Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

NHỮNG ẢNH HƯỞNG của QUAN hệ QUỐC tế đến CÁCH MẠNG VIỆT NAM từ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI đến năm 1991 TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.43 KB, 17 trang )

CHUYÊN ĐỀ:

NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN HỆ QUỐC TẾ ĐẾN CÁCH
MẠNG VIỆT NAM TỪ SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI
ĐẾN NĂM 1991 TRONG CHƯƠNG TRÌNH THPT

MỤC LỤC
MỤC LỤC...................................................................................................................................1
I. Ý nghĩa.....................................................................................................................................2
II. Những ảnh hưởng của quan hệ quốc tế đến lịch sử Việt Nam 1945-1991.............................2
1. Năm 1945 – Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước..........................................2
2. Giai đoạn 1945 – 1954........................................................................................................4
3. Giai đoạn 1954 – 1975........................................................................................................5
4. Giai đoạn 1975 – 1991.......................................................................................................8
III. Các biện pháp tiến hành sử dụng kiến thức lịch sử về mối quan hệ quốc tế với lịch sử Việt
Nam trong dạy học ở trường phổ thông (1945-1991).................................................................9
1. Hướng dẫn học sinh lựa chọn những kiến thức cơ bản lịch sử thế giới có mối liên hệ với
nội dung lịch sử Việt Nam trong dạy học...............................................................................9
2. Thông tin gợi mở để học sinh tái hiện sự kiện..................................................................11
3. Nêu vấn đề và xây dựng bài học nhận thức......................................................................13
4. Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với trao đổi đàm thoại..............................................13
5. Tổ chức và tiến hành các hình thức hoạt động ngoại khóa...............................................14
6. Bài tập thực hành..............................................................................................................15
IV. Kết luận...............................................................................................................................17

1


I. Ý nghĩa
Trong tình hình thế giới sau chiến tranh thế giới thứ hai, với sự hình thành
“Hai cực Ianta”, việc trải qua các thời kì “Chiến tranh lạnh”, sự tan vỡ của Liên


Xô, sự sụp đổ của CHXN ở các nước Đông Âu, sự hình thành “thế giới nhiều
cực”, một cục diện mới được hình thành.
Mối quan hệ giữa các cộng đồng người là khách quan và tất yếu. Con
người có nhu cầu liên kết, giao lưu để tăng sức mạnh trong đấu tranh tự nhiên và
xã hội, để giải quyết các vấn đề toàn cầu đang trở thành thảm họa không chỉ
riêng nước nào mà chung cả nhân loại.
Mối quan hệ giữa lịch sử dân tộc và các mối quan hệ quốc tế ngày càng
phát triển, tác động qua lại với nhau; Vì vậy, trong dạy học lịch sử chúng ta
cũng cần nhận thức rõ điều này. Trong thực tế, lịch sử dân tộc không tách khỏi
lịch sử thế giới, phong trào cách mạng Việt Nam gắn liền với phong trào cách
mạng thế giới, gắn với những biến động của các mối quan hệ quốc tế.
Nhận thức đúng mối quan hệ giữa lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, lịch
sử Việt Nam với các mối quan hệ quốc tế, sự tác động, ảnh hưởng qua lại lẫn
nhau giúp chúng ta tránh được những quan điểm sai lầm trong nghiên cứu và
dạy học lịch sử, hoặc đề cao lịch sử dân tộc, xem nhẹ lịch sử thế giới, hoặc đề
cao lịch sử thế giới, xem nhẹ lịch sử dân tộc, làm nảy sinh chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, hẹp hòi, xuyên tạc, bóp méo nhiều sự thật lịch sử là điều không thể chấp
nhận được.
II. Những ảnh hưởng của quan hệ quốc tế đến lịch sử Việt Nam 19451991
1. Năm 1945 – Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công trong cả nước, là kết quả cuộc
đấu tranh giành độc lập của nhân dân Việt Nam chống thực dân Pháp, đặc biệt
từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng
dân tộc. Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam là một bộ phận trong cuộc đấu
tranh của nhân dân thế giới chống chủ nghĩa phát xít. Vì vậy, những biến động
của thế giới lúc bấy giờ đã dẫn đến thời cơ của Cách mạng tháng Tám.
2


Để hiểu sâu các vấn đề này giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại những

