Tải bản đầy đủ (.doc) (53 trang)

Tài liệu ôn thi cao học hành chính môn lý luận hành chính nhà nước và triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.62 KB, 53 trang )

PHẦN 1: HC VÀ HCNN:
Vấn đề 1: Quan niệm về HCNN:

Câu 1: Anh (chị) hãy chứng minh QLNN là một dạng quản lý xã hội đặc biệt?
- Quản lý là: Là hoạt động nhằm tác động 1 cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý nhằm đ/chỉnh qúa trình xhội và hành vi con người để đạt
được mục tiêu đã đặt ra.
- Quản lý nhà nước: QLNN xuất hiện của với sự ra đời của Nhà nước, đó là quản lý toàn
xã hội. Nội hàm của QLNN thay đổi phụ thuộc vào chế độ chính trị, lịch sử và đặc điểm
văn hoá, trình độ phát triển KT-XH của mỗi một quốc gia qua các giai đoạn lịch sử. Xét về
mặt chức năng, QLNN bao gồm 3 chức năng: chức năng LP (hay chấp hành và điều hành)
do các cơ quan LP thực hiện; chức năng HP do các cơ quan HP thực hiện và chức năng TP
do các cơ quan TP thực hiện.
- Trong hệ thống xã hội, có nhiều chủ thể tham gia QLXH như NN, tổ chức ct, tổ chức ctxh, tổ chức kinh tế, các hiệp hội… Tuy nhiên, nếu so với các tổ chức khác thì hoạt động
QLNN có những sự khác biệt thể hiện ở 5 điểm cơ bản sau:
+ Chủ thể QLNN là CB,CC và các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Trong đó:
Cán bộ trong BMNN: là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm
giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh,
cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Công chức trong BMNN: là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp
huyện, trong cơ quan, đơn vị thuộc QĐND mà ko phải là sĩ quan, quân nhân chuyên
nghịêp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc CAND mà ko phải là sĩ quan,
hạ sĩ quan chuyên nghịêp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công
lập, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đ/v công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Các cơ quan trong BMNN gồm: Các cơ quan lập pháp (QH và cctc của QH); Các
cơ quan tư pháp (TAND và cctc của TAND; VKSND và cctc của VKSND) và các cơ quan
hành pháp (hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước và HĐND các cấp).
+ Đối tượng QLNN là toàn dân, bao gồm tất cả các cá nhân, tổ chức sinh sống và


hoạt động trong phạm vi lãnh thổ quốc gia, công dân làm việc bên ngoài lãnh thổ quốc gia.
+ Phạm vi QLNN: mang tính toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực của đsxh: chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, AN-QP, ngoại giao.
+ Mang tính quyền lực nhà nước và sử dụng pháp luật làm công cụ chủ yếu để quản
lý xã hội.


+ Mục tiêu là thoả mãn nhu cầu của nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của
xã hội.
Những sự khác biệt này đã tạo nên tính đặc biệt của QLNN mà sự quản lý của các
tổ chức khác không có được. Hay nói cách khác, QLNN là một dạng QLXH đặc biệt.
Câu 2: Anh (chị) hãy phân tích khái niệm về QLHCNN:
- Khái niệm QLHCNN: QLHCNN là hoạt động thực thi quyền hành pháp; là sự tác động
có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật của NN đ/v các quá trình xã hội và hành
vi con người do các chủ thể QLHCNN tiến hành. Organized impact
- Phân tích:
Trước hết, QLHCNN là hoạt động thực thi quyền hành pháp, tức là hoạt động chấp hành
và điều hành:
Hành pháp là một trong ba quyền của quyền lực nhà nước thống nhất, mang tính quyền lực
chính trị. Đó là hoạt động chấp hành và điều hành của HCNN trong quản lý xh trên cơ sở
pháp luật của nhà nước nhằm thoả mãn nhu cầu của nhân dân, duy trì sự ổn định và phát
triển của XH. QL HCNN phục vụ chính trị bằng quyền hành pháp trong hành động
(HCNN).
Ở VN, Chính phủ là cơ quan hành pháp cao nhất (cơ quan chấp hành của Quốc hội)
thực hiện quyền hành pháp cao nhất đ/v toàn dân, toàn xã hội. Nhưng Chính phủ thực hiện
chức năng của mình phải thông qua hệ thống thể chế hành chính của nền hành chính Nhà
nước. Vì vậy, Chính phủ còn là cơ quan quản lý hành chính nhà nước cao nhất của Nhà
nước.
Thứ hai, QLHCNN là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực pháp luật:
HCNN là một hệ thống được tổ chức dọc từ TW đến cơ sở và mang tính hệ thống

thứ bậc chặt chẽ. Tổ chức nói ở đây là tổ chức hành chính nhà nước, là sự thiết lập các mối
quan hệ xã hội giữa con người, giữa các tập thể để thực hiện quản lý hành chính nhà nước.
Trong quản lý hành chính nhà nước, chức năng tổ chức là quan trọng nhất, vì không có tổ
chức thì không thể quản lý được. Nhà nước phải tổ chức như thế nào để hàng triệu con
người của đất nước, mỗi người đều có vị trí tích cực đ/v xã hội, đóng góp phần mình tạo ra
lợi ích cho xã hội.
Điều chỉnh là sự quy định về mặt pháp lý thể hiện bằng các quyết định quản lý về
quy tắc, tiêu chuẩn, biện pháp… nhằm tạo sự phù hợp giữa chủ thể và khách thể quản lý,
tạo sự cân bằng, cân đối các mặt hoạt động và hành vi hoạt động của con người.
Bên cạnh đó, HCNN được sử dụng quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước mang
tính mệnh lệnh đơn phương và tính tổ chức cao. Ngoài ra, HCNN sử dụng pháp luật làm
công cụ quản lý chủ yếu (được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật: Hiến pháp,
Luật và Bộ Luật, Pháp lệnh, Nghị định, Thông tư, Quyết định), Pháp luật phải được chấp
hành nghiêm chỉnh, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Không cho phép bất cứ ai
dựa vào quyền để làm trái pháp luật, phải nghiêm trị mọi sự vi phạm pháp luật.


Thứ ba, QLHCNN do các chủ thể QLHCNN tiến hành. Các chủ thể này bao gồm: hệ thống
các cơ quan HCNN, CB, CC trong các cơ quan HCNN và các cá nhân, tổ chức được nhà
nước trao quyền.
+ Hệ thống các cơ quan HCNN theo sơ đồ sau đây:
Chính phủ

UBND cấp tỉnh

UBND cấp huyện

Các Bộ,
cơ quan ngang Bộ


Các CQ chuyên môn
(Sở và CQ tương đương Sở)
Các CQ chuyên môn
(Phòng và CQ t.đương Phòng)

UBND cấp xã

+ CB,CC trong các cơ quan HCNN: (Theo quy định tại Luật CB, CC năm 2008, ở
đây chỉ đề cập đến CB, CC trong các cơ quan HCNN)
Cán bộ trong các cơ quan HCNN: là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê
chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ, trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước. Ví dụ: Thủ tướng Chính phủ, Các Bộ trưởng.
Công chức trong các cơ quan HCNN: là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước. Ví dụ: Chuyên viên Phòng Văn xã, UBND Thành phố Hồ Chí Minh.
+ Cá nhân, tổ chức được nhà nước trao quyền: Ví dụ: Bộ LĐ-TB&XH và Tổng
Liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành Thông tư liên tịch số 20/TTLT-BLĐTBXHTLĐLĐ về việc hướng dẫn thoả ước lao động tập thể. Trường hợp này, Tổng LĐLĐ VN
không phải là CQ HCNN nhưng được nhà nước trao quyền trong việc ban hành Thông tư
Liên tịch.


Vấn đề 2*: Đặc trưng của HCNN VN:
Câu 3: Anh (chị) hãy phân tích các đặc trưng cơ bản của HCNN ở VN. Theo anh
(chị) những đặc trưng nào chưa được thể hiện rõ nét ở VN hiện nay.
- Khái niệm HCNN: HCNN là hoạt động thực thi quyền hành pháp của NN, đó là hoạt
động chấp hành và điều hành của hệ thống HCNN trong quản lý xã hội theo khuôn khổ
của pháp luật nhà nước nhằm phục vụ nhân dân, duy trì sự ổn định và phát triển của xã
hội.
- HCNN có bảy đặc trưng sau đây:
Thứ nhất, Tính lệ thuộc vào chính trị: Nền HCNN là một bộ phận cấu thành hệ

