Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường trung học phổ thông huyện cầu kè tỉnh trà vinh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (798.87 KB, 60 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
----------

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH
TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HUYỆN CẦU KÈ
TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo Dục Công dân
Mã ngành: 52140204
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN:
ThS. GVC. TRẦN THỊ TUYẾT HÀ
SINH VIÊN THỰC HIỆN:
NGUYỄN VẠN THẢO
MSSV:6106649
MÃ LỚP:ML1068A2
CẦN THƠ /28 /11 / 2013


LỜI CẢM ƠN!
Được làm luận văn tốt nghiệp là mong muốn hầu hết của các bạn sinh viên
trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Cần Thơ nói chung và
bản thân em nói riêng. Lời đầu tiên cho em gửi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu
trường Đại học Cần Thơ, quý thầy cô trong Khoa Khoa học Chính trị đã tận tình
truyền đạt những kiến thức quý báu, bổ ích cho em trong suốt quá trình học tập và
nghiên cứu tại trường và đặc biệt em xin gửi lời cảm ơn đến cô Trần Thị Tuyết Hà,
người đã trực tiếp hướng dẫn cho em, quan tâm, giúp đỡ tận tình tạo mọi điều kiện
thuận lợi cho em để em có thể hoàn thành tốt việc nghiên cứu đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình. Nhân đây em xin chúc quý thầy cô dồi dào sức khỏe để tiếp tục
cống hiến hết mình vì sự nghiệp trồng người.


Em xin gửi lời cảm ơn Ban Giám Hiệu, thầy cô và các em học sinh trường
THPT huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh đã nhiệt tình hỗ trợ và tạo điều kiện thuận lợi
trong quá trình thu thập, truy cập thông tin cần thiết để em hoàn thành luận văn tốt
nghiệp. Do kiến thức còn hạn hẹp chưa có đủ điều kiện để nghiên cứu sâu hơn nên
trong quá trình nghiên cứu em không tránh khỏi thiếu sót mong quý thầy cô và các
bạn thông cảm!
Em xin chân thành cảm ơn
Cần thơ, tháng 11, năm 2013
Sinh viên thực hiện
Nguyễn Vạn Thảo


MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .................................................................. 4
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................... 4
5. Kết cấu luận văn ............................................................................................ 4
B. PHẦN NỘI DUNG ...................................................................................... 4
Chương I: KHÁI NIỆM KỸ NĂNG, KỸ NĂNG GIAO TIẾP VÀ CÁC YẾU
TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP......................... 5
1.1 Khái niệm liên quan đến kỹ năng và kỹ năng giao tiếp................................. 5
1.2 Các yếu tố tác động đến sự hình thành và giáo dục kỹ năng giao tiếp .......... 10
1.3 Phân loại kỹ năng giao tiếp ......................................................................... 15
Chương II: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA HỌC
SINH TRƯỜNG THPT HUYỆN CẦU KÈ TỈNH TRÀ VINH THỜI GIAN
QUA ................................................................................................................. 22
2.1 Những mặt được về giáo dục kỹ năng giao tiếp của học sinh trường THPT huyện
Cầu Kè tỉnh Trà vinh thời gian qua ................................................................... 22

2.2 Những hạn chế về kỹ năng giao tiếp của học sinh trường THPT huyện Cầu Kè
tỉnh Trà Vinh thời gian qua................................................................................ 36
Chương III: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP CHO HỌC SINH TRƯỜNG THPT
HUYỆN CẦU KÈ TỈNH TRÀ VINH HIỆN NAY ......................................... 46
3.1 Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng cùng tham gia nhằm tăng cường kỹ
năng giao tiếp cho học sinh trường THPT huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh ............ 45
3.2Tăng cường tổ chức các loại hình hoạt động nhằm mở rộng đối tượng, phạm vi,
nội dung giao tiếp cho học sinh trường THPT huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh theo các
chuẩn hành vi ứng xử của học sinh .................................................................... 47
3.3 Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong mọi hoạt động nhằm tăng
cường tính tự chủ cho học sinh trong quá trình giao tiếp.................................... 50
3.4 Xã hội hóa việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh THPT huyện Cầu Kè,
tỉnh Trà Vinh ..................................................................................................... 53
C. KẾT LUẬN ................................................................................................. 58
DANH MỤCTÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 60


A – PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa, quốc tế hóa, con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực của mọi sự phát triển, vấn đề đặt ra cho mỗi quốc gia là muốn phát triển
kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước thì phải phát triển con người. Vì vậy hầu hết các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới đều rất quan tâm đến phát triển con người, coi
giáo dục - đào tạo là " quốc sách hàng đầu". Trong bối cảnh đó, Đảng, Nhà nước ta đã
có nhiều chủ trương, chính sách về phát triển giáo dục - đào tạo, coi "Đầu tư cho
giáo dục là đầu tư phát triển" và "Sự nghiệp giáo dục là sự nghiệp của Đảng, của
Nhà nước và của toàn dân". Đồng thời xác định rõ mục tiêu giáo dục trong thời kỳ
mới của đất nước: "chú trọng xây dựng nhân cách con người Việt Nam về lý tưởng,
trí tuệ, đạo đức, lối sống, thể chất, lòng tự tin dân tộc, trách nhiệm xã hội, ý thức

chấp hành pháp luật, nhất là thế hệ trẻ..." .
Chiến lược phát triển giáo dục giai đoạn 2011 - 2020, chính phủ đã xác định
"đến năm 2020 nền giáo dục nước ta được đổi mới căn bản và toàn diện theo hướng
chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế; chất lượng giáo
dục được nâng cao một cách toàn diện gồm: giáo dục đạo đức, kỹ năng sống, năng
lực sáng tạo, năng lực thực hành... đặc biệt là chất lượng giáo dục, văn hóa, đạo
đức, kỹ năng sống, pháp luật, ngoại ngữ, tin học,..." .
Trong kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp chiếm vị trí vô cùng quan trọng đối với
cuộc sống thực tiễn, hoạt động lao động của con người. Kỹ năng giao tiếp không phải do bẩm
sinh, di truyền mà nó được hình thành, phát triển trong quá trình sống, qua hoạt động,
trải nghiệm, tập luyện, rèn luyện.....vì vậy, muốn nâng cao chất lượng giáo dục thì cần thiết
phải phát triển kỹ năng giao tiếp cho học sinh, sinh viên. Giao tiếp là điều kiện tồn tại của
con người, thông qua giao tiếp cá nhân gia nhập vào các mốiquan hệ xã hội, tiếp thu
nền văn hoá xã hội lịch sử, biến nó thành cái riêng của mình, đồng thời cũng góp
phần vào sự phát triển văn hoá chung. Xã hội phát triển, khoa học kỹ thuật càng
hiện đại càng ảnh hưởng đến hành vi, sự suy nghĩ và cuộc sống con người nên mối
quan hệ giữa con người với con người càng được quan tâm,vì thế giao tiếp được
xem là vấn đề thời sự trong nhiều lĩnh vực, nhất là những lĩnh vực làm việc trực tiếp
với con người như giáo dục, dạy học, ngoại giao… Ngày nay giao tiếp là phương
tiện để con người hợp tác cùng nhau, hướng tới mục đích bình đẳng, hạnh phúc.
Nhu cầu giao tiếp là nhu cầu quan trọng của con người. Để thỏa mãn nhu cầu giao
Trang1


tiếp và tiến hành giao tiếp có kết quả, con người cần có kỹ năng giao tiếp, nhưng
như I.C.Vapilic đã nói: “Giao thiệp với mọi người là một nghệ thuật mà không phải
ai cũng nắm được. Bất kỳ ai cũng phải học điều đó” . Vấn đề giao tiếp của học sinh,
sinh viên là một vấn đề đáng quan tâm như A.Steer nguyên Giám đốc ngân hàng
Thế giới tại Việt Nam đã nói có ba điều nhà trường Việt Nam nên bổ sung ngay từ
bậc Trung học đó là: “Dạy cách giải quyết các vấn đề, dạy cách làm việc tập thể,

