Tải bản đầy đủ (.pdf) (61 trang)

Khoá luận tốt nghiệp khu di tích cổ loa (cổ loa đông anh hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.45 MB, 61 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC s u PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA NGŨ VĂN
===£oB3o3===

NGUYỄN THỊ TRANG

KHU DI TÍCH CỎ LOA
(CỔ LOA - ĐÔNG ANH - HÀ NỘI)

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC








Chuyên ngành: Việt Nam học

Ngưòi hướng dẫn khoa học

ThS. AN TH Ị THÚY

HÀ NỘI, 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai thực hiện khóa luận, em đã thường xuyên
nhận được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo trong Khoa Ngữ
văn và đặc biệt là của ThS. An Thị Thúy - Người hướng dẫn trực tiếp.


Em xin bày tỏ lòng biết ơn và gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các
thầy, cô giáo đã giúp đỡ tác giả hoàn thành khóa luận này.

Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Trang


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những nội dung mà tôi trình bày trong khóa luận này
là kết quả nghiên cứu của bản thân tôi dưới sự hướng dẫn của ThS. An Thị
Thúy.
Những nội dung này không trùng lặp với kết quả nghiên cún của các tác
giả khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về kết quả nghiên cứu của cá nhân mình trong
khóa luận này.

Hà Nội, ngày 22 tháng 4 năm 2015
Sinh viên

Nguyễn Thị Trang


M Ụ C LỤC
MỞ Đ Ầ U ........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài........................................................................................ 1
2. Lịch sử vấn đ ề ........................................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cún............................................................ 3

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên círu........................................................... 3
5. Phương pháp nghiên c ú n ..........................................................................4
6. Cấu trúc khóa luận.................................................................................... 4
NỘI D U NG ...................................................................................................5
Chương 1. NHỮNG VÁN ĐÈ CHUNG...................................................5
1.1. Điều kiện tự nhiên.................................................................................. 5
1.1.1. Địa hìn h .................................................................................................................5
1.1.2. Khí h ậ u ..................................................................................................................6
1.1.3. Sinh v ậ t..................................................................................................................7
1.1.4. Thủy văn................................................................................................................8

1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.......................................................................8
1.3. Đặc trưng văn hóa...............................................................................10
1.3.1. Vẫn hóa vật ch ấ t..............................................................................10
1.3.2. Vẫn hóa tinh thần.............................................................................11
Chưong 2. NGUÒN GỐC VÀ ĐẶC ĐIỂM KHU DI TÍCH CỐ LOA
....................................................................................................................... 14
2.1. Lịch sử hình thành................................................................................ 14
2.2. Đặc điểm ............................................................................................... 18
2.2.1. Vị trí địa l ý .........................................................................................18
2.2.2. Kiến trúc.............................................................................................19
Chưong 3. LỄ HỘI CÔ LOA.................................................................. 36
3.1.

Truyền thuyết Mị Châu - Trọng Thủy...........................................36


3.2. Thời gian - địa điểm.......................................................................... 39
3.2.1. Thời gian........................................................................................... 39
3.2.2. Địa điểm............................................................................................ 40

3.3. Tiến trình lễ hội....................................................................................40
3.3.1. Công tác chuân b ị.............................................................................40
3.3.2. Phần l ễ .............................................................................................. 42
3.3.3. Phần h ộ i.............................................................................................45
3.4. Giá trị lễ hội Cổ L o a ......................................................................... 46
3.4.1. Giá trị cố kết cộng đồng................................................................... 46
3.4.2. Giá trị giáo dục truyền thong...........................................................47
3.4.3. Giá trị kinh tế - xã hội...................................................................... 48
KÉT LUẬN.................................................................................................50
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


M Ở ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cổ Loa là một địa danh quen thuộc với bất kỳ người dân Việt Nam nào,
ngay từ khi là trẻ nhỏ mới tới trường với bài học đầu tiên về lịch sử dân tộc.
Cổ Loa nay là một xã thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. c ổ Loa
được biết đến bởi nơi đây từng là kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương
Vương với tòa thành nổi tiếng.
Cổ Loa là kinh đô của nước Âu Lạc chỉ có mấy chục năm, nhưng trong
suốt hon hai nghìn năm, cho đến hôm nay và mãi mãi về sau, người Việt Nam
chưa khi nào quên c ổ Loa. c ổ Loa hằng tồn trong tâm thức của người dân
vùng đất này, hằng tồn trong tâm thức của mỗi người Việt Nam. Đó là hình
ảnh nước Âu Lạc buổi đầu dụng nước với biết bao câu chuyện nửa thực nửa
hư mà đến nay vẫn còn đọng lại trong ký ức dân gian, ở từng tên xóm ngõ, ở
từng tên xứ đồng. Đó là sức sống của bài học lịch sử sớm phải biết tự trưởng
thành, nhưng cũng thấm đượm lòng nhân ái mênh mông.
Có thể nói, ở Việt Nam không mấy địa phương (trong phạm vi không
gian một xã) là đối tượng của hàng loạt công trình nghiên cún về địa lý, địa

chất, khảo cổ học, dân tộc học, lịch sử, ngôn ngữ văn hóa,... như c ổ Loa.
Ngày 14/2, trong không khí đón chào năm mới 2013, UBND thành phố
Hà Nội, ƯBND huyện Đông Anh cùng toàn thể nhân dân xã c ổ Loa, huyện
Đông Anh đã vui mừng dự lễ đón nhận Bằng Di tích quốc gia đặc biệt, Di tích
lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ di tích c ổ Loa. Phó Thủ tướng
Nguyễn Thiện Nhân, đại diện lãnh đạo UBND thành phố Hà Nội, các Bộ,
ngành Trung ương, huyện Đông Anh, xã c ổ Loa và bà Katherine Muller
Marin - Trưởng đại diện UNESCO tại Việt Nam tham dự.
Ngày 27/9/2012, Di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ c ổ Loa
cùng 10 di tích lịch sử kiến trúc nghệ thuật, danh lam thắng cảnh trong cả