thống chính trị, là công cụ để thực hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội có giai cấp
đối kháng và thực hiện ý chí của nhân dân trong xã hội dân chủ dưới sự lãnh đạo của đảng
cầm quyền. Vì vậy, HCNN mang bản chất chính trị, là hoạt động thực thi nhiệm vụ chính
trị, phải phục tùng và phục vụ chính trị. Ở Việt Nam, HCNN phải chấp hành các quyết
định của các cơ quan quyền lực nhà nước, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN.
Tuy nhiên HCNN cũng có tính độc lập tương đối nhất định, thể hiện ở tính chuyên
môn, kỹ thuật; CBCC HCNN vận dụng hệ thống tri thức khoa học vào việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của mình như: quản trị học, khoa học quản trị nhân sự, kinh tế học, luật
học, chính trị học, tâm lý học, xã hội học, …
Thứ hai, Tính pháp quyền: Trong một xã hội dân chủ, để bảo vệ quyền tự do, dân
chủ của người dân, cần phải xây dựng một NN pháp quyền hay còn gọi là một nền pháp
trị. Trong nhà nước pháp quyền thì hệ thống pháp luật là tối cao, mọi chủ thể xã hội đều
phải hoạt động trên cơ sở pháp luật và tuân thủ pháp luật. Với tư cách là chủ thể quản lý xã
hội, HCNN càng phải hoạt động trên cơ sở pháp luật và có trách nhiệm thi hành pháp luật.
Tính pháp quyền đòi hỏi các chủ thể HCNN sử dụng đúng đắn quyền lực, thực hiện
đúng chức năng và quyền hạn được trao khi thi hành công vụ. Đồng thời, luôn chú trọng
đến việc nâng cao uy tín chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực trí tuệ. Phải kết hợp chặt
chẽ yếu tố thẩm quyền và uy quyền để nâng cao hiệu lực, hiệu quả của một nền hành chính
phục vụ nhân dân.
Thứ ba, Tính liên tục, ổn định tương đối và thích ứng: Nền HCNN có nghĩa vụ
phục vụ dân, lấy phục vụ công vụ và nhân dân là công việc hàng ngày, thường xuyên cho
nên HCNN phải bảo đảm tính liên tục để thoả mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân, của
xã hội và phải ổn định tương đối trong tổ chức và hoạt động để bảo đảm hoạt động không
bị gián đoạn trong bất kỳ tình huống chính trị- xã hội nào. Đồng thời cũng cần được thay
đổi để thích ứng với sự thay đổi của môi trường, của xã hội.
Thứ tư, Tính chuyên nghịêp: HCNN có tính chuyên môn hoá và nghề nghịêp cao.
HCNN không chỉ được coi là một nghề mà còn được coi là một nghề tổng hợp, phức tạp
nhất trong các nghề. Nhà hành chính không chỉ có chuyên môn sâu mà còn phải có kiến



thức rộng trên nhiều lĩnh vực, phải có kiến thức và các kỹ năng hành chính, có tác phong
làm việc và thái độ đúng đắn trong phục vụ đất nước và phục vụ nhân dân.
Thứ năm, Tính hệ thống thứ bậc chặt chẽ: Bộ máy HCNN là một hệ thống thứ
bậc chặt chẽ, được thiết kế theo hình tháp, gồm nhiều cơ quan hành chính được cấu trúc
theo hệ thống dọc từ TW đến cơ sở. (vẽ sơ đồ cq HCNN). Đồng thời đây là một hệ thống
có tính trật tự, kỷ luật cao, thông suốt từ trên xuống dưới, cấp dưới phục tùng, nhận chỉ thị
và chịu sự kiểm soát thường xuyên của cấp trên trực tiếp.
Thứ sáu, Tính không vụ lợi: HCNN không có mục đích tự thân, nó tồn tại là vì xã
hội, nó có nhiệm vụ phục vụ lợi ích công và lợi ích nhân dân. Do đó, không đòi hỏi người
được phục vụ phải trả thù lao, không theo đuổi mục tiêu lợi nhuận.
Thứ bảy, Tính nhân đạo: Xuất phát từ bản chất nhà nước dân chủ XHCN, tất cả
các hoạt động HCNN đều hướng tới mục tiêu phục vụ con người, tôn trọng quyền và lợi
ích hợp pháp của công dân, lấy đó làm xuất phát điểm cho việc xây dựng hệ thống thể chế,
cơ chế, chính sách và thủ tục hành chính cũng như trong thực hiện các hành vi hành chính.
Ở VN hiện nay, HCNN mang đầy đủ 7 đặc trưng trên. Tuy nhiên có một số đặc
trưng chưa thể hiện rõ nét: Đó là: tính pháp quyền và tính chuyên nghiệp.
Thứ nhất, Đặc trưng về tính pháp quyền:
Mặt được: (1) TUÂN THỦ PHÁP LUẬT: HCNN tuân thủ pháp luật triệt để, làm
việc trên cơ sở pháp luật của nhà nước. (2) HỆ THỐNG PHÁP LUẬT: Sau 10 năm
CCHC, Hệ thống thể chế pháp luật từng bước được đổi mới và hoàn thiện, đã sửa đổi, ban
hành mới nhiều Luật, PL cho phù hợp với tình hình thực tế; thủ tục hành chính đã được
đơn giản hoá và nhiều địa phương đã thành công khi áp dụng cơ chế “một cửa”.
Mặt chưa được:
+ Một là, Hệ thống thể chế pháp luật vẫn còn chưa đồng bộ, thiếu nhất quán. Sự
chưa đồng bộ và thiếu nhất quán của hệ thống thể chế thể hiện ở chỗ một số luật, pháp lệnh
đã ban hành nhưng các Nghị định và Thông tư hướng dẫn triển khai chậm được ban hành,
chậm chuẩn bị các văn bản dưới luật, pháp lệnh để hướng dẫn thi hành.
+ Hai là, Nhiều cơ quan nhà nước vẫn có xu hướng giữ thuận lợi cho hoạt động
quản lý của mình nhiều hơn là đáp ứng nhu cầu tạo thuận lợi cho tổ chức và người dân.
+ Ba là, Công tác cải cách TTHC còn chuyển biến chậm, thủ tục còn phức tạp. Một

số đơn vị, địa phương triển khai cơ chế một cửa, một cửa liên thông chất lượng chưa tốt,
thời gian giải quyết hồ sơ có lúc, có nơi còn kéo dài, gây phiền hà bức xúc cho người dân;
+ Bốn là, việc phối hợp hoạt động giữa các CQHCNN còn thiếu đồng bộ và chưa
chặt chẽ. Chẳng hạn: Ngành BHXH là cơ quan thực hiện chức năng thu, giải quyết chế độ
chính sách đối với người lao động, trong khi đó, ngành lđ-tb&xh là CQ QLNN về việc
đăng ký thang, bảng lương, nội quy lao động, thoả ước lao động tập thể, thanh kiểm tra về
lao động, sử dụng lao động... của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có sử dụng lao động.
Tuy nhiên, trên thực tế, sự phối hợp giữa cơ quan BHXH và ngành LĐTB&XH ở nhiều


tỉnh, thành phố còn chưa chặt chẽ. Chính vì vậy, trên thực tế, nhiều DN, cá nhân có sử
dụng lao động, nhất là các DN FDI, tìm cách trốn tránh việc nộp BHXH cho NLĐ, nhiều
NLĐ ko được DN đóng BHXH, làm thất thu NSNN cũng như thiệt hại đến quyền lợi của
NLĐ.
+ Năm là, Pháp luật vẫn còn nhiều kẽ hở tạo điều kiện cho các tổ chức, cá nhân tìm
cách “lách luật”: (chẳng hạn: nhiều năm qua, các doanh nghiệp FDI sử dụng thủ đoạn
chuyển giá nhằm chuyển phần lợi nhuận về công ty mẹ ở nước ngoài, tạo khoản lỗ giả đ/v
công ty con ở Việt Nam, dẫn đến tình trạng các công ty này thường xuyên báo cáo lỗ trong
khi vẫn mở rộng hoạt động đầu tư, kinh doanh. Điều này đã làm thất thoát đáng kể nguồn
thu thuế cho ngân sách nhà nước).
Thứ hai, Đặc trưng về tính chuyên nghịêp:
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ công chức trong 10 năm qua đã đảm bảo số
lượng cần thiết đồng thời nâng cao đáng kể chất lượng, đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà
nước với nền kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN. Có thể thấy cải
cách vừa qua đã tập trung vào xây dựng một đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm chất và
kỹ năng hành chính đáp ứng vai trò mới của Nhà nước.
Tuy nhiên, đội ngũ CBCC còn nhiều mặt hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu đổi
mới, phát triển đất nước:
+ Một là, trình độ và năng lực của đội ngũ CBCC chưa ngang tầm với yêu cầu,
nhiệm vụ: Một bộ phận không nhỏ công chức được đào tạo và trưởng thành trong cơ chế

tập trung bao cấp nên bị thiếu hụt kiến thức về hành chính công, pháp luật, tin học, ngoại
ngữ và KTTT, khó đáp ứng được yêu cầu trong quá trình hội nhập. Chất lượng đội ngũ
chưa đồng đều, trình độ năng lực thực tế chưa tương xứng với văn bằng. Công chức,
chuyên gia hoạch định chính sách vĩ mô còn rất thiếu, cơ cấu độ tuổi, giới tính cũng còn
chưa hợp lý. Theo Ông Đinh Duy Hoà, Vụ trưởng Vụ CCHC, Bộ nội Vụ, hiện nay có
khoảng 30-35% CBCC cấp xã chưa qua đào tạo, trong các CQHCNN chỉ có khoảng 30%
CBCC làm việc có hiệu quả cao, số còn lại không có hiệu quả gì đặc biệt.
+ Hai là, Tác phong và thái độ thực thi công vụ của CBCC vẫn mang nặng dấu ấn
của cơ chế cũ, chậm đổi mới; tinh thần phục vụ nhân dân chưa cao. Không ít CBCC sa sút
về phẩm chất đạo đức, tham nhũng, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước yêu cầu chính đáng
của người dân.
Những nguyên nhân được các chuyên gia đưa ra là: công tác quản lý, tuyển dụng,
sử dụng, thi tuyển, thi nâng ngạch, đánh giá, luân chuyển, đề bạt CBCC thời gian qua
chậm thay đổi và không theo phương pháp khoa học, vẫn nặng về bằng cấp mà ko coi
trọng năng lực; công tác kiểm tra, thanh tra công vụ và xử lý CBCC có vi phạm pháp luật
tiến hành chưa nghiêm minh, chưa thường xuyên dẫn đến kém hiệu quả, ít tính giáo dục,
răn đe, làm gương; chế độ đãi ngộ của CBCC còn hạn chế.
 tính chuyên nghiệp của HCNN ở VN hiện nay chưa thể hiện rõ nét.


