết, để chung sống, để làm và để tồn tại” hay “biết cách nhận thức,
biết cách thích ứng, biết cách liên hệ, biết cách chọn lựa”.
Đối với giảng viên trường cao đẳng, đại học, hai nhiệm vụ cơ bản là
giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Vì vậy, trình độ chuyên môn của mỗi
giảng viên được thể hiện ở năng lực thực hiện hai nhiệm vụ này.
c) Yêu cầu về năng lực nghề nghiệp
Phương pháp dạy học vô cùng quan trọng quyết định chính tới chất
lượng quá trình đào tạo. Bác Phạm Văn Đồng- Nhà hoạt động Chính trị xuất
sắc của Việt Nam thế kỷ XX đã nói: Người dạy phải coi người học là trung
tâm, là đối tượng. Trường lớp thì có nhiều, nhưng cái trung tâm, cái đối tượng
thì chỉ có một. Chúng ta hãy nhớ tới một câu nói thông thường nhưng rất sâu
sắc của Bác Hồ và cũng là của người xưa: Dĩ bất biến - ứng vạn biến (lấy cái
bất biến ứng với cái vạn biến). Vạn biến là thể hiện sự rất khác nhau của hoàn
cảnh người học. Người dạy gặp những người học trình độ cao thấp khác nhau
yêu cầu nhiều ít khác nhau, hoàn cảnh thuận lợi khó khăn khác nhau, lúc đó
người dạy phải có phương pháp cho thích hợp.
Năng lực nghề nghiệp thể hiện ở khả năng sư phạm. Nhà Giáo dục học
người Nga Cairop đã nói: Giảng không phải là nhồi học sinh một mớ kiến
thức. Các em không phải là cái bình chứa kiến thức, cũng không phải là nước
rót vào bình. Các em là ngọn đèn mà người thày cần thắp sáng. Những người
thày giáo giỏi đều dạy học phát triển tính tích cực và độc lập của học sinh.
Tức là không phải chỉ truyền thụ kiến thức đơn thuần mà phải giúp các em

hình thành phương pháp tự học, tự nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo. Muốn vậy,
người thầy:
“1. Hãy quan tâm thường xuyên đến tình cảm của người học
2. Thường xuyên tận dụng hơn nữa mục đích của người học trong tác
động qua lại của giờ học.
3. Đối thoại nhiều hơn với người học.
23


×