sự kiện lịch sử thế giới có ảnh hưởng trực tiếp đến cách mạng Việt Nam. Đó là
điều kiện khách quan hết sức thuận lợi đưa đến thời cơ “ngàn năm có một” cho
cách mạng tháng Tám nổ ra thắng lợi.
+ Chiến tranh thế giới thứ hai đã đi tới những ngày cuối; ở châu Âu, phát
xít Đức đã bị tiêu diệt hoàn toàn và buộc phải đầu hàng Đồng minh không điều
kiện (5-1945); ở châu Á quân phiệt Nhật cũng đã đầu hàng Đồng minh không
điều kiện (8-1945).
Quân Nhật ở Đông Dương bị tê liệt, chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim
hoang mang, tan rã, quân Anh và Tưởng chưa kịp vào Đông Dương (theo Hội
nghị Pốtđam tháng 7-1945 thì quân Anh và Tưởng thay mặt cho quân Đồng
minh vào Đông Dương để giải giáp khi giới quân Nhật).
Nắm lại những sự kiện về lịch sử thế giới đã học nêu trên, học sinh hiểu
rõ rằng thời cơ ngàn năm có một đã chín muồi, thời cơ chỉ diễn ra trong khoảng
thời gian rất ngắn. Đó là thời điểm: sau khi phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh
không điều kiện và trước khi quân Anh, Tưởng vào nước ta: nếu khởi nghĩa lúc
quân Nhật chưa đầu hàng thì chúng sẽ phản ứng quyết liệt, nếu chậm khi quân
Anh, Tưởng kéo vào thì thời cơ không còn nữa. Như vậy, Đảng, Hồ Chí Minh
đã nắm vững thời cơ để hành động phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa
giành chính quyền trong cả nước, đúng như nhận định của Hồ Chí Minh ở Tân
Trào “Bây giờ thời cơ đã tới, dù có đốt cháy dãy Trường Sơn cũng phải làm
cách mạng thành công”. Qua đó cũng phải làm rõ nghệ thuật chớp thời cơ của
Đảng khi thời cơ xuất hiện; đồng thời Đảng đã lãnh đạo toàn dân quyết tâm nổi
dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền khi thời cơ đã đến. Điều này giúp học
sinh nhận thấy vị trí của Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam nằm trong
dòng thác cách mạng ở Đông Nam Á. Sau khi phát xít Nhật đầu hành Đồng
minh không điều kiện, hàng loạt các nước trong khu vực đã giành độc lập
Inđônêxia (17-8-1945), Philippin (7-1946)… điều này đã tác động đến cách
mạng tháng Tám ở Việt Nam. Mặt khác, Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt
Nam thắng lợi đã cổ vũ cuộc đấu tranh giành độc lập ở các nước trong khu vực.
3



2. Giai đoạn 1945 – 1954
Sau cách mạng tháng Tám 1945 nhiều kiến thức về lịch sử thế giới giúp
học sinh hiểu rõ những sự kiện cơ bản trong khóa trình lịch sử Việt Nam: âm
mưu các nước tư bản đế quốc đối với Việt Nam, việc kí hiệp định sơ bộ 6-31946. Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Pháp (1946), Mĩ can thiệp vào Việt Nam,
việc kí Hiệp định Giơnevơ 1954 về lập lại hòa bình ở Đông Dương...
Chúng tôi dẫn một ví dụ về việc học tập bài: Chiến dịch Biên giới Thu –
Đông 1950. Vấn đề đặt ra là “Chiến dịch diễn ra trong bối cảnh lịch sử như thế
nào…” Để hiểu rõ vấn đề như vậy, giáo viên hướng dẫn học sinh nhớ lại các
kiến thức có liên quan.
Ngày 1-10-1949, Cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa ra đời, tạo điều kiện vô cùng thuận lợi cho cuộc kháng
chiến của ta phát triển. Trước hết, Việt Nam có điều kiện mở rộng quan hệ trực
tiếp với hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa đã hình thành. Từ tháng 1 – 1950,
hàng loạt các nước xã hội chủ nghĩa lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại
giao với nước ta, góp phần nâng cao địa vị và uy tín của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa trên trường quốc tế.
Trong cùng thời gian này, cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và
Campuchia đang có bước phát triển mới. Tháng 6-1950, Ủy ban giải phóng
Campuchia thành lập. Tháng 8-1950, Chính phủ kháng chiến Pa thét Lào cùng
với Mặt trận Lào tự do ra đời đã lãnh đạo nhân dân đoàn kết chống thực dân
Pháp và bè lũ tay sai.
Phong trào đấu tranh của nhân dân Pháp và nhân dân các nước thuộc địa
của Pháp phản đối chiến tranh xâm lược Việt Nam ngày càng lên cao với nhiều
hình thức phong phú, như lấy chữ kí, đưa đơn kiến nghị đòi hòa bình ở Việt
Nam…Nước Pháp lúc này gặp nhiều khó khăn về kinh tế, tài chính. Lợi dụng cơ
hội này đế quốc Mĩ ngày càng can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh ở Đông
Dương.
Những kiến thức về lịch sử thế giới nêu trên giúp học sinh hiểu rõ những

ảnh hưởng, tác động của thế giới đến cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân ta lúc bấy giờ, đồng thời cũng lí giải rõ được nguyên nhân ta mở chiến dịch
4