Vấn đề 3: Các nguyên tắc trong tổ chức và hoạt động của HCNN VN:
Câu 4: HCNN ở VN cần tuân thủ các nguyên tắc nào trong tổ chức và hoạt động của
mình? Hãy phân tích 1 nguyên tắc cụ thể nào đó mà đề đưa ra và đánh giá việc thực
hiện nguyên tắc đó ở VN hiện nay. (Phân tích nội dung 7 nguyên tắc và đánh giá)
- Khái niệm nguyên tắc HCNN là các quy tắc, những tư tưởng chỉ đạo, những tiêu
chuẩn hành vi đòi hỏi các chủ thể HCNN phải tuân thủ trong tổ chức và hoạt động HCNN.
- Trong tổ chức và hoạt động của mình, HCNN ở VN cần tuân thủ bảy nguyên
tắc sau đây:
+ Một là, Nguyên tắc Đảng lãnh đạo toàn diện đ/v HCNN:
Hệ thống chính trị XHCN VN là hệ thống chính trị nhất nguyên, trong đó chỉ tồn tại

một đảng là Đảng Cộng sản Việt Nam- lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
ĐCSVN là Đảng cầm quyền, giữ vai trò lãnh đạo toàn dân, toàn diện bao gồm chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, AN-QP, ngoại giao.
Sự lãnh đạo của Đảng đ/v HCNN được thể hiện trên 4 nội dung sau:
• Đảng đề ra đường lối, chủ trương định hướng cho quá trình tổ chức và
hoạt động của HCNN.
• Đảng phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng những người có phẩm chất, năng lực
và giới thiệu vào đảm nhận các chức vụ trong BMNN thông qua con
đường bầu cử dân chủ.
• Đảng kiểm tra hoạt động của các CQNN trong việc thực hiện đường lối,
chủ trương của Đảng.
• Các cán bộ, đảng viên và các tổ chức Đảng gương mẫu trong việc thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng.
Nguyên tắc này đòi hỏi trong tổ chức và hoạt động QLNN nói chung và HCNN nói
riêng, phải thừa nhận và chịu sự lãnh đạo của Đảng. Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng,
HCNN có trách nhiệm đưa đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn đời sống xã hội
và đảm bảo sự kiểm tra của tổ chức Đảng đ/v HCNN.
 Đánh giá:
* Được: Đảm bảo sự thống nhất, ổn định nhất định trong quản lý ở tất cả các mặt,
các lĩnh vực, các hoạt động.
* Chưa được: Can thiệp quá sâu vào hoạt động của cơ quan nhà nước. Trong cuốn
sách “cải cách nền hành chính VN: thực trạng và giải pháp”- một tài liệu nghiên cứu quan
trọng mà Chương trình Phát triển LHP UNDP vừa công bố, các tác giả Martin Painter, Hà
Hoàng Hợp và Chu Quang Khởi đã chỉ ra rằng: “Trên thực tế, sự can thịêp của Đảng đã
lan toả vào mọi công việc quản lý hàng ngày của nhà nước”. Họ đưa ra nhận định rằng:
“Cán bộ đảng từ cấp cao nhất đến cấp cơ sở vừa đưa ra các chỉ thị về chính sách tổng thể


để từng nhánh của NN tuân theo, vừa thường xuyên can thiệp trực tiếp vào công tác quản
lý và ra quyết định của các CQNN này”.

+ Hai là, Nguyên tắc Nhân dân làm chủ trong QL HCNN:
Nhà nước CHXHCNVN là NN của dân, do dân và vì dân, tất cả quyền lực thuộc về
nhân dân. NN là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Vì vậy trong hoạt động
HCNN phải đảm bảo sự tham gia và giám sát của nhân dân đ/v hoạt động HCNN.
Nguyên tắc này đòi hỏi: (1) Tăng cường và mở rộng sự tham gia trực tiếp của công
dân vào việc giải quyết các công việc của NN. (2) Nâng cao chất lượng của hình thức dân
chủ đại diện, để các cơ quan này thực sự đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
(3) HCNN có trách nhiệm tạo ra cơ sở pháp lý và các điều kiện tài chính, vật chất … cho
các tổ chức xã hội hoạt động, định ra những hình thức và biện pháp để thu hút sự tham gia
của các tổ chức xã hội, nhân dân vào hoạt động HCNN.
 Đánh giá:
* Được:
Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản tạo hành lang pháp lý để thực hiện nguyên tắc
này trên thực tế: ví dụ Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn, trong đó quy
định rõ những nội dung công khai cho nhân dân biết, những nội dung nhân dân bàn và
quyết định, những nội dung nhân dân được tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm
quyền quyết định cũng như những nội dung nhân dân được giám sát.
Nhân dân ngày càng được phát huy quyền làm chủ của mình. Nhân dân ngày càng
đóng vai trò quan trọng
* Chưa được: Trên thực tế, hiệu quả của nguyên tắc này thực hiện chưa cao: nhiều
lĩnh vực nhân dân không biết, không thể bàn và không thể kiểm tra.
+ Ba là, Nguyên tắc tập trung dân chủ:
Đây là nguyên tắc cơ bản và áp dụng cho tất cả các CQNN và tổ chức của NN,
trong đó có cơ quan HCNN. Nguyên tắc này xuất phát từ hai yêu cầu khách quan của quản
lý, đó là: đảm bảo tính thống nhất của hệ thống lớn (Quốc gia, ngành, địa phương, cơ quan,
đơn vị, bộ phận) và đảm bảo sự phù hợp với đặc thù của hệ thống con lệ thuộc (từng
ngành, từng địa phương, từng cơ quan, đơn vị, bộ phận, cá nhân). Nguyên tắc này tạo khả
năng kết hợp quản lý xã hội một cách khoa học với việc phân cấp quản lý cụ thể, hợp lý,
từng cấp, từng khâu, từng bộ phận.
Tập trung trong HCNN được thể hiện trên 4 nội dung:

• Tổ chức Bộ máy HCNN và Cơ quan HCNN theo hệ thống thứ bậc.
• Thống nhất chủ trương, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch ptriển
• Thống nhất các quy chế quản lý


• Thực hiện chế độ một Thủ trưởng hoặc trách nhiệm cá nhân người đứng
đầu ở tất cả các cấp, các đơn vị.
Dân chủ trong HCNN là sự phát huy trí tuệ của các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị và
các cá nhân tổ chức và hoạt động hành chính. Tính dân chủ được thể hiện cụ thể ở: (1) cấp
dưới được tham gia thảo luận, góp ý kiến về những vấn đề trong quản lý; (2) cấp dưới được
chủ động, linh hoạt trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm trước cấp
trên về việc thực hiện nhiệm vụ của mình.
Hai nội dung tập trung và dân chủ có liên quan hữu cơ với nhau, tác động bổ trợ cho
nhau: Tập trung trên cơ sở dân chủ và dân chủ trong khuôn khổ tập trung. Thực hiện nguyên
tắc tập trung dân chủ ở bất kỳ cấp nào cũng đòi hỏi sự kết hợp hài hoà hai nội dung đó để tạo
ra sự nhất trí giữa lãnh đạo và bị lãnh đạo, giữa người chỉ huy và người thừa hành.
 Đánh giá:
* Được:
Bộ máy HCNN và hệ thống các CQNN được tổ chức chặt chẽ, theo hệ thống thứ
bậc; các chủ trương, chính sách, chiến lược, kế hoạch, quy chế quản lý … thống nhất với
nhau; chế độ một thủ trưởng hoặc trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu được thực hiện
ở tất cả các cấp, các đơn vị.
Trong thực hiện nhiệm vụ, cấp dưới được trao quyền chủ động, linh hoạt cũng như
thường xuyên được lấy ý kiến đóng góp, thảo luận.
* Chưa được:
Bộ máy HCNN và hệ thống các CQNN được tổ chức chặt chẽ, theo hệ thống thứ
bậc nhưng vẫn còn sự chồng chéo trong quản lý nhà nước ở một số cơ quan, ngành.
Trách nhiệm của Thủ trưởng cơ quan, người đứng đầu các tổ chức trên thực tế vẫn
chưa được thực hiện một cách triệt để, nhất là khi xảy ra sai phạm.
Vẫn còn tình trạng dân chủ hình thức trong việc trao quyền cho cấp dưới, lấy ý kiến

cấp dưới.
+ Bốn là, Nguyên tắc kết hợp giữa quản lý ngành với quản lý lãnh thổ:
Trong xã hội xuất hiện hai xu hướng khách quan có liên quan mật thiết với nhau và
thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, đó là CMH theo ngành và phân bố sản xuất theo địa
phương, vùng lãnh thổ. Vì vậy, trong QLNN cần phải kết hợp giữa quản lý ngành với quản
lý theo lãnh thổ (địa phương và vùng lãnh thổ).
HCNN đ/v ngành là điều hành hoạt động của ngành theo các quy trình công nghệ,
quy tắc kỹ thuật nhằm đạt được các định mức kinh tế- kỹ thuật đặc thù của ngành.
Nội dung của quản lý theo ngành bao gồm:
• Định hướng cho sự phát triển của ngành thông qua hoạch định chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển.