1


nước đã được Thủ tướng Chính phủ quyết định xếp hạng Di tích quốc gia đặc
biệt.
Đây là quyết định nhằm tôn vinh, đánh giá giá trị lịch sử, văn hoá, kiến
trúc nghệ thuật độc đáo, có một không hai của Khu di tích c ổ Loa nói riêng
và những di tích lịch sử trong cả nước nói chung.
Phát biểu tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh:
“Việc công nhận Cổ Loa là di tích quốc gia đặc biệt không những khẳng định
giá trị hào hùng của di tích lịch sử c ổ Loa mà còn khẳng định những giá trị
văn hoá ở nơi đây... Có thể thấy c ổ Loa đã giữ vai trò vô cùng quan trọng
trong lịch sử lập nước và giữ nước hàng ngàn năm của dân tộc ta. Lễ hội c ổ
Loa hàng năm cho thấy sự gắn kết chặt chẽ của cộng đồng dân cư vùng thành
Cổ Loa với vị vua đầu tiên người đã trở thành vị thần bảo trợ cho đời sống
tinh thần cho muôn đời con cháu”.
Nhận thức được tầm quan trọng và ý nghĩa của khu di tích c ổ Loa, đặc
biệt là một sinh viên ngành Việt Nam học - Khoa Ngữ văn, trường Đại học
Sư phạm Hà Nội 2, tôi chọn đề tài Khu di tích Co Loa (Cổ Loa - Đông A nh Hà Nội), nhằm bổ sung vào vốn hiểu biết về văn hóa lịch sử, tìm ra được

những giá trị, nét đặc sắc nhất của khu di tích c ổ Loa.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu về Cổ Loa đã có từ lâu, vào những năm 60 của thế kỷ XX và
liên tục cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI. c ổ Loa thân thuộc với giảng
viên và sinh viên khoa Lịch sử Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
(Đại học Quốc gia Hà Nội) qua nhiều cuộc điền dã và khai quật khảo cổ. Một
trong những người nặng lòng với c ổ Loa và có nhiều công trình nghiên cún
về vùng đất này là GS. Trần Quốc Vượng.
Trước cách mạng tháng Tám (năm 1945) các công trình địa chí ghi chép
bằng chữ Hán về Cổ Loa có giá trị như c ổ Loa xã chí, c ổ Loa thành sự tích
điền thổ sắc phong hợp biên. Tiếp nối truyền thống nghiên cún về c ổ Loa và
2


biên soạn sách địa chí làng xã Hà Nội, năm 2007, văn phòng Ban chỉ đạo kỷ
niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội cùng Viện Việt Nam học và Khoa học
phát triển đã công bố với bạn đọc cuốn sách Địa chí c ổ Loa dày 670 trang do
PGS.TS. Nguyễn Quang Ngọc và PGS.TS. Vũ Văn Quân đồng chủ biên.
Địa chí Cổ Loa là sự tổng hợp kết quả nghiên cứu về vùng đất c ổ Loa
của giới khoa học trong và ngoài nước suốt hơn nửa thế kỷ qua.
Bên cạnh những cuốn sách nghiên cứu toàn diện về c ổ Loa còn có một
số cuốn sách nghiên cún một phần nhỏ về c ổ Loa như Non nước Việt Nam
của Vũ Thế Bình, Cơ sở văn hóa Việt Nam của Trần Quốc Vượng.
Ke thừa và tiếp thu kết quả của những tác giả đi trước, kết họp với nguồn
tư liệu có được, chúng tôi mong muốn thực hiện việc tìm hiểu, nghiên cứu về
khu di tích Cổ Loa góp phần lun giữ, tổng họp nhũng tư liệu nghiên cún về
khu di tích này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đe tài nghiên cún, Tìm hiểu về khu di tích c ổ Loa, xã c ổ Loa, huyện

Đông Anh, thành phố Hà Nội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đe tài tập trung nghiên cún khu di tích c ổ Loa, lễ hội c ổ Loa, các giá trị
của lễ hội Cổ Loa trên địa bàn xã c ổ Loa, huyện Đông Anh, thành phố Hà
Nội.
4. Mục đích và nhiệm yụ nghiên cún
4.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cở sở tìm hiểu về khu di tích c ổ Loa, lễ hội c ổ Loa, thấy được
những giá trị của khu di tích c ổ Loa.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên,đề tài có nhiệm vụ sau:
Tìm hiểu về khu di tích c ổ Loa thuộc xã c ổ Loa, huyện Đông Anh,
3


thành phố Hà nội.
Phân tích đặc điểm khu di tích c ổ Loa.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để triển khai đề tài này, chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu
sau:
Phương pháp khảo sát thực địa.
Phương pháp phân tích - tổng họp.
6. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục. Khóa luận
chia làm 3 chưong:
Chương 1. Những vấn đề chung
Chương 2. Nguồn gốc và đặc điểm khu di tích c ổ Loa
Chương 3. Lễ hội c ổ Loa

4



NỘI DUNG
C h ư ơng 1. N H Ữ N G V Ấ N ĐÈ C H U N G

1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Địa hình
Khu vực Cổ Loa - Đông Anh luôn nằm ở cạnh phía đông bắc, song lệch
hơn về đỉnh của tam giác châu sông Hồng. Sự phân chia địa hình theo các
hướng từ bắc xuống nam và từ tây sang đông. Theo chiều từ bắc xuống nam,
có thể dễ dàng nhận thấy sự giảm độ cao đáng kể từ các giải đồi núi thấp ở
khu vực Sóc Sơn với địa hình bóc mòn chiếm ưu thế xuống khu vực Phù Nỗ
- Đông Anh với địa hình được hình thành bởi hoạt động tích tụ của sông và
của biển.
Phía bắc sông Cà Lồ, thuộc phạm vi khu vực sân bay Nội Bài và lân cận,
các dải nổi cao phân bố rộng, xen kẽ là các dải trũng thoải có dạng vòng cung
với chiều lồi quay về phía nam, phù họp với dạng vòng cung của sông Cà Lồ.
Trong khi đó, phía nam sông Cà Lồ, thuộc phạm vi Đông Anh - c ổ Loa, các
giải gờ cao và các giải trũng giữa chúng thường được định hướng gần song
song, và thường cũng có dạng cánh cung, phù hợp với các giải cao, song có
phương chung là tây bắc - đông nam, chọc vào dải gờ cao phía bắc. Tại đây,
các dải trũng có độ sâu lớn hơn, là sự phát triển có kế thừa các dãnh trũng cắt
vào các bậc thềm cổ. Tại phần rìa phía nam, đông nam, nơi có sự chuyển tiếp
của diện phân bố tam giác châu thứ nhất và thứ hai, các giải gò đồi bị phân
cách mạnh hơn. Nhiều máng xâm thực phân cắt tạo nên các dải trũng có dáng
như các ngón tay lồng vào phần địa hình cao. Đó chính là hình thái địa hình
đặc trưng cho khu vực c ổ Loa. Phía nam - đông nam gờ cao cuối cùng là bề
mặt đồng bằng phẳng thấp, xen các ô trũng hoặc các gờ cao ven lòng được
hình thành do các thế hệ lòng sông dịch chuyển tạo thành.


