Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

CHUYÊN đề SINH lý máu TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN BỈNH KHIÊM QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.88 KB, 15 trang )

TRƯỜNG THPT CHUYÊN NGUYỄN BỈNH KHIÊM - QUẢNG NAM
SINH LÝ MÁU
A. PHẦN MỞ ĐẦU.
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.
Cơ thể con người là một thể thống nhất. Hình dạng và chức phận của các cơ quan
trong cơ thể liên quan mật thiết với nhau. Máu là mô liên kết đặc biệt, lưu thông trong hệ
tuần hoàn, đảm nhận nhiều chức năng quan trọng và có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ cơ
quan trong cơ thể.
Trong chương trình sinh học phổ thông, sinh lí máu chưa được đề cập nhiều nhưng
sinh lí máu cũng rất thường gặp trong các đề thi quốc gia, quốc tế nên học sinh gặp nhiều
khó khăn trong khi học và ôn luyện.
Xuất phát từ thực tế trên, tôi đã chọn nội dung “sinh lí máu” làm đề tài nghiên cứu
trong chuyên đề chuyển hóa vật chất năng lượng ở động vật theo yêu cầu của hội thảo khoa
học năm nay
II. MỤC ĐÍCH ĐỀ TÀI
- Nhằm giúp các em học sinh chuyên trong đội tuyển quốc gia và quốc tế có thêm
nguồn tư liệu học tập và ôn luyện.
- Giúp các giáo viên chuyên sinh có thêm nguồn tư liệu để tham khảo và giảng dạy
đồng thời giúp cho bản thân tôi có thêm nguồn tài liệu giảng dạy thuận lợi hơn
- Ngoài ra, qua bài viết có sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để tôi có thêm kiến
thức và kinh nghiệm trong giảng dạy phần này.
B. PHẦN NỘI DUNG
I. Khối lượng, thành phần, đặc tính và chức năng của máu.
1. Khối lượng.
Máu chiếm 7,5% trọng lượng cơ thể , với tỷ trọng trung bình khoảng 1060 kg/m3, gần
giống với tỷ trọng nước nguyên chất (1000 kg/m3). Người trưởng thành trung bình có
khoảng 5 lít máu. Bình thường chỉ khoảng một nửa máu chảy trong các mạch, nửa còn lại
nằm trong các kho dự trữ: tỳ (16%), gan (20%), dưới da (10%), nhờ đó công việc của tim
được giảm nhẹ. Máu dự trữ giàu yếu tố hữu hình hơn máu chảy vì trong các kho một phần
nước của máu bị hấp thụ.
Khi lao động chân tay, ngạt thở, nóng sốt, cảm xúc mạnh, mất máu nhiều thì máu dự


trữ được lấy từ các kho máu để bổ sung cho phần máu chảy
Khối lượng máu giảm đột ngột thường gây nguy hiểm vì làm hạ huyết áp quá nhanh.
Mất từ từ ¾ hồng cầu vẫn không gây chết nhưng mất 1/3 máu động mạch và mất nhanh thì
sẽ chết ngay
2. Thành phần của máu.
Máu gồm 2 thành phần: thể hữu hình (huyết cầu) và huyết tương
Thể hữu hình chiếm khoảng 40 - 45% thể tích máu bao gồm hồng cầu, bạch cầu và
tiểu cầu. Huyết tương chiếm khoảng 55 - 60% thể tích máu bao gồm huyết thanh và
fibrinogen
Ðể máu trong ống nghiệm có thêm chất kháng đông rồi để lắng hoặc quay li tâm,
máu sẽ phân thành 2 lớp: lớp trên là huyết tương màu vàng nhạt, phía dưới là hồng cầu màu
đỏ thẫm, phủ 1 lớp mỏng bạch cầu và tiểu cầu.
3. Một số đặc tính của máu.


*Độ quánh của máu: Ðộ quánh máu toàn phần gấp 5 lần nước cất. Ðộ quánh này phụ thuộc
vào lượng huyết cầu và prôtêin trong huyết tương. Độ quánh của máu tăng khi cơ thể mất
nhiều nước.
*Tỉ trọng của máu: Tỉ trọng máu toàn phần lớn hơn nước, phụ thuộc vào số lượng hồng cầu
và mỗi loài động vật.
*Áp suất thẩm thấu (thẩm áp) của máu:
Áp suất thẩm thấu của máu toàn phần bằng 7,6- 8,1 atmotphe, chủ yếu do muối
khoáng trong máu tạo ra. Protein trong huyết tương chỉ tạo một phần nhỏ gọi là áp xuất keo
- có trị số 25 mmhg, tuy nhỏ nhưng nó quyết định sự phân phối nước cho cơ thể .
Khi pha chế dung dịch sinh lí cần đảm bảo thẩm áp tương đương của máu đem pha
chế. Sự ổn định áp suất thẩm thấu máu có ý nghĩa sinh lý quan trọng. Trong dung dịch
nhược trương, có áp suất thẩm thấu thấp hơn áp suất thẩm thấu của hồng cầu, nước sẽ thấm
vào trong hồng cầu làm hồng cầu vỡ ra. Trong dung dịch ưu trương, có áp suất thẩm thấu
cao hơn áp suất thẩm thấu của hồng cầu, nước trong hồng cầu sẽ thấm ra ngoài, hồng cầu bị
teo lại và cũng bị hủy. Như vậy trong cả 2 trường hợp máu đều bị phá hủy - Ðó là hiện

tượng tiêu huyết. Hiện tượng tiêu huyết còn xảy ra khi máu tiếp xúc với clorofooc,
ether, cồn, tia cực tím, tia X, các chất phóng xạ, độc tố của vi trùng, giun sán, nọc nhện,
ong, bọ cạp, rắn độc...
*Cân bằng ion trong máu:
Ðể các tế bào máu không bị phá hủy, khi đặt chúng trong môi trường khác máu của
chúng, ta có thể pha dung dịch sinh lí với các muối Nacl, glucose, saccarose có áp suất thẩm
thấu tương đương với áp suất thẩm thấu máu của mỗi loài động vật. Tuy nhiên muốn các
dung dịch đó duy trì sự sống thay máu đến một mức nào đó, cần thêm một tỉ lệ nhất định
các chất hòa tan như các ion: Na+, K+, Ca2+,v.v...
Thành phần khác nhau của một số dung dịch đã tạo nên tên gọi khác nhau của các
dung dịch sinh lí như: Ringer, lock, tyrod. Nồng độ dung dịch muối NaCl làm cho hồng cầu
bắt đầu vỡ - đó là nồng độ tiêu huyết giới hạn, tương ứng với sức đề kháng tối thiểu của
hồng cầu. Ở nồng độ mà toàn bộ hồng cầu bị phá vỡ ứng với sức đề kháng tối đa.
*Phản ứng máu:
Phản ứng máu lệ thuộc vào tỉ lệ ion H+ và OH- trong máu.
pH máu trung bình của một số động vật: Lợn 7,97; trâu bò 7,25 - 7,45; chó và người
là 7,35, nghĩa là đều hơi kiềm
Phản ứng máu nói chung ổn định. Muốn pH máu ngả về phía kiềm, phải thêm một
lượng NaOH lớn gấp 70 lần so với nước nguyên chất, còn muốn làm pH máu ngả về phía
axit phải thêm một lượng HCl lớn gấp 325 lần, sở dĩ như vậy là vì trong máu có những yếu
tố giữ thăng bằng kiềm - axit gọi là hệ đệm. Có 3 hệ đệm chủ yếu:
+ Hệ đệm bicarbonat: gồm axit carbonic và muối kiềm bicarbonat Na hay bicarbonat K, kí
hiệu là H2CO3/ BHCO3 (B là Na hay K)
Axit vào trong máu sẽ bị bicarbonat trung hòa, axit carbonic thừa sẽ được phổi thông
khí ra ngoài, vì sự tăng nồng độ H + kích thích trung khu hô hấp. Còn ngược lại kiềm vào
máu sẽ trung hòa axit carbonic, hô hấp giảm và lượng bicarbonat thừa được thận lấy đi.
Hệ đệm này đảm bảo từ 7 - 9% khả năng đệm của máu. Lượng bicarbonat trong máu
động vật và người đều nhiều gấp 18 lần lượng axit carbonic nên khả năng đệm của máu đối
với axit cao hơn hẳn đối với kiềm.
+ Hệ đệm photphat: cũng hoạt động tương tự như hệ đệm bicarbonat, gồm muối photphat

diaxit và muối photphat monoaxit của K hay Na kí hiệu là BH2PO4/ B2HPO4
+ Hệ đệm protit (P): Là hệ đệm mạnh nhất, vì nó kết hợp ¾ lượng axit carbonic của máu
Trong môi trường axit nó tác dụng như kiềm yếu, trong môi trường kiềm nó tác dụng
như axit yếu
BP + H2CO3 ↔ HP + BHCO3