• Tạo môi trường pháp lý phù hợp cho sự phát triển của ngành thông qua
việc ban hành chính sách, tài trợ, hạn ngạch, nghiên cứu và đào tạo…
• Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản quản lý nhà nước;
• Ngăn ngừa, phát hiện và khắc phục những tiêu cực phát sinh trong phạm
vi ngành thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra.
HCNN địa phương và vùng lãnh thổ là hành chính tổng hợp và toàn diện về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội của một khu vực dân cư trên địa bàn lãnh thổ đó, có
nhiều cơ quan, đơn vị, tổ chức hoạt động.
Tại các địa phương có các cơ quan chuyên môn cấp địa phương, các cơ quan này
vừa trực tiếp chịu sự quản lý trực tiếp về tổ chức, nhân sự và hoạt động của chính quyền
địa phương, vừa chịu sự chỉ đạo về chuyên môn theo ngành dọc. Các cơ quan này thực
hiện chức năng tham mưu cho chính quyền địa phương về quản lý ngành, đồng thời đảm
bảo đạt được các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật của ngành. Các chính quyền địa phương có
trách nhiệm bảo đảm cho các doanh nghiệp đóng trên địa bàn địa phương mình hoạt động
thuận lợi như nguồn nhân lực, tài nguyên, điều kiện vật chất, kỹ thuật …
 Đánh giá:
* Được:


* Chưa được: Còn nhiều chồng chéo.

+ Năm là, Nguyên tắc phân định giữa QLNN về kinh tế và QL KD của DNNN:
Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, các DNNN được trao quyền tự chủ kinh
doanh theo cơ chế thị trường, định hướng XHCN có sự quản lý của NN. Nên vai trò chủ
yếu của NN là định hướng, dẫn dắt, hỗ trợ và điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp,
không can thiệp sâu vào hoạt động kinh doanh của DNNN như trước đây. Vì vậy, cần phải
phân định và kết hợp tốt chức năng QLNN về kinh tế với chức năng quản lý kinh doanh
của DNNN.
Nguyên tắc này đòi hỏi các CQHCNN không can thiệp vào nghiệp vụ kinh doanh,
phải tôn trọng tính độc lập và tự chủ của các đơn vị kinh doanh. Còn các đơn vị kinh
doanh trong việc thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước, chấp nhận cạnh tranh, mở cửa, … phải tuân theo
pháp luật và chịu sự điều chỉnh bằng pháp luật của các CQHCNN.
Tuy cần phân biệt giữa QLNN về kinh tế và quản lý kinh doanh song cũng cần thấy
hai mặt đó không tách rời nhau một cách máy móc, mà kết hợp với nhau, thống nhất với
nhau trong hệ thống kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế của Nhà nước XHCN.
 Đánh giá:


* Được:

* Chưa được:

+ Sáu là, Nguyên tắc pháp chế XHCN:
Nguyên tắc này đòi hỏi tổ chức và hoạt động HCNN phải dựa trên cơ sở pháp luật
của Nhà nước. Nguyên tắc này không cho phép các CQNN thực hiện QLNN một cách chủ
quan, tuỳ tiện mà phải dựa vào pháp luật, làm đúng pháp luật, nghiêm chỉnh chấp hành
nguyên tắc pháp chế, cụ thể:

• HCNN phải chịu sự giám sát của các cơ quan lập pháp, tư pháp và xã hội.
• Tổ chức và hoạt động HCNN trong phạm vi do pháp luật quy định,
không vượt quá thẩm quyền.
• Các hành vi hành chính phải được tiến hành đúng trình tự, thủ tục mà
pháp luật quy định.
• Các quyết định QLHCNN được ban hành đúng luật.
 Đánh giá:
* Được:

* Chưa được:

+ Bảy là, Nguyên tắc công khai, minh bạch
Công khai là việc cơ quan, tổ chức, đơn vị thông tin chính thức về văn bản, hoạt
động hoặc nội dung nhất định. Tất cả những thông tin của HCNN phải được công khai cho
người dân trừ trường hợp có quy định cụ thể với lý do hợp lý và trên cơ sở những tiêu chí
rõ ràng.
Minh bạch trong hành chính là những thông tin phù hợp được cung cấp kịp thời cho
nhân dân dưới hình thức dễ sử dụng và đồng thời các quyết định và quy định của HCNN
phải rõ ràng và được phổ biến đầy đủ. Tính minh bạch là điều kiện tiên quyết để HCNN có
trách nhiệm thực sự trước nhân dân và giúp nâng cao khả năng dự báo của người dân. Nếu
không minh bạch sẽ dẫn đến sự tuỳ tiện hoặc sai lầm trong việc thực thi quyền hạn, có
những giao dịch không trung thực, những dự án đầu tư sai lầm, dẫn đến quan liêu, tham
nhũng. Sự minh bạch sẽ giúp xây dựng một nền hành chính cởi mở, có trách nhiệm, ngăn
chặn được tham nhũng trong HCNN.


Nguyên tắc này đòi hỏi Các CQNN, các tổ chức và đơn vị khi xây dựng, ban hành
và tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật phải được tiến hành công khai, minh bạch, đảm
bảo công bằng, dân chủ theo quy định của pháp luật.
 Đánh giá:

* Được:

* Chưa được:


PHẦN II: CÁC YẾU TỐ CẤU THÀNH NỀN HCNN:
Vấn đề 4*: Các yếu tố cấu thành nền HCNN và mối quan hệ giữa các yếu tố đó:
Câu 5: Nền HCNN được cấu thành bởi những yếu tố nào. Phân tích mối quan hệ giữa
các yếu tố đó. Trong các yếu tố đó, yếu tố nào anh (chị) cho là quan trọng nhất?
- Nền HCNN là một khái niệm dùng để chỉ tập hợp các yếu tố: Hệ thống thể chế
HCNN, hệ thống các CQHCNN, đội ngũ nhân sự làm việc trong các CQHCNN và các
nguồn lực vật chất cần thiết bảo đảm cho việc thực hiện nhiệm vụ QLHCNN của các
CQNN. Các yếu tố này chính là các yếu tố cấu thành nền HCNN.
a. Thể chế HCNN:
-Khái niệm: Theo nghĩa rộng, TC HCNN bao gồm trong đó cả hệ thống các CQNN
và cơ chế hoạt động của các cơ quan đó. Theo nghĩa hẹp, TC HCNN là toàn bộ các quy
định, quy tắc do nhà nước ban hành để điều chỉnh các hoạt động QLHCNN, tạo nên hành
lang pháp lý cho tất cả các hoạt động của các CQNN và các CBCC có thẩm quyền. Ở đây,
chúng ta hiểu TC HCNN theo nghĩa hẹp này.
- Các yếu tố cấu thành: TCHCNN bao gồm: (1) Thể chế quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và CCTC của BM HCNN (Luật Tổ chức Chính phủ; Luật Tổ chức HĐND,
UBND; các Nghị định quy định cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, CQ
ngang Bộ …); (2) Thể chế quy định chế độ công vụ công chức (Luật Cán bộ, Công chức
năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định, Thông tư); (3) Thể chế để QL
HCNN trên các lĩnh vực (Luật Giáo dục, Luật Báo chí, …); (4) Thể chế quy định mối
quan.hệ giữa CQHCNN với cá nhân, tổ chức (thủ tục hành chính) và (5) Thể chế quy định
về chế độ tài phán hành chính (Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản hướng dẫn thi hành).
- Vai trò của TC HCNN: TC HCNN có vai trò quan trọng trong sự hình thành và
phát triển hệ thống HCNN: Là căn cứ để xác lập mức độ và phạm vi can thịêp của NN đ/v
hoạt động của các đối tượng trong XH; là căn cứ để thiết lập nên tổ chức BM HCNN (xác

lập chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các CQHCNN, xác định cơ cấu tổ chức, xác
định mqh giữa các CQHCNN); là cơ sở để xây dựng đội ngũ nhân sự HCNN; là cơ sở để
xác định mqh giữa NN với công dân và tổ chức trong XH; là căn cứ để quản lý, điều chỉnh
việc sử dụng các nguồn lực của XH một cách có hiệu lực và hiệu quả.
- Các yếu tố tác động đến TC HCNN: TC HCNN chịu sự ảnh hưởng của môi trường
chính trị; môi trường kinh tế- xã hội; lịch sử, truyền thống văn hoá, phong tục, tập quán và
các yêu tố quốc tế.
b. Bộ máy HCNN: (Vẽ sơ đồ t/c BMHCNN nước CHXHCN VN)
- Khái niệm: BMHCNN là bộ phận của BMNN có nhiệm vụ thực thi quyền hành
pháp và phối hợp với các cơ quan lập pháp và tư pháp trong quá trình thực hiện quyền lực
nhà nước thống nhất, dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Nói cách khác, bộ máy HCNN là hệ
thống các CQHCNN từ TW đến cơ sở.