dạy cách giao tiếp hiệu quả”. Và trong báo Sinh Viên số 61 ra tháng 12 năm 2000,
tác giả Thu Trang viết: “Đã có người nước ngoài kết luận học sinh, sinh viên Việt
Nam sau khi ra trường thường thiếu 3 yếu tố: sức khoẻ, thực tiễn và năng lực giao
tiếp”. Học sinh trường THPT là thế hệ trẻ, tương lai của đất nước, họ cần được cung
cấp những tri thức, kỹ năng về giao tiếp. Chính từ kiến thức về giao tiếp giúp họ có
những mối quan hệ tốt đối với bạn bè, thầy cô. Điều này sẽ là nhân tố giúp tạo điều
kiện tốt cho việc học tập, học hỏi, giao lưu, lĩnh hội tri thức. Mặt khác, sau khi rời
khỏi ghế nhà trường, hoc sinh có được những tri thức cơ bản về kỹ năng giao tiếp
nhằm giúp họ sống tốt, làm việc thành công trong các mối quan hệ xã hội, trong môi
trường làm việc của mình.
Trong quá trình học tập ở trường THPT huyện Cầu Kè, các em đã được trang
bị những kiến thức cần thiết, kiến thức trong chương trình học ở trường THPT, bên
cạnh đó các em còn được trang bị những kiến thức về kỹ năng giao tiếp, kỹ năng
giao tiếp là bước ngoặc góp phần vào mức độ thành công của các em trong tương
lai, việc giáo dục kỹ năng này trong trường THPT có ý nghĩa to lớn, giúp các em
biết cách ứng xử linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp, biết lắng nghe, đồng cảm và
chia sẽ, từ đó các em có được thiện cảm tốt đối với đối tượng giao tiếp, việc giáo
dục kỹ năng này giúp cho học sinh trường THPT huyện Cầu Kè có nhiều kỹ năng
hơn, như là kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp hiệu quả hơn, bên cạnh đó phát
triển khả năng ngôn ngữ, diễn đạt, giúp các em chủ động được quá trình giao tiếp,
biết cân bằng nhu cầu cá nhân và đối tượng giao tiếp, biết tự chủ cảm xúc hành vi
của mình, tăng sự nhạy cảm trong giao tiếp, điều này giúp việc thiết lập mối quan hệ
trong giao tiếp dễ dàng, giúp quá trình giao tiếp đạt được kết quả như mong muốn.
Bên cạnh đó, học sinh THPT huyện Cầu Kè đã có được những tri thức, kỹ năng giao
tiếp nhất định nhưng còn vụng về, nhút nhát, thụ động trong lớp học cũng như việc
trao đổi giữa các bạn cùng học và với giáo viên, các em còn thiếu nhiều kinh nghiệm
trong giao tiếp, đó là khả năng nói chuyện có duyên của các em còn hạn chế bởi do
Trang2



ngôn ngữ của các em chưa được hỗ trợ nhiều bởi nét mặt, cử chỉ, điệu bộ và thiếu tự
tin trong quá trình giao tiếp, bên cạnh đó các em không giữ được bình tĩnh trước
những lời khích bác, trêu trọc của người khác, năng lực kiềm chế bản thân các em
tương đối khó nên không giữ được bình tĩnh trong giao tiếp. Hạn chế này do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân kỹ năng giao tiếp của họ chưa cao.Trong
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục hiện nay của đất nước nói chung và
của huyện Cầu Kè nói riêng, học sinh không thể thiếu những kỹ năng giao tiếp cơ
bản. Kỹ năng giao tiếp là hành trang quý giá giúp họ thành công trong nghề nghiệp
nói riêng và cuộc sống nói chung.
Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “ Giáo dục kỹ năng giao tiếp
cho học sinh ở trường THPT huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh hiện nay” làm đề tài
nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu thực trạng giáo dục kỹ năng giao tiếp của học sinh
trường THPT huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh. Qua đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh trường THPT
huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là: Khái niệm kỹ năng, kỹ năng giao tiếp và các yếu tố tác động đến giáo
dục kỹ năng giao tiếp.
Hai là: Thực trạng giáo dục kỹ năng giao tiếp của học sinh trường THPT
huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh thời gian qua.
Ba là: Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả việc giáo dục kỹ
năng giao tiếp cho học sinh trường THPT huyện Cầu kè, tỉnh Trà Vinh hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Học sinh trường THPT huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh từ năm 2009 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp khác nhau
như; phương pháp logic, phương pháp phân tích, so sánh, phương pháp thu thập số
liệu và lập bảng thống kê.

5. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn gồm
ba chương và chín tiết.
Trang3


B – PHẨN NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN GIÁO DỤC KỸ NĂNG
GIAO TIẾP

1.1 Khái niệm liên quan đến kỹ năng và kỹ năng giao tiếp
1.1.1 Khái niệm về kỹ năng, Khái niệm về giao tiếp
Khái niệm về kỹ năng.
Cho đến nay, trên thế giới và ở nước ta vẫn tồn tại nhiều quan niệm khác
nhau về kỹ năng và nó được nhìn dưới những góc độ khác nhau.
Khi nhìn nhận về kỹ năng, các nhà tâm lý học có những quan niệm khác nhau
về kỹ năng, với những quan niệm khác nhau của các nhà tâm lý học, chúng tôi hiểu
kỹ năng là mặt kỹ thuật của thao tác hành động hay hoạt động, nhưng lại liên hệ trực

Trang4


tiếp tới năng lực của cá nhân. Và con người muốn thực hiện được hành động nào đó
thì cá nhân phải có tri thức hiểu biết, có điều kiện về thực hiện hành động đó.
Các nhà Giáo Dục Việt Nam quan niệm kỹ năng như là khả năng của con
người thực hiện có kết quả hành động tương ứng với mục đích và điều kiện trong đó
hành động xảy ra. Một số tác giả lại quan niệm, kỹ năng là sự thực hiện có kết quả
một số thao tác hay một loạt các thao tác phức hợp của hành động bằng cách lựa
chọn và vận dụng tri thức vào quy trình đúng đắn.
Theo Lê Văn Hồng, kỹ năng là "khả năng vận dụng kiến thức để giải quyết một

nhiệm vụ mới". Còn tác giả Nguyễn Văn Đồng cho rằng: "kỹ năng là năng lực vận
dụng những tri thức đã được lĩnh hội để thực hiện có hiệu quả một hoạt động tương
ứng trong những điều kiện cụ thể", hay tác giả
Nguyễn Quang Uẩn cho rằng: "kỹ năng là năng lực của con người biết vận hành
các thao tác của một hành động theo đúng quy trình " .
Từ những khái niệm của những nhà nghiên cứu trên cho thấy những điểm
chung trong quan niệm về kỹ năng:
+Tri thức là cơ sở, là nền tảng để hình thành kỹ năng. Tri thức ở đây bao gồm
tri thức về cách thức hành động và đối tượng hành động.
+ Kỹ năng là sự chuyển hóa tri thức thành năng lực hành động của cá nhân.
+ Kỹ năng luôn gắn với một hành động hoặc một hoạt động nhất định nhằm
đạt được mục đích đã đặt ra.
Như vậy, kỹ năng được xem xét theo nhiều quan điểm khác nhau. Tuy
nhiên, những quan niệm ấy không hề mâu thuẫn nhau mà chỉ khác nhau ở chỗ mở
rộng hay thu hẹp thành phần kỹ năng mà thôi.
Từ sự phân tích trên, ta hiểu kỹ năng như sau: kỹ năng là năng lực thực hiện
một hành động hay một hoạt động nào đó bằng cách lựa chọn và vận dụng những
tri thức, cách thức hành động, thao tác đúng đắn để đạt được mục đích đề ra.
Khái niệm giao tiếp
Trong quá trình nghiên cứu, xuất hiện nhiều định nghĩa khác nhau về giao
tiếp. Tuỳ theo góc độ xem xét, vấn đề giao tiếp được phân tích theo các các quan
điểm khoa học khác nhau, trên các lĩnh vực xã hội học, kinh tế học, tâm lý học. Và
hoạt động giao tiếp không chỉ được phân chia thành nhiều cấp độ khác nhau mà nó
còn được phân thành nhiều lĩnh vực: nơi công cộng, ở cơ quan, trong nhà trường,
trong gia đình... Khi bàn về vấn đề giao tiếp, các nhà tâm lý học đã đưa ra những
Trang5


định nghĩa khác nhau. Mỗi định nghĩa đều đứng trên những quan điểm riêng, phản
ánh những góc độ khác nhau của giao tiếp.