Biên giới Thu – Đông 1950. Với những bước phát triển của cuộc kháng chiến
chống Pháp từ sau toàn quốc kháng chiến (củng cố chế độ dân chủ nhân dân,
xây dựng hậu phương, chiến thắng Việt Băc 1947…), cùng với những thuận lợi
của cách mạng thế giới, nhân dân Việt Nam mở rộng quan hệ, nhận sự giúp đỡ
của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân tiến bộ thế giới, làm cho nhân dân
thế giới hiểu rõ tính chất chính nghĩa của cuộc kháng chiến chống Pháp, phá vỡ
vòng vây của quân Pháp, hòng khóa chặt biên giới Việt – Trung.
3. Giai đoạn 1954 – 1975
Khi dạy học giai đoạn này càng cần sự hỗ trợ của kiến thức lịch sử thế
giới vì các sự kiện của lịch sử Việt Nam gắn chặt hơn với lịch sử thế giới. Công
cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội được tiến hành ở miền Bắc vào những năm
1954 – 1975. Từ sau cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi, nhân dân miền
Bắc vừa tiếp tục hoàn thành những nhiệm vụ của cách mạng dân tộc của nhân
dân, vừa bắt đầu thực hiện những nhiệm vụ của cách mạng XHCN – hoàn thành
cải cách ruộng đất, khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa, thực hiện kế
hoạch 5 năm lần thứ nhất. Các nhiệm vụ này lại tiến hành trong điều kiện có
chiến tranh, đất nước bị chia cắt. Do đó, nhân dân ta vừa chiến đấu, vừa sản xuất
và làm tròn nghĩa vụ của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn, chi viện sức
người, sức của cho miền Nam. Ngoài sự nỗ lực của bản thân là chủ yếu trong
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ miền Bắc, nhân dân Việt Nam
được sự giúp đỡ to lớn của nhân loại tiến bộ, của nhân dân các nước xã hội chủ
nghĩa anh em, đặc biệt của Liên Xô, Trung Quốc.
Để hiểu rõ những nội dung trên, giáo viên cần gợi cho học sinh nhớ lại
những kiến thức về sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa và mối quan hệ giữa
Việt Nam với cách nước XHCN. Trong những năm 1944 – 1945, khi Hồng quân

Liên Xô tiến vào lãnh thổ các nước Đông Âu, truy kích quân đội phát xít Đức,
nhân dân các nước này đã nổi dậy giành chính quyền và lập nên các Nhà nước
dân chủ nhân dân như Ba Lan (22-7-1944), Rumani (23-8-1944), Hunggari (4-41945), Tiệp Khắc (9-5-1945)… Từ năm 1945 đến 1949, vượt qua nhiều khó
khăn, nhân dân các nước Đông Âu đã hoàn thành những nhiệm vụ của cuộc cách
5


mạng dân chủ nhân dân. Từ năm 1949 các nước dân chủ nhân dân Đông Âu
bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Thắng lợi này cùng với sự ra
đời của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa (10-1949) và trước đó là Cộng hòa
nhân dân Mông Cổ (1924), Việt Nam dân chủ cộng hòa (1945), Cộng hòa dân
chủ nhân dân Triều Tiên (1948) đã đưa CHXN vượt ra khỏi phạm vi một nước
Liên Xô, bước đầu hình thành một hệ thống thế giới. Từ 1950 trở đi, quan hệ
giữa các nước XHCN với Việt Nam ngày càng chặt chẽ, đặc biệt từ năm 1954
khi miền Bắc hoàn toàn được giải phóng. Sự ủng hộ về tinh thần, vật chất, sự
hợp tác phát triển kinh tế, văn hóa và khoa học kĩ thuật giữa các nước XHCN đã
thể hiện cụ thể qua một số tài liệu số liệu được lựa chọn.
Những kiến thức lịch sử thế giới nêu trên giúp học sinh nhận thức được sự
giúp đỡ, viện trợ của các nước XHCN và nhân dân thế giới đối với công cuộc
xây dựng CNXH ở miền Bắc nói riêng và cách mạng Việt Nam nói chung.
Bên cạnh đó, để hiểu sâu sắc hơn cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân
dân Việt Nam học sinh cần phải nắm vững những sự kiện lịch sử có liên quan.
Xin dẫn một số nội dung chủ yếu.
Những sự kiện về đế quốc Mĩ.
Để hiểu vì sao Mĩ ra sức đánh chiếm Việt Nam, giáo viên hướng dẫn học
sinh cần phải nhớ lại những sự kiện đã học về nước Mĩ từ sau năm 1945: vai trò
của Mĩ trong hệ thống các nước tư bản và trên thế giới, âm mưu “Chiến tranh
toàn cầu” của Mĩ, tình hình mọi mặt của nước Mĩ… Trong những sự kiện như
vậy, giáo viên gợi cho học sinh nhớ lại một số điểm chính, liên quan đến chiến
tranh xâm lược Việt Nam.

Trước hết, chính sách “Chiến tranh lạnh” và âm mưu của Mĩ muốn làm
“bá chủ thế giới”. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, lo ngại trước sự lớn mạnh
cùng với ảnh hưởng vào uy tín của Liên Xô và các nước XHCN. Mĩ đã dựng lên
cái gọi là “nguy cơ đe dọa của chủ nghĩa cộng sản đối với thế giới tự do”, “Nga
Xô bành trướng ở châu Âu”… Tháng 3-1946, trong diễn văn đọc trước Quốc hội
Mĩ, Tổng thống Tơruman chính thức đề ra “Chủ nghĩa Tơruman” công khai nêu
lên sức mạnh của Mĩ trong sự nghiệp lãnh đạo thế giới tự do chống lại “sự bành
6


