Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Nghi lễ tang ma của người mường ở mường bi, hòa bình xưa và nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1007.44 KB, 68 trang )

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGỮ VĂN

======

NGUYỄN HOÀI THƢƠNG

NGHI LỄ TANG MA CỦA NGƢỜI MƢỜNG
Ở MƢỜNG BI – HÒA BÌNH XƢA VÀ NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Việt Nam học
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. NGUYỄN THỊ TÍNH

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài khóa luận tốt nghiệp “Nghi lễ tang ma của ngƣời
Mƣờng ở Mƣờng Bi – Hòa Bình xƣa và nay ” tôi xin chân thành cảm ơn các
thầy cô giáo đã tận tình hƣớng dẫn, giảng dạy tôi trong suốt quá trình học tập
nghiên cứu và rèn luyện tại Trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà Nội 2
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới TS. Nguyễn Thị Tính là
ngƣời đã hƣớng dẫn, giúp đỡ và chỉ bảo tận tình trong suốt quá trình tôi thực
hiện đề tài này.
Qua đây tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến Sở Văn hóa Thể thao và Du Lịch
tỉnh Hòa Bình và ủy ban nhân dân huyện Tân Lạc và bà con dân tộc Mƣờng tại
Mƣờng Bi, Tân Lạc đã giúp đỡ nhiệt tình và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình
tìm hiểu và hoàn thành khóa luận.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài khóa luận một cách hoàn


chỉnh nhất, nhƣng trong đề tài vẫn có những thiếu sót nhất định mà bản thân
chƣa thấy đƣợc. Tôi rất mong đƣợc sự góp ý của quý thầy cô và các bạn sinh
viên để khóa luận tốt nghiệp của tôi đƣợc hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Hoài Thƣơng


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những nội dung tôi trình bày trong khóa luận này là kết
quả nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự hƣớng dẫn trực tiếp của TS. Nguyễn Thị
T nh.
Kết quả thu đƣợc là hoàn toàn trung thực và không trùng với kết quả
nghiên cứu của những tác giả khác.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của mình trong
khóa luận này.
Hà Nội, ngày 15 tháng 05 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Hoài Thƣơng


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ................................................................................ 2
3. Mục đ ch nghiên cứu ......................................................................................... 3
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................... 3

5. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 3
6. Đóng góp của khóa luận .................................................................................... 4
7. Bố cục của Khóa luận........................................................................................ 4
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ TỰ NHIÊN, XÃ HỘI NGƢỜI MƢỜNG Ở
MƢỜNG BI – HÒA BÌNH .................................................................................. 5
1.1. Đặc điểm tự nhiên .......................................................................................... 5
1.1.1. Vị tr địa lý .................................................................................................. 5
1.1.2. Địa hình ....................................................................................................... 5
1.1.3. Khí hậu ........................................................................................................ 6
1.1.4. Đất đai ......................................................................................................... 6
1.1.5. Tài nguyên ................................................................................................... 6
1.2. Đặc điểm xã hội.............................................................................................. 8
1.3. Khái quát về văn hóa vật chất và tinh thần của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi Hòa Bình................................................................................................................ 9
Tiểu kết chƣơng 1................................................................................................ 14
CHƢƠNG 2. NHỮNG NGHI LỄ TRUYỀN THỐNG TRONGTANG MA CỦA
NGƢỜI MƢỜNG Ở MƢỜNG BI – HÒA BÌNH.............................................. 15
2.1. Một số quan niệm liên quan đến tang ma .................................................... 15
2.1.1. Quan niệm về âm giới và vũ trụ ................................................................ 15
2.1.2. Quan niệm về hồn, v a con ngƣời và linh hồn ngƣời sau khi chết ........... 17


2.2. Các nghi lễ trong tang ma truyền thống của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi- Hòa
Bình ..................................................................................................................... 19
2.2.1. Nghi lễ mộc dục ........................................................................................ 19
2.2.2. Nghi lễ nhập quan ..................................................................................... 20
2.2.3. Lễ động tiếng............................................................................................. 21
2.2.4. Quạt ma ..................................................................................................... 21
2.2.5. Lễ cúng và các đêm mo ............................................................................. 22
2.2.6. Lễ đƣa tang ................................................................................................ 25
2.2.7. Lễ chôn cất ................................................................................................ 26

2.3. Một số quy định và kiêng kị......................................................................... 28
2.3.1. Một số quy định về tang phục, nhạc tang, lễ vật đi phúng ....................... 28
2.3.2. Một số điều kiêng kị .................................................................................. 31
Tiểu kết chƣơng 2................................................................................................ 33
CHƢƠNG 3. NHỮNG NÉT BIẾN ĐỔI TRONG NGHI LỄ TANG MACỦA
NGƢỜI MƢỜNG Ở MƢỜNG BI – HÒA BÌNH.............................................. 35
3.1. Những biến đổi trong nghi lễ tang ma của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi – Hòa
Bình ..................................................................................................................... 35
3.1.1. Biến đổi về nhận thức................................................................................ 35
3.1.2.Biến đổi về nghi thức và các đêm mo ........................................................ 37
3.1.3. Biến đổi trong việc chuẩn bị và hình thức báo tang ................................. 39
3.1.4. Biến đổi trong việc kiêng kị ...................................................................... 41
3.1.5. Biến đổi ở một số lĩnh vực khác trong tang ma ........................................ 42
3.2. Nguyên nhân của sự biến đổi ....................................................................... 43
3.2.1. Tác động của phát triển kinh tế ................................................................. 43
3.2.2. Tác động từ nhận thức của ngƣời dân ....................................................... 45
3.2.3. Tác động từ chính sách – luật pháp ........................................................... 46
3.2.4. Tác động từ sự giao thoa văn hóa ............................................................. 48


3.3. Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong tang ma của ngƣời
Mƣờng ở Mƣờng Bi – Hòa Bình ......................................................................... 50
3.3.1. Những giá trị trong tập tục tang ma của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi-Hòa
Bình ..................................................................................................................... 50
3.3.2. Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa trong tang ma của ngƣời
Mƣờng ................................................................................................................. 53
Tiểu kết chƣơng 3................................................................................................ 55
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 56
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 1