CQHCNN là CQNN với thẩm quyền và cơ cấu xác định nhằm thực hiện chức năng
hành pháp của nhà nước.
- Phân loại CQHCNN: Hai căn cứ phổ biến nhất được sử dụng để phân loại
CQHCNN là: tiêu chí lãnh thổ hành chính và tiêu chí tính chất thẩm quyền.
**Căn cứ vào tiêu chí lãnh thổ hành chính, CQHCNN được chia thành: CQHCNN
ở TW và CQHCNN ở địa phương.
+ CQHCNN ở TW có nhiệm vụ QLHCNN trên phạm vi toàn quốc. CQHCNN ở
Trung ương của nước ta hiện nay gồm: CP, Bộ, CQ ngang Bộ, CQ thuộc Chính phủ. Trong
đó, CP là cơ quan chấp hành của QH, là cơ quan HCNN cao nhất của nước CHXHCNVN,
do QH bầu ra trong kỳ họp thứ nhất của mỗi khoá QH; Bộ, cơ quan ngang Bộ là cơ quan
của CP, được thành lập theo QĐ của QH trên cơ sở đề nghị của TTg để thực hiện chức
năng QLNN đ/v ngành hoặc lĩnh vực nhất định trên phạm vi cả nước, thực hiện QLNN đ/v
việc cung cấp các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực (Theo số liệu Bộ Nội vụ công bố
năm 2010, VN hiện có 18 Bộ, 4 CQ ngang Bộ); Các cơ quan thuộc CP là những cơ quan do
CP thành lập nhằm thực hiện những chức năng, nhiệm vụ, quyền hành do CP quy định
(Theo số liệu Bộ Nội vụ công bố năm 2010, VN hiện có 8 CQ thuộc Chính phủ)..

+ CQHCNN ở địa phương có nhiệm vụ thực hiện chức năng QLHCNN trên phạm
vi một địa bàn hành chính nhất định. Tuỳ thuộc vào lịch sử hình thành quốc gia và quan
điểm về mối quan hệ giữa trung ương và địa phương mà mỗi quốc gia có cách thức tổ chức
chính quyền địa phương không giống nhau. Ở nước ta, CQHCNN ở địa phương gồm ba
cấp: cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã.
**Căn cứ vào tính chất thẩm quyền, CQHCNN được chia thành: CQHCNN thẩm
quyền chung và CQHCNN thẩm quyền riêng.
+ CQHCNN thẩm quyền chung là những CQHCNN quản lý tổng hợp tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội trên phạm vi toàn quốc hay một địa bàn hành chính nhất định.
Những cơ quan này hoạt động theo chế độ tập thể và quyết định theo đa số. Ở nước ta,
CQHCNN thẩm quyền chung gồm: CP và UBND các cấp.
+ CQHCNN thẩm quyền riêng là những CQHCNN quản lý trong từng lĩnh vực (hay
một số lĩnh vực nhất định) trên phạm vi toàn quốc hay từng địa bàn hành chính. Những cơ
quan này hoạt động theo chế độ thủ trưởng. Ở nước ta, CQHCNN thẩm quyền riêng gồm:
Các Bộ, CQ ngang Bộ, các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, cấp
huyện …
- Vai trò của hệ thống CQHCNN: Hệ thống các CQHCNN là bộ phận ko thể tách
rời của nền HCNN, giữa vai trò quan trọng, là điều kiện thiết yếu để tiến hành các hoạt
động hành chính công. Tất cả các chức năng, nhiệm vụ của NN được thực hiện qua
BMHCNN. Mỗi cơ quan trong hệ thống này lại có những nhiệm vụ riêng biệt, một thẩm
quyền nhất định được pháp luật xác định cụ thể. Việc thiết kế BMHC gọn nhẹ, ít tầng nấc,
rõ ràng, minh bạch sẽ làm cho hoạt động HCNN diễn ra linh hoạt, đầy đủ, tránh tính trạng
chồng chéo cũng như bỏ sót nhiệm vụ giữa các CQNN.


+ Yếu tố thứ ba: Nhân sự HCNN:
- K/n: Để vận hành BMHC, thực hiện các hoạt động công vụ, cần có những con
người làm việc. Đội ngũ nhân sự làm việc trong BMHC là nguồn lực ko thể thiếu để tiến
hành các hoạt động HCNN. Hiểu theo nghĩa rộng nhất, đội ngũ nhân sự là việc trong
BMHCNN là tất cả những NLĐ làm việc để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của

BMHCNN. Những người giữ các vị trí làm việc khác nhau trong BMHCNN để thực hiện
chức năng QLHCNN thường được gọi là “công chức”.
- Phân loại: Căn cứ vào việc sắp xếp và sử dụng nhân sự trong BMHCNN, có thể
phân chia nền công vụ trên thế giới thành hai hệ thống cơ bản: hệ thống chức nghiệp và hệ
thống việc làm. Trong mỗi hệ thống, “công chức” được tuyển dụng và quản lý khác nhau:
+ Trong hệ thống chức nghiệp, “công chức” được tuyển dụng và sắp xếp vào
BMHCNN theo những ngạch nhất định tuỳ theo trình độ đào tạo và nhu cầu tuyển dụng.
Trong mỗi ngạch có các bậc. Việc chuyển từ ngạch này sang ngạch khác phải đạt được
những tiêu chuẩn nhất định của ngạch tương ứng.  Đặc điểm: làm việc suốt đời, thu
nhập ổn định và tăng theo thời gian, thăng tiến theo thâm niên  Ưu: hệ thống giữ được
tính ổn định, liên tục làm chỗ dựa vững chắc cho chính trị. Nhược: ko khuyến khích p/h
năng lực, khó xđ số lượng NV cần thiết cho mỗi vị trí nên biên chế có xu hướng ngày càng
tăng.
+ Trong hệ thống việc làm, “công chức” được sắp xếp theo từng vị trí công việc cần
thực hiện trong bộ máy. Mỗi vị trí trong BM thực hiện 1 hay nhiều nhiệm vụ nhất định và
đòi hỏi người giữ vị trí đó có những kiến thức, năng lực nhất định phù hợp với yêu cầu
của vị trí.  Đặc điểm: làm việc theo nhu cầu vị trí công việc cụ thể, ko phải là một nghề
suốt đời và ít có cơ hội thăng tiến theo thâm niên.  Ưu: kích thích được sự cạnh tranh lẫn
nhau trong đội ngũ nhân viên hành chính khiến cho hiệu quả cv được nâng cao đồng thời
cũng khuyến khích họ phát huy năng lực để có cơ hội thăng tiến. Nhược: việc luân chuyển
khó hơn do tính CMH chặt chẽ.
Trong xu hướng CCHC hiện nay, nhiều nền HC trên thế giới áp dụng cả 2 loại hình
tổ chức nhân sự công vụ này theo hướng: CC thừa hành được tuyển dụng và quản lý theo
mô hình chức nghiệp, CC cao cấp được tuyển dụng và sử dụng theo mô hình việc làm. Ở
nước ta, xu hướng CCHC cũng theo hình thức tích hợp giữa hai mô hình nói trên.
Ở VN, những người làm việc chủ yếu trong BMHCNN gồm: CB và CC. Qua các
thời kỳ, khái niệm CB, CC có nhiều cách hiểu khác nhau. Hiện nay, CB, CC được điều
chỉnh bởi Luật CB, CC năm 2008. Theo đó, Cán bộ trong BMNN: là công dân Việt Nam,
được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan
của nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện, trong biên chế và hưởng lương từ ngân

sách nhà nước. Công chức trong BMNN: là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ
nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan quản lý nhà nước ở trung ương, cấp
tỉnh, cấp huyện, trong cơ quan, đơn vị thuộc QĐND mà ko phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghịêp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc CAND mà ko phải là


sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghịêp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp
công lập, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đ/v công chức trong bộ
máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ lương
của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Đội ngũ nhân sự HCNN có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm hiệu lực và hiệu
quả của hoạt động công vụ. Chỉ có thông qua những hoạt động cụ thể của đội ngũ nhân sự
HCNN thì hệ thống pháp luật mới được đưa vào quản lý xã hội. Chính vì vậy, xây dựng
đội ngũ CB, CC có đủ năng lực và phẩm chất để phục vụ cho BMNN nói chung và BM
HCNN nói riêng là một nhiệm vụ trọng tâm của tiến trình CCHC ở nước ta.
+ Yếu tố thứ tư: Các nguồn lực vật chất cần thiết để đảm bảo cho việc thực
hiện nhiệm vụ QLHCNN của các CQNN:
- K/n: Nguồn lực vật chất cho các hoạt động hành chính công là tất cả những trang
thiết bị vật chất gồm: công sở, trang thiết bị làm việc và các nguồn tài chính công khác cần
thiết để tiến hành hoạt động QLHCNN. Trong đó:
+ Công sở của CQHCNN là trụ sở làm việc của CQHCNN, có tên gọi riêng, có
địa chỉ cụ thể;
+ Trang thiết bị làm việc gồm những p/tiện, trang thiết bị cần thiết (ví dụ máy vi
tính, bàn ghế làm việc, …;
+ Tài chính công là các hoạt động thu và chi bằng tiền của NN, phản ánh các
mqh kinh tế dưới hình thức giá trị trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ của
NN nhằm thực hiện các chức năng vốn có của NN đ/v XH.
Tài chính công có các đặc điểm cơ bản là (5): TCC Được sử dụng ko vì mục tiêu lợi
nhuận mà chủ yếu là phục vụ cộng đồng; TCC phục vụ mục đích chính trị của NN; TCC
tạo lập môi trường bình đẳng của mọi công dân trong việc hưởng thụ các dịch vụ công do