trướng của chủ nghĩa cộng sản”; xúc tiến thành lập các liên minh quân sự nhằm
bao vây Liên Xô, các nước XHCN.
Mặt khác, “Chủ nghĩa Tơruman” còn chủ trương thông qua viện trợ kinh
tế và quân sự cho các nước đồng minh của Mĩ, qua đó khống chế, nô dịch các
nước này. Các đời Tổng thống Mĩ tiếp tục thực hiện “Chủ nghĩa Tơruman” và
bổ sung “Chủ nghĩa Aixenhao”… Tiếp đó, năm 1961 Giôn Kennơđi thực hiện
thí điểm ở miền Nam Việt Nam chiến lược toàn cầu “Phản ứng linh hoạt” và đề
ra chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”. Năm 1969, Ních-xơn cho ra đời “Học
thuyết Nich-xơn”, đề ra chiến lược toàn cầu “Ngăn đe thực tế”. Mĩ thực hiện thí
điểm ở miền Nam Việt Nam rồi cả Đông Dương chiến lược toàn cầu mới: chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, “Lào hóa chiến tranh”, “Khơ me hóa chiến
tranh”.
Những kiến thức lịch sử thế giới được nhắc lại và bổ sung ở trên giúp học
sinh hiểu rõ được vì sao Mĩ lại tiến hành xâm lược miền Nam và chúng liên tục
đề ra các chiến lược chiến tranh mới với những âm mưu, thủ đoạn tàn bạo nhằm
đàn áp và khuất phục nhân dân miền Nam, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu
mới và căn cứ quân sự của Mĩ.
Những sự kiện về nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến chống Mĩ
cứu nước của nhân dân Việt Nam.
Cuộc đấu tranh chống chiến tranh xâm lược của Mĩ ở Việt Nam, được

nhân dân thế giới, trong đó có nhân dân Mĩ tích cực tham gia, là một nhân tố
góp phần vào thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước của nhân dân
ta. Điều này còn thể hiện đường lối quốc tế đúng đắn của Đảng và Chính phủ ta
được xây dựng trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh về chiến lược đoàn kết dân tộc
đoàn kết quốc tế. Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm tiểu sự ủng hộ tích cực của
các nước xã hội chủ nghĩa, các lực lượng dân chủ tiến bộ và nhân dân thế giới
qua những tài liệu cụ thể. Điều này có tác dụng đối với việc giáo dục tình hữu
nghị, đoàn kết giữa các dân tộc.

7


Giáo viên có thể trích dẫn lời Hồ Chí Minh khi nói về sự ủng hộ của nhân
dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chống Mĩ, cứu nước của nhân dân Việt
Nam:
“Từ Triều Tiên, Trung Quốc, Liên Xô đến Cuba, hàng chục triệu nhân
dân các nước anh em đã rầm rộ tuần hành thị uy chống Mĩ, chính phủ các nước
anh em đã nghiêm khắc cảnh báo Mĩ, ủng hộ ta, ở các nước bạn như Angiêri,
Inđônnêxia… hàng chục vạn người ủng hộ ta, phản đối Mĩ. Nhân dân các nước
tư bản như Anh, Pháp, Nhật, Italia và các nước như Côlômbia, Venêduêla…
cũng có những cuộc biểu tình rầm rộ lên án Mĩ ủng hộ ta”.
4. Giai đoạn 1975 – 1991
Để hiểu sâu sắc toàn diện những sự kiện lịch sử Việt Nam từ năm 1975
đến năm 1991, học sinh cần phải nắm một số sự kiện lịch sử thế giới có liên
quan trực tiếp đến lịch sử Việt Nam. Xin nêu ra một số nội dung chủ yếu sau:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại đang diễn ra như vũ bão,
cuốn hút tất cả các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau. Ở những mức độ
khác nhau, có tác động mạnh đến bước phát triển nhảy vọt về lực lượng sản
xuất, quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế, đến việc hình thành các mối quan hệ
nhiều mặt đối lập vừa cạnh tranh nhau, vừa phụ thuộc lẫn nhau trong nền kinh tế

đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc. Những xu thế đó vừa tạo thời cơ
nhưng cũng đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là những nước lạc hậu về kinh
tế. Đồng thời, cộng đồng quốc tế đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp
bách có liên quan đến toàn nhân loại, đó là: nguy cơ chiến tranh hủy diệt, bệnh
tật, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên… Việc giải
quyết đòi hỏi phải có sự hợp tác của toàn thể nhân loại.
Chủ nghĩa xã hội bên cạnh những ưu điểm, thì tồn tại nhiều hạn chế, đó là
trì trệ, bảo thủ… dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và
Đông Âu. Nguyên nhân sụp đổ là do mô hình không phù hợp, cơ chế quản lí
quan liêu, lạc hậu, chậm đổi mới, khi đổi mới thì lại mắc phải những sai lầm
trầm trọng hơn,… do sự chống phá của các thế lực phản động, đế quốc… Sự sụp
đổ của chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu là những bài học mà Đảng ta rút ra
8