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc Mƣờng là một trong những dân tộc có dân số đông tại miền Bắc
Việt Nam. Với dân số trên 1.268.963 ngƣời (Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở
năm 2009), dân tộc Mƣờng tập trung chủ yếu ở tỉnh Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú
Thọ, Sơn La, Yên Bái... Trong đó, tỉnh Hòa bình là nơi ngƣời Mƣờng cƣ trú với
số lƣợng đông đảo nhất cả nƣớc. Nhắc đến ngƣời Mƣờng ở tỉnh Hòa Bình,
ngƣời ta nhớ ngay đến 4 xứ Mƣờng nổi tiếng: “Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng,
tứ Động”. Trong đó, Mƣờng Bi tƣơng ứng với địa giới hành chính của huyện
Tân Lạc bây giờ. Mƣờng Vang tƣơng ứng với huyện Lạc Sơn. Mƣờng Thàng
thuộc về 2 huyện Cao Phong và Kỳ Sơn. Còn Mƣờng Động chính là huyện Kim
Bôi ngày nay. Mỗi xứ Mƣờng đều có những đặc trƣng riêng, góp phần làm nên
sự phong phú trong văn hóa của ngƣời Mƣờng Hòa Bình.
Trong phong tục tập quán của ngƣời Mƣờng, tang lễ là một sự kiện rất quan
trọng. Xuất phát từ niềm tin vào sự tồn tại của linh hồn vào một cuộc sống sau
khi chết, quan niệm về thế giới hữu hình và vô hình, ngƣời Mƣờng tin rằng
ngƣời chết sẽ mang lời nguyện cầu của ngƣời sống đến với tổ tiên và tổ tiên sẽ
thu giữ, chỉ lối cho linh hồn ngƣời đã mất ở thế giới bên kia. Mối liên hệ vô hình
này luôn giúp ngƣời Mƣờng nhớ về ngƣời đã mất và giáo dục con cái phải biết
tôn trọng, giữ gìn những truyền thống tốt đẹp tổ tiên để lại. Từ triết lí sống đó,
dân tộc Mƣờng có những nghi thức tổ chức tang lễ rất đặc biệt. Điều này làm
nên một dấu ấn riêng, một bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Mƣờng.
Nhƣ vậy, việc tìm hiểu vốn văn hóa nói chung, tục tang ma nói riêng của
ngƣời Mƣờng ở một địa phƣơng cụ thể nhƣ Mƣờng Bi (huyện Tân Lạc) tỉnh
Hòa Bình có thể góp phần giới thiệu về ngƣời Mƣờng và tục tang ma của họ,
đồng thời bảo tồn và phát triển những nét bản sắc trong văn hóa của dân tộc này.
Mặt khác, là một ngƣời con của đất Hòa Bình, tôi luôn cảm thấy có trách
nhiệm với phong tục tập quán của quê hƣơng và dân tộc mình, với mong muốn
1



làm sáng tỏ thêm những đặc trƣng truyền thống và một số nét thay đổi hiện nay
trong phong tục tang ma của ngƣời Mƣờng ở quê hƣơng và góp phần nhỏ bé vào
việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của đồng bào
Mƣờng ở Mƣờng Bi, tỉnh Hòa Bình.
Từ thực tế trên, đề tài “Nghi lễ tang ma của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi Hòa Bình xƣa và nay” đã đƣợc chọn làm hƣớng nghiên cứu trong khóa luận này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ trƣớc đến nay văn hóa Mƣờng vốn là một đề tài hấp dẫn đối với các nhà
nghiên cứu. Nó đã góp phần không nhỏ làm phong phú thêm kho tàng văn hóa
dân tộc Việt Nam.
Ngƣời có công đầu tiên trong việc sƣu tầm, nghiên cứu và giới thiệu văn
hóa Mƣờng ra thế giới là Jean Quisinier từ năm 1940. Công trình đầu tiên của
tác giả là “Người Mường” (1940) có thể xem là nguồn tài liệu phong phú cho
những nghiên cứu về ngƣời Mƣờng sau này. Đây là công trình nghiên cứu địa lý
- nhân chủng học về ngƣời Mƣờng, đồng thời đề cập đến một số tục lệ: làm nhà,
ăn uống, cƣới xin, tang ma song mới chỉ dừng ở mức độ khái quát, sơ lƣợc .
Tiếp theo, cần phải kể đến công trình Người Mường ở Hòa Bình (1995)
của Nguyễn Đức Từ Chi, là một nghiên cứu rất công phu về ngƣời Mƣờng ở
Hòa Bình.
Tiếp theo, những công trình của tác giả về: Cạp váy Mường, Văn hóa
Mường (1978)... đã trở thành những tài liệu quý và không thể thiếu với bất cứ ai
nghiên cứu về ngƣời Mƣờng.
Đặc biệt cuốn Người Mường ở Tân Lạc tỉnh Hòa Bình (1994) của ông có
thể đƣợc xem là cuốn sách đầy đủ nhất về quy trình tổ chức các nghi lễ, phong
tục tập quán, t n ngƣỡng... của ngƣời Mƣờng.
Trong công trình nghiên cứu Người Mường với văn hóa cổ truyền Mường
Bi (1998) trong đó có Nghệ thuật múa của Lƣu Danh Doanh đã tập trung miêu tả
các điệu múa trong tang lễ. Tuy nhiên, nghiên cứu này mới dừng ở mức khảo tả
2



về các điệu múa tang lễ, chƣa đi sâu tìm hiểu các khía cạnh khác của các điệu
múa này. Cùng với đề tài trên, Nghệ thuật múa Mường của tác giả Chí Thanh có
phát triển hơn, đã nói về vai trò của các điệu múa trong tang lễ nhƣng phần này
vẫn còn sơ sài.
Tuy nhiên, tất cả các công trình nghiên cứu trên mới chỉ dừng lại ở việc mô
tả chung chung về tang ma của ngƣời Mƣờng, mà chƣa đi sâu phân tích những
đặc trƣng truyền thống và một số nét thay đổi trong tang ma ngƣời Mƣờng nói
chung và của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi, tỉnh Hòa Bình nói riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận này có mục đ ch tìm hiểu những đặc trƣng truyền thống trong
nghi lễ tang ma của ngƣời Mƣờng tại Mƣờng Bi, tỉnh Hòa Bình từ đó làm rõ
một số nét thay đổi trong phong tục tang ma hiện nay của ngƣời Mƣờng ở nơi
đây. Qua đó có thể tìm ra những giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn
hóa của ngƣời Mƣờng hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
♦ Đối tƣợng nghiên cứu
Khóa luận đi sâu nghiên cứu nghi lễ tang ma của ngƣời Mƣờng tại Mƣờng
Bi, tỉnh Hòa Bình. Nhằm tìm hiểu những nét đặc trƣng truyền thống trong nghi
lễ tang ma của ngƣời Mƣờng đồng thời làm rõ những biến đổi trong nghi lễ tang
ma của ngƣời Mƣờng ở huyện Tân Lạc tỉnh Hòa Bình.
♦ Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tiến hành các nội dung nghiên cứu ở Mƣờng Bi, huyện Tân Lạc,
tỉnh Hòa bình nơi tập trung đông đảo ngƣời Mƣờng sinh sống và có phong tục
tập quán lâu đời.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình hoàn thành khóa luận các phƣơng pháp nghiên cứu đƣợc sử
dụng là:


3


-Phƣơng pháp điền dã dân tộc học gồm: ghi chép, quan sát, vẽ hình, chụp hình,
ghi âm, phỏng vấn về tang lễ…
- Phƣơng pháp miêu tả: dùngđể phân tích các sự kiện quan sát thấy trong tục
tang ma và khái quát thành những nét đặc sắc tiêu biểu trong tang lễ ngƣời
Mƣờng.
- Phƣơng pháp phân t ch tài liệu: là phƣơng pháp thu thập thông tin thông qua
các tài liệu có sẵn nhƣ: sách, báo cáo của huyện theo từng giai đoạn. Thông qua
việc tổng hợp và phân tích những tài liệu liên quan đến vấn đề nghiên cứu đã
giúp cho tác giả có đƣợc những số liệu cần thiết để hoàn thành khóa luận này.
6. Đóng góp của khóa luận
* Về mặt lý luận
Khóa luận góp phần đi sâu tìm hiểu nét sinh hoạt văn hóa của ngƣời
Mƣờng ở Hòa bình, đặc biệt là nét văn hóa đặc sắc trong nghi lễ tang ma của
ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi – Hòa Bình. Từ đó có thể bảo tồn và phát huy những
nét văn hóa truyền thống độc đáo của ngƣời Mƣờng.
* Về mặt thực tiễn
Khóa luận cung cấp cho bạn đọc và những ngƣời thích nghiên cứu về văn
hóa Mƣờng, hiểu đƣợc phần nào những nét đặc sắc trong nghi lễ tang ma của
ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi – Hòa Bình và những biến đổi của nó hiện nay.
7. Bố cục của Khóa luận
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục. Khóa luận
gồm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát về tự nhiên, xã hội ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi – Hòa
Bình
Chƣơng 2: Những nghi lễ truyền thống trong tang ma của ngƣời Mƣờng ở
Mƣờng Bi - Hòa Bình
Chƣơng 3: Những nét biến đổi trong nghi lễ tang ma của ngƣời Mƣờng ở

Mƣờng Bi - Hòa Bình
4


Chƣơng 1
KHÁI QUÁT VỀ TỰ NHIÊN, XÃ HỘI NGƢỜI MƢỜNG
Ở MƢỜNG BI – HÒA BÌNH
1.1. Đặc điểm tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lý
Vùng đất cổ Mƣờng Bi thuộc địa phận huyện Tân Lạc, tỉnh Hòa Bình. Tân
Lạc là một huyện miền núi nằm ở phía tây nam tỉnh Hòa Bình, vị tr địa lý thuộc
21o27’ – 20o35’ vĩ độ Bắc và 105o6’ – 105o23’ kinh độ Đông, ph a đông giáp với
huyện Cao Phong, phía tây giáp với huyện Mai Châu, phía bắc giáp với huyện
Đà Bắc, phía nam và tây nam giáp với huyện Lạc Sơn và tỉnh Thanh Hóa. Tổng
diện tích tự nhiên của huyện là 523Km2 (chiếm khoảng 11,2% tổng diện tích
toàn tỉnh), gồm 1 thị trấn và 23 xã.
Tân Lạc là huyện có vị tr địa lý đặc biệt thuận lợi: có quốc lộ 6 nối liền thủ
đô Hà Nội và Tây bắc, đƣờng 12B từ Mƣờng Khến chạy theo tuyến đi Nho
Quan (Ninh Bình), nối với đƣờng Hồ Ch Minh. Đó là những con đƣờng huyết
mạch nối thủ đô Hà Nội, các tỉnh đồng bằng Bắc bộ, khu IV (cũ) với vùng Tây
bắc.
1.1.2. Địa hình
Địa hình Tân Lạc khá đa dạng, độ cao trung bình so với mặt nƣớc biển từ
200-300m, nơi cao nhất là 1200m. Địa hình thấp dần về ph a đông nam và chia
làm ba vùng rõ rệt:
Vùng cao gồm 5 xã: Quyết Chiến, Ngổ Luông, Nam Sơn, Bắc Sơn và Lũng
Vân. Độ cao trung bình của vùng dao động trong khoảng 600 - 800m. Địa hình
vùng này có nhiều núi độ dốc lớn và các thung lũng hẹp.
Vùng giữa gồm 4 xã: Ngòi Hoa, Phú Cƣờng, Phú Vinh, Trung Hoà, với địa
hình có nhiều đồi, núi xen kẽ các khe suối và bãi bằng.


5


Vùng thấp gồm 14 xã còn lại và thị trấn Mƣờng Khến, có độ cao trung bình
khoảng 150 - 200m, có địa hình chủ yếu là đồng bằng xen với đồi thấp, là vựa
lúa chính của Tân Lạc.
Là một huyện miền núi nên Tân Lạc có địa hình phức tạp: dãy Trƣờng Sơn
chạy theo chiều dài của huyện, đất đai bị chia cắt bởi hệ thống suối, đồi núi và
có hƣớng thấp dần về hƣớng đông nam.
1.1.3. Khí hậu
Tân Lạc nằm trong vùng có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Trong một năm, kh
hậu nơi đây có hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mƣa. Mùa mƣa bắt đầu từ tháng
5 và kết thúc vào tháng 10, nhiệt độ và độ ẩm cao. Mùa khô bắt đầu từ tháng 11
năm trƣớc và kết thúc vào tháng 4 năm sau với đặc trƣng nhiệt độ xuống thấp,
lƣợng mƣa rất ít. Nhiệt độ trung bình cả năm đạt 22,9 độ C, tháng nóng nhất
trong năm là tháng 7, lạnh nhất là tháng 1. Lƣợng mƣa trung bình cả năm đạt
2.000mm nhƣng tập trung chủ yếu vào khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 9.
Các xã ở vùng cao của huyện Tân Lạc có lƣợng mƣa lớn hơn so với các xã vùng
thấp. Trong thời gian từ tháng 11 đến tháng 3 hàng năm thƣờng xuất hiện sƣơng
mù và sƣơng muối.
1.1.4. Đất đai
Ở Tân Lạc trong số 52.300 ha đất tự nhiên, diện t ch đất đồi núi chiếm tới
80,27%. Số còn lại là các loại đất: đất đỏ trên feralit (1000 ha), đất đỏ trên núi
đá vôi (6000 ha), đất màu trên phiến Thạch Tím (559 ha), đất đỏ vàng trên sa
thạch (5.000 ha),…nhìn chung các thành phần đất phù hợp với yêu cầu sinh thái
của các loại cây trồng khác nhau nhƣ: cây lƣơng thực, cây ăn quả, cây công
nghiệp, cây lâm nghiệp…
1.1.5. Tài nguyên
 Tài nguyên nƣớc