việc sử dụng tài chính công mang lại; chủ sở hữu nguồn TCC là NN, chỉ có các CQNN có
thẩm quyền mới được quyết định việc thu- chi TCC; việc sử dụng nguồn TCC cần tuân thủ
các quy định của NN.
- Vai trò: Các nguồn lực vật chất đóng vai trò rất quan trọng trong việc hoàn thành
nhiệm vụ công vụ của đội ngũ nhân sự HCNN. Hoạt động công vụ của người CB, CC
không thể diễn ra nếu thiếu các nguồn lực vật chất. (Chẳng hạn, CSGT ko thể xử phạt các
phương tiện vi phạm tốc độ nếu ko có máy đo tốc độ). Nguồn lực tài chính dồi dào là điều
kiện đảm bảo chính sách đãi ngộ đ/v đội ngũ nhân sự HCNN, qua đó khuyến khích, động
viên họ làm việc, hạn chế các hành vi tiêu cực.
- Mối liên hệ giữa bốn yếu tố cấu thành nền HCNN:
Nền HCNN của một quốc gia là một thể thống nhất, một cấu trúc để thực thi pháp luật,
đưa pháp luật vào quản lý đsxh, do đó, các yếu tố cấu thành nền HCNN có mlh gắn bó hữu
cơ, ko thể tách rời và có ảnh hưởng lẫn nhau. Một hệ thống TCHCNN dù có hoàn chỉnh,
đồng bộ cũng ko thể tự mình vận hành trong XH nếu ko được BMHCNN thực thi, áp


dụng. Một BMHCNN dù tốt cũng ko có giá trị nếu những nhân viên làm việc trong đó ko
có đủ năng lực hoặc ko được khuyến khích đầy đủ để làm việc. Ngược lại, những nhân
viên có đầy đủ năng lực và phẩm chất cũng ko thể phát huy được tối đa tài năng của mình
nếu làm việc trong một BMNN quan liêu, chồng chéo, trì trệ. Và bất kỳ hoạt động nào
cũng ko thể tiến hành được nếu thiết những nguồn lực VC cần thiết. Các yếu tố TCBM,
NSHC, TCC dù tốt cũng ko thể vận hành hiệu quả nếu ko có các quy định chặt chẽ, hợp lý,
hệ thống TCHCNN ko hoàn chỉnh, đồng bộ.
- Nền HCNN hoạt động được phải hội đủ 04 yếu tố: thể chế HCNN, bộ máy
HCNN, nhân sự và Tài chính công. Yếu tố nào cũng quan trọng, nhưng theo quan điểm
của tôi, Thể chế HCNN đóng vai trò quan trọng nhất, vì: TCHCNN là cơ sở pháp lý để xây
dựng, tổ chức bộ máy, đội ngũ nhân sự cũng như việc sử dụng các nguồn lực vật chất.
Theo đó, bộ máy có tốt ko, nhân sự được sử dụng hiệu quả ko, các nguồn lực vật chất có
đáp ứng đầy đủ ko là do thể chế quy định. Và suy cho cùng, các yếu tố Bộ máy HCNN,
Nhân sự HCNN, nguồn lực vật chất cần thiết có tác động nhất định đến nền HCNN nhưng

sự tác động ấy ở mức độ ntn lại phụ thuộc vào tính khoa học, hợp lý của thể chế HCNN.
Thể chế HCNN càng khoa học, hợp lý thì nền HCNN vận hành càng hiệu quả.
Thực tế quá trình CCHC ở VN cũng cho thấy, công cuộc CCHC gắn liền với việc
CC 4 yếu tố cấu thành nền HCNN, trong đó, CCTTHC- một bộ phận cấu thành Thể chế
HCNN- được xác định là khâu đột phá của toàn bộ quá trình CCHC và CP đã ban hành đề
án 30 năm 2007 để chỉ đoạ quyết liệt công tác này. Điều đó cho thấy, CCTTHC nói riêng
va CC Thể chế nói chung/.

Vấn đề 5: Khái niệm thể chế và thể chế HCNN:
Câu 6: Anh (chị) cho biết các yếu tố cấu thành thể chế HCNN?
- Khái niệm thể chế và thể chế HCNN:
Thể chế là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến hiện nay nhưng với các cách
hiểu rất khác nhau, chưa có sự thống nhất.
Hiểu theo nghĩa rộng: Thể chế là một cấu trúc tổng thể các yếu tố để tiến hành hoạt
động của một tổ chức bao gồm cả tổ chức bộ máy với những quy định cụ thể về nhiệm vụ,
quyền hạn, quy tắc hoạt động buộc các thành viên trong tổ chức đó phải chấp hành, thậm
chí quy định cả hoạt động của các thành viên trong tổ chức đó. Khi hiểu như vậy, TC
HCNN bao gồm trong đó cả hệ thống các CQNN và cơ chế hoạt động của các cơ quan đó.
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thể chế chỉ bao gồm hệ thống các quy định, chế tài tạo
nên hành lang pháp lý cho hoạt động của một tổ chức nào đó. Ở đây, chúng ta hiểu TC
HCNN theo nghĩa hẹp này. Theo đó, hệ thống TC HCNN là toàn bộ các quy định, quy tắc
do nhà nước ban hành để điều chỉnh các hoạt động QLHCNN, tạo nên hành lang pháp lý
cho tất cả các hoạt động của các CQNN và các CBCC có thẩm quyền.
- Các yếu tố cấu thành thể chế HCNN: TCHCNN bao gồm:


(1) Thể chế quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và CCTC của BM HCNN (Luật Tổ
chức Chính phủ; Luật Tổ chức HĐND, UBND; các Nghị định quy định cơ cấu, chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của các Bộ, CQ ngang Bộ …);
(2) Thể chế quy định chế độ công vụ công chức (Luật Cán bộ, Công chức năm 2008 và

các văn bản hướng dẫn thi hành (Nghị định, Thông tư);
(3) Thể chế để QL HCNN trên các lĩnh vực (Luật Giáo dục, Luật Báo chí, Luật Đấu thầu,
Luật Thi đua Khen thưởng…);
(4) Thể chế quy định mối quan hệ giữa CQHCNN với cá nhân, tổ chức (thủ tục hành
chính)
(5) Thể chế quy định về chế độ tài phán hành chính (Luật Khiếu nại, tố cáo và các văn bản
hướng dẫn thi hành…).


Câu 7: Anh (chị) hãy phân tích khái niệm Thể chế HCNN:
- Khái niệm Thể chế:
Thể chế là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến hiện nay nhưng với các cách
hiểu rất khác nhau, chưa có sự thống nhất.
Hiểu theo nghĩa rộng: Thể chế là một cấu trúc tổng thể các yếu tố để tiến hành hoạt
động của một tổ chức bao gồm cả tổ chức bộ máy với những quy định cụ thể về nhiệm vụ,
quyền hạn, quy tắc hoạt động buộc các thành viên trong tổ chức đó phải chấp hành, thậm
chí quy định cả hoạt động của các thành viên trong tổ chức đó.
Hiểu theo nghĩa hẹp hơn, thể chế chỉ bao gồm hệ thống các quy định, chế tài tạo
nên hành lang pháp lý cho hoạt động của một tổ chức nào đó.
- Phân loại Thể chế: Gồm Thể chế tư và Thể chế Nhà nước.
- Khái niệm Thể chế nhà nước: Thể chế NN là những văn bản pháp lý nhằm tạo
khuôn khổ pháp lý cho hoạt động của bộ máy nhà nước và xã hội.
- Khái niệm Thể chế HCNN:
Khi hiểu thể chế theo nghĩa rộng, TC HCNN bao gồm trong đó cả hệ thống các
CQNN và cơ chế hoạt động của các cơ quan đó.
Ở đây, chúng ta chỉ hiểu TC theo nghĩa hẹp hơn. Khi hiểu như vậy, hệ thống TC
HCNN là toàn bộ các quy định, quy tắc do nhà nước ban hành để điều chỉnh các hoạt động
QLHCNN, tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả các hoạt động của các CQNN và các
CBCC có thẩm quyền.
- Phân tích nội dung của khái niệm:

+ Các quy định, quy tắc do NN ban hành bao gồm Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh và
các văn bản dưới luật. Ví dụ: Hiến pháp nước CHXHCN VN năm 1992; Luật Giáo dục
năm 2005, Nghị định 75/2006/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành một số điều của Luật Giáo dục; Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2008, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2008…
+ Các quy định, quy tắc này tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả các hoạt động của
các cơ quan nhà nước cũng như CBCC có thẩm quyền. Đ/v các cơ quan HCNN: quy định
vấn đề thành lập, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức của cơ quan đó
(Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức HĐND và UBND, …), quy định hoạt động quản
lý nhà nước đối với tất cả các ngành, lĩnh vực cụ thể (Luật Giáo dục, Luật Thuế thu nhập
cá nhân, Luật Đấu thầu, Luật Thi đua- Khen thưởng …) Đối với CBCC: quy định việc
tuyển dụng, sử dụng, quy định quyền và nghĩa vụ, … (Luật Cán bộ, công chức …)


Vấn đề 6: Vai trò của thể chế HCNN:
Câu 8: Anh (chị) hãy phân tích vai trò của Thể chế HCNN. Theo anh (chị) để làm tốt
những vai trò đó, cần quan tâm hoàn thiện những vấn đề gì đ/v Thể chế HCNN ở VN
hiện nay.
- Khái niệm Thể chế HCNN:
Theo nghĩa rộng, TC HCNN bao gồm trong đó cả hệ thống các CQNN và cơ chế
hoạt động của các cơ quan đó.
Theo nghĩa hẹp, TC HCNN là toàn bộ các quy định, quy tắc do nhà nước ban hành
để điều chỉnh các hoạt động QLHCNN, tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả các hoạt động
của các CQNN và các CBCC có thẩm quyền.
- Phân tích các vai trò của Thể chế HCNN:
TC HCNN có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển hệ thống HCNN:
(1) Là căn cứ để xác lập mức độ và phạm vi can thịêp của NN đ/v hoạt động của các đối
tượng trong XH:
+ Quy định mọi hoạt động của các CQHCNN, CB,CC HCNN đều phải tuân thủ
pháp luật (Luật trên các lĩnh vực).