trong quá trình đổi mới ở nước ta để không mắc phải những sai lầm thiếu sót.
Đồng thời những thành tựu của chúng ta trong quá trình đổi mới cũng là những
kinh nghiệp quí để các nước tham khảo học tập.
Khu vực châu Á – Thái Bình Dương đang phát triển năng động và tiếp tục
phát triển với tốc độ cao, nhưng cũng tiềm ẩn một số nhân tố có thể gây mất ổn
định. Chẳng hạn, tác động, ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tiền tệ 1997 ở khu
vực Đông Nam Á đến Việt Nam.
Những thành tựu phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia trong khu vực
Đông Nam Á, nhiều nước đã đạt những thành tựu to lớn trở thành những “Con
rồng” của châu Á như Singapo và được gọi là nước công nghiệp mới (NIC). Mặt
khác, sự ra đời và phát triển của ASEAN với sự tham gia của 10 thành viên đã
đặt cho Việt Nam nhiều cơ hội: hội nhập vào nền kinh tế của khu vực, có điều
kiện rút ngắn được khoảng cách nước ta với các nước trong khu vực. Nhưng đặt
ra không ít những thách thức: nếu không vươn lên có nguy cơ tụt hậu, nền kinh
tế sẽ bị cạnh tranh, hội nhập dễ bị “hòa tan” đánh mất bản sắc, truyền thống dân

tộc.
Trong quan hệ quốc tế, đã và đang nổi lên những xu thế: hòa bình, ổn
định và hợp tác để phát triển; các quốc gia lớn, nhỏ tham gia ngày càng nhiều
vào quá trình hợp tác, liên kết khu vực, liên kết quốc tế; các nước có chế độ
chính trị khác nhau vừa hợp tác, vừa đấu tranh trong tồn tại hòa bình…
III. Các biện pháp tiến hành sử dụng kiến thức lịch sử về mối quan hệ quốc
tế với lịch sử Việt Nam trong dạy học ở trường phổ thông (1945-1991)
Tổng hợp những điều trình bày ở trên, chúng tôi nêu biện pháp có thể sử
dụng trong dạy học ở trường phổ thông.
1. Hướng dẫn học sinh lựa chọn những kiến thức cơ bản lịch sử thế
giới có mối liên hệ với nội dung lịch sử Việt Nam trong dạy học
Trước hết, học sinh cần phải nắm được các sự kiện cơ bản đã học qua việc
gợi ý hướng dẫn của giáo viên như nêu trong giáo án. Ví dụ, khi trình bày mục 1
“Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, lệnh khởi nghĩa được ban bố” trong phần
9


VII “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước” (SGK Lịch sử 12), giáo
viên tham khảo về các sự kiện lịch sử thế giới có liên quan đến những vấn đề có
ảnh hưởng trực tiếp cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm
1945. Đó là, ở châu Âu phát xít Đức đã bị tiêu diệt hoàn toàn và buộc phải đầu
hàng không điều kiện (5-1945). Ở châu Á, quân phiệt Nhật Bản cũng đã đầu
hàng Đồng minh vô điều kiện (8-1945), phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc
nổ ra ở một số nước…
Sau đó, giáo viên có thể hướng dẫn học snh về nhà lập bảng thống kê các
kiến thức lịch sử thế giới có liên quan đến bài học như sau:
Tên bài giảng

Nội dung cơ bản


Sự kiện lịch sử thế

Tài liệu trích

của bài “Cách

giới có liên quan

dẫn

mạng tháng Tám”

Việc lựa chọn kiến thức lịch sử thế giới sử dụng trong dạy học lịch sử
Việt Nam đã mang lại hiệu quả nhiều mặt:
- Học sinh nhận thức sâu sắc hơn vị trí, vai trò của việc sử dụng kiến thức
lịch sử thế giới trong dạy học lịch sử Việt Nam.
- Học sinh nắm vững được cách thức sưu tầm lựa chọn kiến thức lịch sử
thế giới phục vụ cho học tập.
- Tăng cường tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong học tập
qua đó giúp các em hiểu toàn diện lịch sử và hiểu sâu sắc hơn lịch sử Việt Nam.
Từ kết quả thực nghiệm và những nhận xét trên đây, chúng tôi kết luận
như sau: biện pháp sưu tầm, chọn lọc các kiến thức lịch sử thế giới sử dụng
trong dạy học khóa trình lịch sử Việt Nam bằng việc thuyết trình, hướng dẫn của
giáo viên, kết hợp với việc tổ chức trao đổi, đàm thoại tìm tòi của học sinh mà
chúng tôi tiến hành thực nghiệm đem lại hiệu quả giảng dạy và có tính khả thi
trong thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay.

