Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010địa phần2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.8 MB, 103 trang )

Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

- Về cơ cấu nền kinh tế: Trong cơ cấu nền kinh tế có sự thay đổi lớn, trước đây nền
nông nghiệp giữ vai trò lớn thì hiện nay chỉ chiếm 3,9% GDP. Thay vào đó là sự thay
thế của các ngành công nhiệp chiếm 30,9% GDP và dịch vụ chiếm 65,2% GDP.
- Về phân bố kinh tế: Như bất cư một quốc gia nào trên thế giới sự phân bố kinh tế
của Hungary cũng tập trung tại nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn nhân lực dồi
dào, trình độ khoa học kĩ thuật phát triển.
2.1. Các ngành kinh tế
Công nghiệp
Trước chiến tranh thế giới lần 2, ngành công nghiệp của Hungary đã từng lạc
hậu khoảng 1/2 thế kỉ so với các nước phát triển lúc bấy giờ. Đảng và Nhà nước
Hungary quan tâm khôi phục và phát triển công nghiệp.
Trong quá trình phát triển, cơ cấu của chính nền công nghiệp Hungary đã có
những thay đổi quan trọng. Đến nay, cơ cấu công nghiệp đã được thay thế để phù hợp
với thời kì phát triển theo chiều sâu của nền kinh tế và việc phát triển các chương trình
trọng điểm, trong đó các ngành sản xuất các phương tiện giao thông công cộng, sản xuất
nhôm, khí đốt, hóa dầu, sản xuất các loại linh kiện điện tử, các sản phẩm chế biến với
hàm lượng kĩ thuật cao ngày càng chiếm vị trí quan trọng.
Nông nghiệp
Hungary là nước có những điều kiện tự nhiên để sản xuất nông nghiệp cao hơn
mức trung bình so với các nước khác trên thế giới. Diện tích tự nhiên của cả nước là
9,303 triệu héc-ta, trong đó đất canh tác nông nghiệp chiếm 57,3%; đất đồng cỏ chiếm
13,9% và đất rừng chiếm 17,3%. Nếu so sánh tỷ lệ đất canh tác nông nghiệp với diện
tích tự nhiên của đất nước, Hungary có tỷ lệ cao thứ hai trên thế giới, sau Đan Mạch.
Dịch vụ
Trong cơ cấu ngành dịch vụ thì lĩnh vực thương mại và ngoại thương là hai lĩnh
vực quan trọng nhất của đất nước Hungary.
3. Triển vọng hợp tác Việt - Hung
3.1. Những thuận lợi và khó khăn trong mối quan hệ hợp tác giữa hai nước.
Thuận lợi:


- Ngày nay cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật hiện đại phát triển như vũ bão đã
tạo ra những thành tựu kì diệu vượt bậc. Thế giới đang bước vào một cuộc đua và cạnh
tranh gay gắt. Xu hướng toàn cầu hóa quan hệ ngoại giao đang diễn ra ngày càng sâu
rộng, mạnh mẽ. Các nước đều coi trọng chính sách khu vực, đẩy mạnh hợp tác và liên
kết khu vực. Hợp tác Việt Nam và Hungary cũng không nằm ngoài xu thế này. Cả hai
đều tham gia vào nhiều khối liên minh kinh tế và nhiều diễn đàn kinh tế của thế giới.
- Hungary đang là một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới. Thị trường
Hungary đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc tiêu thụ sản phẩm và cung

104


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

ứng kĩ thuật tài chính. Hợp tác với Hungary, chúng ta sẽ tranh thủ được nguồn vốn đầu
tư, chuyển giao khoa học công nghệ cũng như trình độ, kinh nghiệm của các nhà kinh
doanh Hungary sẽ giúp Việt Nam đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học, công nhân... nhằm
góp phần thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Là thành viên của ASEAN, AFTA, APEC, WTO, Việt Nam hiện là một thị
trường đầy tiềm năng của khu vực châu Á với nhiều tiềm năng khai thác, với những lợi
thế so sánh về nguồn nhân lực, nguồn tài nguyên thiên nhiên, về sự ổn định của hệ
thống chính trị, xã hội. Vì vậy, Việt Nam đã và đang nằm trong tâm điểm của Hungary
nhằm mở rộng quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ thương mại đầu tư nói riêng.
- Sau sự tan rã và sụp đổ của hệ thống chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu,
Việt Nam đã mất đi một chỗ dựa lớn về kinh tế. Chính vì vậy, Việt Nam cần tìm cho
mình những đối tác mới và Hungary là một trong những đối tác quan trọng của nước ta.
- Quan hệ kinh tế, thương mại Việt - Hung không ngừng được công khai và có
nhiều bước phát triển tốt đẹp. Đặc biệt là khi hiệp định thương mại song phương Việt
Nam- Hungary đi vào thực thi đã mở ra cho doanh nghiệp hai nước những cơ hội đầu tư
kinh doanh bình đẳng cùng có lợi, tạo đà quan trọng cho tiến trình phát triển quan hệ

giữa hai nước.
Khó khăn:
Những thuận lợi trong quan hệ hợp tác Việt- Hung là rất lớn, bên cạnh đó còn gặp phải
không ít những khó khăn thử thách.
- Mức chênh lệch khá lớn về kinh tế.
- Bên cạnh đó, cơ chế thị trường của hai nước còn nhiều nét khác biệt. Hungry
đã chuyển sang cơ chế thị trường tự do từ lâu còn nước ta mới chuyển đổi từ cơ chế bao
cấp, kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định
hướng XHCN, gần đây vào năm 2006 Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại quốc
tế (WTO) nhưng mới trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập và nền kinh tế vẫn
trong sự quản lí của nhà nước.
- Sự khác nhau về con đường phát triển đất nước cũng là một trở ngại cho sự
hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Hungary: một bên trung thành với con đường XHCN,
một nước đi theo chế độ cộng hòa. Nhìn chung, quan hệ giữa hai nước đã và đang đi
vào một trang sử mới với nhiều thuận lợi trong quan hệ hợp tác Việt- Hung. Chắc chắn,
sự hợp tác giữa hai nước sẽ đạt được nhiều thành tựu lớn.
3.2. Thực tế quan hệ Việt- Hung trong thời gian vừa qua
Việt Nam- Hungary đã, đang và sẽ đi vào một kỷ nguyên mới, kỉ nguyên hữu
nghị và hợp tác trong quan hệ với nhau bằng những sự kiện hợp tác liên tiếp, các lĩnh
vực hợp tác ngày càng sâu rộng giữa hai nước.