Tân Lạc không có hệ thống các sông lớn chảy quanh nhƣng có nhiều suối
lớn nhỏ và hồ chứa. Nguồn nƣớc mặt của Tân Lạc đƣợc hình thành bởi ba hệ
6


thống suối:
Suối Chù, bắt nguồn từ vùng núi thuộc các xã Phú Vinh và Trung Hòa chảy
qua các xã Mỵ Hòa, Quy Hậu về ph a đông nam với diện t ch lƣu vực là 350
km2.
Suối Cái bắt nguồn từ vùng núi xã phú cƣờng chạy dọc theo thung lũng
Mƣờng Bi qua các xã Phong Phú, Do Nhân, Lỗ Sơn theo hƣớng đông nam với
diện t ch lƣu vực là 230km2.
Suối Hoa bắt nguồn từ vùng núi xã Thung Nai, chảy qua các xã Ngòi Hoa
rồi đổ vào Sông Đà với diện t ch lƣu vực 230km2. Đây là nguồn cung cấp nƣớc
phục vụ đắc lực cho sản xuất nông nghiệp.
Nguồn nƣớc ngầm ở Tân Lạc cũng tƣơng đối dồi dào có thể khai thác để
phục vụ sản xuất và sinh hoạt của nhân dân.
 Tài nguyên rừng
Rừng tự nhiên ở Tân Lạc có tổng diện tích 2.317.476 ha, chiếm 82.92%
diện tích rừng trong tỉnh, rừng trồng có 477.273 ha, chiếm khoảng 17,8%. Trong
thảm rừng ở Tân Lạc có nhiều loại gỗ quý (Lim, sến, táu, lát, nghiến,…) tre,
nứa, bƣơng, vầu và các loại cây đặc sản có giá trị (sa nhân, mây song, cánh
kiến…). Dƣới tán rừng là hệ thống động thực vật với nhiều loại động vật quý
hiếm (khỉ, lợn, hổ, hƣơu, nai…). Đặc biệt xã Phú Vinh có những hang dơi lớn,
hàng năm cung cấp một lƣợng phân bón lớn và thực phẩm quý cho nhân dân
quanh vùng.
 Tài nguyên khoáng sản
Tài nguyên khoáng sản ở Tân Lạc chủ yếu là đá vôi với một số loại khoáng
sản quý nhƣ: vàng, than đá…
Do địa hình hiểm trở, điều kiện giao thông ở Tân Lạc vẫn còn gặp khá

nhiều khó khăn. Trƣớc cách mạng tháng 8, Tân Lạc gần nhƣ cô lập với bên
ngoài, việc đi lại giữa các xã, các Mƣờng rất hạn chế, chủ yếu bằng đƣờng mòn
trên núi đá. Sau cách mạng tháng 8 năm 1945 nhất là từ ngày thành lập 1957 đến
7


nay, trải qua mấy chục năm xây dựng và phát triển, hệ thống giao thông của
huyện từng bƣớc đƣợc nâng cấp. Nhiều hệ thống đƣờng giao thông huyết mạch,
những con đƣờng nối liền Ngổ Luông- Quyết Chiến- Lỗ Sơn- Lạc Sơn…Cùng
các con đƣờng liên xã, liên mƣờng,… đã đƣợc mở rộng, giúp cho việc giao lƣu
kinh tế, văn hóa dễ dàng hơn. Tuy nhiên đƣờng giao thông của Tân Lạc hiện nay
chủ yếu là đƣờng đất, nhiều dốc đá ghập ghềnh, quanh co, hiểm trở, thƣờng hay
sạt lở, lầy lội về mùa mƣa, làm cho việc đi lại chuyên trở hàng hóa vẫn còn gặp
nhiều khó khăn.
1.2. Đặc điểm xã hội
Theo số liệu thống kê năm 2002, huyện Tân Lạc có 23 xã: Quyết Chiến,
Nam Sơn, Bắc Sơn, Ngổ Luông, Lũng Vân, Ngòi Hoa, Trung Hòa, Phú Vinh,
Phú Cƣờng, Quy Hậu, Mãn Đức, Thanh Hối, Tử Mê, Đông Lai, Ngọc Mỹ,
Phong Phú, Mỹ Hòa, Địch Giáo, Tuân Lộ, Quy Mỹ, Lỗ Sơn, Do Nhân, Gia Mô
và thị trấn Mƣờng Khến.
Trƣớc đây, Tân Lạc thuộc huyện Lạc Thổ, Phủ Thiên Quang, đạo Thanh
Bình. Cho đến khi thực dân Pháp thành lập tỉnh Mƣờng Hòa Bình, vùng Tân
Lạc nằm trong hai tổng Lạc Thiện và Lạc Nghiệp, Phủ Lạc Sơn. Thời gian này
xã Lũng Vân vẫn thuộc tỉnh Thanh Hóa. Sau cách mạng tháng 8, tổ chức hành
chính của nƣớc ta đƣợc sắp xếp lại, theo đó tháng 8/1946, chính phủ nƣớc Việt
Nam dân chủ Cộng Hòa đã quyết định sát nhập xã Lũng Vân về châu Lạc Sơn,
tỉnh Hòa Bình.
Ngày 2/1/1955, Ủy ban hành chính liên khu III quyết định chia xã Thạch Bi
thành 9 xã: Địch Giáo, Quy Mỹ, Do nhân, Tuân Lộ, Phong Phú, Phú Vinh, Phú
Cƣờng, Mỹ Hòa và Quyết Chiến. Tiếp theo, ngày 15/9/1956, xã Quyết Chiến

đƣợc chia làm 6 xã: Ngổ Luông, Lỗ Sơn, Gia Mô, Tr Đạo, xã Kiến Thiết đƣợc
chia thành 5 xã: Phú Tuy, Chí Thiện, Ngọc Mỹ, Văn Sơn và Thƣợng Cốc.