5


1.1.2. Khí hậu
Xã Cổ Loa nằm ở trung tâm đồng bằng châu thổ sông Hồng, thuộc đới vĩ
độ thấp, song khá gần chí tuyến bắc. Hòa lưu khí quyển ở Hà Nội cơ bản là
hoàn lưu đới vĩ độ thấp trong khu vực Đông Nam Á với đặc điểm theo kinh
tuyến rõ rệt hơn hướng vĩ tuyến, chịu tác động mạnh mẽ của các trung tâm
khí áp khác nhau về tính chất, phạm vivà cường độ, tạo nên sự tương phản
sâu sắc giữa mùa đông và mùa hè.
Khí hậu Cổ Loa là khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng, nhiều năm
có gió bão, mùa đông lạnh, có năm xuất hiện sương muối. Mùa hè, nằm trong
phạm vi khống chế của áp thấp lục địa châu Á, giải hội tụ nhiệt đới và áp cao
á nhiệt đới Thái Bình Dương. Mùa đông, sự xâm nhập của không khí cực đới
ảnh hưởng mạnh đến khí hậu toàn miền.
Bức xạ mặt trời là một trong những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến yếu
tố hình thành đến khí hậu. c ổ Loa, Hà Nội có chế độ bức xạ thiên văn nội chí
tuyến, hằng năm mặt trời hai lần qua thiên đỉnh, độ cao mặt trời khá lớn và
thời gian chiếu sáng tương đối đồng đều. Lượng bức xạ tổng cộng lớn, thay
đổi qua các mùa, mùa hè lớn hơn hẳn so với mùa đông. Cân bằng bức xạ các
tháng đều dương, mùa đông nhỏ hơn so với mùa hè và do đó cân bằng bức xạ
năm không cao lắm.

v ề nền nhiệt độ, khí hậu cổ Loa, Hà Nội thỏa mãn hòa toàn tiêu chuẩn
nhiệt đới. Ngoài ra biên độ biến đổi nhiệt trong ngày cũng khá lớn, thể hiện rõ
tính nhiệt đới. Cổ Loa, Hà Nội với lượng mưa năm khoảng 1600mm được coi
là một trong những nơi mưa phải ở nước ta.
Đặc điểm các nhân tố khí hậu và các hiện tượng thời tiết đặc biệt ở khu
vực Cổ Loa được trình bày dưới đây chủ yếu dựa trên tài liệu quan trắc nhiều
năm của trạm Láng, số liệu đo mưa tại c ổ Loa và các số liệu khảo sát tiểu khí

hậu trong khu vực.

6


1.1.3. Sinh vật
Co loa là một vùng đồng bằng ven sông Hồng được tách dần ra khoải chế
độ ngập định kỳ hàng năm bởi hệ thống đê được đắp và gia cố qua nhiều thế kỷ.
Địa hình khu vực là một đồng bằng có độ cao khoảng 10m, xen lẫn các gò,
tường thành cao khoảng 14m và các ao, hồ, bãi lầy. Nơi cao nhất ở xóm Dõng
có độ cao 14,9m. Vào thời kỳ mùa mưa các khu vực trũng thấp bị ngập, khoảng
vài thế kỷ trước, diện tích ngập úng vẫn còn phổ biến ở khu vực.
Địa hình thấp, khí hậu nhiệt đới ẩm thuận lợi cho sự phát triển của các
sinh vật vùng đầm lầy và bán ngập nước ngọt.
Sự tác động lâu đời thường xuyên của con người như đắp đê, lập làng,
mở xóm, tôn tạo đường sá, du nhập, dải thực cá giống, loài cây trồng, vật nuôi
và sản xuất đã dần hình thành các khu vực làng xóm, các quần xã cây trồng,
tập đoàn vật nuôi ổn định. Các sinh vật tự nhiên chỉ còn sót lại một số loài và
số cá thể không lớn trong cá diện tích hạn hẹp như đầm lầy, tường thành, bãi
hoang và một số loài sống trong các quần xã cây trồng hay làng xóm.
Diện tích trồng lúa chiếm một tỷ lệ lớn và phân bố xung quanh xã. Rừng
trồng chủ yếu là trên các vòng thành cổ bao gồm các loại cây như keo, bạch
đàn, muồng đen. Cây ăn quả và hoa màu phân bố rải rác trong các xã nhung
xen kẽ trong các khu dân cư.
Thực vật trên cạn: Mặc dù môi trường sống hạn hẹp nhưng thực vật bậc
cao trên cạn của khu vực c ổ Loa khá phong phú, đa dạng, bao gồm các loài
của lớp phủ thực vật ven đầm lầy xưa kia còn sót lại và các loài mới phát tán
đến. v ề mặt phân loại học có 269 loài trong 61 họ, thuộc 4 ngành thực vật.
Thủy sinh vật: Điều kiện tự nhiên của một vùng đồng bằng trũng ẩm,
ngập định kỳ ven sông Hồng đã tạo thuận lợi cho các loài sinh vật thủy sinh

cư trú, sinh trưởng và phát triển. Khi con người chưa tác động, ven các đầm,
hồ, trên đất ngập định kỳ có rùng đầm lầy với bộ rễ thở chằng chịt đan xen,
các cây Dương xỉ um tùm trên bề mặt đất; nơi ngập sâu hơn có trảng cỏ chịu
7