10



2. Thông tin gợi mở để học sinh tái hiện sự kiện
Để thực hiện biện pháp này đạt hiệu quả, giáo viên tiến hành các bước
sau:
Bước 1: Khi chuẩn bị lên lớp, giáo viên xác định sự kiện lịch sử thế giới
nào có thể làm sáng tỏ nội dung một sự kiện cơ bản của bài học.
Khi dạy bài “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước” (SGK lớp
12) ở mục: “Phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban
bố”, giáo viên đã xác định những sự kiện lịch sử thế giới sau đây có ảnh hưởng
trực tiếp đến cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ: Chiến tranh thế giới thứ hai đã đi
đến những ngày cuối cùng. Ở châu Âu, phát xít Đức bị tiêu diệt hoàn toàn và
buộc phải đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Ở châu Á, quân phiệt Nhật cũng
phải đầu hàng Đồng minh không điều kiện (8-1945), tình hình chuẩn bị cho
công cuộc giải phóng dân tộc khỏi ách phát xít Nhật đã tiến hành ở một số nước.
Bước 2: Giáo viên gợi mở để học sinh tái hiện về một sự kiện lịch sử thế
giới có liên quan đến nội dung bài học lịch sử Việt Nam. Giáo viên có thể tiến
hành biện pháp sự phạm trên khi trình bày mục “Tình hình thế giới và trong
nước sau cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933”.
Trước hết, giáo viên hướng dẫn học sinh nhắc lại những sự kiện tiêu biểu
về khủng hoảng kinh tế 1929-1933 bằng cách nêu câu hỏi gợi mở về nguyên
nhân, diễn biến và hậu quả cuộc khủng hoảng đối với các nước tư bản, các nước
thuộc địa, phụ thuộc. Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt các vấn đề về cuộc
khủng hoảng kinh tế tác động đến Việt Nam: “Mùa thu năm 1929 giữa lúc các
chính khách và học giả tư sản đang huyênh hoang tuyên truyền cho sự phồn vinh
vĩnh viễn của CNTB, một cuộc khủng hoảng kinh tế qui mô toàn thế giới tư bản
đã bùng nổ, dẫn đến cuộc khủng hoảng chính trị trầm trọng, kết thúc chu kì ổn
định tạm thời của chủ nghĩa tư bản thế giới….”
Bước 3: Giáo viên thực nghiệm hướng dẫn học sinh phân tích, giải thích
mối quan hệ ảnh hưởng của những sự kiện lịch sử thế giới đến lịch sử Việt Nam.
Chẳng hạn, khi dạy bài “Cuộc vận động dân chủ 1936-1939”, trên cơ sở khái
quát về cuộc khủng hoảng kinh tế đã nêu trước đó, giáo viên thực nghiệm hướng

11


dẫn học sinh nhắc lại nguyên nhân và hậu quả cuộc khủng hoảng, những biện
pháp giải quyết mà các nước tư bản chủ nghĩa sử dụng, đối với Mĩ, Anh, Pháp
giải quyết khủng hoảng bằng cách giữ nguyên trạng thái chế độ tư bản chủ
nghĩa. Đối với Đức, Italia, Nhật Bản thực hiện bằng con đường phát xít hóa bộ
máy nhà nước để tiến hành chiến tranh phân chia lại thị trường. Giáo viên tổng
hợp lại ý kiến, khái quát nội hàm khái niệm “Chủ nghĩa phát xít”: “Là nên
chuyên chính khủng bố công khai của những phần tử phản động nhất, sô vanh
nhất, đế quốc nhất”. Việc nắm vững các sự kiện cơ bản, đã thành khái niệm
trong phần này đã giúp học sinh hiểu được hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh
tế 1929-1933 dẫn đến sự ra đời chủ nghĩa phát xít, đe dọa hòa bình, an ninh thế
giới. Các sự kiện tiếp theo, đại hội lần VII của Quốc tế cộng sản (7-1935), sự
thắng lợi của Mặt trận nhân dân Pháp, những chính sách của chính phủ Pháp đối
với các nước thuộc địa trong đó có Việt Nam như: thả tù chính trị, thành lập ban
điều tra tình hình thuộc địa, tình hành một số cải cách tiến bộ cho nhân dân lao
động.
Những kiến thức này giúp học sinh hiểu rõ bối cảnh quốc tế cuộc đấu
tranh của nhân dân Việt Nam trong thời kì 1936-1939. Đến đây giáo viên nêu
vấn đề “Vì sao trong thời kì 1936-1939 Đảng ta chủ trương thực hiện cuộc vận
động dân chủ rộng lớn?” Học sinh căn cứ vào tình hình thế giới được nêu trên
để giải quyết câu hỏi này.
Cuối cùng, trên cơ sở những kiến thức đã trình bày ở trên và các câu trả
lời của học sinh, giáo viên chốt ý: “Qua sự kiện lịch sử thế giới tiêu biểu mà các
em được tìm hiểu và trình bày, chúng ta thấy rằng biến động của tình hình thế
giới có mối quan hệ và ảnh hưởng thực tiễn đến cuộc đấu tranh của nhân dân
Việt Nam những năm 1936-1939”.
Với việc thực hiện các biện pháp nêu trên, giáo viên vừa tiết kiệm được
thời gian, vừa góp phần củng cố, nâng cao kiến thức cũ của học sinh giúp các

em tiếp nhận kiến thức mới một cách rõ ràng và vững chắc hơn, nhất là tạo
không khí hào hứng, sôi nổi trong học tập.