8


Ngày 22/1/1957, xã Đoàn Kết đƣợc chia thành 5 xã: Đong lai, Thanh Hối,
Mãn Đúc, Tủ Lê, Quy Hậu. Xã Mỹ Hòa đƣợc chia thành 3 xã: Mỹ Hòa, Ngòi
Hoa và Trung Hòa.
Xuất phát từ yêu cầu đẩy mạnh kinh tế miền núi, ngày 15/10/1957, Thủ
tƣớng chính phủ đã quyết định chia huyện Lạc Sơn thành hai huyện: Lạc Sơn và
Tân Lạc. Lúc mới thành lập, huyện Tân Lạc có 22 xã, riêng xã Ngòi Hoa của
huyện Đà Bắc đến ngày 28/2/1985 mới đƣợc cắt sang huyện Tân Lạc. Đến ngày
19/3/1988, Hội đồng bộ trƣởng nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quyết
định thành lập thị trấn Mƣờng Khến. Thị trấn Mƣờng Khến đƣợc thành lập từ
các xóm Chiềng và Minh Khai của xã Mãn Đúc, xóm Tân Hồng của xã Quy
Hậu. Nhƣ vậy, kể từ đó đến nay, địa giới hành chính của huyện Tân Lạc đƣợc ổn
định với 24 đơn vị hành chính cấp xã.
Theo thống kê năm 2007, dân số của huyện Tân Lạc là 78.900 ngƣời. Mật
độ dân số bình quân đạt 151 ngƣời/km2. Dân số thành thị chiếm 5,6%, dân số
nông thôn chiếm 94,4%.
Trƣớc cách mạng tháng 8/1945, chủ yếu ở Tân Lạc là ngƣời Mƣờng Bi, sau
đó có thêm đồng bào dân tộc kinh lên xây dựng kinh tế mới. Hiện nay, ngƣời
kinh chiếm khoảng 16% ngoài ra còn có một số dân tộc khác nhƣ: Thái, Tày,
Dao, Mông chiếm khoảng 0,5%, nhiều nhất là ngƣời Mƣờng vẫn chiếm đa số
với 83,5%.
Với địa hình, khí hậu, dân số và kết cấu dân cƣ nhƣ vậy đã tạo nên sự
phong phú, đa dạng của tài nguyên thiên nhiên, môi trƣờng sinh thái và văn hóa
nơi đây và ảnh hƣởng lớn đến đời sống cƣ dân Mƣờng Bi.
1.3. Khái quát về văn hóa vật chất và tinh thần của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng

Bi- Hòa Bình
Tân Lạc đƣợc biết đến là một trong những cái nôi của ngƣời Mƣờng, với
nền văn hoá Hoà Bình nổi tiếng mà Mƣờng Bi là địa danh tiêu biểu. Trải qua
lịch sử lao động, đấu tranh sinh tồn và phát triển, ngƣời Tân Lạc đã xây dựng
9


đƣợc cho mình một nền văn hoá truyền thống mang đậm đà bản sắc ngƣời
Mƣờng.
Về nhà ở
Ngƣời Mƣờng từ bao đời nay vẫn duy trì ngôi nhà sàn. Đây là nét độc đáo
riêng trong văn hóa ở của ngƣời Mƣờng nói chung và ngƣời Mƣờng ở Tân Lạc
nói riêng. Nhà sàn của ngƣời Mƣờng là kiểu kiến trúc cổ truyền, việc dựng nhà
sàn của ngƣời Mƣờng là kết quả của một quá trình dài đúc kết kinh nghiệm cƣ
trú.
Về trang phục
Trang phục nam: nam mặc áo xẻ ngực, cổ tròn, cúc sừng vai, hai túi dƣới
hoặc thêm túi trên ngực trái. Đây là loại áo cánh ngắn phủ kín mông. Quần lá
tọaống dùng khăn thắt giữa bụng còn gọi là Khăn quần. Xƣa có tục để tóc dài
búi tóc, trên đầu bịt khăn, khăn dài gấp 3 vòng đầu quấn dƣới búi tóc. Cũng có
khi họ dùng khăn ngắn hơn, quấn vòng từ sau gáy sang ph a trƣớc giao nhau ở
trán, hai đầu khăn dựng nghiêng giống nhƣ hình đôi sừng trông khá ngộ nghĩnh.
Trong dịp lễ hội dùng áo lụa tím hoặc tơ vàng, khăn màu t m than, ngoài
khoác đôi áo chùng đen dài tới gối, cài cúc nách và sƣờn phải.
Trang phục nữ: bộ y phục nữ đa dạng hơn nam giới và còn giữ đƣợc nét
độc đáo. Khăn đội đầu (mụ) là một mảnh vải trắng hình chữ nhật khôngthêu
thùa. Váy (Wẳl) dài đến mắt cá chân gồm hai phần chính là thân váy và cạp váy,
cạp váy nổi tiếng với các loại hoa văn đƣợc dệt kì công. Trang sức thƣờng ngày
gồm vòng tay, chuỗi hạt và bộ xà tích 2 hoặc 4 dây bạc có treo hộp quả đào và
móng vuốt hổ, gấu bịt bạc.

Áo mặc thƣờng ngày có tên là Áo pắn (áo ngắn). Đây là loại áo cánh ngắn,
xẻ ngực, thân ngắn hơn so với áo cánh ngƣời kinh, ống tay dài, áo màu nâu hoặc
trắng (về sau có thêm các màu không phải loại vải cổ truyền). Bên trong là loại
Áo báng (yếm), cùng với đầu váy nổi lên giữa hai vạt áo ngắn. Đầu thƣờng đội
khăn trắng, xanh với các phong cách không cầu kỳ nhƣ một sốtộc ngƣời khác.
10


Váy là loại váy k n màu đen, toàn bộ phận đƣợc trang tr là đầu váy và cạp váy,
khi mặc mảng hoa văn nổi lên giữa trung tâm cơ thể.
Đây là một cách trang trí và thể hiện ít gặp ở các tộc khác trong nhóm ngôn
ngữ và khu vực láng giềng. Trong các dịp lễ, tết họ mang chiếc áo dài xẻ ngực
thƣờng không cài khoác ngoài bộ trang phục thƣờng nhật vừa mang tính trang
trọng vừa phô đƣợc hoa văn cạp váy k n đáo bên trong. Nhóm mặc áo cánh ngắn
xẻ ngực thƣờng mang theo chiếc yếm bên trong, về cơ bản giống yếm của phụ
nữ dân tộc Kinh nhƣng ngắn hơn.
Tổ chức cộng đồng
Xƣa kia, hình thái tổ chức xã hội đặc thù của ngƣời Mƣờng là chế độ lang
đạo, các dòng họ lang đạo (Đinh, Quách, Bạch, Hoàng) chia nhau cai quản các
vùng. Đứng đầu mỗi mƣờng có các lang cun, dƣới lang cun có các lang xóm
hoặc đạo xóm, cai quản một xóm.
Tín ngƣỡng
Ngƣời Mƣờng Bi ở Tân Lạc thờ đa thần (tổ tiên, thành hoàng, thần đất,
thần núi,...). Cũng nhƣ một số tộc ngƣời thiểu số khác ở Việt Nam, ngƣời
Mƣờng ở Tân Lạc cho rằng muôn vật trên thế gian này đều có linh hồn cả. Phật
giáo và các tôn giáo khác ảnh hƣởng đến nơi đây là không đáng kể. Chính vì có
quan niệm t n ngƣỡng nhƣ trên mà họ cầu cúng tất cả các loại thần thánh, ma
quỷ một khi cảm thấy cần thiết. Họ cho rằng, con ngƣời chết đi cũng biến thành
ma và ma tổ tiên sẽ phù hộ đƣợc con cháu. Vì thế thờ cúng tổ tiên có tầm quan
trọng số 1 trong đời sống tâm linh của họ, nó phản ánh ý thức sâu sắc về cội

nguồn, về tình cảm ruột già máu mủ và trở thành đạo lý uống nƣớc nhớ nguồn.
Ngoài việc thờ cúng tổ tiên họ còn thờ thần bản mệnh, thổ công, thờ các
nhân vật huyền thoại, ngƣời anh hùng, thờ động vật, cây cỏ…