ngập với các loài Lác, Cói, Sậy...; trong các đầm nước sâu quanh năm có các
quần xã thủy sinh với các cây sống nổi, sống chìm, các thực vật phù du, động
vật phù du, động vật đáy... Công cuộc đắp đê từ đời Lý đã tách dần vùng lầy
ra khỏi chế độ ngập lụt của vùng ven sông Hồng. Sự mở mang nghề trồng lúa
nước cũng như việc khai thác các loài có ích đã dần thu hẹp các vùng lầy lội,
hạn chế sự phân bố và thay đổi cấu trúc loài của thủy sinh vật. Hiện tại, diện
tích ngập nước không còn nhiều. Thủy vực nước chảy chỉ còn sông Hoàng
Giang đã bị hẹp lại và bị bồi lấp với tốc độ nước chảy yếu. Thủy vực nước
tĩnh có các đầm ven sông, những ao, những hồ rải rác trong khu vực.
Động vật bậc cao: Động vật bậc cao hoang dã có 32 loài, 21 họ, 12 bộ
của bốn lớp thú, chim, bò sát, ếch, nhái.
Cây trồng và vật nuôi: Là khu vực được khai phá và cư trú lâu đời, tập
đoàn cây trồng phong phú về số lượng loài. Có trên 287 loài cây trồng ở địa
phương. Động vật nuôi có 11 loài, đều là các loài có giá trị kinh tế, gắn bó với
quá trình sản xuất, sinh hoạt của người dân từ lâu đời.
1.1.4. Thủy văn
Các sông có ảnh tới khu vực c ổ Loa gồm có: Sông Hồng, sông Đuống,
sông Cà Lồ, sông Nhuệ, kênh Việt Thắng, sông Ngũ Huyện Khê.
v ề mặt thủy văn, huyện Đông Anh được phân thành hai lun vực: Lun
vực sông Thiếp - Ngũ Huyện Khê và lưu vực kênh Việt Thắng. Cơ cấu chảy
tự nhiên của hai hệ thống này ngày càng bị phá vỡ do hoạt động kinh tế - xã
hội trong khu vực như xây dựng đường cao tốc Thăng Long - Nội Bài, hệ
thống kênh cấp nước thủy lợi và mức đô thị hóa ngày càng tăng. Việc thoát
nước trong mùa mưa cho toàn khu vực Việt Thắng (đối với các trận mưa có

lượng nước mưa từ 50mm trở lên) phải thực hiện bằng cách bơm cưỡng bức
ra sông Hồng.
1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
Cổ Loa là một vùng đất cao nhung lại được bao bọc bởi một hệ thống


sông ngòi dày đặc đưa nước vào hệ thống đầm, vực, dọc nước ở c ổ Loa. Xét
yếu tố địa hình ở khu Vực c ổ Loa cho thấy, bên cạnh những “gờ”, “mộc”,
“doi”, “sống” đất cao 13 - 15m là những dải đất thấp 5m thường tụ nước tạo
thành những đầm, hồ, dọc nước trải đều trên địa hình. Bên cạnh đó, những
khúc sông cũ hình móng ngựa (đầm Vân Trì, vực Dê, vực Tó...) của “tứ giác
nước” đã bị “chết” hay bị “bỏ rơi” trong quá trình đổi dòng của sông trên bề
mặt châu thổ do chính phù sa của chúng tạo thành. Đó chính là hệ thống thủy
lợi tự nhiên, vô tận mang ý nghĩa quyết định đến sự xuất hiện, tồn tại và phát
triển của kinh tế nông nghiệp c ổ Loa truyền thống.
Nằm ở vùng chuyển tiếp giữa trung du và đồng bằng, c ổ Loa có cấu tạo
địa hình tương đối phức tạp. Nhìn rộng ra khu vực xung quanh, c ổ Loa là một
vùng đất cao bên cạnh các ô trũng liền đó. Tính chất không đồng nhất của địa
hình đã tạo ra nhũng bất lợi trong canh tác nông nghiệp, c ắ t ngang, bổ dọc
khắp Cổ Loa là sự tồn tại song song giữa mạng lưới sông ngòi dày đặc với
những dải đồi gò không đồng nhất về độ cao, thể hiện sự đan xen giữa hai loại
địa hình lồi - lõm, âm - dương, khiến mộng đất c ổ Loa bị cắt xẻ manh mún
và trên thực tế ở đây chưa bao giờ tồn tại những cánh đồng rộng lớn. Chính
do sự chi phối của điều kiện tự nhiên, cùng với tập quán canh tác đã quyết
định đến lịch sử phát triến, diện mạo và tính chất của kinh tế nông nghiệp
truyền thống ở Cổ Loa.
Lọt giữa đồng bằng và vùng sông nước, c ổ Loa có thuận lợi lớn về giao
thông thủy bộ. Nằm sát ngay phía nam c ổ Loa là dòng Hoàng Giang (sông
Thiếp, Ngũ Huyện) được bắt nguồn từ sông Hồng ở vùng Yên Lãng (Mê Linh,
Vĩnh Phúc). Con sông này là đường thủy tự nhiên nối liền c ổ Loa với mạn

ngược: lên miền núi, sang Trung Quốc và vùng xuôi: xuống đồng bằng, ra
biển khơi...Cách đó không xa là sông Cà Lồ về phí bắc và sông Đuống về
phía nam, tạo thành một hệ thống đường thủy nối liền c ổ Loa với mọi miền
xa gần. v ề giao thông đường bộ, cổ Loa nằm sát ngay bên đường quốc lộ số
9