105


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

KẾT LUẬN
Hungary đã khẳng định được vị trí quan trọng của mình trên trường quốc tế đặc
biệt với sự kiện ra nhập EU. Nền kinh tế hiện tại của Hungary đang phục hồi sau cuộc
khủng hoảng toàn cầu với những bước tăng trưởng theo hướng tích cực. Quan hệ hợp

tác giữa Việt Nam và Hungary ngày càng trở nên khăng khít với sự hợp tác trên tất cả
các lĩnh vực, đặc biệt là kinh tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Nguyễn Huy, “Nông nghiệp Hungary từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ
nghĩa”, NXB khoa học - xã hội.
[2]. Trần Quang Phùng (CB), “Hungary ngày nay”, NXB Sự thật, 1985
[3]. Nguyễn Minh Tuệ (CB), “Địa lí kinh tế- xã hội đại cương”, NXB Sư Phạm, 2007.
[4]. Nghiên cứu Châu Âu, số 10/2010.

106


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

CHUYÊN NGÀNH: PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY

PHƯƠNG PHÁP HƯỚNG DẪN HỌC SINH PHÂN TÍCH SỐ LIỆU THỐNG KÊ
TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 11 (BAN CƠ BẢN)
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Giang - K57A
Cán bộ hướng dẫn khoa học: ThS Ngô Thị Hải Yến
ĐẶT VẤN ĐỀ
Số liệu thống kê là phương tiện dạy học quan trọng mang lại hiệu quả cao trong dạy
học địa lí lớp 11. Thông qua việc phân tích những mối liên hệ giữa các số liệu thống kê
với nhau sẽ giúp học sinh hiểu được bản chất, tính đặc trưng của từng nước và từng khu
vực trên thế giới. Tuy nhiên hiện nay phần lớn việc dạy học địa lí ở các trường THPT các
thầy cô mới chỉ xem số liệu thống kê như là một phương tiện trực quan minh họa cho
kênh chữ mà chưa hướng dẫn cho học sinh khai thác nó như là một nguồn kiến thức quan
trọng vì vậy mà hiệu quả dạy học còn hạn chế cả về mục tiêu kiến thức và kỹ năng.
NỘI DUNG
1. Số liệu thống kê trong dạy học địa lí

1.1 Khái niệm số liệu thống kê (SLTK)
Số liệu thống kê là các số liệu cụ thể được thống kê đề cập đến một hiện tượng hoặc
nhiều hiện tượng được rút ra qua các cuộc điều tra cụ thể như số liệu thống kê về tình hình
gia tăng dân số, tốc độ phát triển các ngành kinh tế, sản phẩm, sản lượng… Những SLTK
không chỉ đơn thuần phản ánh về mặt lượng mà chúng còn có những mỗi quan hệ mật thiết
với mặt chất của nhiều hiện tượng khác.
1.2. Vai trò của số liệu thống kê
Trong dạy học địa lí SLTK đóng vai trò rất quan trọng, cụ thể:
- SLTK là phương tiện dạy học để minh họa các kiến thức địa lí một cách trực
quan nhất.
- SLTK là nguồn tri thức giúp cho học sinh khai thác, rèn luyện tìm ra các kiến
thức địa lí thiết thực và quan trọng.
- SLTK sử dụng trong dạy học còn là phương tiện để học sinh rèn luyện các kỹ
năng Địa lí.
1.3. Phân loại
Dựa vào hình thức và mỗi quan hệ thể hiện thì phân ra 2 dạng SLTK:
- Số liệu thống kê riêng biệt: Đó là những số liệu thống kê dùng riêng rẽ để cụ
thể hóa một số đối tượng địa lí kinh tế và xã hội nào đó về mặt lượng.
- Các bảng số liệu: Đó là các số liệu thống kê được đưa dưới hình thức tập hợp
thành bảng nhằm mục đích đặt các số liệu có liên quan với nhau ở vị trí gần nhau để

107


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

người đọc dễ dàng nhận xét, so sánh, từ đó rút ra được những kết luận có căn cứ về các
hiện tượng và quá trình địa lí kinh tế - xã hội.
2. Sự cần thiết sử dụng SLTK trong dạy học địa lí lớp 11
2.1. Đặc điểm chương trình sách giáo khoa địa lí lớp 11 (ban cơ bản)

Tiếp nối theo chương trình khái quát địa lí lớp 10 thì chương trình địa lí lớp 11
trình bày khái quát kinh tế - xã hội trên thế giới và tìm hiểu một số quốc gia, khu vực
tiêu biểu. Nên các vấn đề nghiên chương trình lớp 11 luôn mang tính biến động theo
thời gian và không gian. Đó là các vấn đề về kinh tế, cơ cấu ngành, dân cư, xã hội… Để
chứng minh được các đối tượng, sự khác biệt đặc trưng giữa các quốc gia thì phân tích
các số liệu thống kê là một phương tiện dạy học cần thiết và hiệu quả. Nó không những
giúp giáo viên truyền đạt kiến thức dễ dàng mà còn tạo điều kiện học sinh rèn luyện các
kỹ năng địa lí và ghi nhớ kiến thức một cách có hệ thống lôgic hơn.
Đặc biệt là hiện nay khi chương trình SGK đã cải cách đổi mới, kiến thức không
phải chỉ ở kênh chữ mà còn được thể hiện trên kênh hình thì các bảng số liệu thống kê,
các số liệu riêng biệt được tăng cường đưa vào SGK rất nhiều. Vì vậy phương pháp
hướng dẫn học sinh phân tích số liệu thống kê trong dạy học địa lí lớp 11 là một trong
những phương pháp dạy học đổi mới quan trọng, cần thiết nhằm tích cực hóa các hoạt
động của học sinh.
2.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh lớp 11
Học sinh lớp 11 là những em trung bình từ 16 -17 tuổi, đây là lứa tuổi đang
trong quá trình hoàn thiện về mặt thể chất, sự phát triển ổn định của bộ não và chức
năng thần kinh tạo nên những điều kiện tối ưu cho sự phát triển các hoạt động nhận thức
của các em. Các em luôn luôn nhiệt tình hoạt động không mệt mỏi, đặc biệt là luôn
muốn thể hiện mình trước mọi người nên tự đặt ra những câu hỏi và tìm tòi, sáng tạo ra
những cách giải quyết mới. Vì vậy phương pháp truyền thống không còn phù hợp với
lứa tuổi này, đây chính là cơ sở quan trọng để giáo viên tìm ra phương pháp thích hợp
nâng cao hiệu quả dạy học.
2.3. Thực trạng của việc hướng dẫn học sinh phân tích số liệu thống kê trong dạy học
địa lí lớp 11 ban cơ bản hiện nay
Qua tìm hiểu thực tế một số trường phổ thông cho thấy việc sử dụng số liệu
thống kê trong dạy học chương trình địa lí nói chung và dạy học kinh tế - xã hội lớp 11
nói riêng còn ít hiệu quả. Phần lớn các giáo viên dạy học hiện nay ở các trường phổ
thông mới sử dụng số liệu thống kê chỉ là phương tiện minh họa kiến thức cho học sinh
quan sát mà chưa hướng dẫn phân tích tìm ra kiến thức mới. Theo kết quả khảo sát sơ