11


Lịch
Lịch Cổ truyền ngƣời Mƣờng gọi là sách đoi làm bằng 12 thẻ tre tƣơng ứng
với 12 tháng. Trên mỗi thẻ có khắc ký hiệu khác nhau để biết tính toán, xem
ngày, giờ tốt xấu cho khởi sự công việc.
Ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi có cách tính lịch khác với ngƣời Mƣờng ở các
nơi khác gọi là cách tính ngày lùi, tháng tới. Tháng giêng lịch Mƣờng Bi ứng
với tháng 10 của lịch Mƣờng các nơi khác và tháng 10 âm lịch.
Lễ hội
Ngƣời Mƣờng có nhiều ngày hội quanh năm: Lễ khai hạ, hội xuống đồng
(Khung mùa), hội cầu mƣa (tháng 4), lễ cơm mới…
Văn nghệ dân gian
Kho tàng văn nghệ dân gian ngƣời Mƣờng khá phong phú, có các thểloại
thơ dài, bài mo, truyện cổ, dân ca, v đúm, tục ngữ. Ngƣời Mƣờng còn có hát ru
em, đồng dao, hát đập hoa, hát đối, hát trẻ con chơi.
Hát Xéc bùa (có nơi gọi là Xắc bùa hay Khóa rác) đƣợc nhiều ngƣời ƣa
th ch. Thƣờng (có nơi gọi Ràng thƣờng hoặc Xƣờng) là loại dân ca ca ngợilao
động và các nét đẹp phong tục dân tộc. Đặc biệt, ở ngƣời Mƣờng phải kể đến lễ
ca, đó là những áng mo, bài khấn do thầy mo đọc và hát trong đám tang.
Cồng chiêng là nhạc cụ đặc sắc của ngƣời Mƣờng, ngoài ra còn có nhị,
sáo, trống, khèn lù…
Ẩm thực
Ngƣời Mƣờng Bi ở Tân Lạc xƣa nay vẫn tự hào về ẩm thực của họ, điều đó
thể hiện thông qua việc truyền tụng trong xã hội những câu thành ngữ khá nổi

tiếng “củ mài, rau sắng, măng đắng, mật ong”
Hoặc “cơm đồ, nhà gác, nƣớc vác, lợn thui…”
Nguyên liệu dùng để chế biến các món ăn hàng ngày của ngƣời Mƣờng ở
Tân Lạc chủ yếu do trồng trọt, chăn nuôi của họ cung cấp. Để cất trữ thực phẩm,

12


theo tập quán cổ truyền, ngƣời Mƣờng ở Tân Lạc thƣờng phơi khô các loại thịt
bò, thịt trâu, thịt lợn…và các loại măng, mộc nhĩ, nấm…
Phƣơng pháp cất trữ khá nổi tiếng của họ là muối chua các loại thịt cá, tiết
trâu, tiết bò, măng, rau cải (muối dƣa), làm mắm tôm, tép…
Rƣợu cần ngƣời Mƣờng nổi tiếng bởi cách chế biến và hƣơng vị đậm đà
của men đƣợc đem ra mời khách quý và uống trong các cuộc vui tập thể.
Phụ nữ cũng nhƣ nam giới thích hút thuốc lào bằng loại ống điếu to. Đặc
biệt phụ nữ còn có phong tục nhiều ngƣời cùng chuyền nhau hút chung một điếu
thuốc.

13


Tiểu kết chƣơng 1
Với những đặc điểm tự nhiên - văn hóa - xã hội kể trên, Mƣờng Bi (Tân
Lạc) gặp không t khó khăn trong việc phát triển kinh tế xã hội. Xong chính
những điều kiện đó cũng mang lại cho Mƣờng Bi một môi trƣờng thuận lợi cho
việc giữ gìn, bảo tồn các yếu tố quý giá của văn hóa truyền thống.
Có thể nói nền văn hóa của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi – Hòa Bình mang
đậm sắc thái văn hóa dân gian, góp phần làm phong phú thêm bản sắc văn hóa
Việt Nam. Tuy có nhiều yếu tố chung về nếp sống, văn hóa xã hội, văn hóa tinh
thần với ngƣời Mƣờng ở các vùng khác nhƣ: Kim Bôi, Lạc Sơn (Hòa Bình) ;

Phú Thọ, Thanh Hóa…Song nền văn hóa của ngƣời Mƣờng Bi ở Tân Lạc, Hòa
Bình vẫn có những đặc điểm riêng biệt.
Trải qua thời gian dài với bao tác động của lịch sử, Mƣờng Bi vẫn giữ đƣợc
cho mình những giá trị văn hóa truyền thống, những phong tục tập quán, sinh
hoạt văn hóa đặc sắc. Trong đó nghi thức ma chay là một trong những nghi thức
tôn giáo “đậm đặc” của ngƣời Mƣờng Bi, đã thể hiện đƣợc những tập tục cổ
truyền, những quan niệm về vũ trụ, thế giới nhân sinh quan dân tộc.

14


CHƢƠNG 2
NHỮNG NGHI LỄ TRUYỀN THỐNG TRONG TANG MA
CỦA NGƢỜI MƢỜNG Ở MƢỜNG BI – HÒA BÌNH
2.1.Một số quan niệm liên quan đến tang ma
2.1.1. Quan niệm về âm giới và vũ trụ
Tang ma là một trong những lễ thức quan trọng trong t n ngƣỡng vòng đời
ngƣời, phản ánh tập tục cổ truyền và quan niệm về vũ trụ, thế giới tự nhiên và xã
hội của ngƣời Mƣờng.
Giống nhƣ nhiều tộc ngƣời khác ở Việt Nam cũng nhƣ trên thế giới, âm
giới trong quan niệm của ngƣời Mƣờng là nơi linh hồn sẽ cƣ ngụ ở đó sau khi
rời khỏi thể xác. Việc cử hành tang lễ chính là một hình thức “hƣớng dẫn” linh
hồn đi đến âm giới khi nó không còn nơi trú ngụ ở dƣơng thế. Và nghệ thuật
diễn xƣớng (mà cụ thể ở đây là mo Mƣờng) là một trong những công cụ quan
trọng nhất để thực hành nghi lễ này. Theo PGS. Từ Chi: “Nếu quả thực, nhƣ
chúng tôi nghĩ, khái niệm “linh hồn” là hạt nhân của mọi tƣ tƣởng tôn giáo, thì
tang lễ ắt phải là biểu hiện rõ nét nhất của khái niệm ấy. Vì ma chay là gì nếu
không phải là giải pháp cao nhất và cuối cùng - giải pháp tối chung - mà một
cộng đồng ngƣời sống đƣa ra để khuôn xếp số phận của linh hồn một thành
viên... Theo dõi diễn biến của tang lễ, thông qua đƣờng đi nƣớc bƣớc của hồn