Các quan niệm về giao tiếp của các nhà tâm lý học Liên Xô
+L.X.Vưgôtxki,X.L.Rubinstêin,

A.G.Côvaliôp,

K.K.Platônôp,

G.G.Gôlubép…đã quan phản ánh tâm lý của nhau. Quan niệm này có xu hướng thu
hẹp khái niệm giao tiếp.
+ B.V.Xôcôlov, xem giao tiếp như là một yếu tố chung có cả người và động
vật, ông cho rằng: “Giao tiếp là sự tác động lẫn nhau giữa những con người với nhau
và những động vật có tâm lý với nhau, nếu thu hẹp hơn thì có thể coi giao tiếp là
mối quan hệ giữa con người và những động vật nuôi trong nhà”. Quan niệm này có
xu hướng mở rộng khái niệm giao tiếp.
+ A.A Leonchiev định nghĩa giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa con người
với con người,trong đó con người trao đổi thông tin, trao đổi cảm xúc, tri giác lẫn
nhau, đưa đến ảnh hưởng tác động qua lại lẫn nhau và ông đã mở rộng khái niệm
chủ thể giao tiếp đến toàn xã hội. Tuy nhiên, ông chưa phân biệt rõ trong quan hệ
giao tiếp ai là chủ thể, ai là khách thể. Ông cho rằng giao tiếp là dạng hoạt động
hoặc là phương thức, điều kiện của hoạt động.
+ B.Ph.Lômôv cho giao tiếp là sự tác động qua lại của những con người tham
gia vào đó như những chủ thể và luôn có sự chuyển hoá giữa chủ thể và khách thể.
Với sự tác động qua lại như vậy thì giao tiếp tối thiểu phải từ hai người trở lên..
B.Ph.Lômôv cho rằng giao tiếp là hoạt động là hai phạm trù tương đối độc lập của
quá trình thống nhất của đời sống con người. Phạm trù “hoạt động” phản ánh mối
quan hệ chủ thể, khách thể, còn phạm trù “giao tiếp” phản ánh mối quan hệ chủ thể chủ thể.
Quan niệm về giao tiếp của A.A.Leonchiev và B.Ph.Lômôv đều có điểm hợp
lý và chưa hợp lý. Leonchiev khi bảo vệ quan điểm cho rằng giao tiếp là một dạng
đặc biệt của hoạt động có đối tượng đã lý giải chưa thoả đáng về đối tượng, động cơ,
chủ thể của hoạt động này. Còn Lômôv lại quánhấn mạnh đến phạm trù giao tiếp

cũng đi đến chỗ khó giải thích một số trường hợp giao tiếp tham gia vào hoạt động
có đối tượng như là điều kiện thiết yếu của hoạt động.Từ đó nhiều nhà tâm lý học
cho rằng, hoạt động là quy luật chung nhất của tâm lý người.
Giao tiếp là một dạng hoạt động phản ánh mối quan hệ chủ thể - chủ thể.
Hoạt động có đối tượng phản ánh mối quan hệ chủ thể - khách thể. Hai khái niệm
Trang6


này ngang bằng nhau và có mối quan hệ gắn bó khắng khít với nhau trong phạm trù
hoạt động, là hai mặt thống nhất của cuộc sống con người, của sự phát triển tâm lý,
có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau:
Hoạt động có đối tượng

Hoạt động

Hoạt động giao tiếp
Platon (428 – 374 TCN) , Socrate (460 – 348 TCN) đã đưa ra những khá i niệm về giao
tiếp, các tác giả trên coi đối thoại là sự giao lưu trí tuệ của những người biết suy nghĩ
[5] [33].
C.Mác và Ph.Ăngghen hiểu giao tiếp như là "một quá trình thống nhất, hợp
tác, tác động qua lại giữa người với người". Như vậy, khái niệm giao tiếp được
khai thác dưới góc độ là một quá trình hợp tác giữa con người với con người. Tuy
nhiên trong cuộc sống không phải có hợp tác là có giao tiếp, đôi khi giao tiếp không
có sự hợp tác mà lại là sự xung đột. Nhà tâm lý học người Anh M.Acgain đã khẳng
định "giao tiếp là quá trình hai mặt của sự thông báo, thành lập sự tiếp xúc, trao
đổi thông tin". Lúc này, khái niệm giao tiếp được khai thác với chức năng trao đổi,
tiếp nhận thông tin giữa con người với con người trong xã hội.
Trong nghiên cứu về giao tiếp, P.Oathavut, G.Bivans, D.Giactson là các nhà
Tâm lý học Pháp đã coi giao tiếp là một tổ hợp hành vi hay nói cách khác, giao tiếp là
một quá trình xã hội thường xuyên diễn ra giữa con người với nhau, quá trình này tích

hợp nhiều loại hành vi, hành vi ngôn ngữ, hành vi phi ngôn ngữ.
Việt Nam, vấn đề giao tiếp đã nhận được sự quan tâm rất nhiều của các nhà
Tâm lý học và Giáo dục học, nó được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau như
giao tiếp thông thường ở các lứa tuổi, giao tiếp công vụ.
Tác giả Ngô Công Hoàn cho rằng: "giao tiếp là quá trình tiếp xúc giữa con
người với con người nhằm mục đích trao đổi tư tưởng, tình cảm, vốn sống, kỹ năng,
kỹ xảo nghề nghiệp". Khái niệm giao tiếp ở đây đã được khai thác trong mối quan hệ
giữa con người với con người với những mục đích khác nhau.
Nhấn mạnh đến khía cạnh tâm lý của giao tiếp, tác giả Trần Trọng Thủy
quan niệm: "giao tiếp của con người là một quá trình có chủ định hay không có chủ
định, có ý thức hay không có ý thức mà trong đó, các cảm xúc và tư tưởng được biểu
Trang7


đạt trong các thông điệp bằng phi ngôn ngữ". Khái niệm giao tiếp của tác giả được
khai thác là một quá trình có chủ định hoặc không chủ định, thực hiện bằng lời hoặc
không bằng lời, có thể kiểm soát được và có thể không kiểm soát được bằng ý thức
con người.
Tiếp cận dưới góc độ mối quan hệ liên nhân cách của con người, tác giả Nguyễn
Quang Uẩn viết: "giao tiếp là sự tiếp xúc tâm lý giữa người và người, thông qua đó con
người trao đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác ộng
qua lại lẫn nhau. Hay nói cách khác đi, giao tiếp xác lập và vận hành các quan hệ người
- người, hiện thực hóa các quan hệ xã hội giữa chủ thể này với chủ thể khác". Ở đây, tác
giả đã xem giao tiếp như điều kiện của sự tồn tại và phát triển của con người. Thông
qua giao tiếp, các mối quan hệ liên nhân cách của con người được phát triển.
Trong thực tế, các nhà nghiên cứu đã nhìn nhận về giao tiếp và có những
định nghĩa khác nhau về giao tiếp. Mỗi tác giả khai thác khái niệm giao tiếp dưới
các góc độ khác nhau. Tuy nhiên, thông qua những định nghĩa, các tác giả đều đã
nêu ra những dấu hiệu cơ bản của giao tiếp. Những dấu hiệu cơ bản đó là:
- Giao tiếp là một hiện tượng đặc thù của con người, chỉ có ở con người, chỉ được