bộ, thu thập ý kiến của các giáo viên dạy ở các trường phổ thông thì tỉ lệ giáo viên có sử
dụng số liệu như phương tiện dạy học là nguồn kiến thức không thể thiếu trong mỗi tiết
học địa lý chỉ chiếm dưới 20%. Đó là một thực tế cần phải quan tâm và tìm biện pháp

108


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

khắc phục để nâng cao chất lượng dạy học địa lí lớp 11 ban cơ bản.
3. Biện pháp hướng dẫn học sinh sử dụng số liệu thống kê
3.1. Yêu cầu đối với giáo viên
- Để đạt hiệu quả cao trong mục tiêu sử dụng SLTK thì trước tiên giáo viên phải
là người nắm rõ các nguyên tắc và thực hành các kỹ năng một cách nhuần nhuyễn.
- Trước khi hướng dẫn cho học sinh phân tích bất cứ một bảng số liệu hoặc cập nhật
các số liệu mới cho nội dung của bài học thì giáo viên phải là người thực hiện trước, để
nắm rõ cụ thể các bước và các nguồn tài liệu chính xác cung cấp cho học sinh.
- Giáo viên phải thường xuyên có biện pháp kiểm tra các bước thực hiện của học sinh
khi thu thập, xử lý, phân tích, trực quan hóa SLTK. Để kịp thời khắc phục sửa chữa những
sai sót trong quá trình rèn luyện các kỹ năng địa li cho học sinh.
3.2. Yêu cầu đối với học sinh
Học sinh phải thực hiện đúng quy trình các bước phân tích SLTK do giáo viên
hướng dẫn.
Cụ thể quy trình các bước hướng dẫn học sinh sử dụng số liệu thống kê:
- Thu thập số liệu thống kê
Bước 1: Xác định mục đích thu thập số liệu thống kê.
Bước 2: Tiến hành tìm kiếm các số liệu từ các nguồn tài liệu khác nhau: Từ sách, báo,
hoặc từ mạng Internet.
Nguyên tắc thu thập số liệu thống kê:
+ Tôn trọng tính khách quan của SLTK: Nghĩa là thu thập các số liệu về các

hiện tượng, sự vật một cách chính xác, nguồn thu thập có độ tin cậy lớn, các số liệu phải
đúng bản chất không được tự ý sửa đổi theo chủ quan.
+ Các SLTK thu thập được phải gắn liền với lãnh thổ nhất định.
- Xử lí số liệu thống kê
Bước 1: Xác định nội dung, mục đích của bài học.
Bước 2: Sử dụng các công thức để tiến hành xử lí số liệu phù hợp với mục đích sử dụng như thể
hiện cơ cấu, tính tỉ lệ so sánh các đối tượng hay tính tốc độ tăng trưởng…
Bước 3: Lập bảng số liệu mới đã được xử lí
Có 2 phương pháp xử lý SLTK:
+ Xử lý sơ bộ: Là giai đoạn kiểm tra và hiệu đính số liệu quy đổi giá trị theo
mục đích sử dụng. Giai đoạn này giáo viên có thể cung cấp các cho học sinh các công
thức tính như cơ cấu, tỉ trọng, tốc độ phát triển...
+ Sắp xếp các số liệu vào các bảng biểu riêng: Là giai đoạn kết hợp các đối tượng
cùng đơn vị hoặc có mối liên quan đứng cạnh nhau để dễ đối chiếu, so sánh.
- Phân tích SLTK
 Các nguyên tắc cơ bản khi phân tích SLTK

109


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

+ Khi phân tích SLTK phải tìm mối liên hệ giữa hiện tượng nghiên cứu với hiện
tượng có liên quan trong không gian và thời gian.
+ Phải có quan điểm lịch sử khi phân tích SLTK.
+ Khi phân tích phải chú ý tới tính lãnh thổ của SLTK.
 Các bước phân tích số liệu
Bước 1: Xác định mục đích phân tích SLTK. Dựa vào trọng tâm kiến thức bài học.
Bước 2: Đánh giá SLTK
Thông thường đánh giá số liệu trên các mặt:

+ SLTK có chính xác kịp thời không?
+ Phương pháp tính toán để đưa ra các số liệu, xử lý số liệu có chính xác khoa học ?
+ SLTK có điển hình cho bản chất của đối tượng không?
Bước 3: Phân tích so sánh đối chiếu các SLTK
* Những chú ý khi phân tích số liệu:
- Không được bỏ sót bất cứ dữ kiện nào để không dẫn đến việc cắt nghĩa sai sót các
nội dung.
- Phân tích các số liệu từ tầm khái quát cao rồi mới đi chi tiết vào cụ thể.
- Phải tìm ra được các mối quan hệ giữa các số liệu, phân tích theo các cột, hàng
quan hệ giữa các số liệu cột hàng.
- Có thể vận dụng những kiến thức đã học để giải thích sự biến đổi các số liệu thống kê
đó nếu đề yêu cầu hoặc cảm thấy cần thiết để thể hiện rõ bản chất xu hướng của đối tượng.
* Nguyên tắc thực hiện bước so sánh là:
+ So sánh các số liệu trong một thời gian nhất định.
+ So sánh các số liệu giữa tình hình phát triển kinh tế xã hội với những với những
đặc điểm riêng của mỗi lãnh thổ, mỗi quốc gia, mỗi khu vực…
+ So sánh các số liệu ở các thời điểm tĩnh cả thời điểm động.
Bước 4: Trực quan hóa số liệu bằng biểu đồ, đồ thị, bản đồ…để học sinh dễ quan sát,
đối chiếu.
Bước 5: Rút ra kết luận chính là nội dung kiến thức mà học sinh cần đạt được
KẾT LUẬN
Như vậy qua quá trình nghiên cứu, phân tích thì nhận thấy SLTK là một phương
tiện dạy học quan trọng có chức năng vai trò lớn trong quá trình thể hiện kiến thức địa lí
lớp 11 nói riêng và chương trình địa lí THPT rói chung. Nó vừa là nguồn kiến thức quan
trọng bổ sung cho phần kênh chữ lại là một phương pháp dạy học đổi mới nhằm gây
hứng thú, tích cực hóa các hoạt động của học sinh tự tìm tòi, sáng tạo nâng cao kiến
thức và rèn luyện các kỹ năng. Thông qua kết quả thực nghiệm từ dạy đối chứng và
phiếu điều tra thì đề tài cũng đã xác định được tính khả thi thiết thực của phương pháp.