ngƣời chết, cũng có thể biết đƣợc một số vùng thuộc vũ trụ ấy” .
Rõ ràng đƣờng đi của linh hồn ch nh là con đƣờng giúp chúng ta tìm hiểu
vũ trụ luận theo quan niệm của các tộc ngƣời nói chung và của ngƣời Mƣờng
nói riêng. Theo một quan niệm tồn tại ở hầu hết các tộc ngƣời và các nền văn
hoá, mỗi con ngƣời đều có một linh hồn, nó cƣ ngụ trong thể xác khi còn sống
và rời bỏ thể xác khi con ngƣời tắt thở. Do đó, điểm khởi đầu trong hành trình
của linh hồn để “trở về với cát bụi” là khi con ngƣời trút hơi thở cuối cùng. Sau
đó, linh hồn sẽ đi đến một thế giới khác. Cái thế giới khác này là nơi mà chúng
ta đang bàn đến, đó ch nh là vũ trụ quan của các tộc ngƣời và ở đây ch nh là âm
15


giới. Nhƣ vậy, âm giới bao gồm cả những nơi tốt đẹp hoặc không tốt đẹp, hoặc
một thế giới nào đó mà các linh hồn sẽ trú ngụ sau khi rời thể xác.
Quan niệm vũ trụ của ngƣời Mƣờng đƣợc chia thành ba tầng, bốn thế giới.
Tầng cao nhất là thế giới của Mƣờng Trời (Mƣờng K,lơi) là nơi trú ngụ của Vua
trời và các phò tá của Vua Trời. Tầng ở giữa là Mƣờng Pƣa (Mƣơng Pƣa), là thế
giới của ngƣời sống, tập hợp lại thành các gia đình, thành xóm và thành mƣờng.
Tầng thứ ba có hai thế giới là Mƣờng Pƣa T n (Mƣơng Pƣa T n) ở dƣới mặt đất
và mƣờng Vua Khú ( Mƣơng Bua Khú) ở đáy nƣớc. Thế giới bên dƣới mặt đất
không phải là âm ty, không phải là thế giới siêu nhiên của tinh linh, mà là thế
giới của những ngƣời t hon, gia xúc cũng t hon, có lối thông lên thế giới của
ngƣời trên mặt đất. Hệ thống vũ trụ “ba tầng – bốn thế giới” của ngƣời Mƣờng
lấy Mƣờng Pƣa, thế giới của ngƣời sống làm trung tâm, mọi đƣờng đi đều xuất
phát từ đây, mọi thế giới đều quy tụ về đây. Tuy nhiên ở trong không gian hữu
hạn, mỗi thế giới lại có một bản chất riêng, do đó sự thông thƣơng giữa các thế
giới bị hạn chế. Mƣờng Pƣa là thế giới tự nhiên, là “cõi sống” của ngƣời
Mƣờng. Mƣờng Pƣa Tín, vốn thông thƣơng với Mƣờng Pƣa, cũng là thế giới tự
nhiên nhƣng thấp kém hơn. Mƣờng Trời là thế giới siêu nhiên hoàn chỉnh nhất,
thời gian ở đây vô tận. Mƣờng Vua Khú là một thứ thế giới siêu nhiên.

Ngƣời Mƣờng cho rằng khi sống thì họ ở Mƣờng Trần gian, lao động sản
xuất để có cái ăn và làm đẹp bản mƣờng, đến khi mất là họ trở về với thế giới
của ông bà, tiếp tục cuộc sống ở thế giới Mƣờng Ma, cũng có cửa có nhà, cũng
chăm lợn gà và các công việc vốn quen làm nhƣ thuở trƣớc sống ở Mƣờng Trần
gian. Khi còn sống ở “mƣờng ngƣời” đạo lý là hành động cƣ xử tốt đẹp, là sự
chăm sóc tận tình với nhau. Đến khi chết, đạo lý ấy biến thành trách nhiệm và
bổn phận của ngƣời sống đối với ngƣời chết “nghĩa tử là nghĩa tận” , là sự đƣa
tiễn ngƣời đến “Mƣờng Ma” một cách long trọng và đủ đầy. Không có chữ viết,
nên “tang ca” là cách mà ngƣời Mƣờng (qua ngƣời hành lễ – Bố mo) ôn lại lần
cuối cho ngƣời chết, cũng là một lần nói cho ngƣời sống về cách đối xử với
16


nhau, về quan niệm sinh thành, về linh hồn, về cõi sống, cõi chết, về môi trƣờng
tự nhiên...
2.1.2. Quan niệm về hồn, vía con người và linh hồn người sau khi chết
Ngƣời Mƣờng có quan niệm, chết không phải là hết, không phải là chấm
dứt tất cả mà là chuyển sang sống ở một thế giới khác. Cái chết đối với họ chỉ là
cuộc hành trình cuối cùng của đời ngƣời ở thế giới trần tục và sự mở đầu của
một cuộc hành trình mới ở thế giới khác, thế giới bên kia. Đó mới là thế giới
vĩnh hằng và ở đó mọi hoạt động diễn ra bình thƣờng, không khác gì cuộc sống
nơi trần gian, cũng có ăn ở đi lại, cũng làm nƣơng, làm ruộng…Sở dĩ ngƣời
Mƣờng có quan niệm nhƣ vậy là bởi họ cho rằng con ngƣời sống có linh hồn.
Trong tiếng Mƣờng có hai từ để chỉ linh hồn là: hồn (wại) và vía (bía). PGS.
Nguyễn Đức Từ Chi khi nghiên cứu về tang ma ngƣời Mƣờng đã viết: “Con
ngƣời lúc sống dù nam hay nữ có tất cả 90 hồn, 40 hồn ở bên phải và 50 hồn ở
bên trái cơ thể. Với ngƣời Mƣờng, vía chính là thuộc tính của con ngƣời và sống
trong mỗi con ngƣời”. Lúc còn sống vía chi phối và tác động trực tiếp lên mọi
hoạt động của con ngƣời. Tuy nhiên v a cũng có thể rời bỏ cơ thể đi đâu đó
khiến con ngƣời ta có những biểu hiện bất thƣờng, trong trƣờng hợp đó họ đều