P: protit, B (Na+, K+)
Chất đệm protit có hiệu quả nhất là huyết cầu tố hemoglobin chứa trong hồng cầu (kí
hiệu là Hb). H2CO3 tăng trong máu sẽ thấm vào hồng cầu và tranh cation kiềm của Hb, vốn
là axit rất yếu, sẽ biến thành bicarbonat:
BHb + H2CO3 ↔ HHb + BHCO3
Hb có khả năng đệm lớn gấp 10 lần các protit trong huyết tương.
Nhờ tác dụng của các hệ đệm, thăng bằng axit - kiềm được giữ ổn định. Điều này rất
quan trọng vì phản ứng máu chỉ lên xuống 0,2 cơ thể đã biến loạn, có khi chết. Tất nhiên
bình thường vẫn có hiện tượng phản ứng máu ngả về axit (khi lao động kéo dài) hoặc về
phía kiềm (khi thở sâu và mạnh), nhưng chỉ sau một thời gian ngắn, đã được hệ đệm điều
chỉnh.
4. Chức năng của máu
- Máu là nguồn gốc tạo các dịch lỏng khác như: Dịch bạch huyết, dịch kẽ tế bào, dịch não
tủy, dịch màng bụng, màng phổi, màng khớp...Tất cả các dịch đó tạo thành nội môi, trong
đó máu là thành phần quan trọng nhất .
- Chức năng hô hấp : máu vận chuyển O2 từ phổi đến các tế bào và CO2 từ tế bào về phổi
nhờ huyết cầu tố của hồng cầu.
- Chức năng dinh dưỡng: Các chất dinh dưỡng như axit amin, glucose, axit béo và vitamin
được hấp thu từ ống tiêu hóa vào máu và được máu vận chuyển đến các mô cung cấp cho
hoạt động sống của tế bào .
- Chức năng đào thải: Máu lấy các chất cặn bã, các sản phẩm chuyển hóa của tế bào, CO2
từ các mô chuyển đến thận, phổi ... để bài tiết ra ngoài .
- Chức năng bảo vệ: Máu có nhiệm vụ bảo vệ cơ thể chống bệnh tật nhờ các chức phận

thực bào, miễn dịch, chống độc của các bạch cầu và vai trò của tiểu cầu trong duy trì cân
bằng đông máu.
- Chức năng điều nhiệt: Máu làm nhiệm vụ vận chuyển nhiệt, giữ nhiệt độ cơ thể chỉ thay
đổi trong một phạm vi hẹp. Máu điều nhiệt nhờ các đặc tính như tỉ nhiệt của nước, khả năng
dẫn nhiệt cao
- Chức năng điều hoà hoạt động các cơ quan thông qua vận chuyển các hormon và các yếu
tố điều hoà thể dịch khác.
Như vậy máu chảy qua tất cả các cơ quan bộ phận, cung cấp oxy và chất dinh dưỡng,
điều hòa chức năng sinh lý của toàn bộ cơ thể, liên kết các bộ phận nên tham ra vào mọi
trạng thái bệnh lý cũng như tham gia đấu tranh chống mọi sự tấn công của bệnh tật.
II. Huyết tương.
1. Thành phần
Huyết tương là thành phần lỏng của máu, có màu vàng nhạt vì chứa sắc tố vàng
Huyết tương có tỉ trọng 1,028, chứa 90 - 92% nước về thể tích, 8 -10% còn lại là các
chất tan như: protein huyết tương, các thành phần hữu cơ và muối vô cơ v.v.
2. Protein huyết tương
Huyết tương chứa rất nhiều protein hòa tan chiếm 7% về thể tích, trong đó các
protein quan trọng nhất là:
- Albumin: Là loại protein huyết tương phổ biến nhất (3,5-5g/dl máu) và là yếu tố chính gây
ra áp suất thẩm thấu của máu. Các chất chỉ hòa tan một phần hoặc không hòa tan trong nước
được vận chuyển trong huyết tương bằng cách liên kết với albumin. Albumin được chế tạo
ở gan, sau đó đi vào máu rồi được chuyển giao cho tế bào để biến thành albumin đặc trưng
cho từng loại mô.


- Globulin: Gồm 4 dạng: alpha 1, alpha 2, beta, gamma, là những protein hình cầu hòa tan
trong huyết tương. Globulin gamma quan trọng nhất vì là dạng globulin miễn dịch (kháng
thể).
- Fibrinogen: Protein này được biến đổi thành fibrin bởi các enzyme liên kết với máu trong
quá trình cầm máu. Fibrinogen được tổng hợp và chế tiết ở gan.

Vai trò của protein huyết tương:
+ Vai trò chuyển hóa
+ Vai trò giữ vững áp suất keo chủ yếu do các albumin tạo ra
+ Vai trò bảo vệ cơ thể: các chất kháng thể đều là globumin
+ Vai trò đông máu do fibrinogen
3. Các hợp chất hữu cơ khác
Các hợp chất hữu cơ khác trong huyết tương gồm có các chất dinh dưỡng như: amino
acid, glucose, vitamin, lipide và một số loại peptide điều hòa, steroid hormone, lipit, urê,
axit uric, amoniac.
4. Các chất khoáng trong huyết tương:
Các chất khoáng trong huyết tương ở dạng ion (anion và cation)
+ Clo: Có cả trong huyết tương và trong hồng cầu, trong hồng cầu 1,83g/l, trong huyết
tương 3,6g/l, tỉ số này thay đổi song song với pH máu.
+ Phôtpho: Phôtpho trong huyết tương tồn tại ở 2 dạng là mineralolipit và nucleoprotit.
Tổng lượng phôtpho trong máu khoảng 0,35g‰ và giảm trong các bệnh còi xương
+ Lưu huỳnh: Có cả trong huyết tương và trong hồng cầu. Lưu huỳnh tồn tại trong máu dưới
2 dạng: dạng cấu tạo nằm trong thành phần cấu tạo các protit, hemoglobin và dạng lưu
thông trong các muối sunfat
+ Natri: Chủ yếu là dạng kết hợp với clo, quyết định ¾ áp suất thẩm thấu của huyết tương.
Na có nhiều trong huyết tương chiếm tỉ lệ 3,3g‰, trong hồng cầu rất ít chỉ 0,8g‰
+ Kali: Rất ít trong huyết tương chỉ 0,2g‰ và nhiều hơn trong hồng cầu chiếm 4,8g‰. Kali
đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền hưng phấn thần kinh, trong hoạt động của cơ
nhất là cơ tim.
+ Canxi: Có cả trong huyết tương và trong hồng cầu. Trong hồng cầu canxi tồn tại dưới
dạng kết hợp hữu cơ và dạng ion hóa. Canxi có tác dụng quan trọng trong dẫn truyền hưng
phấn thần kinh, cơ. Canxi giảm sẽ gây co giật. Canxi ở dạng ion đóng vai trò quan trọng
trong quá trình đông máu
III. Hồng cầu
1. Kích thước và hình dạng
Hồng cầu chiếm hơn 99% trong các thành phần hữu hình của máu. Đường kính của