3 từ Hà Nội đi Thái Nguyên, xưa kia chính là đường thiên lý từ vùng núi phía
bắc về kinh đô Thăng Long. Ngoài những thời điểm là kinh đô của đất nước,
Cổ Loa cũng rất gần những trung tâm kinh tế, xã hội lớn như Luy Lâu (Lỵ sở
Giao Châu thời thuộc Hán), Tống Bình - Đại La (lỵ sở An Nam đô hộ phủ
thời Tùy - Đường), Thăng Long - Đông Đô - Đông Kinh thời phong kiến tự
chủ. Sự thuận lợi về hệ thống giao thông thủy bộ, cùng một vị trí địa lý thuận
lợi xét trong tương quan với các làng xã, trung tâm kinh tế lớn xung quanh và
với toàn vùng châu thổ sông Hồng khiến c ổ Loa có tiềm năng lớn, trong việc
mở rộng, phát triển các quan hệ giao thương. Tuy nhiên điều đó lại tùy thuộc
vào những điều kiện chính trị, xã hội ở từng thời kỳ nhất định.
1.3. Đặc trưng văn hóa
1.3.1. Văn hóa vật chất
Những phát hiện lớn về khảo cổ học c ổ Loa trong những năm 1959
(phát hiện mũi tên đồng cầu Vực), phát hiện trống đồng Mả Tre (năm
1980)... đã khẳng định thêm giá trị lịch sử văn hóa to lớn của khu di tích.
Công tác tôn tạo, bảo vệ được tiến hành thường xuyên, bắt đầu từ năm 1981.
Hoạt động bảo vệ đầu tiên là trồng cây tại các vòng thành để chống sạt lở.
Năm 1982, Bộ Văn hóa - Thông tin ra quyết định đầu tư tu bổ khu di tích c ổ
Loa. Công tác tôn tạo tùng bước được hoạch định, như quy hoạch, khoanh
vùng khu di tích, lập bản đồ hiện trạng...
Từ khi có chính sách đổi mới của Đảng, chính quyền và nhân dân c ổ
Loa bắt tay vào thời kỳ mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế và xây dựng đời
sống văn hóa mới.

Xã chủ trương xây dựng nhà văn hóa làm nơi sinh hoạt văn hóa cộng đồng
chung. Nhà văn hóa được xây dung khang trang, với sức chứa gần 100 người.
Phong trào thể thao được chấn chỉnh. Trước đây, thể dục thể thao ở c ổ
Loa từng có những thành tích rất đáng kể, nhất là hai môn chạy sức bền và
đấu vật. hai đô vật ở Cổ Loa đã từng tham dự Olympic Mátxcơva năm 1980.
10


Hàng năm, Cổ Loa đều có học sinh đạt huy chương hội khỏe Phù Đổng toàn
quốc, có học sinh được tham gia đội tuyển thể dục thể thao quốc gia...
Đe phong trào trào thể dục thể thao ngày càng được đấy mạnh, c ổ Loa
chú trọng đến vai trò của thanh niên. Đoàn thanh niên đã thu hút sự tham gia
đông đảo của tuổi trẻ. Chính trong phong trào này, nhiều hạt nhân tích cực
được lựa chọn, c ổ Loa đã thành lập một đội bóng đá nam, hàng năm tham
gia thi đấu giải bóng đá huyện và đều đạt được huyện và đều đạt được giải
cao. Nhiều môn thể thao như cầu lông, bóng bàn... được phổ biến rộng rãi,
thu hút đông đảo quần chúng tham gia. Phong trào thể dục thể thao của xã
nhiều năm nhận được bằng khen của huyện, được công nhận là xã có phong
trào thể dục thể thao khá trong huyện. Năm 2001, c ổ Loa được tặng bằng
khen của Thủ tướng Chính phủ vì thành tích 20 năm phong trào thể dục thể
thao quần chúng.
Các di tích lịch sử bị tàn phá trong chiến tranh được khôi phục. Điếm thờ
tại các xóm bị phá được phụng dựng lại, như điếm xóm Hương, điếm xóm
Chợ, đình - chùa Mạch Tràng, hoặc tu sửa lại như điếm xóm Vang... Tuy
nhiên, vẫn còn một số công trình kiến trúc tôn giáo đang có nguy cơ bị hủy
hoại chưa được tu tạo như cầu C ả..., hoặc đã bị phá hủy như Loa khẩu và
miếu thờ thần Kim Quy ở đầu khu chợ Sa...
Song song với công tác tôn tạo là khôi phục và mở lại lễ hội c ổ Loa
truyền thống với sự tham gia của “bát xã hộ nhi”. Ngày nay, lễ hội mùng 6
tháng Giêng của c ổ Loa trở thành ngày hội lớn của nhân dân trong vùng.

1.3.2. Văn hóa tinh thần
Chăm lo đời sống tinh thần cho nhân dân là một nhiệm vụ quan trọng mà
Đảng bộ và chính quyền c ổ Loa rất quan tâm.
Sau cách mạng tháng Tám, hoạt động văn nghệ được đẩy mạnh với việc
thành lập các đội kịch, chèo, tuồng, cải lương,... Các hoạt động văn hóa trên
đã góp phần lành mạnh hóa đời sống, đấy lùi nhiều tệ nạn xã hội như rựu, chè,
11


cò’ bạc... Đời sống tinh thần được nâng lên một bước.
Trong những năm 1961 - 1964, Đảng bộ và nhân dân c ổ Loa đẩy mạnh
công cuộc xây dựng kinh tế và đã đạt được nhiều thành tựu. Công tác thông
tin, báo chí, xây dựng tủ sách, tổ chức chiếu bóng, thi văn nghệ,., được tăng
cường, trở thành sinh hoạt văn hóa thường xuyên. Đời sống văn hóa nhân dân
ngày càng lành mạnh, kịp thời bắt được những thông tin mới, chủ trương của
huyện, thành phố. Những hoạt động văn hóa, văn nghệ đó cũng đã góp phần
không nhỏ vào việc xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa ở c ổ Loa.
Từ sau năm 1975, công tác văn hóa văn nghệ tiếp tục được tăng cường.
Ban văn hóa thông tin của xã hoạt động tích cực. Hệ thống loa truyền thanh
được lắp đặt đến tận các thôn xóm.
Đe phục vụ đời sống nhân dân được tốt hơn, xã đã quy hoạch lại sân
chiếu bóng, tổ chức một tháng 2 buổi chiếu phim với khẩu hiệu “lấy văn hóa
nuôi văn hóa”. Các buổi tổng kết của các hợp tác xã thường có biểu diễn chèo,
tuồng, kịch nói...
Phát huy thế mạnh của phong trào kịch, chèo trước đây, trong thời gian
này, Đảng bộ và nhân dân xã c ổ Loa tiếp tục hoàn thiện các chương trình văn
nghệ. Các đội văn nghệ được mở rộng với sự tham gia của đông đảo quần
chúng nhân dân.
Để nâng cao đời sống dân chí, chính quyền nhân dân đã cùng chung sức
xây dựng một thư viện. Thư viện xã c ổ Loa ra đời năm 1965 - 1967. Lượng

sách lúc này còn khan hiếm, nhưng nhân dân với lòng nhiệt tình đã cùng nhau
góp sách riêng. Thư viện với số lượng đầu sách tương đối lớn, phong phú,
khoảng gần 10.000 quyển, trong đó số sách do nhân dân đóng góp lên tới
1.500 quyển, bao gồm các loại sách văn học, lịch sử, địa lý; các loại sách
khoa học như nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp...Nhũng sách trên đã góp
phần rất lớn vào việc nâng cao nhận thức của người dân, nâng cao dân trí.
Phong trào xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa ngày càng
12