12


3. Nêu vấn đề và xây dựng bài học nhận thức
Thực hiện biện pháp này trong bài “Cuộc vận động Cách mạng tháng
Tám” theo các bước sau:
Mở đầu bài học: Giáo viên nêu vấn đề giải quyết bằng cách tạo tình
huống có vấn đề, tình huống có vấn đề được tạo bởi mâu thuẫn giữa điều học
sinh đã biết với điều chưa biết, có thể nêu một số mâu thuẫn như:
- Mâu thuẫn giữa điều đã biết và điều chưa biết của học sinh về những sự
kiện lịch sử thế giới có liên quan, ảnh hưởng đến cuộc vận động Cách mạng
tháng Tám 1939-1945.
- Mâu thuẫn về cách nhận xét, đánh giá một số sự kiện lịch sử thế giới có
quan hệ, ảnh hưởng đến lịch sử Việt Nam (Chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra làm
cho Đảng lúng túng trước tình hình mới hay Đảng đã chuẩn bị chuyển hướng chỉ
đạo chiến lược trong tình hình mới).
Trong quá trình tìm hiểu kiến thức mới, giáo viên tổ chức cho học sinh
lần lượt giải quyết từng vấn đề bằng các biện pháp sự phạm cụ thể thông thường
trong một tiết, theo trình tự như sau: Nêu và giải quyết vấn đề thông qua nguồn
gốc, bối cảnh nào, cơ sở nào dẫn đến các sự kiện lịch sử Việt Nam… sau đó
nhận xét, đánh giá đúng vị trí, vai trò, tác động của các sự kiện lịch sử thế giới
đối với lịch sử Việt Nam.
Kết thúc bài học, giáo viên trở lại vấn đề nêu lên đầu bài và yêu cầu học
sinh rút ra nhận xét, kết luận. Giáo viên bổ sung phần trả lời của học sinh và
khái quát vấn đề.
4. Sử dụng đồ dùng trực quan kết hợp với trao đổi đàm thoại
Vận dụng nguyên tắc trực quan trong dạy học lịch sử nói chung, chúng tôi

tiến hành các biện pháp sư phạm trong thực nghiệm các bước:
Bước 1: Khi tiến hành giảng dạy, giáo viên tiến hành phương án sử dụng
tranh ảnh và có chuẩn bị trước các kiến thức:
+ Xuất xứ tranh ảnh.
+ Nội dung bài miêu tả, tường thuật sự kiện trong tranh ảnh.
+ Kết luận khái quát từ việc sử dụng đồ dùng trực quan trong bài dạy này.
13


Một cách cụ thể, trong bài 6 “Cuộc vận động dân chủ Đông Dương 19361939” (SGK 12, tập 2), khi dạy mục “Tình hình thế giới 1929-1933”, giáo viên
sử dụng SGK để trình bày chủ nghĩa phát xít xuất hiện ở Đức, Italia, Nhật Bản,
nguy cơ chiến tranh là điều không tránh khỏi, tác động của tình hình thế giới đến
Việt Nam lúc bấy giờ. Giáo viên có thể sử dụng bức tranh “Hai nhà độc tài”
(ảnh sưu tầm) để giảng dạy theo các bước sau:
- Treo ảnh tư liệu “Hai nhà độc tài” lên góc bên phải từ dưới nhìn lên và
giải thích xuất xứ bức tranh.
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát bức tranh và trả lời câu hỏi: “Qua
bức tranh em nhận thấy sự câu kết của hai tên trùm phát xít đe dọa hòa bình thế
giới diễn ra như thế nào?”
- Sau khi học sinh trả lời, giáo viên nhận xét và kết luận.
5. Tổ chức và tiến hành các hình thức hoạt động ngoại khóa
Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ, nội dung dạy học, trên cơ sở vận dụng
ngoại khóa có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng kiến thức lịch sử thế giới
trong dạy học lịch sử Việt Nam ở trường phổ thông.
Một là, hướng dẫn học sinh đọc tài liệu tham khảo để tìm hiểu sâu hơn
những sự kiện lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam đang học theo trình tự:
+ Hoàn cảnh ra đời của tài liệu.
+ Những nội dung cơ bản của tài liệu.
+ Mối quan hệ của tài liệu với lịch sử Việt Nam.
+ Đánh giá mối quan hệ, ảnh hưởng, tác động, ý nghĩa của tài liệu đối với

lịch sử Việt Nam.
+ Nội dung của tài liệu phục vụ cho bài học.
Trong bài “Cách mạng tháng Tám thành công trong cả nước”, giáo viên
giới thiệu cho học sinh tìm đọc cuốn “Những mẩu chuyện lịch sử thế giới” của
Đặng Đức An (Chủ biên) phần 1 về chiến tranh thế giới thứ hai. Các em rút ra từ
sách này những tư liệu về việc nghiên cứu chế tạo bom nguyên tử ở Mĩ và vụ Mĩ
ném bom nguyên tử xuống Nhật.
14