diễn ra trong xã hội loài người.
- Giao tiếp dựa trên cơ sở hiểu biết lẫn nhau giữa con người với con người.
- Giao tiếp thể hiện thông qua sự trao đổi thông tin, sự hiểu biết, rung cảm và
ảnh hưởng lẫn nhau.
- Giao tiếp chứa đựng những nội dung của xã hội, được thực hiện trong một
hoàn cảnh xã hội cụ thể và chịu sự quy định của các yếu tố văn hóa, xã hội.
1.1.2 Khái niệm kỹ năng giao tiếp
Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp, các nhà nghiên cứu đã có những quan niệm
khác nhau với cách nhìn và khai thác khác nhau. Mỗi nhà nghiên cứu nhìn nhận,
khai thác nó dưới góc độ nghiên cứu của mình.
Nghiên cứu về kỹ năng giao tiếp, tác giả Hoàng Anh quan niệm về kỹ năng
giao tiếp là năng lực của con người biểu hiện trong quá trình giao tiếp. Đó là các khả
năng sử dụng hợp lý các phương tiện ngôn ngữ và phi ngôn ngữ... là hệ thống các
thao tác cử chỉ, điệu bộ hành vi được chủ thể giao tiếp phối hợp hài hòa. Trong thực tế,
kỹ năng giao tiếp của con người không chỉ phụ thuộc vào phương tiện mà nó phụ
thuộc khá nhiều vào vốn sống, vốn kinh nghiệm, phụ thuộc vào những nét văn hóa
đặc trưng vùng miền mà người đó sinh sống, có khi còn chịu ảnh hưởng của sự giáo dục,
Trang8


quản lý của gia đình.
Dưới góc độ nhìn nhận khả năng tri giác những biểu hiện bên ngoài và
những diễn biến bên trong của hiện tượng....tác giả Ngô Công Hoàn đã coi kỹ năng
giao tiếp "là khả năng tri giác hiểu được những biểu hiện bên ngoài cũng như những
diễn biến bên trong của các hiện tượng, trạng thái, phẩm chất tâm lý của đối tượng
giao tiếp". Như vậy, ta thấy rằng: kỹ năng giao tiếp của mỗi người bao hàm cả khả
năng vận dụng vốn tri thức, vốn kinh nghiệm của bản thân chủ thể giao tiếp, khả năng
điều khiển đối tượng giao tiếp.
Quan niệm kỹ năng giao tiếp là nhóm những kỹ năng giao tiếp, Tác giả
Nguyễn Bá Minh coi "kỹ năng giao tiếp là nhóm kỹ năng giao tiếp bao gồm các hành

động liên quan đến việc hình thành mối quan hệ hợp tác giữa chủ thể và đối tượng
giao tiếp, giữa đối tượng giao tiếp với nhau". Ở đây, kỹ năng giao tiếp được hiểu là
nhóm kỹ năng hỗ trợ cho người giao tiếp nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động giao
tiếp trong xã hội.
Trong xã hội và trong hoạt động giao tiếp của con người, kỹ năng giao tiếp
chính là khả năng sử dụng ngôn ngữ và khả năng biểu cảm của con người, với sự
phối hợp hài hòa giữa lời nói và cử chỉ của chủ thể và đối tượng giao tiếp.
Từ những quan niệm khác nhau về giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, chúng tôi
hiểu giao tiếp là một hiện tượng tâm lý rất phức tạp về nhiều mặt và nhiều cấp độ
khác nhau, là sự tiếp xúc tâm lý giữa người với người, thông qua đó con người trao
đổi với nhau về thông tin, về cảm xúc, tri giác lẫn nhau, ảnh hưởng tác động qua lại
với nhau. Để giao tiếp có hiệu quả đòi hỏi mỗi người phải có kỹ năng giao tiếp. Đó là
toàn bộ thao tác, cử chỉ... trong hoạt động giao tiếp. Tác giả luận văn chọn khái
niệm về kỹ năng giao tiếp sau làm khái niệm công cụ trong nghiên cứu:
Kỹ năng giao tiếp là năng lực tiến hành các thao tác, hành động, kể cả năng lực
thể hiện xúc cảm, thái độ nhằm giúp chủ thể giao tiếp trao đổi thông tin, tư tưởng,
tình cảm với đối tượng giao tiếp. Nói một cách khác, kỹ năng giao tiếp là toàn bộ
những thao tác, cử chỉ, thái độ, ngôn ngữ được phối hợp hài hoà, hợp lý của cá
nhân với cá nhân hay cá nhân với một nhóm xã hội nhằm điều khiển, điều chỉnh đối
tượng giao tiếp để thực hiện mục tiêu của chủ thể giao tiếp. Kỹ năng giao tiếp của con
người trong xã hội bao gồm kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp, kỹ năng
thuyết phục đối tượng giao tiếp, kỹ năng nghe đối tượng giao tiếp, kỹ năng diễn đạt
cụ thể, dễ hiểu, kỹ năng chủ động điều khiển quá trình giao tiếp, kỹ năng cân bằng nhu
Trang9


cầu cá nhân và đối tượng, kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi, kỹ năng thiết lập mối quan
hệ, kỹ năng kiềm chế, kiểm tra người khác, sự nhạy cảm trong giao tiếp.

1.2 Các yếu tố tác động đến sự hình thành và giáo dục kỹ năng giao tiếp.

Việc giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh THPT nói chung và học sinh
trường THPT Cầu Kè nói riêng luôn chịu ảnh hưởng của hai nhân tố . Đó là nhân tố
khách quan và nhân tố chủ quan. Nhân tố khách quan là những yếu tố bên ngoài tác
động vào quá trình giáo dục kỹ năng của học sinh. Nó bao gồm các nhân tố chính
như : chính sách đào tạo của nhà nước và cách thức tổ chức quản lý của nhà trường.
Nhân tố chủ quan là những yếu tố bên trong như nhận thức của học sinh về kỹ năng
giao tiếp, tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp, cũng như ý thức của các em trong
việc rèn luyện kỹ năng giao tiếp. Việc phân tích những nhân tố ảnh hưởng tới việc
rèn luyện kỹ năng giao tiếp nhằm chỉ ra những tác động tích cực cũng như tiêu cực
của các nhân tố khách quan và chủ quan . Từ đó giúp nhà trường cũng như các em
học sinh có những định hướng cũng như giải pháp nhằm hạn chế những tác động
tiêu cực, tận dụng và phát huy những ảnh hưởng tích cực.
1.2.1 Nhân tố khách quan
* Chính sách đào tạo của nhà nước
Chính sách đào tạo là chủ trương, biện pháp của Đảng và Nhà nước nhằm bồi
dưỡng phát triển các phẩm chất, năng lực cho mỗi người dân ( cả về tư tưởng, đạo
đức, khoa học, sức khỏe, nghề nghiệp ).
Chính sách đào tạo của nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến việc rèn luyện kỹ
năng giao tiếp của học sinh THPT nói chung và học sinh THPT Cầu kè nói riêng .
Các chính sách , chỉ thị của Bộ GD và ĐT ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu, cách
thức và phương hướng đào tạo của các trường THPT và nó ảnh hưởng gián tiếp đến
việc phát triển của học sinh trong quá trình học tập.
Nhận thấy xu hướng ngày nay, nhà tuyển dụng ngày càng coi trọng kỹ giao
tiếp, chính vì vậy mà nhà nước cũng như Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ngày càng quan
tâm đến việc đào tạo kỹ năng giao tiếp cho học sinh. Nó tác động đến phương pháp
dạy của nhà trường để có thể đào tạo những thế hệ học sinh có đầy đủ về kỹ năng