110



Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

Chính vì vậy trong dạy học địa lí hiện nay việc hướng dẫn học sinh sử dụng SLTK là
hết sức cần thiết quan trọng để nâng cao hiệu quả dạy học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Dược, Đặng Văn Đức, 1996. Nguyễn Trọng Phúc, Nguyễn Thu Hằng, Trần
Đức Tuấn. Phương pháp dạy học địa lí. NXB Giáo dục.
[2] Nguyễn Thị Dung. Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học địa lý lớp 11
THPT theo hướng tích cực. Luận án 2005.
[3] Đặng Văn Đức, Nguyễn Thu Hằng, 2003. Phương pháp dạy học địa lý theo hướng
tích cực. NXB ĐHSP.
[4] Vũ Quốc Lịch, 2009. Thiết kế bài giảng địa lí 11 tập 2. NXB Hà Nội
[5] Nguyễn Trọng Phúc, 1998. Phương pháp sử dụng số liệu thống kê trong dạy học địa
lý kinh tế xã hội. NXB ĐHQG Hà Nội.
[6] Lê Thông (Tổng chủ biên), Nguyễn Thị Minh Phương (Chủ biên) và nhiều tác giả
khác, 2009. Địa lí 11 SGK ban Cơ bản. NXB Giáo dục

Ý NGHĨA CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRANH BIẾM HỌA TRONG VIỆC
DẠY HỌC ĐỊA LÝ LỚP 11- THPT
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thu Hà - K57TN
Nguyễn Thị Thu - K57B
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đức Tuấn
ĐẶT VẤN ĐỀ
Có một câu nói rất nổi tiếng “Người vẽ tranh biếm hoạ là một nhà văn, một
người nghệ sĩ, một nhà triết học, và ngươ i hay no i cợt, ngươ i hay chỉ tri ch và
thẳng thắn với cộng đồng. Ông ít khi nói đùa, mà thường nói sự thật giống như một
người thích đùa cợt. Ngoài ra, người vẽ tranh biếm hoạ hơn một nhà phê bình xã hội,
những người cố gắng để làm người khác cười, làm tức điên lên hoặc để giáo dục"

(Thomas P. Ruff và Jennifer T. Nelson). Chính những thông điệp to lớn và tiếng cười
sâu sắc mà người vẽ tranh biếm họa muốn chuyển tải đến người xem đã làm nên sức
mạnh của tranh biếm họa. Chúng ta có thể sử dụng sức mạnh đó trong giáo dục để rèn
luyện cho học sinh trí tuệ, tinh thần phê phán, sự nhạy cảm chính trị và tính hài hước.
Đây chính là một công cụ dạy học lí tưởng để làm cho tiết học của chúng ta trở nên thú
vị, có chiều sâu và đầy mới mẻ. Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học nói chung và dạy
học địa lí nói riêng hiện nay đang là một trong những phương pháp dạy học tích cực và
có hiệu quả ở các nước có nền giáo dục hiện đại và phát triển như CHLB Đức, Anh và
một số nước châu Âu khác. Tranh biếm họa là một hướng tiếp cận quan trọng để đổi
mới phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học địa lí nói riêng.

111


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

Việc sử dụng tranh biếm họa vào dạy học các môn xã hội nói chung và nhất là
các môn Địa lí là một hướng đi mới mẻ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn chưa thực sự quan
tâm, thấy được ý nghĩa và đặt đúng vị trí của tranh biếm họa trong dạy học Địa lí. Đã
đến lúc chúng ta cần sử dụng tranh biếm họa trong dạy học địa lí như một công cụ dạy
học không thể thiếu để nâng cao thực sự tư duy và thái độ cho học sinh nhất là trong
chương trình Địa lí lớp 11- THPT để cho tranh biếm họa thực sự là một công cụ dạy học
hữu ích đối với Địa lí.
NỘI DUNG
1. Tranh biếm họa - một công cụ hữu ích cho việc dạy học Địa lí hiện đại
1.1. Khái niệm về tranh biếm họa. Gía trị của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy
học Địa lí lớp 11- THPT
1.1.1. Khái niệm về tranh biếm họa
Thuật ngữ tranh biếm họa xuất hiện từ giữa thế kỉ 19 và nó được mọi người biết
đến đầu tiên trên các báo và tạp chí. Nó được sử dụng như những bức tranh minh họa có

tính chất hài hước hay châm biếm. Nội dung mà tranh biếm họa chú trọng hướng tới là
những vấn đề xã hội có tính chất thời sự, những người nổi tiếng, những sự kiện, xu hướng
phát triển của xã hội và những chủ đề nội dung cần có ý kiến bình luận và đánh giá.
Sức mạnh và khả năng dẫn truyền thông tin của tranh biếm họa nằm ở khả năng
hiện thực hóa những vấn đề phức tạp, rắc rối. Điều đó giúp cho người đọc cảm thấy sự
thú vị sâu sắc của những vấn đề mà trước đây trên các kênh thông tin khác họ có thể
chưa nắm vững.
1.1.2. Giá trị của việc sử dụng tranh biếm họa trong dạy học địa lí 11- THPT
* Tranh biếm họa có khả năng thúc đẩy sự quan tâm, thích thú đặc biệt của học sinh đối
với những vấn đề chính trị- xã hội, những sự kiện và xu hướng phát triển của xã hội.
* Sử dụng tranh biếm họa có khả năng quyết định sự phát triển tư duy và trí
tưởng tượng một cách đặc biệt có hiệu quả.
* Sử dụng tranh biếm họa có khả năng rèn luyện cho học sinh khả năng bình
luận và phê bình đối với một vấn đề và trình bày một cách độc lập quan điểm của mình.
* Sử dụng tranh biếm họa giúp cho việc hình thành những thái độ và hành vi
đúng đắn cho học sinh.
* Tranh biếm họa có khả năng kích thích sự thảo luận và tranh luận trong lớp
học cũng như tạo ra một không khí học tập sôi nổi.
* Tranh biếm họa là một công cụ dạy học đa năng có thể kết hợp với nhiều
phương pháp dạy học nhất là phương pháp động não và thảo luận nhóm.
2. Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Địa lí lớp 11- THPT: Những cơ hội và
thách thức
2.1. Những cơ hội khi đưa tranh biếm họa vào trong dạy học địa lí lớp 11