được chú trọng và đạt được nhiều thành tựu. Phong trào này đã tạo động lực
cho việc thi hành nếp sống văn hóa.
Song song với việc xây dựng gia đình văn hóa là việc bài trù’ hủ tục lạc
hậu, mê tín dị đoan, v ề cơ bản, cổ Loa đã hạn chế tới mức tối đa sự xa hoa
lãng phí trong ma chay, cưới xin. Các tục lệ lạc hậu như yến ẩm, bói toán,
đồng cốt cơ bản bị xóa bỏ.

13


C h ư ơng 2. N G U Ò N G Ố C V À Đ Ặ C Đ IỂ M K H U D I TÍC H
CỎ LO A

2.1. Lịch sử hình thành
Cổ Loa nay là một xã thuộc huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. c ổ Loa
được biết đến trước hết bởi đó là kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương
Vương với toà Thành ốc nổi tiếng.
Năm 208 TCN, nước Âu Lạc được thành lập trên cơ sở tiếp nối nước
Văn Lang thời các vua Hùng - một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc. Nước Âu Lạc ra đòi là sự họp

nhất của hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt, thể hiện bước phát triển mới của
quốc gia cổ đại người Việt. Thục Phán An Dương Vương - vua nước Âu Lạc,
trong một bối cảnh và yêu cầu mới, đã thể hiện tầm nhìn của một nhà chính trị
chiến lược khi quyết định dời vị trí trung tâm đất nước xuống vùng đồng bằng
- chọn Cổ Loa làm nơi đóng đô.
Quyết định chọn vùng đất c ổ Loa làm kinh đô, An Dương Vương và
quân dân Âu Lạc bấy giò’ cũng đồng thời bắt tay vào một nỗ lực phi thường:
chỉ trong một thời gian ngắn, một toà thành đồ sộ và độc đáo đã được hoàn
thành. Đó là thành c ổ Loa, “thành ốc”, có thành cao hào sâu, có thuỷ bộ liên
hoàn, có trong ngoài phối hợp... Cùng sự đoàn kết quân dân trên dưới một
lòng, toà thành vững chắc này đã khiến quân xâm lược Triệu Đà nhiều phen
đại bại.
Nhung rồi cuối cùng thành c ổ Loa - nước Âu Lạc đã không đứng vững
được trước kẻ thù xâm lược ngoại bang. Thành chắc đấy, vũ khí lợi hại đấy,
nhưng từ vua quan đến chúng dân Âu Lạc - tổ tiên ta buổi đầu dựng nước vẫn còn quá chất phác, hồn nhiên, mà kẻ thù lại lắm xảo quyệt, mun mô.
Nguyên nhân mất nước dồn cả vào một lỗi lầm của Mỵ Châu nhẹ dạ tin người.

14


An Dương Vương xé lòng khi phải tuốt gươm chém đầu con gái, nhung đó
cũng chính là thời điểm người Việt nhận thức sâu sắc phải làm gì để tồn tại và
tiến lên trong một bối cảnh mà xâm lăng từ bên ngoài sớm trở thành áp lực.
Chỉ có điều, cha ông ta đã phải trả giá quá đắt cho bài học lịch sử này. Nước
mất, nhà tan, cơ đồ Âu Lạc chìm đắm trong đêm trường Bắc thuộc nghìn
năm.
Hon một nghìn năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, c ổ Loa - Âu Lạc rơi
vào tay đô hộ Trung Hoa. Chính quyền cai trị Trung Hoa, trong một thời gian
dài, vẫn chọn Cổ Loa làm thủ phủ. Thành trì được gia cố phục vụ cho nhu cầu
của bọn thống trị. Những khi người Việt vùng lên - thời Hai Bà Trung, Lý

Phật Tử - Cổ Loa thường được chọn làm điểm tựa, cả vật chất lẫn tinh thần.
Song vì thế ta chưa mạnh, lực ta chưa đủ mà nền độc tập mong manh không
giữ được. Nhưng c ổ Loa vẫn sừng sững đó một toà thành - chứng tích hào
hùng của thời mở nước. Người Việt vẫn hướng về c ổ Loa mà tăng thêm nghị
lực, tăng thêm sức mạnh trong cuộc đấu tranh bền bỉ khôi phục nền độc lập
dân tộc.
Chiến thắng Bạch Đằng lịch sử năm 938 đã kết thúc hơn một nghìn
năm mất nước. Ngô Quyền, kế thừa thành quả của hơn ba mươi năm dựng
nền tự chủ thời họ Khúc, họ Dương, đã có đủ sức mạnh nhấn chìm hàng vạn
quân Nam Hán xuống sông Bạch Đằng và vứt bỏ danh hiệu Tiết độ sứ mà
xưng vương, khẳng định dứt khoát nền độc lập của người Việt. Trở về c ổ
Loa đóng đô, Ngô Quyền muốn nối lại quốc thống, chắp lại mạch dòng. Ý
thức đó của Ngô Quyền đủ thấy dòng chảy tinh thần Việt không hề gián
đoạn, trái lại nó càng được củng cố trước những thử thách khắc nghiệt trong
hơn một nghìn năm mất nước. Thành trì được bồi trúc thêm, điện đài được
xây dựng mới. Triều đình c ổ Loa tuy mới được thiết lập nhưng cũng đã hiện
rõ vẻ bề thế đế vương.
Nhung chính quyền nhà Ngô không duy trì được lâu dài. Sau khi Ngô
15