+ Quy định việc kiểm soát từ các chủ thể đ/v hoạt động HCNN (Luật Khiếu nại, tố
cáo, các quy định về tài phán hành chính khác)
(2) Là căn cứ để thiết lập nên tổ chức BM HCNN:
+ Xác định cn, nv, thẩm quyền của các CQHCNN.
+ Xác định cctc: thành lập mới, giải thể, sáp nhập.
+ Xác định mqh giữa các CQ HCNN.
(3) Là cơ sở để xây dựng đội ngũ nhân sự HCNN;
+ Xác định rõ ai là nhân sự HCNN.
+ Quy định ai được trao quyền làm gì, không được làm gì và làm ntn.
+ Quy định một số nội dung quản lý nhân sự HCNN khác.
(4) Là cơ sở để xác định mqh giữa NN với công dân và tổ chức trong XH:
+ Quy định quyền, nghĩa vụ của cá nhân, tổ chức, CQ CHNN.
+ Quy định trách nhiệm của NN trong việc đảm bảo các quyền công dân.
+ Xác định bản chất quan hệ là: Mệnh lệnh- phục tùng, phục vụ nhân dân
(5) Là căn cứ để quản lý, điều chỉnh việc sử dụng các nguồn lực của XH một cách có hiệu
lực và hiệu quả (tài lực, vật lực).
- Để làm tốt những vai trò này, cần quan tâm hoàn thiện Thể chế HCNN ở
những vấn đề sau đây: (hoàn thiện 5 yếu tố cấu thành)


1. Cần phải hoàn thiện thể chế liên quan đến tổ chức BM HCNN. Hiện nay, thể chế quy
định về vấn đề tổ chức bộ máy đã cơ bản đầy đủ, hoàn chỉnh (Luật Tổ chức Chính phủ;
Luật Tổ chức HĐND, UBND; các Nghị định quy định cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các Bộ, CQ ngang Bộ …), BMNN tinh gọn, hiệu quả, hiệu lực hơn, khắc phục một
bước sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của nhau, có sự phân cấp mạnh mẽ cho địa
phương, một số dịch vụ công được chuyển bớt cho khu vực tư và các tổ chức NGO để thực
hiện hiệu quả hơn … Tuy nhiên trên thực tế, bộ máy nhà nước vẫn còn tình trạng chống
chéo, có những lĩnh vực còn cồng kềnh, có những lĩnh vực lực lượng còn quá mỏng (lực
lượng thanh tra, kiểm tra …).
Đứng trước yêu cầu phát triển đất nước trong những năm tiếp theo, chúng ta cần

tiếp tục hoàn thiện thể chế về BMHCNN. Cần phải hướng tới mục tiêu Chính phủ và BM
HCNN làm tốt cả hai chức năng là QLHCNN và phục vụ phát triển kinh tế – xã hội. Cải
cách thể chế về các tổ chức xã hội đảm bảo để nhà nước quản lý tốt các hội, các tổ chức
phi chính phủ, đồng thời mở rộng dân chủ, huy động hiệu quả các nguồn lực xã hội cho sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước ổn định và bền vững.
(2) Cần phải hoàn thiện thể chế quy định chế độ công vụ công chức: Các văn bản pháp lý
dần hoàn thiện (Luật CB, CC ra đời đã phân biệt rõ ràng hai đối tượng CB, CC mà trước
đây chưa phân định rõ); chế độ đãi ngộ đối với công chức từng bước được cải thiện, vấn đề
đào tạo bồi dưỡng công chức được quan tâm, việc quản lý công chức từng bước được đổi
mới. Tuy nhiên, mô hình quản lý nhân sự ở ta cơ bản vẫn là mô hình quản lý chức nghiệp,
theo đó, CB, CC được xếp theo ngạch, bậc, thăng tiến dựa trên thâm niên, do đó, năng lực
của CB, CC chưa được quan tâm, chưa được tạo điều kiện để phát huy một cách thực sự;
tiền lương công chức còn eo hẹp, không đáp ứng được nhu cầu cuộc sống ngày càng tăng
làm cho đội ngũ công chức không chuyên tâm làm việc do dành thời gian để làm thêm các
công việc khác bên ngoài; tình trạng tham nhũng, lãng phí còn nhức nhối; tinh thần trách
nhiệm, đạo đức công chức vẫn còn đáng quan tâm…
Cần xây dựng và thực hiện tốt hơn cơ chế, chính sách thu hút nhân tài, tạo động lực
khuyến khích công chức nâng cao trách nhiệm và hiệu quả công tác; đẩy mạnh công tác
đào tạo, bồi dưỡng, tuyển chọn phân công, đề bạt đội ngũ cán bộ, công chức trẻ theo quy
định của Luật Cán bộ, công chức, khắc phục tình trạng hẫng hụt cán bộ quản lý, lãnh đạo
kế cận ở các cấp, các ngành; đẩy nhanh tiến độ cải cách tiền lương, tính đủ các thành phần
cấu thành nên lương để cán bộ, công chức và gia đình sống được bằng lương theo mức
trung bình của xã hội.
(3) Cần phải hoàn thiện thể chế để QL HCNN trên các lĩnh vực (Luật Giáo dục, Luật Báo
chí,…): Đã và đang thực hiện tốt việc việc rà soát, sửa đổi, bổ sung hoặc ban hành mới
một số Luật và Pháp lệnh; ban hành một số lượng lớn nghị định hướng dẫn thi hành luật,
pháp lệnh tạo hành lang pháp lý cho việc QL HCNN trên các lĩnh vực. Tuy nhiên, một số
quy định còn chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, mối quan hệ giữa nhà nước- thị trường- tổ
chức xã hội còn nhiều mặt chưa hoàn thiện.



Cần tiếp tục xây dựng, hoàn thiện thể chế theo hướng hoàn thiện mối quan hệ nhà
nước - thị trường – các tổ chức xã hội. Các cải cách thể chế kinh tế phải đảm bảo để phát
triển đầy đủ cơ chế thị trường và các thị trường cơ bản theo định hướng XHCN
(4) Cần phải hoàn thiện thể chế quy định mối quan hệ giữa CQHCNN với cá nhân, tổ chức
(thủ tục hành chính): Sau 10 năm CCHC, đặc biệt là từ năm 2007, CC TTHC được xem là
khâu đột phá (đề án 30), cải cách TTHC đã được đẩy mạnh. Nhiều TTHC đã đơn giản hoá
và các địa phương đã thành công khi áp dụng cơ chế “một cửa”.
TTHC tuy có nhiều tiến bộ nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều phức tạp, rườm rà, có
khi ko thống nhất, gây phiền hà cho doanh nghịêp, người dân. Cơ chế một cửa giúp người
dân và tổ chức giải quyết công việc nhanh hơn, nhưng có nơi làm chưa tốt làm mất nhiều
thời gian, phải mất nhiều quy trình mới giải quyết được một thủ tục.
Trong thời gian đến, cần tiếp tục rà soát các loại TTHC, bãi bỏ hoặc sửa đổi, bổ
sung theo hướng tạo thuận tiện cho nhân dân và doanh nghiệp. Đề cao trách nhiệm của
người đứng đầu CQHCNN trong việc cải cách TTHC. Đẩy mạnh việc thực hiện có hiệu
quả cơ chế một cửa, một cửa liên thông tại các CQ HCNN và mở rộng áp dụng tại các đơn
vị sự nghiệp dịch vụ công như bệnh viện, trường học.
(5) Hoàn thiện thể chế quy định về chế độ tài chính:
Thể chế quy định về chế độ tài chính cơ bản đã hoàn chỉnh. Bước tiến vượt bậc nhất
là việc CP đã ban hành Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17/10/2005 “Quy định chế độ
tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí quản lý hành chính đối với cơ
quan nhà nước" và Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 "Quy định quyền tự chủ,
tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với
đơn vị sự nghiệp công lập". Các đơn vị này được phép sử dụng số tiền tiết kiệm được từ
việc cắt giảm chi phí để trả thêm lương cho CBCC trong giới hạn nhất định.
Tuy nhiên, Ngân sách nhà nước vẫn chưa được sử dụng thực sự có hiệu quả, chi
tiêu công nhất là sử dụng ngân sách đầu tư trong lĩnh vực kinh tế còn lãng phí, thất thoát
nhiều, bội chi ngân sách nhà nước và nợ nước ngoài có xu hướng tăng mạnh.
Trong thời gian đến, cần tiếp tục cải cách việc phân bổ và sử dụng ngân sách, nâng
cao hiệu quả đầu tư công, đảm bảo sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các khoản chi tài chính

trong khu vực công, thực hiện việc cung ứng các dịch vụ công cộng công bằng và hiệu
quả; tiếp tục phân cấp ngân sách, phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và các
ngành trong việc quản lý tài chính và ngân sách được phân cấp; tiếp tục thực hiện đổi mới
cơ chế tài chính đối với các đơn vị hành chính và sự nghiệp theo NĐ số 130/2005/NĐ-CP
và 43/2006/NĐ-CP của CP đã ban hành; đổi mới cơ chế quản lý vốn, tăng cường hiệu quả
trong sử dụng vốn ODA; tăng cường th/hút và định hướng các dòng vốn FDI tập trung đầu
tư vào cơ sở, kết cấu hạ tầng kỹ thuật trọng yếu, chuyển giao các công nghệ hiện đại vào
VN; đổi mới công tác thanh tra, giám sát tài chính trong quản lý và sử dụng tài chính công.