112


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

2.1.1. Mục tiêu và nội dung dạy học địa lí lớp 11- THPT

Chương trình Địa lí lớp 11- THPT được biên soạn theo mục tiêu đổi mới giáo
dục nhằm cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản và phổ thông về địa lí gồm
một loạt các khái niệm chung về kinh tế thế giới hiện đại, toàn cầu hóa, tri thức hóa…
Các khái niệm tập hợp về các nước đang phát triển ở một số khu vực trên thế giới, như
các nước Đông Nam Á, các nước châu Mỹ Latinh, các nước Tây Nam Á. Đồng thời
phát triển các tư duy cơ bản cho học sinh, với vai trò như một công cụ dạy học đa năng,
việc sử dụng tranh biếm họa một cách phù hợp và tích cực có thể đáp ứng nhiều mục
tiêu về cả kiến thức và kĩ năng.
- Chương trình của SGK địa lí 11 được xây dựng theo con đường diễn dịch và
có 2 phần lớn sau đây:
+ Phần A: khái quát nền kinh tế xã hội thế giới.
+ Phần B địa lí khu vực và quốc gia.
Có thể nói chương trình Địa lí 11 là nội dung phù hợp nhất để chúng ta có thể đưa tranh
biếm họa vào dạy học.
2.1.2. Hứng thú và nhận thức của học sinh
- Hứng thú của học sinh: Lần đầu tiên được tiếp cận với trạnh biếm họa học sinh
đa số rất hào hứng nhất là những học sinh khá và giỏi.
- Nhận thức của học sinh: Các em học sinh THPT ngày nay ở Việt Nam đã đạt tới một
sự hoàn thiện nhất định về thể chất. Do được tiếp cận với công nghệ thông tin và
phương tiện truyền thông hiện đại nên đã thu nhận một khối lượng thông tin về cuộc
sống của xã hội hiện đại lớn hơn rất nhiều, vì thế sự gia tốc về tâm lí đã xuất hiện và
bộc lộ rõ nét. Đây sẽ là một thuận lợi rất lớn khi sử dụng tranh biếm họa trong dạy học
Địa lí nói chung và dạy học Địa lí 11 nói riêng.
2.1.3. Điều kiện dạy và học địa lí hiện nay
Sự bùng nổ của công nghệ thông tin, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sự đầu
tư về cơ sở vật chất kỹ thuật hạ tầng sẽ mang lại rất nhiều điều kiện để thực hiện phục
vụ cho việc khai thác, tìm kiếm tranh biếm họa, giảng dạy tiết học địa lí có rất nhiều
chuyển biến tích cực và ngày càng được hiện đại nhất là các phòng học chuẩn, phòng
khai thác Internet, phòng học máy chiếu…
2.2. Những thách thức khi đưa tranh biếm họa vào dạy học Địa lí- THPT

* Thách thức đối với giáo viên: Là một hướng đi khá mới trong dạy học Địa lí, nên đưa
tranh biếm họa vào dạy học cũng gặp rất nhiều khó khăn nhất là đối với GV:
- GV còn chưa hiểu sâu sắc được khái niệm thế nào là tranh biếm họa? Tranh
biếm họa được áp dụng trong những bài học nào? Và khi áp dụng tranh biếm họa vào
bài dạy của mình liệu học sinh có thể hiểu được những ý tưởng mà giáo viên muốn
truyền đạt các thông tin liên quan đến bài học hay không?

113


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

- Tranh biếm họa thường gây khó khăn cho cả người dạy và người học khi giải
thích một vài lý do có liên quan đến chính bức tranh biếm họa đó khiến cho học sinh thụ
động hơn rất nhiều so với các kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa.
- Để phân tích và chỉ ra được ý nghĩa địa lý sâu sắc nhất được rút ra qua một bức
tranh biếm họa có chủ đề địa lí giáo viên mất rất nhiều thời gian và việc truyền đạt cho
học sinh hiểu được ý nghĩa đó cũng là một nghệ thuật lớn.
- Một nguyên nhân nữa khiến cho việc đưa tranh biếm họa vào dạy học địa lí hiện
nay vẫn là một thách thức đó là xuất phát từ thái độ của giáo viên: Họ ngại thay đổi, rất ít
muốn thay đổi chỉ muốn truyền đạt vào các kiến thức cơ bản trong SGK.
* Thách thức đối với học sinh: Học sinh khó hiểu được ý nghĩa sâu sắc của tranh biếm
họa và thông điệp mà bức tranh truyền đạt nhất là đối với học sinh có sức học trung
bình và yếu.
- Khai thác hệ thống tranh biếm họa theo chủ đề còn hạn chế do chưa có 1 hệ
thống các tranh biếm họa theo chủ đề một cách cụ thể, nó đòi hỏi HS phải khai thác sâu
thêm trên Internet và báo chí.
* Điều kiện dạy học Địa lí ở trường THPT hiện nay.
- Khó khăn lớn nhất là hệ thống tranh biếm họa không có trong sách giáo khoa
và chương trình.