Quyền mất (năm 944), triều đình vắng đi người người đủ tài đủ đức, đủ công
huân để các hào trưởng anh hùng nhất khoảnh tự nguyện thần phục. Chính
quyền Cổ Loa tan rã (năm 965), đất nước loạn lạc, mười hai sứ quân tung tác
khắp nơi. Nền độc lập vừa giành lại được có nguy cơ đổ vỡ khi phải đối diện
với một Trung Quốc của nhà Tống vừa mới được tái thống nhất. Đinh Bộ
Lĩnh cờ lau dẹp loạn, thống nhất sơn hà, chuyển đô về Hoa Lư (năm 968).
Trải các nhà Đinh - Tiền Lê, với nhiều nỗ lực lớn lao, quốc gia độc lập và
thống nhất Đại c ồ Việt đã được xác lập vững chắc. Trên cơ sở đó, năm 1010
Lý Công Uẩn quyết định dời đô ra thành Đại La và đổi tên là thành Thăng

Long. Một kỷ nguyên mới bắt đầu.
Cổ Loa, từ ngày chính quyền nhà Ngô tan rã đã dần mất đi dáng vẻ đế
vương. Cổ Loa đã làm trọn vai trò lịch sử vĩ đại khơi dòng và nối dòng, đế đất
nước quá độ qua Hoa Lư, rồi vững vàng ở đất Thăng Long “long bàn hổ cứ”.
Từ Cổ Loa đến Thăng Long vẫn một Hà Nội - thủ đô nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam ngày nay, một hành trình lịch sử không phải chỉ một
nghìn năm.
Từ đấy, Cổ Loa bước vào quá trình nông thôn hoá. Dân các vùng xung
quanh và dân tứ xứ, xa xôi tận miền Thanh Nghệ, đổ về dựng nhà dựng cửa,
vỡ đất trồng cây làm đồng cấy lúa. Các xóm làng dần hình thành trong và bên
các vòng thành. Một c ổ Loa với diện mạo và sức sống mới ra đời. Nhưng
một Cổ Loa kinh đô của nước Âu Lạc thời An Dương Vương, của Ngô Quyền
thời buổi đầu độc lập thì cũng vẫn còn đó. Người Việt Nam, người c ổ Loa
lun giữ và truyền nối toàn bộ di sản đó từ đời này qua đời khác. Các triều đình
phong kiến Việt Nam cũng ý thức được sâu sắc vị trí lịch sử của c ổ Loa nên
luôn có nhũng chính sách đặc biệt đối với vùng đất này.
Sáu bảy chục năm dưới ách đô hộ của thực dân phương Tây, c ổ Loa
cũng như những làng quê Việt Nam khác, chịu nhiều tầng áp bức bóc lột.
Không cam chịu thân phận nô lệ, c ổ Loa sớm dấn mình vào cuộc đấu tranh
16


chung của toàn dân tộc giành độc lập tự do. Trong những năm trước ngày
Cách mạng tháng Tám, c ổ Loa là một cơ sở quan trọng của Đảng Cộng sản
Đông Dương, nơi nuôi giấu nhiều cán bộ cao cấp của Đảng, c ổ Loa cũng là
một trong những địa phương giành được chính quyền sớm nhất của huyện
Đông Anh và của Hà Nội.
Trong cuộc trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, c ổ Loa có ví trí
chiến lược hết sức quan trọng mà kẻ địch tìm mọi cách chiếm lấy. Nhưng
quân dân c ổ Loa đã chiến đấu kiên cường, bẻ gẫy nhiều đợt tấn công quy mô

lớn với binh lực áp đảo của đối phương, làm thất bại âm miru của chúng. Dù
phải gánh chịu nhiều hy sinh mất mát, nhung c ổ Loa vẫn đứng vững qua
những tháng năm ác liệt của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, góp phần
cùng quân dân cả nước đi đến trận đại thắng Điện Biên Phủ, đánh đuổi giặc
Pháp, giải phóng miền Bắc.
Hoà bình lập lại, c ổ Loa cùng miền Bắc bắt tay vào công cuộc xây dựng
mới. Cổ Loa là một trong những đơn vị đi đầu của toàn huyện Đông Anh và
thành phố Hà Nội trên nhiều lĩnh vực. Trong những tháng năm kháng chiến
chống Mỹ cún nước, c ổ Loa luôn “thóc không thiếu một cân, quân không
thiếu một người”. Lớp lớp thanh niên c ổ Loa lên đường nhập ngũ. Hàng trăm
người con của c ổ Loa vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường. Trong
chiến tranh phá hoại, c ổ Loa là nơi hứng chịu nhiều trận đánh phá ác liệt của
không quân Mỹ. Hàng trăm người chết, nhiều nhà cửa bị đánh sập, tổn thất về
người và của hết sức nặng nề. Vượt lên trên mất mát đau thương, cán bộ và
nhân dân Cổ Loa đoàn kết một lòng, giữ vững sản xuất, làm tròn trách nhiệm
hậu phương, góp phần cùng cả nước đánh thắng giặc Mỹ xâm lược.
Vượt qua nhũng tháng năm khó khăn sau ngày đất nước hoàn toàn giải
phóng, Cổ Loa cùng cả nước bước vào công cuộc đổi mới. Thành tựu sau hai
mươi năm thật lớn lao. Bộ mặt kinh tế c ổ Loa chuyển biến căn bản. Đời sống
vật chất, đời sống tinh thần của nhân dân được cải thiện, được nâng cao rõ rệt.
17


Cùng với sự đầu tư của thành phố, của nhà nước, c ổ Loa đang chuẩn bị bước
vào một thời kỳ mới, với những thay đổi to lớn. Toàn bộ quá khứ c ổ Loa sẽ
sống dậy trong công cuộc phục hưng mới vùng đất này. Một c ổ Loa với dáng
vẻ cổ kính của thành lũy điện đài rồi đây sẽ hiện ra bên cạnh một c ổ Loa hiện
đại trong một tổng thể hài hoà.
2.2. Đặc điểm
2.2.1. Vị trí đỉa lý