Trang10



giao tiếp. Điều này giúp các em học sinh nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của kỹ
năng giao tiếp.
* Cách thức tổ chức quản lý của nhà trường
Hiện nay nhà nước ta đang khuyến khích xã hội hoá rất nhiều lĩnh vực, trong
đó có Giáo dục. Số lượng trường lớp ngày càng mở rộng, nhưng có nhiều thực trạng
đang tồn tại, trong đó có vấn đề văn hoá học đường ngày càng xuống cấp trầm
trọng. Do hiện nay nề nếp nhiều trường chưa quy cũ, chưa quan tâm đúng mức đến
việc tạo ra môi trường giao tiếp thật sự văn minh cho học sinh
Để có môi trường giúp học sinh rèn luyện kỹ năng giao tiếp tốt nhà trường
cần đưa ra những quy định, nội quy, cách thức giao tiếp cho học sinh của trường.
Tất cả những quy định, quy tắc… của nhà trường có những vấn đề ảnh hưởng trực
tiếp hoặc gián tiếp đến việc phát triển kỹ năng giao tiếp cho các em. Nhà trường nên
tạo ra một môi trường mà ở đó các em thấy mình được tôn trọng, thấy bản thân có
giá trị và có một niềm tự hào khi là học sinh của trường. Đây là những điều sẽ ảnh
hưởng trực tiếp vào vô thức của học sinh giúp học sinh giao tiếp tốt. Bởi lẽ, các em
thấy bản thân được tôn trọng, có giá trị thì tự khắc sẽ cố gắng sống sao cho xứng
đáng với điều đó, trong đó có việc giao tiếp đúng và giao tiếp tốt.
* Phương pháp dạy học
Những phương pháp dạy học phát huy tính tích cực của nguời học có tác
dụng rất lớn giúp học sinh phát triển kỹ năng giao tiếp. Trong quá trình học, học
sinh chủ động tìm kiếm tri thức, trao đổi với bạn bè, thầy cô, trình bày sản phẩm của
cá nhân hoặc nhóm. Từ đó các em có nhiều cơ hội tương tác với người khác, cơ hội
rèn luyện KNGT cho bản thân.
- Năng lực giao tiếp của giáo viên toàn trường
Năng lực giao tiếp của giáo viên là bài học sinh động, quý báu để cho học
sinh học tập. Người giáo viên có kỹ năng giao tiếp tốt sẽ làm cho mình đẹp hơn và
được tôn trọng trong mắt học sinh. Được học một người thầy vừa có chuyên môn
giỏi, vừa có năng lực giao tiếp tốt sẽ là tác nhân kích thích lớn lao để học sinh rèn
luyện và phấn đấu.
- Năng lực chuyên môn của giáo viên giảng dạy các môn về giao tiếp

Giáo viên giảng dạy các môn về giao tiếp vừa là người cung cấp tri thức,
hướng dẫn hình thành kỹ năng; vừa là người làm nên ngọn lửa hứng thú, say mê rèn
Trang11


luyện kỹ năng cho học sinh. Một người giáo viên dạy về giao tiếp có năng lực thật
sự là người giáo viên biết đào sâu, mở rộng tri thức về giao tiếp cho học sinh, bài
học phải gắn liền với thực tế cuộc sống. Nếu bài giảng của giáo viên sáo rỗng, lý
thuyết sẽ làm cho học sinh nhàm chán, mất hứng thú trong học tập và không nhận
thấy tầm quan trọng của việc rèn luyện và phát triển kỹ năng giao tiếp.
1.2.2 Nhân tố chủ quan
Bên cạnh những nhân tố khách quan, ta không thể không nhắc đến nhân tố
chủ quan có phần tác động rất lớn đến việc phát triển kỹ năng giao tiếp của học sinh.
Đó chính là tự bản thân mỗi học sinh. Chính sách giáo dục của nhà nước và cách
thức tổ chức quản lý của nhà trường chỉ là những yếu tố bên ngoài tác động vào, tạo
cho các em cơ hội và môi trường rèn luyện. Nhân tố quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất
đến quá trình phát triển kỹ năng giao tiếp của học sinh chính là nhận thức và ý thức
phát triển kỹ năng giao tiếp của bản thân mỗi học sinh .
* Nhận thức của học sinh về tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp
Môi trường đào tạo của nhà trường tạo điều kiện cho em học sinh phát triển
kỹ năng giao tiếp nhưng một vấn đề đặt ra ở đây là liệu các em học sinh đã nhận
thức được môi trường thuận lợi đó chưa, các em học sinh đã có phương pháp rõ ràng
cho việc phát triển những kỹ năng của mình hay vẫn còn chưa chú trọng đến việc
phát triển kỹ năng giao tiếp? Từ việc nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng
giao tiếp, các em học sinh mới có thể chủ động trong việc học hỏi rèn luyện, xác
định rõ ràng mục đích của việc phát triển kỹ năng giao tiếp. Và có nhận thức được
tầm quan trọng của nó, các em học sinh mới biết tận dụng môi trường thuận lợi mà
nhà trường đã tạo ra để phục vụ tốt nhất cho việc phát triển của bản thân. Ta có thể
nhận thấy rằng, các em ngày càng nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng giao
tiếp. Điều đó được thể hiện qua, ngày càng có nhiều trung tâm đào tạo về kỹ năng

giao tiếp được mở ra và thu hút được sự chú ý của rất nhiều em, trong đó có các em
học sinh trường THPT Cầu Kè. Nhiều em rất tích cực trong việc tham gia các hoạt
động Đoàn, hoạt động tình nguyện.Các hoạt động đó giúp định hướng cho các em
học sinh rèn luyện và phát triển những kỹ năng cần thiết cho công việc ngay khi
ngồi trên ghế nhà trường đồng thời tạo cơ hội cho các em tiếp xúc với môi trường
làm việc thực tế ngay khi các bạn còn trên ghế nhà trường. Tuy nhiên bên cạnh
những em học tập chăm chỉ, luôn hoàn thành tốt nhiệm vụ của tập thể, tích cực tìm
Trang12


kiếm thông tin về những lĩnh vực học tập để tiếp thu bài giảng trên lớp của thầy cô
tốt nhất, tham gia nhiệt tình các giờ thảo luận trên lớp đóng góp vào sự thành công
của những buổi thảo luận thì cũng có một bộ phận không nhỏ các em vẫn còn thờ ơ
với việc học tập hiện nay.Với những em đó việc nhận thức về rèn luyện và phát triển
kỹ năng giao tiếp dường như không có.Tuy nhiên một số lượng lớn các bạn sinh
viên vẫn chưa thay đổi cách học vẫn dựa vào thầy cô không tìm và tiếp thu những
kiến thức xã hội những kiến thức thực tế đồng thời không nhận thức được những cơ
hội cho việc rèn luyện kỹ năng mềm.
*Ý thức rèn luyện kỹ năng giao tiếp của bản thân mỗi học sinh
Nhận thức được tầm quan trọng của kỹ năng giao tiếp, nhưng tại sao nhiều
em học sinh vẫn chưa tận dụng được cơ hội học tập trên lớp, các hoạt động ngoại
khóa để rèn luyện trau dồi kỹ năng giao tiếp? Đó là do ý thức rèn luyện của các em.
Vẫn còn tình trạng nhiều em không tự tin, mất bình tĩnh khi đứng trước đám đông,
không có kỹ năng thuyết trình cũng như nhạy cảm trong giao tiếp.Các hoạt động
đoàn trong trường cũng rất phổ biến.Những hoạt động đó gián tiếp rèn luyện cho các
em rất nhiều kỹ năng.Nhưng một thực tế là có rất ít các em tham gia vào các hoạt
động của đoàn và đội.Những em tham gia hoạt động đoàn, đội đó là những gương
mặt rất quen thuộc còn những gương mặt mới thì rất ít. Lý do mà các em đưa ra khi
không tham gia vào các hoạt động đó là các hoạt động ít và không rộng rãi cũng như
cần số lượng các bạn tham gia ít nên các em không có điều kiện tham gia.Những em