mời ông mo về làm lễ cúng gọi là làm v a. Khi con ngƣời mất đi, vía không tồn
tại trong cơ thể mà lìa khỏi thể xác, nhập vào các loài cây cỏ, các con vật bé nhỏ
nhƣ bƣớm để đi lại theo mây gió.
Ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi quan niệm rằng: con ngƣời có phần xác và
phần hồn. Chết là xác rời khỏi linh hồn, linh hồn vẫn tồn tại và sẽ tiếp tục sống ở
một thế giới khác. Đó là thế giới Mƣờng trời và thế giới Mƣờng ma. Họ hiểu cái
chết là sự ra đi vĩnh viễn của một bộ phận quan trọng nhất của các hồn. Họ tin
con ngƣời có hồn có vía, khi còn sống vía luôn cần xác trong con ngƣời và gắn
với thể xác. Khi chết, vía sẽ rời bỏ xác và ra đi vĩnh viễn. Trong một thời gian
nhất định biến thành ma, lang thang. Thời kì đó tƣơng đƣơng với giai đoạn để
tang (một năm). Sau thời gian để tang hồn ngƣời chết đƣợc nhập vào với thế
17


giới bên kia, nơi có cộng đồng tổ tiên sinh sống và trở thành tổ tiên của gia đình
con cháu.
Với ngƣời Mƣờng, chết không phải là hành vi vĩnh viễn chấm dứt sự tồn tại
của các linh hồn. Ngƣợc lại cái chết đƣợc hiểu nhƣ là sự tiếp tục cuộc sống linh
hồn, nhƣ trong một thế giới khác với đầy đủ những đòi hỏi về vật chất cũng nhƣ
ngƣời sống. Vì vậy tang ma của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng Bi có rất nhiều nghi
thức, lễ nghi nhằm để chuẩn bị cho ngƣời chết sống ở thế giới mới. Điều này thể
hiện rõ trong các bài mo.
Trong khi đó, ở thế giới ngƣời sống ngƣời ta lại cho rằng họ có bổn phận
cung phụng cho những nhu cầu riêng của ngƣời chết bằng những lễ tục, đồ cúng
thì ngƣời chết sẽ đƣợc vui sƣớng.
Chính vì vậy, trong thế giới ngƣời sống, ngƣời taphải liên kết tổ tiên với
những hành vi của con cháu mình, ngƣời ta phải cúng lễ cho tổ tiên những hạt
cơm đầu mùa gặt hái, ngƣời ta hỏi ý kiến của tổ tiên trong nhiều trƣờng hợp và
báo cáo cho tổ tiên biết những sựkiện xảy ra trong gia đình. Khi có điều tai họa
xảy ra trong gia đình, ngƣời ta phải cầu khấn tổ tiên che chở hoặc cầu khấn tổ

tiên đừng nổi giận nữa. Nhƣ vậy mặc dầu có sựtách biệt thế giới ngƣời sống và
thế giới ngƣời chết, song cuộc sống của những ngƣời còn lại vẫn nhuộm ánh
phản chiếu buồn thảm của một cuộc sốngđang tiếp diễn, giống nhƣ hệt và song
song ở bên kia thế giới…
Tóm lại, quan niệm về sống, chết của ngƣời Mƣờng khá phức tạp. Họ cho
rằng, con ngƣời khi chết đi sẽ đi vào thế giới của mình, đó là thế giới ngƣời chết,
thế giới đó tách rời với thế giới ngƣời sống. Nhƣng họ cũng thừa nhận rằng giữa
hai thế giới ấy lại có mối liên hệ kì lạ, huyền bí không sao phá nổi. Họ cũng cho
rằng ma không hẳn là lực lƣợng xấu xa, độc hại, kẻ phá hoại, mà nhiều khi trở
thành kẻ phù trợ cho mình. Vì những lí do trên,họ đƣa ra những biện pháp
phòng ngừa, xua đuổi tà ma nhƣng mặt khác lại làm tròn bổn phận của ngƣời

18


sống đối với ngƣời đã chết để ma của họ đƣợc no đủ và yên bình. Đó cũng là nét
đặc sắc trong đời sống tâm linh của họ.
2.2. Các nghi lễ trong tang ma truyền thống của ngƣời Mƣờng ở Mƣờng BiHòa Bình
2.2.1. Nghi lễ mộc dục
Khi ngƣời chết tắt thở, gia đình tang chủ thực hiện nghi lễ mộc dục cho
ngƣời chết, tức là tắm gội, lau chùi cho ngƣời chết. Với mong muốn để ngƣời
chết đƣợc sạch sẽ, thơm tho, tẩy sạch bụi trần, bƣớc sang thế giới bên kia. Ngƣời
nhà nấu nƣớc thơm để tắm rửa thi hài (thƣờng là nấu nƣớc lá bƣởi hoặc lá quế)
dùng khăn sạch để lau rửa.
Lúc tắm, đặt ngƣời chết lên một tấm phản gỗ hoặc chõng tre, xung quanh
vây màn kín lại, ngƣời tang chủ quỳ xuống rồi cáo: “Nay con cháu xin tắm gội
sạch bụi trầnđể…về với tổ tiên cho đƣợc mát mẻ”.
Con gái hoặc con trai đều có thể tắm gội cho bố hoặc mẹ. Tắm gội nghĩa là
lấy miếng vải đắp vào nƣớc lá bƣởi, lau mắt lau mình cho sạch.Trong khi một số
ngƣời lo việc tắm rửa, một số ngƣời khác lấy quần áo ngắn, quần áo dài, mỗi thứ

bốn, năm hoặc ch n mƣời bộ lồng vào nhau, áo lồng theo áo, quần lồng theo
quần để sau khi tắm gội xong thì mặc cho thi hài.
Mặc xong quần áo, lấy lƣợc chải tóc, lấy sợi vải buộc tóc, lấy khăn lau lại
chân, hai tay, lấy dao, kéo cắt móng tay, móng chân rồi gói lại để sau này bỏ vào
quan tài. Ngƣời ta buộc hai ngón tay cái lại với nhau, tay đƣợc đặt trƣớc ngực,
hai chân duỗi thẳng, hai ngón chân cái cũng đƣợc buộc lại với nhau.
Xong những việc ấy đƣa thi hài đặt lên giƣờng đắp cho một tấm chăn đơn
có dải vải đỏ ở giữa, một chiếc chăn bônghoặc nhiều hơn nữa. Hai bên ngƣời
chết còn trải tấm lụa tơ tằm dài từ đầu đến chân, mặt của ngƣời chết đƣợc cuốn
vải và che lại bằng khăn tránh việc mắt ngƣời chết có thể mở ra. Còn hàm ngƣời
chết đƣợc quấn vải kéo lên giữ không cho hàm ngƣời chết mở ra, ngƣời Mƣờng

19


×