Vào thời Âu Lạc, c ổ Loa nằm vào vị trí đỉnh của tam giác châu thổ sông
Hồng và là nơi giao lưu quan trọng của đường thủy và đường bộ. Từ đây có
thể kiểm soát được cả vùng đồng bằng lẫn vùng son địa. c ổ Loa là một khu
đất đồi cao ráo nằm ở tả ngạn sông Hoàng. Con sông này qua nhiều thế kỷ bị
phù sa bồi đắp và nay đã trở thành một con lạch nhỏ, nhung xưa kia sông
Hoàng là một con sông nhánh lớn quan trọng của sông Hồng, nối liền sông
Hồng với sông Cầu, con sông lớn nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Như
vậy, về phương diện giao thông đường thủy, c ổ Loa có một vị trí vô cùng
thuận lợi hon bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thòi ấy. Đó là vị trí nối
liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy
của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống
đường thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa
đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay
Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn
nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông cầu đế thâm nhập vào
hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.
Địa điểm Cổ Loa chính là Phong Khê, lúc đó là một vùng đồng bằng trù
phú có xóm làng, dân chúng đông đúc, sống bằng nghề làm ruộng, đánh cá và
thủ công nghiệp. Việc dời đô từ Phong Châu về đây, đánh dấu một giai đoạn
phát triển của dân cư Việt cổ, giai đoạn người Việt chuyển trung tâm quyền
lực từ vùng Trung du bán sơn địa về định cư tại vùng đồng bằng. Việc định cư
18


tại đồng bằng chứng tỏ một bước tiến lớn trong các lãnh vực xã hội, kinh tế
trong giao tiếp, trao đổi con người dễ dàng đi lại bằng đường bộ hay bằng
đường thủy; trong nông nghiệp có bước tiến đáng kể về kỹ thuật trồng lúa
nước, mức độ dân cư cũng đông đúc hơn.
Ngày nay, Cổ Loa là di tích lịch sử nổi tiếng, thuộc địa phận huyện Đông
Anh cách trung tâm Hà Nội khoảng 17km về hướng Tây Bắc. Đây là thủ đô

thứ 2 của Việt Nam sau Phong Châu (tỉnh Phú Thọ hiện nay).
Từ Hà Nội, qua cầu Chương Dương, theo quốc lộ 1A cũ đến cây số 10 là
cầu Đuống. Qua cầu là thị trấn Yên Viên, rẽ trái vào quốc lộ 3, đi 5km đến
ngã rẽ vào Cổ Loa. Khoảng cách quốc lộ 3 đến c ổ Loa là 2km.
Trạm xe buýt Long Biên, các xe đi Phù Lỗ, Đa Phúc đều có chạy ngang
Cổ Loa, sẽ phải đi bộ thêm 2km mới vào đến khu di tích.
2.2.2. Kiến trúc
2.2.2. ỉ. Thành c ổ Loa
Thành Cổ Loa được các nhà khảo cổ học đánh giá là “tòa thành cổ nhất,
quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử
xây dựng thành lũy của người Việt cổ”
Khi xây thành, người Việt cổ đã biết lợi dụng tối đa và khéo léo các địa
hình tự nhiên. Họ tận dụng chiều cao của các đồi, gò, đắp thêm đất cho cao
hơn để xây nên hai bức tường thành phía ngoài, vì thế hai bức tường thành
này có đường nét uốn lượn theo địa hình chứ không băng theo đường thẳng
như bức tường thành trung tâm. Người xưa lại xây thành bên cạnh con sông
Hoàng để dùng sông này vừa làm hào bảo vệ thành vừa là nguồn cung cấp
nước cho toàn bộ hệ thống hào vừa là đường thủy quan trọng. Chiếc Đầm Cả
rộng lớn nằm ở phía Đông cũng được tận dụng biến thành bến cảng làm nơi tụ
họp cho đến cả hàng trăm thuyền bè.
Chất liệu chủ yếu dùng để xây thành là đất, sau đó là đá và gốm vỡ. Đá
được dùng để kè cho chân thành được vũng chắc. Các đoạn thành ven sông,
19


ven đầm được kè nhiều đá hon các đoạn khác. Đá kè là loại đá tảng lớn và đá
cuội được chở tới từ các miền khác. Xen giữa đám đất đá là những lớp gốm
được rải dày mỏng khác nhau, nhiều nhất là ở chân thành và rìa thành để chống
sụt lở. Các cuộc khai quật khảo cổ học đã tìm thấy một số lượng gốm khổng lồ
gồm ngói ống, ngói bản, đầu ngói, đinh ngói. Ngói có nhiều loại với độ nung

khác nhau. Có cái được nung ở nhiệt độ thấp, có cái được nung 1'ất cao gần như
sành. Ngói được trang trí nhiều loại hoa văn ở một mặt hay hai mặt.
Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, nhưng căn cứ
trên dấu tích hiện còn, các nhà khoa học nhận thấy thành có 3 vòng, trong đó
vòng thành nội rất có thể được làm về sau, dưới thời Ngô Quyền. Chu vi vòng
ngoài 8km, vòng giữa 6,5km, vòng trong 1,6km, diện tích trung tâm lên tới
2km2. Thành được xây theo phương pháp đào đất đến đâu, khoét hào đến đó,
thành đắp đến đâu, lũy xây đến đó. Mặt ngoài lũy, dốc thẳng đứng, mặt trong
xoải để đánh vào thì khó, trong đánh ra thì dễ. Lũy cao trung bình từ 4m - 5m,
có chỗ cao đến 8m - 12m. Chân lũy rộng 2m - 30m, mặt lũy rộng 6m - 12m.
Khối lượng đất đào đắp ước tính 2,2 triệu mét khối.
Thành nội hình chữ nhật, cao trung bình 5m so với mặt đất, mặt thành
rộng từ 6m - 12m, chân rộng từ 20m - 30m, chu vi 1.650m và có một cửa nhìn
vào tòa kiến trúc Ngự triều di quy.
Thành trung là một vòng thành không có khuôn hình cân xứng, dài
6.500m, nơi cao nhất là lOm, mặt thành rộng trung bình lOm, có năm cửa ở
các hướng đông, nam, bắc, tây bắc và tây nam, trong đó cửa đông ăn thông
với sông Hồng.
Thành ngoại cũng không có hình dáng rõ ràng, dài hơn 8.000m, cao
trung bình 3m - 4m (có chỗ tới hơn 8m).
Mỗi vòng thành đều có hào nước bao quanh bên ngoài, hào rộng trung
bình từ lOm đến 30m, có chỗ còn rộng hơn. Các vòng hào đều thông với nhau
và thông với sông Hoàng. Sự kết họp của sông, hào và tường thành không có
20


×