đó các em cũng ý thức được việc mình sẽ rèn luyện được nhiều kỹ năng khi tham
gia vào các hoạt động của đoàn, đội. Tuy nhiên cũng có em không thích tham gia
những hoạt động của đoàn, đội với lý do bản thân không có khả năng. Lý do mà các
em đưa ra thể hiện sự không nhiệt tình tham gia cũng như thể hiện một khía cạnh đó
là các em không giám thể hiện bản thân bởi vì chưa thử các em sao biết được mình
có hợp và hoạt động đó có thiết thực hay không.Bên cạnh những hoạt động đoàn
trong trường còn rất nhiều các hoạt động của các câu lạc bộ như câu lạc bộ nhà
quản trị tương lai, câu lạc bộ marketing, câu lạc bộ em học sinh năng động, tự tin,
rèn luyện kỹ năng cần thiết và tạo cơ hội cho các em học sinh được tiếp xúc sớm
hơn với môi trường làm việc bên ngoài.
Nhà trường chỉ có thể tạo ra môi trường thuận lợi, còn yếu tố quyết định
quan trọng vẫn là ở bản thân mỗi học sinh. Vì vậy mà mỗi học sinh chúng ta cần có
Trang13


một cái nhìn đúng đắn, từ đó tìm ra phương pháp rèn luyện tốt nhất cho bản thân. Có
vậy, việc rèn luyện, phát triển kỹ năng giao tiếp mới đạt hiệu quả tốt nhất.

1.3 Phân loại kỹ năng giao tiếp
- A.A.Bôđalov, N.V.Cuđơmia, A.N.Leonchiev… cho rằng giao tiếp có ba
giai đoạn: giai đoạn điều khiển, điều chỉnh và phát triển quá trình giao tiếp, giai
đoạn phân tích hệ thống giao tiếp đã được thực hiện và giai đoạn xây dựng mô hình
giao tiếp cho hoạt động tiếp theo. Dựa vào căn cứ này người ta chia kỹ năng giao
tiếp thành ba nhóm kỹ năng chính là:
* Nhóm kỹ năng định hướng: kỹ năng dựa vào biểu lộ bên ngoài như sắc thái
biểu cảm, ngữ điệu, thanh điệu lời nói, nội dung cử chỉ, điệu bộ, động tác, thời gian,
không gian giao tiếp mà phán đoán chính xác về nhân cách cũng như mối quan hệ
giữa chủ thể với đối tượng giao tiếp.
* Nhóm kỹ năng định vị: Biểu thị kỹ năng biết xác định vị trí giao tiếp, biết
đặt vị trí mình vào vị trí của đối tượng và biết tạo ra điều kiện để đối tượng chủ

động giao tiếp với mình.
* Nhóm kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp: Thể hiện kỹ năng thu hút đối
tượng, tìm ra đề tài giao tiếp, duy trì nó, xác định được nguyện vọng hứng thú của
đối tượng và biết sử dụng toàn bộ các phương tiện giao tiếp, làm chủ các trạng thái
cảm xúc bản thân.
- A.Cubanora và M.Rakkmatulina thì chia kỹ năng thành ba nhóm lớn:
* Nhóm các kỹ năng định hướng trước khi giao tiếp
* Nhóm các kỹ năng tiếp xúc xảy ra trong quá trình giao tiếp
* Nhóm các kỹ năng độc đáo hướng quá trình giao tiếp theo các định hướng
giá trị
Thành phần kỹ năng trong ba nhóm kỹ năng này là kỹ năng nghe thấy, kỹ
năng nhìn thấy, kỹ năng tiếp xúc, kỹ năng hiểu biết lẫn nhau, kỹ năng tổ chức điều
khiển quá trình giao tiếp.
- V.P.Dakharop đã chia các kỹ năng giao tiếp thành bốn nhóm cơ bản:
* Nhóm kỹ năng đóng vai tích cực chủ động trong giao tiếp
* Nhóm kỹ năng thể hiện sự thụ động trong giao tiếp
* Nhóm kỹ năng điều chỉnh sự phù hợp cân bằng trong giao tiếp
* Nhóm kỹ năng diễn đạt cụ thể, dễ hiểu
Trang14


Ông cho rằng bốn nhóm kỹ năng giao tiếp trên có thể phân chia thành 10 kỹ
năng giao tiếp.
Dưới đây chúng tôi xin trình bày ra 10 kỹ năng giao tiếp cụ thể của
V.P.Dakharop.
Qua bảng trắc nghiệm Tâm lý của ông chúng tôi rút ra được các năng lực cần
có để có một kỹ năng giao tiếp. Dưới đây xin đưa ra các năng lực cụ thể và có phân
tích nhỏ.
Kỹ năng thiết lập mối quan hệ trong giao tiếp
- Biết cách làm quen với người lạ; biết làm cho người lạ gần gũi mình

- Biết cách mở đầu câu chuyện đối với đối tượng giao tiếp
- Có khả năng tiếp xúc đám đông
- Có khả năng thích nghi với môi trường mới
- Tiếp xúc với mọi người dễ dàng và tự nhiên
Cổ nhân có nói rằng ” Sự ăn cho ta cái lực, sự ở cho ta cái chí, sự bang giao
cho ta cái sự nghiệp”. Để có thể bang giao với người khác con người cần qua giai
đoạn đầu tiên đó là thiết lập mối quan hệ. Trong cuộc sống, trong giao tiếp rất nhiều
người gặp khó khăn ở giai đoạn đầu tiên này.
Thiết lập mối quan hệ hay nói đơn giản hơn đó là làm quen. Để làm quen với
một người nào đó, trước tiên ta phải tìm hiểu về họ như: giới tính, lứa tuổi, nghề
nghiệp, sở thích, hoàn cảnh gia đình…Tất cả những cứ liệu này sẽ giúp ta tìm ra chủ
đề chung để mở đầu câu chuyện, gợi chuyện, dẫn dắt câu chuyện giao tiếp .Mỗi đối
tượng khác nhau, với những mục đích thiết lập mối quan hệ khác nhau sẽ có nghệ
thuật thiết lập mối quan hệ riêng. Thực tế có những người muốn làm quen với người
lạ, người mới gặp nhưng không biết nói về chuyện gì, hoặc trò chuyện được ít phút
thì không biết sẽ nói gì nữa. Thường thì những chủ đề dùng để làm quen là những
chủ đề tránh những vấn đề nhạy cảm, riêng tư.
Kỹ năng biết cân bằng nhu cầu của chủ thể và đối tượng giao tiếp.
- Biết kết hợp hài hòa nhu cầu, sở thích của mình với mọi người khi giao tiếp
- Biết quan tâm tới nhu cầu, sở thích của họ
- Thường cố gắng tìm hiểu nhu cầu của người khác
Kỹ năng nghe đối tượng giao tiếp.
- Trong lúc nghe đối tượng giao tiếp thì không suy nghĩ việc riêng.
- Nhắc lại được bằng lời những gì đối tượng giao tiếp đã nói
Trang15


- Diễn đạt chính xác ý đồ trong lời nói của đối tượng giao tiếp
- Nhận biết được ý nghĩa giọng điệu của lời nói
- Nhận ra ngụ ý trong lời nói của đối tượng giao tiếp