hồng cầu là 7,45 ± 0,2µm, bề dày phần ngoại vi 2-2,5µm và phần trung tâm 1µm. Thể tích
trung bình của hồng cầu vào khoảng 90-95µm 3. Tổng diện tích hồng cầu người lên tới 3000
- 3200m3, gấp 1600 lần diện tích da.
Hồng cầu có hình đĩa lõm 2 mặt làm tăng diện tích tiếp xúc của hồng cầu
Hồng cầu không có nhân, có chứa rất ít bào quan, nhờ đó mà có thêm chỗ chứa Hb,
là chất vận chuyển oxi.
Màng tế bào hồng cầu vừa có tính dẻo dai lại có thừa khả năng chứa các thành phần
bên trong, nhờ đó hồng cầu có khả năng biến dạng rất cao mà không bị vỡ, rách khi di
chuyển qua các mao mạch chật hẹp.
2. Số lượng.
Số lượng hồng cầu có thể thay đổi tùy loài. Theo Đặng Tiến (1959), Vũ Triệu An
(1960), Nguyễn Ngọc Lanh và Hồ Thi Phương (1963), trong 1mm 3 máu người Việt Nam, có
4,2 ± 0,21 triệu hồng cầu (nam) và 3,8 ± 0,16 triệu hồng cầu (nữ). Nếu xếp tất cả hồng cầu


của một người sát cạnh nhau thành một chuỗi, thì chuỗi đó có thể chạy vòng quanh xích đạo
3 lần.
Bình thương số lượng hồng cầu chỉ thay đổi trong một phạm vi hẹp. Tuy nhiên trong
trường hợp sinh lý và sinh lí thì số lượng hồng cầu thay đổi rất nhiều.
a. Những thay đổi sinh lí.
Ở trẻ sơ sinh, số lượng hồng cầu cao trong vòng một hai tuần đầu, sau đó có hiện
tượng vỡ hồng cầu gây vàng da sinh lý. Ngoài ra, số lượng hồng cầu có thể tăng ở những
người lao động nặng, sống ở vùng cao.
b. Những thay đổi bệnh lí.
- Hồng cầu tăng trong các bệnh “đa hồng cầu” làm tăng độ quánh của máu có thể gây tắc
mạch.
- Trong các trường hợp (nôn, tiêu chảy, mất huyết tương do bỏng) làm tăng hồng cầu
- Hồng cầu giảm trong các bệnh thiếu máu (chỉ còn 1 triệu hồng cầu/ 1mm 3) như bệnh sốt
rét (hồng cầu vỡ), thiếu máu hồng cầu lưỡi liềm, thiếu máu ác tính.
3. Thành phần.

Thành phần chính của hồng cầu là hemoglobin (Hb), chiếm 34% trọng lượng (nồng
độ 34 g/dl trong dịch bào tương). Cấu trúc của hồng cầu đặc biệt với nhiều thành phần khác
nhau.
Hai thành phần quan trọng nhất của hồng cầu được nhiên cứu nhiều nhất là màng
hồng cầu và hemoglobin.
+ Màng hồng cầu mang nhiều kháng nguyên nhóm máu, Hb là thành phần quan trọng
trong sự vận chuyển khí của máu.
+ Trong hồng cầu còn chứa một số enzim quan trọng như: anhydraza cacbonic,
catalaza và một số muối khoáng chủ yếu là kali.
* Cấu tạo của Hemoglobin:
Hb là hợp chất dễ tan trong nước, gồm 1 phân tử globin kết hợp với 4 phân tử hem.
+ Globin có cấu trúc là các chuỗi polypeptid, ở người trưởng thành gồm 4 chuỗi polypeptid
giống nhau từng đôi một: 2 chuỗi α và 2 chuỗi β, khi thủy phân được phần lớn là histamin.
+ Mỗi phân tử hem gồm 4 nhóm pyrol chứa nitơ liên kết với nhau bằng cầu nối metyl (CH=) tạo thành vòng porphyrin, giữa là Fe2+.
Sự đặc hiệu của các loại Hb của các loài động vật khác nhau là do thành phần hóa
học của globin, còn nhóm hem thì có cấu tạo nhất định dù ở loại Hb nào.
Porphyrin là phổ biến trong thế giới sinh vật. Porphyrin kết hợp với Mg ++ tạo thành
chất diệp lục của thực vật. Hem có thể kết hợp với nhiều chất khác nhau. Nếu hem kết hợp
với globin thì tạo thành Hb. Nếu hem kết hợp với albumin, NH 3, pyridin, nicotin... tạo nên
chất gọi là hemochromogen.
*Các loại hemoglobin ở người.
Hemogobin khác nhau ở phần cấu tạo globin. Hb người trưởng thành là HbA gồm 4
chuỗi polypeptid: 2 chuỗi α và 2 chuỗi β. Hb của thai nhi là HbF. Globin của HbF gồm hai
chuỗi α và hai chuỗi γ (vị trí thứ 3 của chuỗi β là glutamin được thay bằng threonin ở
chuỗi γ).
Hemogobin của bệnh nhân mắc bệnh thiếu máu có hồng cầu hình lưỡi liềm là HbS,
vị trí thứ 6 của chuỗi β là valin được thay bằng glutamin. Loại hồng cầu này rất dễ vỡ khi
qua mao mạch nhỏ.
Có nhiều phương pháp định lượng Hb, kể cả các phương pháp không chảy máu. Bình
thường người Việt có Hb là 14,6g (đối với nam) và 13,3g (đối với nữ) trong 100ml máu.

Đếm số lượng hồng cầu và định lượng Hb là những xét nghiệm quan trọng trong đánh giá


sự thiếu máu, thiếu máu đẳng sắc (giá trị hồng cầu =1), thiếu máu ưu sắc (giá trị hồng cầu
>1) và thiếu máu nhược sắc (giá trị hồng cầu <1).
*Tính chất của Hb
+ Kết hợp với oxigen:
Hb + O2 ↔ HbO2
HbO2 là 1 hợp chất dễ phân li. Tính chất này làm cho Hb có khả năng chuyên chở và
cung cấp oxi trong hô hấp. Về mặt lý thuyết, mỗi phân tử có thể kết hợp bão hoà với 4 phân
tử oxy. Thực tế trong cơ thể điều này rất khó xảy ra vì không bao giờ có sự bão hoà 100%
HbO2.
+ Kết hợp với CO2: Hemoglobin kết hợp với carbonic ở nhóm amin của globin theo phản
ứng thuận nghịch:
Hb.NH2 + CO2 ↔ Hb.NH-COOH
Sự kết hợp xảy ra ở mô, sự phân ly xảy ra ở phổi. Carbonic kết hợp với Hb ở nhóm
amin của globin nên gọi là phản ứng các carbamin.
+ Kết hợp với CO:
Hemoglobin kết hợp với carbonmonocid tạo thành Carboxyhemoglobin (HbC0).
Hb + CO ↔ HbCO
HbCO rất bền vững và không còn khả năng vận chuyển oxy vì ái lực của Hb với CO
rất cao, gấp 210 lần ái lực của Hb với O2, thậm chí CO còn đẩy được O2 ra khỏi HbO2. Khi
ngộ độc CO, cần cho thở O2 phân áp cao để tái tạo lại oxyhemoglobin
+ Hemoglobin có tính chất đệm:
Hệ đệm hemoglobin là một trong các hệ đệm quan trọng của máu, đó là hệ đệm
HHb/KHb và hệ đệm HHbCO2/KHbO2.
Khả năng đệm của Hb là đáng kể vì hàm lượng Hb trong máu khá cao và chiếm
khoảng 35% dung tích đệm của máu.
+ Trong quá trình chuyển hoá Hb, cơ thể tạo ra sắc tố mật. Sắc tố mật không có chức năng
sinh lý nhưng nó là chất chỉ thị màu đối với các nhà lâm sàng, nó cho ta biết mật có mặt ở