Hai là, hướng dẫn học sinh sưu tầm tài liệu để nâng cao, mở rộng kiến
thức lịch sử thế giới và Việt Nam theo chủ đề nội dung bài học:
- Các tranh ảnh, tài liệu báo chí theo chuyên đề, như phong trào dân chủ
1936-1939, Cách mạng tháng Tám 1945.
- Các tư liệu thành văn (Văn bản, nghị quyết, chỉ thị).
Sau khi thu thập, giáo viên hướng dẫn học sinh sắp xếp và phân loại theo
mục đích sử dụng, dùng để minh họa, liên hệ hoặc mở rộng nội dung cơ bản của
bài nội khóa hoặc dùng để phục vụ cho việc biên soạn lịch sử địa phương.
Ba là, tổ chức cho học sinh tiến hành trao đổi, thảo luận, dạ hội lịch sử
nghe báo cáo về một chuyện đề lịch sử thế giới.
- Tổ chức thảo luận, trao đổi sau khi nghe báo cáo theo tổ, nhóm lớp hoặc
khối lớp.
- Tiến hành sau khi học xong một bài, một chương đề cập tới những vấn
đề lịch sử thế giới.
- Những chủ đề về lịch sử thế giới có quan hệ, ảnh hưởng đến lịch sử Việt
Nam có thể nêu lên cho học sinh trao đổi, thảo luận hoặc nghe báo cáo.
Bốn là, tổ chức cho học sinh đi tham quan học tập ở các di tích lịch sử,
các bảo tàng truyền thống. Chúng tôi đã tổ chức cho học sinh tham quan bảo
tàng Hồ Chí Minh để tìm hiểu những năm tháng Hồ Chí Minh sống và hoạt
động tại nước ngoài.

6. Bài tập thực hành
Bài tập thực hành có thể sử dụng trong nhiều trường hợp khác nhau và với
mục đích khác nhau, như truyền thụ kiến thức mới, củng cố, ôn tập, kiểm tra
đánh giá… Chúng tôi đã thiết kế các bài tập thực hành và sử dụng trong các giờ
thực nghiệp, theo các loại sau.
- Xác định mối quan hệ, ảnh hưởng của lịch sử thế giới đối với lịch sử
Việt Nam như: “Có ý kiến cho rằng: thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945
là do điều kiện khách quan thuận lợi đem lại. Em có nhận xét gì về ý kiến nêu
trên?”.
15


- Xác định một sự kiện lịch sử thế giới có tác dụng trong dạy học lịch sử
Việt Nam: “Có ý kiến cho rằng: Cuộc vận động dân chủ Đông Dương 19361939 diễn ra sôi nỏi, rộng khắp với những mục tiêu lâu dài và trước mắt, có
được phong trào như vậy là do tác động của tình hình thế giới. Ý kiến của em về
nhận định trên như thế nào?”.
- Nhận xét, đánh giá tác động của lịch sử thế giới đối với lịch sử Việt
Nam: “Có người khẳng định rằng, thắng lợi của Hồng quân Liên Xô và các lực
lượng Đồng minh trong việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít Đức, quân phiệt Nhật
Bản có ảnh hưởng đến cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong Cách mạng
tháng Tám 1945. Dự kiến của em nhận xét đánh giá về nhận định đó?”.
Về phương pháp, chúng tôi đã tiến hành trong trường hợp dùng làm bài
tập ngay trên lớp và cả bài về nhà, kết hợp sử dụng bài tập thực hành với các
phương pháp, biệp pháp dạy học khác.
Như vậy, trên cơ sở nghiên cứu lí luận và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
dạy học lịch sử ở trường phổ thông, chúng tôi đề xuất một số biện pháp sư phạm
trong việc sử dụng kiến thức lịch sử thế giới khi dạy học lịch sử Việt Nam. Có
thể khái quát thành một vài điểm chủ yếu sau:
- Các biện pháp sự phạm sử dụng kiến thức lịch sử thế giới trong dạy học
lịch sử Việt Nam đảm bảo nguyên tắc dạy học nói chung, song đã cần chú ý cụ

thể hóa những sự kiện lịch sử thế giới có mối quan hệ, ảnh hưởng đến lịch sử
Việt Nam.
Phát huy tính tích cực học tập của học sinh thông qua việc trao đổi, thảo
luận, sưu tầm tài liệu, tiến hành các biện pháp thực hành, chú ý các loại đồ dùng
trực quan, tranh ảnh, biểu đồ…
- Không tiến hành giảng dạy các kiến thức lịch sử thế giới dưới dạng
chuyên đề mà là một sự kiện lịch sử như các loại sự kiện khác. Bằng các hình
thức kiểm tra, giáo viên có thể đánh giá được trình độ nhận thức: biểu hiện thái
độ, tình cảm của học sinh trong học tập.

16


IV. Kết luận
Việc nâng cao hiệu quả sử dụng kiến thức lịch sử thế giới, các mối quan
hệ quốc tế để dạy học lịch sử Việt Nam ở trường phổ thông làm cho giáo viên và
học sinh nhận thức và hiểu chính xác được vị trí, vai trò và mối quan hệ giữa hai
tri thức lịch sử này. Mặt khác, giúp học sinh hiểu lịch sử một cách toàn diện, sâu
sắc, có hệ thống về sự phát triển của lịch sử Việt Nam trong tiến trình chung của
lịch sử thế giới.

17



×