- Tập trung lắng nghe
- Nhận biết đối tượng giao tiếp lạc đề
Tâm lý học phân biệt giữa nghe và lắng nghe. Nghe thấy là sóng âm tác động
vào màng nhĩ và tín hiệu truyền lên não. Lắng nghe là từ tín hiệu não nhận được con
người hiểu nghĩa của lời nói.
Lắng nghe để hiểu bao gồm: sự tập trung chú ý - hiểu - hồi đáp – ghi nhớ.
Thực tế, có mắt không đồng nghĩa với nhìn thấy, có trí não không đồng nghĩa với
biết nghĩ, có tai không đồng nghĩa với biết lắng nghe. Ngạn ngữ Nga có câu: “Ba
tuổi đủ để học nói, nhưng cả cuộc đời không đủ để biết lắng nghe”.
Lắng nghe không phải bản năng mà là nghệ thuật, kỹ năng cần phải rèn luyện
lâu dài. Lắng nghe chính là hùng biện nhất nhưng ít ai biết được điều này. Trong
giao tiếp với nhau chúng ta thường tranh nhau thể hiện mà ít có ai tranh nhau để
lắng nghe.
Để có kỹ năng lắng nghe tốt cần tuân thủ các bước sau đây của quy trình lắng
nghe:
- Tập trung: yếu tố đầu tiên để lắng nghe hiệu quả là tập trung. Tập trung có
nghĩa là trong một thời điểm chỉ làm một việc. Nhiều người giao tiếp không thành
công vì trong khi lắng nghe người khác truyền tải thông điệp thì để các công việc
khác xen vào. Kết quả là thông điệp được truyền tải từ ngươì nói đến người nghe
không có một cách hiểu như nhau. Tập trung lắng nghe cũng là biểu hiện tôn trọng
người nói, giúp người nói có thêm sự tin tưởng để giao tiếp cởi mở hơn.
- Tham dự: Có người nói phải có người nghe, người gửi phải có người nhận.
Tham dự trong lắng nghe được biểu hiện bằng sự chú ý của đôi mắt, những cái gật
đầu của người nghe; về ngôn từ là những từ đệm: dạ, vâng, ạ, thế à, thật không?
- Hiểu: Nhiều cuộc giao tiếp diễn ra theo kiểu “Ông nói gà, bà nói vịt” vì
không hiểu được thông điệp của giao tiếp. Để hiểu được thông điệp của người gửi,
yêu cầu người nghe phải xác định lại thông điệp bằng cách trình bày lại nội dung
của người nói theo ý hiểu của mình hoặc bằng cách đặt câu hỏi để xác định như: tôi
hiểu như thế này có đúng không?, hoặc ý anh là…?
- Ghi nhớ: Ghi nhớ thông điệp chính.

Trang16


- Hồi đáp: Giao tiếp là quá trình tương tác 2 chiều giữa người gửi và người
nhận. Sau khi nhận thông điệp, bước tiếp theo cần có sự hồi đáp với người gửi. Có
đi có lại mới toại lòng nhau, mới có thể hoàn chỉnh quá trình giao tiếp cũng như lắng
nghe.
- Phát triển: Giao tiếp không phải là một thời điểm mà là một quá trình. Quá
trình hồi đáp là sự chấm dứt cho một chu trình mới. Chu trình lắng nghe vừa miêu tả
là một mô hình khép kín và diễn ra theo chiều xoáy trôn ốc đi lên.
Lắng nghe một cách hiệu quả là lắng nghe như thể bạn là người Bác sỹ đang
chẩn đoán triệu chứng của bệnh nhân, hoặc là một phi công đang tiếp xúc với đài
kiểm soát trong một cơn bão. Người biết lắng nghe là người biết tiếp nhận những
thông tin mới, những ý kiến mới và lợi điểm là nắm được thông tin, cập nhật hoá
thông tin, và giải quyết được vấn đề.
Kỹ năng tự chủ cảm xúc hành vi.
- Kiềm chế được trêu chọc, khích bác, nói xấu
- Giữ được bình tĩnh khi người tiếp xúc có định kiến, chụp mũ mình.
- Tự chủ cảm xúc, hành vi của mình khi tranh luận.
- Không bị mất cân bằng cảm giác.
Kỹ năng tự kiềm chế kiểm tra đối tượng giao tiếp.
- Áy náy khi xen vào chuyện người khác.
- Biết hay khuyên bảo, chỉ dẫn người khác trong giao tiếp là không tốt.
- Biết cách an ủi những người đang có điều gì lo lắng, buồn phiền.
- Biết ngăn cản người hay nói.
- Biết cách tác động vào người đang lung túng, bối rối.
- Biết làm cho người nói chuyện bị xúc động chi phối ngừng lời.
Kỹ năng diễn đạt cụ thể, dễ hiểu.
- Nói chuyện hấp dẫn, có duyên.
- Diễn đạt ngắn gọn ý kiến của mình.

- Biết nhiều lời trong giao tiếp là không tốt.
- Nhận ra người khác nói chuyện rời rạc.
Khi trao đổi thông tin với ai đó, để đạt được mục đích giao tiếp ta phải trải
qua quá trình truyền thông. Tuy nhiên, làm thế nào để thông điệp bạn muốn gửi cho
người nhận đến “đích” và đạt hiệu quả cao, bạn phải hiểu được quá trình truyền
thông và kỹ năng diễn đạt.
Trang17


Theo thầy Huỳnh Văn Sơn: Khi yêu cầu một số SV giới thiệu về bản thân
mình một cách đầy đủ và ấn tượng trong thời gian có hạn, nhiều bạn trẻ đã tỏ ra lúng
túng, họ không biết phải diễn đạt thế nào. (Theo Dai-ich-life.com.vn)
Thầy cũng cho rằng : “Một lời truyền thông tốt phải thật sự to, rõ, cụ thể, chi
tiết và chính xác. Khi diễn đạt thông tin, người phát hãy trình bày suy nghĩ và ý
tưởng của mình một cách thân thiện, cởi mở, tâm huyết. Chính ngôn ngữ bằng lời sẽ
gây những hiệu ứng đặc biệt khi truyền thông”.
Trong kỹ năng này sử dụng ngôn ngữ lời nói là chủ đạo. Tuy nhiên ông bà ta
có dạy: “ Rượu nhạt uống lắm cũng say, người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm”.
Trong giao tiếp, chúng ta không nên lạm dụng lời nói quá nhiều dẫn đến nhiều lời,
dong dài; chỉ nên nói những gì cần nói, nói nhiều quá sẽ làm giảm giá trị lời nói của
bản thân.
Kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp.
- Tiếp thu ý kiến, quan điểm của người khác.
- Chú ý tới lý lẽ mới của đối tượng giao tiếp.
- Không bảo thủ giữ khư khư ý kiến trong tranh luậ nếu biết nó sai lầm.
- Biết được “gió chiều nào che chiều đó” là không tốt.
- Biết được thái độ, phản ứng của đối tượng giao tiếp là những thông tin rất
quan trọng cần để ý tới.
- Thay đổi quan điểm trong tình thế câu chuyện đã theo hướng khác.
Kỹ năng thuyết phục đối tượng trong giao tiếp.

Thuyết phục là khả năng dùng các công cụ gây ảnh hưởng làm cho người
khác làm một điều gì đó.
Tác giả Dale Carnegie cho rằng, thuyết phục được hiểu là: cách duy nhất
buộc người khác làm bất cứ điều gì là khiến cho họ thích làm điều đó”. Chính vì vậy
ta thấy thuyết phục khác với quyền lực.
Để thuyết phục hiệu quả có rất nhiều cách. Trong đó có cách sử dụng chiến
lược sau:
- Sử dụng uy tín: trình độ, chú tâm, danh tiếng, nhân cách.
- Lập luận lôgic. Để lập luận lôgic thì luận cứ, chứng cứ giữ vai trò rất quan
trọng.
- Thể hiện tình cảm. Ông bà ta có câu: “Một bồ cái lý không bằng một tí cái
tình”
Trang18


V.P.Dakharop cho rằng một người có kỹ năng thuyết phục trong lúc giao tiếp
là người có những năng lực sau:
- Biết dùng tình cảm để tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của người khác.
- “Nói có sách, mách có chứng” khi tranh luận.
- Biết đầu tư thời gian thuyết phục người trái ý với mình.
Kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp.
V.P.Dakharop, một người có kỹ năng điều khiển quá trình giao tiếp là người
có những năng lực Sau:
- Duy trì nề nếp trong lớp, tổ chức của mình.
- Tự tin khẳng định điều gì đó như “đinh đóng cột” khi biết rõ về điều đó
100%
- Biết cách tạo bầu không khí tin tưởng, giúp đỡ nhau trong lớp.
- Tổ chức, đề xướng các hoạt động tập thể và các cuộc vui của bạn bè.
- Giữ vai trò tích cực, sôi nổi trong hoạt động chung.
- Hướng mọi người tập trung dứt điểm việc nào đó khi chuyển sang việc khác