đâu, qua đó đánh giá chức năng gan mật.
4. Nguồn gốc và các giai đoạn phát triển của hồng cầu.
Những tuần đầu của thai nhi hồng cầu có nhân được lá thai giữa sản xuất. Từ tháng
thứ hai trở đi gan, lách, sau đó là hạch bạch huyết cũng sản xuất ra hồng cầu có nhân. Từ
tháng thứ 5 của kỳ phát triển thai, tuỷ xương bắt đầu sản xuất hồng cầu và từ đó trở đi, tuỷ
xương là nơi duy nhất sinh ra hồng cầu.
Tế bào tuỷ xương là tế bào gốc vạn năng có khả năng duy trì nguồn cung cấp tế bào
gốc và phát triển thành tế bào gốc biệt hoá để tạo ra các dòng khác nhau của tế bào máu
(theo thuyết một nguồn gốc). Tế bào gốc biệt hoá sinh ra hồng cầu được gọi là đơn vị tạo
cụm của dòng hồng cầu, sau đó các tế bào dòng hồng cầu trải qua các giai đoạn sau đây:
Tiền nguyên hồng cầu -> Nguyên hồng cầu ưa kiềm -> Nguyên hồng cầu đa sắc ->
Nguyên hồng cầu ưa axit -> Hồng cầu lưới -> Hồng cầu trưởng thành.
Nhân của nguyên hồng cầu mất đi khi nồng độ hemoglobin trong bào tương cao hơn
34%. Hồng cầu chính thức không có nhân xuyên mạch rời bỏ tuỷ xương vào hệ tuần hoàn
chung. Hồng cầu lưới cũng có khả năng vào máu như hồng cầu trưởng thành nhưng tỷ lệ rất
thấp chỉ chiếm 1% tổng số lượng hồng cầu ở máu ngoại vi, khoảng 1-2 ngày sau hồng cầu
lưới trở thành hồng cầu trưởng thành.
Hệ thống enzym nội bào hồng cầu luôn luôn tổng hợp ATP từ glucose để duy trì tính
đàn hồi của màng tế bào, duy trì vận chuyển ion qua màng, giữ cho sắt luôn luôn có hoá trị
2, đồng thời ngăn cản sự oxy hoá protein trong hồng cầu. Trong quá trình sống, hệ thống
enzym giảm dần, hồng cầu già cỗi, màng hồng cầu kém bền và dễ vỡ.


Dưới 5 tuổi, hầu như tủy xương nào cũng tạo hồng cầu. Lớn lên, tủy các xương ống
(trừ đoạn gần của xương cánh tay và xương chày) dần dần mỡ hóa và không sản xuất hồng
cầu nữa. Sau tuổi 20, hồng cầu được tạo ra trong tủy các xương dẹt (như xương đốt sống,
xương ức, xương sườn, xương vai, xương chậu, xương sọ). Càng lớn tuổi, chức năng sinh
hồng cầu càng giảm.
5. Đời sống của hồng cầu
Đời sống trung bình của hồng cầu trong máu ngoại vi là 120 ngày. Theo thời gian,

màng hồng cầu sẽ mất dần tính mềm dẻo và cuối cùng hồng cầu sẽ vỡ khi đi qua các mao
mạch nhỏ của lách. Hemoglobin phóng thích ra từ hồng cầu vỡ sẽ bị thực bào bởi các đại
thực bào cố định của gan, lách và tuỷ xương.Đại thực bào sẽ giải phóng sắt vào máu; sắt
này cùng với sắt từ thức ăn do ruột non hấp thu, được vận chuyển dưới dạng transferrin đến
tuỷ xương để tạo hồng cầu mới, hoặc đến gan và các mô khác để dự trữ dưới dạng ferritin
và hemosiderin.
Phần porphyrin của heme sẽ được chuyển hoá qua nhiều giai đoạn trong đại thực bào
để tạo thành sắc tố bilirubin, chất này được giải phóng vào máu, đến gan rồi bài tiết vào
mật.
Ngoài ra, phần globin của hemoglobin được phân hủy thành các axit amin và sẽ được
sử dụng để tổng hợp các protein cho cơ thể.
6. Chức năng của hồng cầu
- Chức năng vận chuyển khí oxy và carbonic.
Hồng cầu vận chuyển khí oxy từ phổi đến mô và vận chuyển khí carbonic từ mô đến
phổi nhờ chức năng của hemoglobin.
Mặt khác CO2 ở mô sau khi khuyếch tán vào trong hồng cầu thì tại đây đã diễn ra quá
trình CO2 + H2O -> H2CO3 nhờ men xúc tác carboanhydrase (men này có nhiều trong hồng
cầu). Sau đó H2CO3 phân ly thành H+ + HCO3- . HCO3- được khuyếch tán rất nhiều từ trong
hồng cầu sang huyết tương tạo ra dạng vận chuyển CO 2 quan trọng nhất của máu (CO2 được
vận chuyển dưới dạng HCO3-).
Như vậy hồng cầu đã đóng vai trò quan trọng bậc nhất trong sự vận chuyển CO2 ở
dạng HCO3- của huyết tương.
- Chức năng điều hoà cân bằng axit - bazơ của máu.
Chức năng này do hệ đệm hemoglobin đảm nhiệm. Đồng thời với hệ đệm của Hb,
hồng cầu còn tạo ra HCO3- trong qúa trình vận chuyển CO2, nên nó đã tạo ra hệ đệm
bicarbonat HCO3/H2CO3.
- Chức năng tạo độ nhớt của máu.
Hồng cầu là thành phần chủ yếu tạo độ nhớt của máu, nhờ độ nhớt mà tốc độ tuần
hoàn, nhất là tuần hoàn mao mạch, hằng định. Tốc độ tuần hoàn hằng định là điều kiện
thuận lợi cho sự trao đổi vật chất giữa tế bào và máu. Khi độ nhớt của máu thay đổi sẽ gây

ra thay đổi tốc độ tuần hoàn và làm rối loạn trao đổi vật chất của tế bào.
IV. BẠCH CẦU
1. Hình dạng, số lượng bạch cầu.
Bạch cầu là các tế bào có nhân, hình dạng và kích thước rất khác nhau tuỳ từng loại.
Bạch cầu không phải chỉ lưu thông trong máu, mà nó còn có mặt ở nhiều nơi trong cơ thể:
bạch huyết, dịch não tuỷ, hạch bạch huyết, các tổ chức liên kết...
Số lượng bạch cầu thường ít hơn cả nghìn lần so với hồng cầu và không ổn định. Số
lượng bạch cầu của động vật thay đổi nhiều tùy loài.
Trong mỗi mm3 máu người Việt Nam có 7000 ± 700 bạch cầu (nam) hoặc 6200 ±
550 (nữ). Số lượng bạch cầu giảm dần khi tuổi tăng: ở trẻ mới sinh 1 - 3 ngày là 15400 ±