- Hệ thống tranh biếm họa theo chủ đề phục vụ cho dạy học Địa lí còn thiếu và
không hệ thống.
- Các điều kiện dạy học như: hệ thống máy tính, phòng học chuẩn, khai thác Internet,…
còn khó khăn, không mang tính đại trà nhất là đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Những khó khăn này không dễ dàng khắc phục vì vậy việc đưa tranh biếm họa vào dạy học
trên phạm vi rộng là không thể thực hiện được trong thời điểm hiện nay.
3. Sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Địa lí lớp 11- THPT
3.1. Khả năng sử dụng tranh biếm họa trong các bài học Địa lí
- Giáo viên có thể sử dụng tranh biếm họa trong các bước lên lớp đó là: Khâu mở bài,
củng cố, khắc sâu kiến thức sau 1 phần trong bài học và khâu kết luận bài học khi kết thúc.
- Hình thức sử dụng đó là: Giáo viên sử dụng để gợi ý học sinh giải mã tranh
biếm họa. Học sinh làm việc độc lập với tranh biếm họa.
- Trong một bài học thông thường nên sử dụng 1- 2 tranh biếm họa với khoảng
thời gian ngắn khoảng 3- 5 phút.
- Khi giáo viên sử dụng tranh biếm họa cần đặt ra các câu hỏi giúp học sinh giải
mã tranh. Hệ thống câu hỏi đó là:
+ Các sự kiện hay vấn đề quan trọng trong tranh biếm họa đó là gì?
+ Ai là nhân vật trong tranh biếm họa đó?

114


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

+ Có những biểu tượng trong tranh biếm họa đó không? Vậy chúng đại diện cho những
ai và nhân vật nào?
+ Bạn có đồng ý hay không đồng ý với người vẽ tranh biếm họa? Tại sao?
+ Khái niệm địa lí có liên quan đến việc giải quyết các vấn đề trong tranh biếm họa hay không?
+ Ý nghĩa địa lí của các vấn đề được nêu ra trong tranh biếm họa?
+ Bạn có thể phát biểu chủ đề của bức tranh biếm họa đó không? Hoặc là thông tin nào

trong tranh biếm họa cần được truyền đạt?
Sử dụng tranh biếm họa trong quá trình tự học của học sinh: Với mục tiêu:
“Biến quá trình đào tạo thành quá trình tự đào tạo”, việc tự học của học sinh có ý nghĩa
quan trọng. Tự học chính là quá trình tự rèn luyện kiến thức và kỹ năng của mình, nhất
là đối với việc tự học bằng tranh biếm họa. Giáo viên chú ý đến đến khâu này bằng cách
giao cho học sinh tìm kiếm những tranh biếm họa theo chủ đề và tự mình khám phá ý
nghĩa sâu xa của những bức tranh đó. Đây cũng như là một dạng của bài tập nhận thức
gắn liền với việc khai thác kiến thức từ tranh biếm họa có chủ đề địa lí.
Dù sao thì trong việc sử dụng tranh biếm họa với dạy học địa lí thì giáo viên vẫn phải là
người chủ động tìm kiếm, hiểu và hướng dẫn học sinh phải khai thác tranh biếm họa.
3.2. Khả năng sử dụng tranh biếm họa trong dạy học Địa lí lớp 11- THPT
Chương trình Địa lí lớp 11- THPT cung cấp các kiến thức về địa lí kinh tế- xã
hội thế giới cũng như của các quốc gia như Hoa Kỳ, Nga…Do vậy, hầu hết bài nào
cũng có khả năng đưa tranh biếm họa vào trong quá trình dạy học. Tuy nhiên, tùy theo
từng bài cụ thể mà có khả năng đưa vào trong bước mở bài hay củng cố và kết luận lại
vấn đề của toàn bài.
3.3. Hướng dẫn giải mã một số tranh biếm họa phục vụ trong dạy học Địa lí lớp 11- THPT
Giáo viên có thể đưa ra 1 bức tranh biếm họa khi mở đầu bài mới, hoặc sau khi kết
thúc một phần hay kết luận lại sau khi học xong bài bằng cách đặt ra các câu hỏi liên quan
đến bức tranh và yêu cầu học sinh trả lời ý nghĩa của bức tranh bằng các vấn đề địa lí.
Lấy ví dụ:
Đây là một biểu tượng bức tranh
có chủ đề chính là sự chênh lệch trình độ
giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển.
Bức tranh này có thể được áp dụng trong
việc giảng dạy ba bài sách giáo khoa:
bài 1 (Sự tương phản về trình độ phát
triển kinh tế- xã hội của các nhóm nước
trên thế giới. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại), bài 5 (Một số vấn đề

của châu lục và khu vực. Một số vấn đề của châu Phi) và bài 6 (Hợp chủng quốc Hoa

115


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

Kỳ). Sau mỗi phần hoặc mỗi bài học đều có thể đưa ra được tranh biếm họa trên. Đối
với từng nội dung cụ thể trong bài cần khắc sâu mà có cách lí giải khác nhau về bức
tranh trên.
KẾT LUẬN
Sử dụng hợp lí tranh biếm họa trong dạy học nói chung và dạy học Địa lí nói riêng
nhất là trong chương trình Địa lí lớp 11- THPT có khả năng mang đến những giá trị, ý
nghĩa vượt ra ngoài những mục tiêu mà giáo dục yêu cầu. Nó không chỉ rèn luyện khả năng
tư duy logic, trí tưởng tượng mà còn cung cấp cho học sinh một khối lượng thông tin to lớn
về chính trị - xã hội và định hướng hành động cho các em. Đây sẽ là một bước tiến mới
trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy trong nhà trường ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên
hiện nay việc áp dụng tranh biếm họa trong dạy học Địa lí một cách đại trà cũng gặp không
ít khó khăn, thử thách.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Dr. Grant Kleeman. Using Cartoons to Investigate Geographical Issues, Macquarie
University–Sydney.
[2] Đặng Văn Đức, Nguyễn Thị Thu Hằng, 2004. Phương pháp dạy học địa lí theo
hướng tích cực. NXB ĐHSP.
[3] Đinh Thị Thu Trang, 2006. Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học địa lí lớp 12THPT theo hướng tích cực (SGK thí điểm ban KHTN). Khóa luận tốt nghiệp, ĐHSPHN.