Vấn đề 7: Các yếu tố quyết định (chi phối) thể chế HCNN:
Câu 9: Khi xây dựng và ban hành Thể chế HCNN cần quan tâm đến những yếu tố
gì? Theo anh (chị), yếu tố nào tác động lớn nhất đến thể chế HCNN ở VN hiện nay.
(Có những yếu tố nào ảnh hưởng đển Thể chế HCNN? Phân tích sự tác động của một
yếu tố đến thể chế HCNN ở VN hiện nay)
- Khái niệm Thể chế HCNN:
Theo nghĩa rộng, TC HCNN bao gồm trong đó cả hệ thống các CQNN và cơ chế
hoạt động của các cơ quan đó.
Theo nghĩa hẹp, TC HCNN là toàn bộ các quy định, quy tắc do nhà nước ban hành
để điều chỉnh các hoạt động QLHCNN, tạo nên hành lang pháp lý cho tất cả các hoạt động
của các CQNN và các CBCC có thẩm quyền.
- Các yếu tố tác động đến việc ban hành và xây dựng Thể chế HCNN: TC HCNN
chịu sự ảnh hưởng của môi trường chính trị; môi trường kinh tế- xã hội; lịch sử, truyền
thống văn hoá, phong tục, tập quán và môi trường quốc tế.
+ Môi trường chính trị: NN trước hết là công cụ trong tay giai cấp thống trị
để giúp giai cấp đó thực hiện các mục tiêu chính trị của mình. Do đó, mọi hoạt động của
NN đều ko thể đi ngược lại các mục tiêu chính trị. Các quy định về sự điều tiết của NN đ/v
xã hội cũng phải phù hợp với những định hướng chính trị trong xã hội. Chính vì vậy,
những định hướng chính trị có ảnh hưởng to lớn tới toàn bộ hệ thống thể chế NN nói
chung và thể chế HCNN nói riêng.

+ Môi trường KT-XH: các quy định điều tiết hoạt động của các đối tượng
trong xã hội phải phù hợp với trình độ phát triển KT-XH. Vai trò và mức độ điều tiết của
NN đ/v các qt KT-XH diễn ra ở các nước khác nhau ko giống nhau. Sự thay đổi trong môi
trường KT-XH buộc hệ thống thể chế HCNN phải thay đổi theo, thích ứng với những thay
đổi trong XH để có thể quản lý XH một cách hiệu quả nhất.
+ Lịch sử phát triển của quốc gia và truyền thống, văn hoá dân tộc: Mỗi dân
tộc trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài đều có những đặc điểm truyền thống,
văn hoá riêng, ko giống với các dân tộc khác. Do đặc tính này mà mọi quy định để điều tiết
hành vi của các đối tượng trong xã hội phải được xây dựng phù hợp với các chuẩn mực
chung được thừa nhận trong truyền thống, văn hoá. Một hệ thống thể chế chỉ tốt và được
tự nguyện áp dụng khi nó phát huy được những ưu điểm của các giá trị truyền thống nhưng
đồng thời cũng loại bỏ đi những nhược điểm của truyền thống như những hủ tục lạc hậu,
tư duy bảo thủ …
+ Các yếu tố quốc tế: Trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, mỗi quốc gia
nếu muốn phát triển không thể nằm ngoài mlh với các quốc gia khác. Sự giao thoa văn
hoá, tri thức và các giá trị chung của văn minh nhân loại cũng tác động không nhỏ đến sự
hình thành và phát triển của hệ thống TC HCNN. Sự ràng buộc pháp lý đ/v một quốc gia
chấp nhận khi tham gia các cấu trúc quốc tế có ảnh hưởng to lớn đến hệ thống thể chế của


quốc gia đó. Ví dụ: Việc Việt Nam gia nhập WTO có ảnh hướng lớn đến hệ thống các quy
định về thuế xuất nhập khẩu, chúng ta phải có sự điều chỉnh thích hợp theo thông lệ, luật
pháp quốc tế.
- Việc ban hành và xây dựng Thể chế HCNN chịu sự tác động, ảnh hưởng của
những yếu tố nêu trên. Vì vậy, khi ban hành và xây dựng Thể chế HCNN cần phải quan
tâm đến tất cả các yếu tố đó. Trong bối cảnh của VN hiện nay, theo tôi, yếu tố có tác động
mạnh mẽ nhất, quan trọng nhất là yếu tố quốc tế, vì:
Trong hội nhập, bất cứ sự thay đổi nào từ bên ngoài cũng đều có ảnh hưởng nhất
định đến tình hình bên trong của các nước. Vì vậy, việc xác định chiến lược phát triển của
mỗi nước đòi hỏi phải tính đến ko chỉ các nhân tố tác động bên trong, thuộc phạm vi quốc

gia và các đặc điểm dân tộc mà còn phải đặc biệt chú ý đến những nhân tố tác động và chi
phối từ bên ngoài, cả tình hình quốc tế, khu vực và thế giới, nhất là tác động của các các
nước lớn, các nền kinh tế mạnh, của xu hướng cải cách thể chế, trong đó có thể chế NN,
luật pháp. Hội nhập đòi hỏi sự đồng thuận giữa các bên đối tác. Khung pháp luật quốc tế
trở thành hệ quy chiếu đối với cải cách luật pháp, cải cách HC quốc gia mà mỗi nước phải
đáp ứng, nhất là trong nền KTTT.
Đ/v VN, Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO vào năm 2006
và tham gia vào hoạt động của nhiều tổ chức quốc tế khác, đánh dấu thời kỳ hội nhập sâu
sắc của VN vào nền kinh tế thế giới. Do đó, cùng với đổi mới kinh tế, phát triền mạnh mẽ
KTTT, Việt Nam đang đứng trước đòi hỏi phải đẩy mạnh đổi mới chính trị, cụ thể là đổi
mới hệ thống chính trị, cải cách nền HC quốc gia, sửa đổi những luật hiện hành, xây dựng
một số đạo luật mới phù hợp với chuẩn mực và thông lệ quốc tế. Chẳng hạn phải thay đổi
về hệ thống thuế (VN đã ban hành lộ trình cắt giảm thuế quan), các quy định về xuất nhập
cảnh, xuất nhập khẩu phải thay đổi cho phù hợp…
Vì vậy, yếu tố quốc tế là yếu tố có tác động mạnh mẽ nhất, quan trọng nhất đ/v thể
chế HCNN bên cạnh sự tác động của môi trường chính trị, KT-XH cũng như phong tục tập
quán.


PHẦN III: CHỨC NĂNG, PHƯƠNG PHÁP CỦA HCNN:
Vấn đề 8: Quan niệm về chức năng và phân loại chức năng HCNN:
Câu 10: Anh (chị) hãy phân tích các quan điểm về chức năng QLHCNN.
1. Khái niệm CN HCNN:
Chức năng là một thuật ngữ để chỉ công dụng chính yếu của một thực thể hay bộ
phận. Chức năng còn được hiểu là những hoạt động chủ yếu mà 1 cá nhân, bộ phận, cơ
quan, tổ chức phải thực hiện để khẳng định sự tồn tại của mình.
Do đối tượng quản lý phong phú và ko gian quản lý rộng lớn nên hoạt động HCNN
rất đa dạng và phức tạp. Để thuận lợi cho việc t/h chức năng, các chủ thể hành chính cần
phải phân định thành các nhóm hoạt động chuyên biệt và giao cho cá nhân, bộ phận, tổ
chức có chuyên môn phù hợp đảm nhận. Đây chính là quá trình phân công, CMH lao động

trong hoạt động hành chính và kết quả là, hình thành nên các chức năng hành chính. Như
vậy có thể nói cn hành chính là SP của CMH và phân công lao động.
Khái quát lại, Chức năng HCNN là những phương diện hoạt động chuyên biệt của
HCNN, là SP của quá trình phân công, chuyên môn hoá hoạt động trong lĩnh vực thực thi
quyền hành pháp.
Chức năng hành chính ở mỗi quốc gia có những đặc trưng riêng tuỳ thuộc vào địa
vị pháp lý của hệ thống hành pháp trong mối tương quan với cơ quan lập pháp và tư pháp.
Các chức năng hành chính đều được quy định chặt chẽ bằng hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật và được phân cấp cho các CQHCNN từ TW đến cơ sở.
2. Phân loại chức năng HCNN: Có nhiều cách phân loại chức năng HCNN khác nhau, sau
đây là một số cách phân loại cơ bản:
+ Phân theo phạm vi t/h cn: có cn đối nội và cn đối ngoại.
+ Phân theo tính chất hoạt động: có cn lập quy và cn điều hành hành chính.
+ Phân theo lĩnh vực chủ yếu có: cn ctrị, cn ktế, cn vhoá, cn xhội.
+ Phân theo cấp hành chính có: cn hành chính TW (cn của CP, các Bộ, cq ngang
Bộ, cq thuộc CP) và cn hành chính địa phương (cn của UBND và cq chuyên môn các cấp).
+ Phân theo nhóm cn bên trong và bên ngoài đ/v hệ thống hành chính có: cn bên
trong (nội bộ) gồm các cn vận hành nội bộ nền HC hoặc CQHC và cn bên ngoài gồm có
nhóm cn QLHCNN đ/v các lĩnh vực và cn cung ứng DVC.
3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu CN HCNN:
- (1) thể hiện nội dung hoạt động của HCNN. Do vậy thông qua việc xem xét CN
HCNN có thể xác định được các nội dung của HCNN.
- (2) là một trong những căn cứ quan trọng nhất để thiết lập các CQHCNN và cũng
là lý do chính đáng cho sự tồ tại của chủ thể hành chính nhất định.


×