9500; trẻ 1 - 6 tuổi trở lên: 11200 - 2500; trẻ 7 - 15 tuổi: 7285 ± 8836. Từ 12 tuổi trở đi số
lượng bạch cầu trở về ổn định bằng người trưởng thành.
Số lượng bạch cầu tăng lên sau khi ăn uống, khi lao động thể lực, tháng cuối của thời
kỳ mang thai, sau khi đẻ, khi trẻ khóc. Đặc biệt số lượng bạch cầu tăng lên khi nhiễm
khuẩn, bệnh bạch cầu. Một số hormon và một số tinh chất mô cũng làm tăng số lượng bạch
cầu như: hormon tuyến giáp, adrenalin, estrogen, tinh chất gan, tinh chất lách, tuỷ xương.
Số lượng bạch cầu giảm khi bị lạnh, khi bị đói, khi già yếu, suy nhược tuỷ, nhiễm virus,
nhiễm độc, nhiễm trùng quá nặng, hoặc điều trị bằng các hormon corticoid, insulin kéo dài...
2. Thành phần.
Thành phần bạch cầu rất phức tạp, gồm nhiều chất hữu cơ và vô cơ.
Bào tương của bạch cầu chứa nhiều sắt, canxi, lipit (cholesterol, triglycerid và axit
béo). Các lipit này liên quan tới vai trò chống nhiễm trùng của bạch cầu. Bạch cầu chứa
nhiều lipit được xem như tiên lượng tốt chống nhiễm trùng. Trong bạch cầu còn có nhiều
axit ascorbic, hạt glycogen. Hạt glycogen nhiều lên trong quá trình tiêu hoá và mắc bệnh đái
tháo đường. Bạch cầu có một hệ thống enzym rất phong phú (oxydase, peroxydase, catalase,
lipase, amylase) và một số chất diệt khuẩn.
Trên màng tế bào bạch cầu có rất nhiều thụ thể liên quan tới chức năng của bạch cầu.
Dựa vào các thụ thể này, nhờ các kỹ thuật hiện đại, ta có thể phân loại được bạch cầu và

theo dõi các giai đoạn phát triển của bạch cầu.
Trên bề mặt lympho bào có hệ thống kháng nguyên phù hợp tổ chức. Mặc dù một số
kháng nguyên có mặt trên tế bào của nhiều mô, nhưng chúng lại bị phát hiện dễ dàng trên
lympho bào. Do đó tất cả kháng nguyên phù hợp tổ chức chủ yếu của người được ký hiệu là
HLA (humanlymphocyt antigen). Tất cả HLA hợp thành hệ thống kháng nguyên phù hợp tổ
chức của người, còn gọi là hệ thống HLA, chia thành 5 nhóm: nhóm HLA-A, nhóm HLA-B,
nhóm HLA-C, nhóm HLA-D và nhóm HLA-DR. Dưới các nhóm này có rất nhiều phân
nhóm đã được đặt tên. Hệ thống kháng nguyên HLA di truyền và rất có ý nghĩa trong đáp
ứng miễn dịch thải ghép.
3. Phân loại bạch cầu.
Về mặt đại thể, với kỹ thuật kinh điển, dựa vào hình dáng, kích thước tế bào, hình
dáng nhân, sự bắt màu của hạt trong bào tương. Ngày nay nhờ kỹ thuật hiện đại còn phát
hiện được các thụ thể bề mặt tế bào bạch cầu v.v...; người ta có thể phân loại bạch cầu
thành:
a. Bạch cầu hạt (bạch cầu đa nhân)
Bạch cầu hạt chiếm 2/3 trong nguyên sinh chất, đường kính bạch cầu khoảng 10 μm,
có nhân chia nhiều thùy, nối với nhau bằng những cầu rất mảnh. Bào tương có nhiều hạt có
kích thước và tính chất bắt màu khác nhau, những hạt này có bản chất là lizoxom nhưng
chứa các loại enzim khác nhau, có khả năng tiêu hóa những cơ chất khác nhau. Người ta
chia bạch cầu hạt thành 3 loại khác nhau: Bạch cầu trung tính, bạch cầu ưa axit, bạch cầu ưa
kiềm
b. Bạch cầu không hạt.
Bạch cầu không hạt chiếm 2/3 trong nguyên sinh chất, nhân không chia thùy, bào
tương không có những hạt bắt màu. Có 2 loại: Bạch cầu đơn nhân (mono) và bạch cầu
limpho (gồm lympho B, lympho T và tế bào giết tự nhiên)
4. Đặc tính của bạch cầu.
Bạch cầu có những đặc tính chung sau đây:
- Xuyên mạch.
Bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân có khả năng thay đổi hình dạng, xuyên qua
vách giữa các tế bào để tới những nơi cần thiết.



- Chuyển động theo kiểu a mip.
Bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân có khả năng chuyển động bằng chân giả
(theo kiếu amip) với tốc độ: 40mm/min.
- Hoá ứng động và nhiệt ứng động
Có một số chất do mô viêm sản xuất, do vi khuẩn tạo ra hoặc những chất hoá học
đưa từ ngoài vào cơ thể thu hút bạch cầu tới (hoá ứng động dương tính) hoặc xua đuổi bạch
cầu ra xa hơn (hoá ứng động âm tính). Tương tự, với nhiệt cũng như vậy, bạch cầu cũng có
nhiệt ứng động dương tính và âm tính. Các đặc tính này chủ yếu là của bạch cầu trung tính
và bạch cầu đơn nhân
- Thực bào.
Bạch cầu trung tính và bạch cầu đơn nhân có khả năng thực bào, ẩm bào. Những điều
kiện thuận lợi cho thực bào là:
+ Bề mặt của vật rộng và xù xì.
+ Không có vỏ bọc. Các chất tự nhiên trong cơ thể có vỏ bọc là protein, các chất này đẩy tế
bào thực bào ra xa nên khó thực bào. Các mô chết, các vật lạ không có vỏ bọc và thường
tích điện rất mạnh nên chúng dễ bị thực bào.
+ Quá trình opsonin hoá: Các kháng thể (được sản xuất trong quá trình miễn dịch) đã gắn
vào màng tế bào vi khuẩn làm cho vi khuẩn dễ bị thực bào.
Sự thực bào được thực hiện như sau: Bạch cầu tiếp cận vật lạ, phóng chân giả để bao
vây vật lạ, tạo thành một túi kín chứa vật lạ. Túi này xâm nhập vào trong tế bào, tách khỏi
màng tế bào tạo ra một túi thực bào trôi tự do trong bào tương. Túi thực bào tiếp cận
lysosom và các hạt khác trong bào tương và xuất hiện hiện tượng hoà màng. Các enzym tiêu
hoá và các tác nhân giết vi khuẩn được trút vào túi thực bào để xử lý vật lạ. Túi thực bào trở
thành túi tiêu hoá. Sau khi tiêu hoá, các sản phẩm cần thiết cho tế bào được giữ lại, các sản
phẩm không cần thiết sẽ được đào thải ra khỏi tế bào bằng quá trình xuất bào.
Tính thực bào của bạch cầu không phải là vô hạn. Một bạch cầu hạt trung tính có thể
thực bào 5-25 vi khuẩn thì chết. Đại thực bào có khả năng thực bào mạnh hơn nhiều. Nó có
thể thực bào tới 100 vi khuẩn. Khi nghiên cứu chức năng thực bào của bạch cầu, người ta

thường sử dụng "chỉ số thực bào" để đánh giá chức năng này.
Bạch cầu có mặt ở khắp nơi trong cơ thể cho nên vi khuẩn đột nhập bằng bất kỳ
đường nào cũng bị tiêu diệt. Đặc biệt bạch cầu trấn giữ những nơi quan trọng của cơ thể mà
vi khuẩn dễ xâm nhập vào như: da, niêm mạc, các hốc tự nhiên, phổi, đường tiêu hoá, gan,
lách. Tuy vậy có một số vi khuẩn bị bạch cầu "nuốt" nhưng không "giết" được như
mycobacteria, salmonella, listera ... Những vi khuẩn này ẩn náu rồi nhân lên trong đại thực
bào.
Bạch cầu trung tính và đại thực bào còn chứa những chất giết vi khuẩn. Một số vi
khuẩn không bị tiêu hoá bởi các enzym của lysosom vì chúng có vỏ bọc bảo vệ, hoặc có các
yếu tố ngăn chặn tác dụng của các enzym tiêu hoá nhưng lại bị chết bởi các chất giết vi
khuẩn. Các chất giết vi khuẩn là các chất oxy hoá mạnh như superoxid (0 2-),
hydrogenperoxid (H202), ion hydroxyl (0H-). Ngoài ra enzym mieloperoxydase của lysosom
cũng có khả năng giết vi khuẩn vì nó làm tan màng lipit của vi khuẩn.
5. Nguồn gốc và đời sống bạch cầu
Bạch cầu hạt và bạch cầu mono
Toàn bộ quá trình sinh sản và biệt hoá tạo nên các loại bạch cầu hạt và bạch cầu
mono diễn ra trong tuỷ xương. Chúng được dự trữ sẵn ở tuỷ xương, khi nào cơ thể cần đến,
chúng sẽ được đưa vào máu lưu thông.