PHƯƠNG PHÁP KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG KÊNH HÌNH TRONG DẠY HỌC
ĐỊA LÝ LỚP 11 - THPT (BAN CƠ BẢN) THEO HƯỚNG TÍCH CỰC
Sinh viên thực hiện: Phạm Văn Hải, K56B
Cán bộ hướng dẫn khoa học: Ths Đoàn Thị Thanh Phương

ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm qua cùng với đổi mới chương trình thì sách giáo khoa Địa lý
cũng có nhiều cải cách đáng kể về nội dung và phương pháp dạy học mới. Hiện nay sách
giáo khoa đã thực hiện cải cách đến chương trình lớp 11 so với các sách giáo khoa cũ thì đã
có nhiều ưu điểm hơn không chỉ ở việc bổ sung thêm kênh hình như bản đồ, lược đồ, biểu
đồ... cũng khá phong phú và đa dạng. Do đó việc đổi mới phương pháp dạy và học bộ môn
Địa Lý cũng đồng thời phải gắn với việc tìm ra các phương pháp khai thác và sử dụng hiệu
quả kênh hình trong sách giáo khoa.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Trong hoàn cảnh nền kinh tế xã hội ở trong nước và thế giới đã có nhiều biến
đổi to lớn và sâu sắc thì môi trường dạy học ở các trường THPT đang chuyển biến

116


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

nhanh trong quá trình cải cách và thay đổi tâm lý và nhận thức của học sinh THPT
đang có những thay đổi quan trọng khác về chất so với học sinh THCS.
So với học sinh THCS, học sinh THPT trong đó có học sinh lớp 11 đã hoàn
thiện hơn về mặt thể chất sự ổn định hơn về phát triển của bộ não và chức năng thần
kinh. Hơn nữa học sinh THPT thể hiện mạnh mẽ ý thức, động cơ học tập, tính năng
động, tính tích cực, chủ động trong các hoạt động nhận thức. Những đặc điểm này tạo
nên những điều kiện cơ bản thuận lợi cho việc phát huy tính tích cực chủ động tự giác
độc lập sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức.
Với đặc điểm tâm sinh lý và khả năng nhận thức của các em như vậy việc sử
dụng kênh hình một cách khoa học trong giảng dạy và học tập Địa lý là điều rất cần
thiết và tạo hứng thú cho học sinh giúp các em trong việc nắm các dấu hiệu bản chất của
sự vật hiện tượng địa lý thông qua những biểu tượng trực quan.

Trong thực thế giảng dạy Địa lí ở trường THPT việc sử dụng kênh hình còn
nhiều hạn chế do giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò của hệ thống kênh hình.
Nhiều người cho rằng đó chỉ là đồ dùng trực quan vì vậy việc sử dụng các bản đồ,lược
đồ chỉ đẻ minh hoạ kiến thức mà giáo viên trình bầy.Kết quả thăm dò và điều tra ở
trường THPT Tô Hiệu,THPT Chiềng Sinh, THPT Mai Sơn (Sơn La), cho thấy đã có
một số bài sử dụng kênh hình nhưng phần lớn là sử dụng chưa đúng cách,chưa khai thác
được óc tư duy của học sinh.
2. Phương pháp khai thác kênh hình trong dạy học địa lý 11 (ban cơ bản)
2.1.Đặc điểm, nội dung và cấu trúc chương trình địa lý lớp 11
Sách giáo khoa Địa lí KT-XH lớp 11 được biên soạn theo tinh thần cải cách. Để
chuyển tải được khối lượng kiến thức không nhỏ đó cuốn sách đã tạo ra một cấu trúc và
hình thức trình bày phù hợp, thể hiện được phương pháp mới, động viên sự tiếp thu chủ
động, tích cực của học sinh.Trong SGK ngoài kênh chữ còn có kênh hình. Hiện nay kênh
hình đã có nhiều tiến bộ và có nhiều cải tiến đáng kể so với trước đây, cả về số lượng lẫn
chất lượng. Số lượng các lược đồ, biểu đồ... đã tăng nhưng tỉ lệ ít hơn so với các lớp THCS.
Về chất lượng nhiều lược đồ, biểu đồ có nội dung khá phong phú, trình bày rõ ràng, phù
hợp với nội dung bài học.
Kênh hình của SGK Địa lí lớp 11 gồm 25 lược đồ,11 tháp dân số, 2 lát cắt và 50
bảng số liệu. Tuy vậy chất lượng của kênh hình trong SGK Địa lí 11 vẫn còn một số tồn
tại cần khắc phục, điều chỉnh.
Bộ môn Địa lí ở trường phổ thông được xây dựng theo cấu trúc đồng tâm, và
Địa lí kinh tế xã hội lớp 11 là sự nối tiếp và mở rộng những kiến thức. Nội dung sâu
rộng hơn với lượng kiến thức và kĩ năng phù hợp với trình độ phát triển tư duy và đặc
điểm tâm lí lứa tuổi học sinh lớp 11.
Chương trình Địa lí lớp 11 với tiêu đề Địa lí cơ sở được bố trí như sau:

117


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010


Phần 1: Địa lí tự nhiên.
Phần2: Địa lí KT-XH.
2.2. Sử dụng kênh hình trong các khâu của quá trình dạy học địa lý
- Cách sử dụng kênh hình khi soạn bài
Trong khi soạn bài, kênh hình được sử dụng như một công cụ nghiên cứu và khi
truyền thụ trên lớp, chúng trở thành đối tượng nghiên cứu.
Giáo viên cần xác định được mục tiêu bài học về kiến thức, kĩ năng và thái độ hành
vi sau đó chuẩn bị đồ dùng cần thiết, đặc biệt là kênh hình (gồm bản đồ, biểu đồ, lược đồ...)
để nghiên cứu kênh hình đó tương ứng với nội dung ở đề mục nào. trên cơ sở hướng dẫn sử
dụng đã được xác định giáo viên tiến hành phân tích và đưa ra chỉ tiêu đánh giá; từ đó chọn
nội dung kênh hình phù hợp và xác định phương pháp truyền thụ tại lớp.
- Sử dụng kênh hình trong khâu kiểm tra kiến thức:
Giáo viên có thể sử dụng các bản đồ giáo khoa treo tường, kênh hình trong SGK
Địa lí 11 hoặc biểu đồ, lược đồ tự vẽ để kiểm tra kiến thức học sinh, dưới hình thức vấn
đáp hoặc trắc nghiệm.
- Sử dụng kênh hình khi giảng bài mới:
Trong mỗi giờ giảng,người giáo viên vừa trang bi kiến thức Địa lí,vừa rèn luyện
kỹ năng Địa lí đồng thời hướng dẫn học sinh phương pháp học Địa lí bằng kênh hình.
Đối với việc trang bị kiến thức cho học sinh thì việc hình thành biểu tượng, khái
niệm và quy luật Địa Lí là một trong những nhiệm vụ quan trọng. Để hoàn thành nhiệm
vụ này rất cần thiết đến vai trò của kênh hình và các phương tiện thiết bị dạy học khác.
Nếu bài giảng gắn liền với kênh hình thì học sinh phải luôn làm việc, vừa nhìn vừa
nghe, suy nghĩ và ghi chép; qua đó phát huy tính tích cực của các em và tham gia xây
dựng bài một cách hứng thú. Những câu hỏi mà giáo viên đặt ra không đơn thuần là gợi
lại kiến thức, mà phải kích thích học sinh suy nghĩ, tìm hiểu bài.
- Sử dụng kênh hình để củng cố kiến thức:
Đây là khâu khá quan trọng giúp cho giáo viên nắm bắt được tình hình tiếp thu
kiến thức vừa học của học sinh. Để thực hiện được khâu này giáo viên có thể sử dụng
các bản đồ, lược đồ, sơ đồ, mô hình, tranh ảnh .... kết hợp với một số câu trắc nghiệm