- Tự tin trong khi trò chuyện.
Sự nhạy cảm trong giao tiếp.
- Áy náy khi làm phiền người khác.
- Biết được thái độ của đối tượng giao tiếp đối với mình.
- Động lòng trước đứa trẻ khóc.
- Nhạy cảm với nỗi đau của bạn bè và người thân.
- Áy náy, băn khoăn với sự khó chịu của bạn bè, người thân.
- Nắm bắt trạng thái của người khác.
- Động lòng khi thấy người bên cạnh đau khổ.
Trong luận văn này, chúng tôi chọn cách phân loại kỹ năng giao tiếp của
V.P.Dakkarop để giáo dục kỹ năng giao tiếp cho học sinh ở trường THPT Cầu Kè,
tỉnh Trà Vinh hiện nay

Trang19


Chương II: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC KỸ NĂNG GIAO TIẾP CỦA
HỌC SINH TRƯỜNG THPT HUYỆN CẦU KÈ, TỈNH TRÀ VINH THỜI
GIAN VỪA QUA.
2.1 Những mặt đạt được về giáo dục kỹ năng giao tiếp của học sinh
trường THPT huyện Cầu Kè tỉnh Trà Vinh thời gian qua.
Kết quả điều tra cho thấy phần lớn học sinh trường THPT huyện Cầu Kè tự
đánh giá bản thân mình có được các kỹ năng mạnh như; Kỹ năng linh hoạt mềm dẻo
trong giao tiếp, kỹ năng thuyết phục đối tượng giao tiếp, kỹ năng điều khiển quá
trình giao tiếp, kỹ năng diển đạt cụ thể dể hiểu, kỹ năng nghe đối tượng đối tượng
giao tiếp,… cũng không quá khó hiểu khi học sinh trường THPT huyện Cầu Kè tự
nhận thấy bản thân được trao dồi những kỹ năng đó, bởi các em tự tin khẳng định
bản thân trội về kỹ năng đó nhờ một phần môi trường học tập đã rèn luyện cho các
em có kỹ năng đó. Phương pháp giáo dục ngày càng tiến bộ khoảng cách giữa thầy
cô giáo và học sinh ngày càng được rút ngắn lại. Vì vậy môi trường học tập đã giúp

cho các em học sinh có điều kiện phát triển kỹ năng giao tiếp của bản thân ngày
càng tiến bộ.
Một là kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp và kỹ năng nghe đối
tượng giao tiếp
* Kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp

Trang20


KỸ NĂNG LINH HOẠT MỀM DẺO TRONG GIAO TIẾP
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%

78%

52%

47%
38%

Cao
Trung Bình


36%

Thấp
15%

12%

18%
4%

HỌC SINHLỚP 10

HỌC SINHLỚP 11

HỌC SINHLỚP 12

Trong bảng khảo sát 10 kỹ năng giao tiếp, kỹ năng linh hoạt, mềm dẻo trong
giao tiếp là có tỉ lệ trung bình % ở mức cao nhất ở ba khối lớp chiếm 59% cao hơn
so với các kỹ năng khác trong bảng khảo sát.
Người linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp là người không bảo thủ suy nghĩ ý
kiến của mình đối với người khác. Mỗi người có một sự hiểu biết nhất định, nên qua
giao tiếp mỗi người có thể nhận ra được sai lầm, hạn chế trong suy nghĩ, quan điểm
của mình từ đó rút kinh nghiệm sửa chữa. Trong giao tiếp, nếu một người nào đó
quá bảo thủ có nghĩa người đó đánh mất đi nhiều cơ hội hoàn thiện mình.
Qua khảo sát chúng ta thấy rằng, học sinh khối lớp 10 nhận thấy kỹ năng linh
hoạt mềm dẻo trong giao tiếp của mình ở mức cao là 47%, bên cạnh đó khối lớp 11
mức cao đạt đến 52% cao hơn 5% so với khối lớp 10, và đáng ngạc nhiên hơn ở
khối lớp 12 kỹ năng này mức cao lên đến 78% cao hơn 31% so với khối lớp 10 và
cao hơn 26% so với khối lớp 11. Điều này cũng không gì là khó hiểu bởi các em

đang dần hoàn thiện kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp của mình hơn, bởi
khi càng lớn các em sẽ không bảo thủ trong giao tiếp, các em cởi mở sẵng sàng tiếp
thu ý kiến của người khác nhiều hơn. Để không bảo thủ, dể dàng tiếp nhận ý kiến, ý
tưởng hay trong giao tiếp thì phải quan tâm đến người đang giao tiếp đang nói gì và
vì sao họ lại suy nghĩ như thế, thực tế có những người bảo thủ đến mức không cần
quan tâm tới những gì người khác nói. Định kiến ban đầu mặc định là những gì
người khác nói điều dỡ hơn mình.
Vì vậy trong giao tiếp linh hoạt mềm dẻo các em học sinh trường THPT
huyện Cầu Kè đã biết quan tâm đến lý lẽ, quan điểm mới của người trò chuyện với
Trang21


mình. Các em có ý thức được tầm quan trọng phải lắng nghe trong giao tiếp và
không bảo thủ trong giao tiếp.
Kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp là kỹ năng trội nhất của các em,
bởi các em có cái nhìn khách quan, biết tự đánh giá vấn đề, công nhận sự tồn tại
khách quan trong cuộc sống muôn màu muôn sắc.
* Kỹ năng nghe đối tượng giao tiếp.
KỸ NĂNG NGHE ĐỐI TƯỢNG GIAO TIẾP
90%
80%
70%
60%
50%
40%
30%
20%
10%
0%


79%
61%
Cao
39%
32%

Trung Bình
29%

30%

Thấp
9%

HỌC SINHLỚP 10

HỌC SINHLỚP 11

15%
6%
HỌC SINHLỚP 12

Kỹ năng nghe đối tượng giao tiếp ở trường THPT Cầu Kè đã được xem là kỹ
năng mạnh trong nhóm 10 kỹ năng được khảo sát bởi tỷ lệ trung bình ba khối lớp ở
mức cao là 58% chỉ thấp hơn kỹ năng linh hoạt mềm dẻo trong giao tiếp là 1%.
Không phải ngẫu nhiên mà có câu thành ngữ “ nói là bạc, im lặng là vàng,
lắng nghe la kim cương”, được mọi người công nhận là đúng. Từ bé ta được dạy
nói, dạy đọc, dạy viết rất nhiều nhưng kỹ năng nghe chiếm 53% thời gian giao tiếp
lại không được dạy. Biết lắng nghe, điều này có vẽ đơn giản, nhưng cũng không
phải ai cũng có thể làm được, vì lắng nghe là một hoạt động thường nhật, cho nên

chỉ có một số ít người quan tâm đến phát triển kỹ năng nghe của mình là một khả
năng vật lý thì lắng nghe là một kỹ năng.
Nghe có KN là nghe, hiểu được ý đồ của người khác, biết kết hợp giải mã tốt
điệu bộ, cử chỉ đi kèm, với lời nói của đối tượng từ đó đưa ra tín hiệu phản hồi thích
hợp. một trong những lý do làm hạn chế khả năng này đó là quá trình trò chuyện
chúng ta không tập trung, sự không tập trung do chúng ta cố ý hay vô ý suy nghĩ
sang một vấn đề khác hoặc do khả năng nắm bất vấn đề chúng ta chậm.
Kết quả điều tra ở trường THPT Cầu Kè cho ta thấy được các bạn học sinh tự
đánh giá kỹ năng lắng nghe của mình qua từng khối lớp nhu sau; khối lớp 10 kỹ
Trang22


×