Bạch cầu hạt sau khi rời tuỷ xương thì lưu hành trong máu khoảng 4-8 giờ rồi xuyên
mạch vào tổ chức, tồn tại thêm khoảng 4-5 ngày. Khi bạch cầu thực hiện chức năng bảo vệ
cơ thể của mình, chẳng hạn chống nhiễm trùng, thì nó sẽ chết sớm hơn.
Bạch cầu mono cũng có thời gian lưu hành trong máu ngắn, khoảng 10-20 giờ. Sau
đó sẽ xuyên mạch vào tổ chức. Tại tổ chức chúng sẽ tăng kích thước và trở thành đại thực
bào tổ chức. Ở dạng này chúng có thể sống hàng tháng, thậm chí hàng năm.
Bạch cầu lympho
Các tế bào lympho đều bắt nguồn từ các tế bào gốc ở tủy xương. Các tế bào limpho
di cư từ tủy xương đến tuyến ức hoàn thiện thành các tế bào T còn các tế bào limpho
trưởng thành ở tủy xương phát triển thành tế bào B.

Đời sống của các lympho rất khác nhau: có loại đời sống ngắn chỉ 1 - 3 ngày, có loại
đời sống dài vài tháng, vài năm, có khi cả đời người.
6. Chức năng của bạch cầu
Chức năng chung của bạch cầu là chống lại các tác nhân lạ xâm nhập vào cơ thể nhờ
những đặc tính của chúng
a. Chức năng của bạch cầu hạt trung tính
Bạch cầu hạt trung tính là hàng rào của cơ thể có khả năng chống lại vi khuẩn sinh
mủ. Chúng vận động và thực bào tích cực.
Bạch cầu trung tính có thể tiêu hoá, huỷ hoại nhiều loại vi khuẩn, những thành phần
nhỏ, và fibrin. Hầu hết các hạt bào tương của chúng là các tiêu thể chứa enzym thuỷ phân,
các hạt khác chứa các protein kháng khuẩn. Ngoài ra, bạch cầu hạt trung tính còn chứa các
chất oxy hoá mạnh có tác dụng tiêu diệt vi khuẩn.
Bạch cầu hạt trung tính là bạch cầu đầu tiên đến vị trí vi khuẩn xâm nhập với số
lượng lớn. Trong quá trình thực bào vi khuẩn, nhiều bạch cầu trung tính bị chết và tạo thành
mủ tại vị trí tổn thương. Mỗi bạch cầu này thực bào tối đa khoảng 5-20 vi khuẩn.
b. Chức năng của bạch cầu hạt ưa kiềm
Bạch cầu hạt ưa kiềm rất giống một loại tế bào khác ở trong tổ chức bên ngoài mao
mạch gọi là dưỡng bào.
Bạch cầu hạt ưa kiềm và dưỡng bào có thể phóng thích heparin ngăn cản quá trình
đông máu và thúc đẩy sự vận chuyển mỡ từ máu sau bữa ăn nhiều chất béo.
Các tế bào này đóng vai trò quan trọng trong phản ứng dị ứng. Do các kháng thể gây
phản ứng dị ứng (loại IgE) có khuynh hướng đến gắn trên bề mặt dưỡng bào và bạch cầu ưa
kiềm. Khi có sự kết hợp giữa kháng thể này với dị ứng nguyên, dưỡng bào và bạch cầu ưa
kiềm sẽ vỡ ra và giải phóng histamine, cũng như bradykinin, serotonin, chất phản ứng chậm
của sốc phản vệ, enzym tiêu protein....tạo nên bệnh cảnh điển hình của dị ứng.
c. Chức năng bạch cầu hạt ưa axit
Bạch cầu hạt ưa axit ít vận động hơn bạch cầu trung tính và thực bào cũng ít tích cực
hơn, chúng không thực bào vi khuẩn.
Chức năng đầu tiên của bạch cầu hạt ưa axit là khử độc protein lạ nhờ các enzym đặc
biệt trong hạt bào tương. Bạch cầu ưa axit thường tập trung nhiều ở niêm mạc đường hô

hấp, tiêu hoá, tiết niệu-sinh dục để ngăn chặn các tác nhân lạ xâm nhập cơ thể.
Chúng có thể tiết ra các chất độc đối với ký sinh trùng. Đặc biệt là các loại sán máng
hoặc giun xoắn
Bạch cầu hạt ưa axit còn tập trung ở nơi có phản ứng dị ứng xảy ra, chúng tiết ra các
enzym để chống lại tác dụng của histamine và các chất trung gian khác trong phản ứng dị
ứng. Ngoài ra, chúng còn có khả năng thực bào các phức hợp kháng nguyên - kháng thể. Vì
vậy, chúng ngăn cản không cho tiến trình viêm lan rộng.
d. Chức năng bạch cầu mono - đại thực bào


Các bạch cầu mono chưa thực sự trưởng thành, khả năng tiêu diệt tác nhân nhiễm
khuẩn của chúng còn kém. Nhưng khi vào trong tổ chức, trở thành đại thực bào với kích
thước lớn hơn và nhiều tiêu thể trong bào tương, chúng có khả năng chống tác nhân gây
bệnh rất mãnh liệt. Khả năng thực bào của chúng mạnh hơn bạch cầu hạt trung tính nhiều,
chúng có thể thực bào khoảng 100 vi khuẩn. Đại thực bào còn có thể thực bào các thành
phần lớn hơn như hồng cầu chết, ký sinh trùng sốt rét. Ngoài ra, chúng còn có lipaza giúp
tiêu hoá các vi khuẩn có vỏ bọc lipit dày. Sau khi thực bào, chúng có thể đẩy các sản phẩm
ra và thường sống sót vài tháng.
Các đại thực bào còn có chức năng trình diện kháng nguyên cho các tế bào có thẩm
quyền miễn dịch.
e. Chức năng bạch cầu lympho
Lympho B:
- Bạch cầu lympho B bảo vệ cơ thể bằng đáp ứng miễn dịch dịch thể (qua trung gian kháng
thể). Nó chống lại các loại vi khuẩn và một số virus.
- Khi có các vi khuẩn xuất hiện, lympho B nhận diện kháng nguyên tương ứng và được hoạt
hoá. Khi đó nó có khả năng phân bào và biệt hoá thành tương bào (plasma cell). Các tương
bào này sẽ sản xuất kháng thể chống lại vi khuẩn đã xâm nhập. Kháng thể tiêu diệt các vi
khuẩn hoặc bất hoạt độc tố của chúng.
- Một số lympho B được sinh ra ở trên không trở thành tương bào mà trở thành lympho B
nhớ sẵn sàng đáp ứng nhanh và mạnh khi có cùng loại vi khuẩn xâm nhập lần sau.

Lympho T:
- Bạch cầu lympho T là tế bào tham gia đáp ứng miễn dịch qua trung gian tế bào.
- Lympho T có khả năng chống lại các tác nhân như virus, nấm, tế bào mảnh ghép, tế bào
ung thư và vài loại vi khuẩn. Khi có các tác nhân đó xuất hiện trong cơ thể, các lympho T sẽ
nhận diện kháng nguyên đặc hiệu với nó và được hoạt hoá. Sau đó chúng trở nên lớn hơn,
sinh sản tạo nên hàng ngàn lympho T có thể nhận diện kháng nguyên xâm nhập này. Có 3
loại lympho T chính:
+ T giúp đỡ (Th: helper): kích thích sự phát triển và sinh sản của các lympho T độc, T ức
chế. Th còn kích thích sự phát triển và biệt hoá lympho B thành tương bào. Ngoài ra, Th còn
tiết các chất làm tăng cường hoạt động bạch cầu trung tính và đại thực bào.
+ T độc (Tc: cytotoxic): tiêu diệt trực tiếp các tế bào bị nhiễm tương ứng. Tc cũng tiết các
chất khuếch đại khả năng thực bào của đại thực bào.
+ T ức chế (Ts: suppressor): phát triển chậm hơn, nó có tác dụng ức chế lympho Tc và Th
làm cho đáp ứng miễn dịch không phát triển quá mức.
Một số lympho T trở thành tế bào T nhớ có khả năng khởi phát một đáp ứng miễn
dịch tương tự khi có cùng loại tác nhân gây bệnh (kháng nguyên) xâm nhập nhưng ở mức
độ nhanh, mạnh hơn nhiều, gọi là đáp ứng miễn dịch lần hai.
Tế bào giết tự nhiên: trực tiếp tấn công và tiêu diệt các tế bào bất thường như tế bào ung
thư hoặc những người bị nhiễm virus .
V. TIỂU CẦU
1. Hình dạng và số lượng
Tiểu cầu là những thể nhỏ, đường kính 2 - 4μm, hình dạng không ổn định, không có
nhân, đường kính từ 2- 4 micromet, số lượng 200.000 - 400.000/1mm 3 máu, tăng khi bữa ăn
có nhiều thịt, lúc chảy máu và khi bị dị ứng. Tiểu cầu giảm trong bệnh thiếu máu ác tính,
ban xuất huyết, choáng, khi bị phóng xạ...
Số lượng tiểu cầu ở người VN trưởng thành khoảng 150.000- 300.000/1mm3 máu.
2. Thành phần cấu trúc.


- Tiểu cầu có cấu trúc màng glycoprotein, lớp này ngăn cản tiểu cầu dính vào nội mạc

nhưng lại dễ dính vào nơi thành mạch tổn thương có chất collagen lộ ra. Màng tiểu cầu cũng
rất dễ dính vào các vật lạ. Khi bám vào vật lạ, chúng lại có thể tự bám vào nhau thành từng
đám.
- Tiểu cầu chứa actomyosin, thromstbohenin nên tiểu cầu có khả năng co rút. Tiểu cầu co
rút mạnh sẽ bị vỡ ra và giải phóng serotonin gây co mạch, các phospholipit và các yếu tố
gây đông máu tham gia vào quá trình gây đông máu
- Quan sát dưới kính hiển vi điện tử cho thấy tiểu cầu có một siêu cấu trúc phức tạp gồm lớp
màng, các hạt, hệ thống vi ống, hệ thống các kênh mở
3. Nguồn gốc và đời sống:
- Tiểu cầu có nguồn gốc từ những mảnh nhỏ của tế bào nhân khổng lồ megakaryocyte trong
tủy xương. Khi các tế bào này bể vỡ, chúng sẽ giải phóng tiểu cầu và đưa vào máu.
- Tiểu cầu có đời sống ngắn, khoảng từ 8-14 ngày. Với điều kiện lắc liên tục ngoài cơ thể ở
nhiệt độ phòng có thể lưu giữ tiểu cầu khoảng 5 ngày.
4. Chức năng của tiểu.
- Tiết ra các yếu tố gây đông máu.
- Tiết ra serotonin là chất gây co mạch, làm cho các mạch bị tổn thương bớt chảy máu.
- Tạo “nút tiểu cầu” tạm thời làm ngừng làm máu ngừng chảy.
- Làm tan cục máu đông giúp cho lành sẹo sau này
- Thực bào và tiêu diệt vi khuẩn
- Tiết ra các chất thu hút bạch cầu trung tính và tế bào đơn nhân về phía bị viêm
- Tiết ra các yếu tố tăng trưởng để kích thích sự phân bào trong các nguyên bào sợi và cơ
trơn giúp cho sự phục hồi các mạch máu.
`Ba chức năng chính của tiểu cầu trong cơ chế đông máu là gây co mạch, tạo nút tiểu
cầu và đông máu
VI. Các nhóm máu và nguyên tắc truyền máu.
1. Các nhóm máu:
Trên bề mặt hồng cầu người, khoa học đã phát hiện ra rất nhiều loại kháng nguyên,
kháng nguyên thường gặp có tới 30 loại và kháng nguyên hiếm gặp phải tới hàng trăm. Tuy
nhiên, trong thực tế có 2 nhóm kháng nguyên đặc biệt quan trọng có thể gây ra các phản
ứng trong truyền máu là: nhóm máu ABO và Rhesus

a. Nhóm máu ABO.
Trên màng hồng cầu người có thể có các kháng nguyên A, B có bản chất là glicolipit,
trong máu người có thể có sẵn các kháng thể α hoặc β. Các kháng nguyên mang tính chất di
truyền và phân bố không đồng đều trong các quần thể người
Dựa vào sự có mặt của kháng nguyên trên bề mặt hồng cầu chia hệ nhóm máu ABO
thành bốn loại nhóm máu cơ bản sau: A, B, AB và O.

Tên nhóm máu
A
B
AB
O

Kháng nguyên trên màng Kháng thể trong huyết tương
hồng cầu
A
β ( anti B )
B
α ( anti A )
A và B
O ( không có)
O (không có)
α và β (anti A và anti B)

Người có nhóm máu A (trên màng hồng cầu có kháng nguyên A) thì trong huyết tương
không thể có kháng thể chống A (kí hiệu α) mà chỉ có kháng thể β và người có nhóm máu B
(trên màng hồng cầu có kháng nguyên B) thì trong huyết tương không thể có kháng thể
chống B (kí hiệu β) mà chỉ có kháng thể α. Nếu người có nhóm máu AB (trên màng hồng



cầu có kháng nguyên A và B) thì trong huyết tương không thể có kháng thể nào chống A và
B (α và β), còn người có nhóm máu O (trên màng hồng cầu không có kháng nguyên A và B)
thì trong huyết tương của họ có thể có cả α và β
b. Nhóm máu Rhesus (Rh).
Năm 1939, Landsteiner và Wiener đã tìm ra hệ thống nhóm máu Rh bằng cách gây
miễn dịch cho thỏ với hồng cầu khỉ Maccacus rhesus. Sau đó đem trộn huyết thanh của thỏ
với máu người đã lấy ra khỏi cơ thể, làm ngưng kết 85% số người được thử. Ðiều này có
nghĩa là hồng cầu của những người này chứa kháng nguyên giống như kháng nguyên hồng
cầu khỉ - gọi là kháng nguyên Rh(+), còn những người mà hồng cầu của họ không bị ngưng
kết với huyết thanh thỏ là những người không có kháng nguyên Rh(-) gọi là Rh(-).
Sự khác nhau giữa nhóm máu ABO và nhóm máu Rh ở chỗ: kháng thể của nhóm
ABO là kháng thể tự nhiên còn của nhóm Rh là kháng thể miễn dịch
Nhóm máu Rh được xác định bởi 3 gen là C, D và E. Ở mỗi gen gồm 2 alen là C-c,
D-d, E-e.Tổng cộng có 6 loại kháng nguyên nhưng ở mỗi người chỉ có thể có một gen trong
mỗi cặp, chẳng hạn C, d, E hoặc C, D, e...
Kháng nguyên D phổ biến nhất và cũng có tính kháng nguyên mạnh nhất so với các
kháng nguyên khác của hệ Rh nên người có kháng nguyên D được coi là người Rh (+), còn
những người không có kháng nguyên D được coi là người Rh (-).
2. Các nguyên tắc truyền máu:
- Khi truyền máu cần làm các xét nghiệm để lựa chọn loại máu truyền cho phù hợp, tránh tai
biến (hồng cầu người cho bị kết dính trong huyết tương người nhận gây tắc mạch) và tránh
bị nhận máu nhiễm các tác nhân gây bệnh.
- Phải truyền từ từ, tránh “gây xốc” cho người nhận đặc biệt là tránh cho hồng cầu của
người nhận bị ngưng kết bởi lượng kháng thể trong huyết tương của người cho vào quá
nhanh và nhiều, mặc dù là phù hợp giữa người cho và người nhận.
Sau đây là sơ đồ truyền máu:

Sơ đồ trên cho thấy người mang nhóm máu O có thể cho máu bất cứ người mang
nhóm máu nào; còn người mang nhóm máu AB thì lại nhận bất cứ nhóm máu nào truyền
cho họ.

- Đối với nhóm máu Rh, ở người Việt Nam Rh (-) rất hiếm, chỉ chiếm 0,08% nên khi truyền
máu cũng không cấn quan tâm nhiều đến yếu tố Rhesus.
3. Sự tạo thành kháng thể chống Rhesus.
- Trong máu không có sẵn kháng thể chống Rh nhưng nếu truyền máu Rh(+) vào người có
máu Rh(-) thì người nhận sẽ tổng hợp kháng thể chống lại Rh (+) làm phân hủy hồng cầu. Tuy
nhiên sự tạo thành kháng thể chống Rhesus xảy ra rất chậm, phải từ 2 đến 4 tháng nồng độ
kháng thể chống Rh mới đạt mức tối đa, có thể dẫn tới phản ứng phá vỡ hồng cầu của người
cho có Rh(+) trong lần truyền sau.
- Trong sản khoa nếu mẹ là Rh(-), bố là Rh(+), thai nhi được di truyền Rh(+) từ bố, Rh(+) có
trong tất cả các tế bào của thai nhi. Khi các tế bào và hồng cầu của thai nhi già, thoái biến
giải phóng yếu tố Rh vào dịch thể thai nhi rồi khuếch tán qua nhau thai sang cơ thể mẹ,
người mẹ tổng hợp kháng thể chống lại Rh (+), lần có thai đầu lượng kháng thể sản sinh ít nên
thai có thể sống sót nhưng lần mang thai thứ hai nếu thai vẫn là Rh (+) lượng kháng thể có sẵn


và tăng lên rất nhanh khuếch tán qua nhau thai sang thai nhi gây nhưng kết hồng cầu thai
nên dễ bị sẩy thai, đẻ non hoặc chết lưu.
VI. Đông máu.
Quá trình đông máu diễn ra qua 3 giai đoạn:
a. Co mạch.
Ngay sau khi mạch bị tổn thương, mạch máu bị co lại do tính đàn hồi của thành
mạch.
Co mạch còn được thực hiện nhờ cơ chế thần kinh và thần kinh - thể dịch: Những
kích thích gây đau từ nơi tổn thương, những chất trung gian hoá học được giải phóng khi
đau gây phản xạ co cơ trơn thành mạch. Đồng thời lúc này tại nơi tổn thương, tiểu cầu bị vỡ
ra, giải phóng serotonin gây co mạch tại chỗ.
b. Sự hình thành nút tiểu cầu.
Tại nơi tổn thương, tế bào nội mạc hoặc thành mạch tổn thương để lộ sợi collagen,
tiểu cầu bám vào những nơi này và bị hoạt hoá. Khi tiểu cầu bị hoạt hoá, các protein trong
nó co rút mạnh và giải phóng ra các yếu tố làm hoạt hoá các tiểu cầu bên cạnh, làm cho

chúng dính vào nhau tạo nên nút tạm thời (nút tiểu cầu) bịt tạm thời vết thương, làm máu
ngừng chảy hoặc chảy ri rỉ.
c. Gây máu đông.
Đây là giai đoạn cuối cùng chống mất máu hiệu quả nhất gồm toàn bộ các phản ứng
kế tiếp nhau nhằm biến fibrinogen (chất sinh sợi huyết trong huyết tương do gan tiết ra)
thành fibrin không hòa tan, các sợi fibrin này bị trùng hợp tạo thành mạng lưới chằng chịt
bao lấy các tế bào máu trong các mắt lưới và co dần lại tạo thành cục máu đông, bịt chặt vết
thương.
Thông thường người ta chia quá trình đông máu ra làm ba giai đoạn:
Giai đoạn 1: . Hình thành và giải phóng Tromboplastin nội sinh và ngoại sinh hoạt động
(hay trombokinaza)
Là quá trình phức tạp và kéo dài nhất thông qua hai cơ chế nội sinh và ngoại sinh tạo
ra trombokinaza
Cơ chế ngoại sinh
Khi mạch máu tổn thương, máu tiếp xúc với vị trí tổn thương. Mô ở vị trí tổn thương giải
phóng ra yếu tố III (thromboplastin mô). Yếu tố III cùng sự có mặt của yếu tố IV (calci) sẽ
kích hoạt yếu tố VII (proconvertin), yếu tố VII đến lượt mình sẽ kích hoạt yếu tố X
(trombokinaza hay Stuart-Prower) cùng với sự hiện diện của yếu tố V (proaccelerin) và VI.
Cơ chế nội sinh
Đồng thời khi máu tiếp xúc với vị trí tổn thương sẽ làm hoạt hóa yếu tố XII (Hageman). Sự
xuất hiện của yếu tố XII khởi đầu cho một loạt những yếu tố kích hoạt khác là yếu tố XI
(antihemophilia C), yếu tố IX (antihemophilic B), yếu tố VIII (antihemophilia A) theo trình
tự, cứ yếu tố trước bị kích hoạt sẽ xúc tác cho sự xuất hiện yếu tố sau và cuối cùng là yếu tố
X.
Hai con đường đông máu nói trên hợp nhất lại thành con đường chung kể từ yếu tố X
để hoàn chỉnh quá trình đông máu.
Giai đoạn 2: Hoạt hoá protrombin thành trombin
Yếu tố X sau khi hình thành sẽ phối hợp với III, V và Ca 2+ kích hoạt prothrombin biến
prothrombin thành thrombin.
Giai đoạn 3: Giai đoạn tạo thành fibrin và cục máu đông

Dưới tác dụng của thrombin, biến fibrinogen dạng hòa tan thành fibrin đơn phân, sau
đó yếu tố XIII chuyển fibrin đơn phân thành fibrin đa phân tử để tạo cục máu đông.


C. PHẦN KẾT LUẬN
I. NHỮNG VẤN ĐỀ QUAN TRỌNG CỦA ĐỀ TÀI
- Thành phần, tính chất, vai trò của các thành phần cấu tạo máu
- Các nhóm máu và nguyên tắc truyền máu
- Cơ chế quá trình đông máu
II. KIẾN NGHỊ - ĐỀ XUẤT
- Với những kinh nghiệm và trình độ còn hạn chế của bản thân, chuyên đề chắc chắn không
tránh khỏi sai sót, chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý tận tình của các thầy cô giáo và
các bạn đồng nghiệp để chuyên đề này hoàn thiện hơn.
- Cần có thêm nhiều bài viết về sinh lí máu theo những hướng khác nhau và sâu hơn



×