ngắn gọn giúp học sinh củng cố lại bài học và nhớ kiến thức lâu hơn.
- Sử dụng trong khâu tự học của học sinh:
Giáo viên cần đưa ra các bài tập về nhà cho các em. Giáo viên cần chuẩn bị các
bài tập nhận thức gắn với kênh hình trong SGK, các bản đồ câm (lược đồ), bài tập vẽ
biểu đồ, đồ thị, sưu tầm tranh ảnh...
2.3. Phương pháp sử dụng kênh hình trong dạy học Địa Lý lớp 11 (ban cơ bản)
Dạy học Địa lí có nhiều phương pháp thực hiện điều đó và kênh hình trong dạy
học Địa lí được sử dụng với hai chức năng: Minh họa và làm nguồn tri thức. Theo quan

118


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

điểm dạy học tích cực thì chức năng làm nguồn tri thức có vai trò quan trọng. Để
hướng dẫn học sinh khai thác kênh hình, giáo viên có thể sử dụng hai cách sau:
* Giáo viên dựa vào kênh hình để đặt câu hỏi dẫn dắt học sinh căn cứ vào đó tìm
ra lời giải đáp. Như vậy quá trình dạy học tựa như một cuộc đàm thoại giữa thầy và trò.
Trong quá trình đó học sinh luôn phải suy nghĩ động não để tìm tòi, phát hiện tri thức.
* Giáo viên căn cứ vào nguồn tri thức nêu thành một số vấn đề, ghi lên bảng, sau
đó học sinh tự làm với nguồn tri thức. Khi đó giáo viên có nhiệm vụ kiểm tra việc khai
thác tri thức của học sinh, bổ sung và xác nhận kết quả công việc làm của học sinh.
Kênh hình có thể khai thác từ nhiều nguồn khác nhau và thực hiện phương pháp trên
đòi hỏi giáo viên chuẩn bị trước thật kĩ thìviệc lĩnh hội tri thức của học sinh thuận lợi hơn.
KẾT LUẬN
Sử dụng kênh hình trong dạy học Địa lí lớp 11 là một hướng mới, có tác dụng
lớn đối với việc nâng cao chất lượng dạy học địa lí ở trường phổ thông. Hiện nay
phương pháp này đã và đang được sử dụng trong nhiều trường học và rất thích hợp với
quá trình giảng dạy địa lí.
Trong quá trình nghiên cứu, bài làm đã xác định được cơ sở lí luận và cơ sở thực

tiễn của việc sử dụng kênh hình.
Đề tài đã xây dựng hệ thống phương pháp sử dụng kênh hình cho học sinh nhằm
rèn luyện cho các em những kĩ năng Địa lí ở nhiều khâu khác nhau như bài soạn, truyền thụ
trên lớp, củng cố kiến thức, tự học... các hình thức đưa ra đều nhằm giúp học sinh khai thác
triệt để những kiến thức Địa lí qua kênh hình từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau.
Đề tài cũng đã nghiên cứu tính hiệu quả của phương pháp bằng cách tiến hành
thực nghiệm với nhiều loại kĩ năng khác nhau. đó là các kĩ năng đọc và phân tích bản
đồ, lược đồ, kĩ năng phân tích biểu đồ tranh ảnh
Tuy nhiên bài nghiên cứu vẫn còn một số hạn chế do thời gian không cho phép
nên bài làm chỉ thực nghiệm một số bài trong trường,... rất mong thầy cô và các bạn
quan tâm đóng góp cho bài.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc, Đặng Văn Đức. Lí luận dạy học địa lý . NXB
ĐHSP HN, 1991
[2] Nguyễn Dược, Nguyễn Trọng Phúc. Lý luận dạy học địa lý. NXB ĐHQG Hà Nội, 2003.
[3] Đặng Văn Đức, Nguyễn Thị Thu Hằng. Kỹ thuật dạy học địa lý ở trường phổ thông.
NXB Giáo dục 1999.
[4] Lâm Quang Dốc, Nguyễn Quang Vinh. Hướng dẫn sử dụng kênh hình trong SGK
địa lý 10. NXB Giáo dục 2007.
[5] Nguyễn Thị Thu Hằng. Thiết kế bài giảng trong dạy học Địa Lý. Thông tin khoa
học, tháng 8/2003.

119


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

ỨNG DỤNG CÔNG THỨC GIPO VÀO VIỆC ĐỔI MỚI THIẾT KẾ
BÀI HỌC ĐỊA LÍ KINH TẾ - XÃ HỘI THẾ GIỚI LỚP 11 - THPT
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Hoa - K57TN

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Đức Tuấn
ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học là một trong những vấn đề được ngành
giáo dục lấy làm nhiệm vụ trọng tâm. Trong những năm gần đây, dạy học Địa lý ở các
trường THPT đã có những bước chuyển biến tích cực nhưng vẫn chưa đáp ứng được
những yêu cầu của cải cách giáo dục. Chính vì vậy mà vấn đề đổi mới phương pháp dạy
học Địa lí theo hướng tạo ra nhiều cơ hội để “học sinh tích cực hơn,suy nghĩ nhiều hơn
và làm việc nhiều hơn” là một nhiệm vụ quan trọng của người giáo viên địa lí ở các
trường THPT. Đổi mới phương pháp dạy học đòi hỏi phải đổi mới một cách toàn diện,
đồng bộ tất cả các khâu và các bộ phận của quá trình dạy học Địa lí. Tuy nhiên,việc đổi
mới cần phải bắt đầu từ việc đổi mới thiết kế bài học Địa lí vì thực tế đã chứng minh
rằng kết quả của việc đổi mới thiết kế bài học địa lí có ảnh hưởng đến việc thực hiện
thành công toàn bộ quá trình đổi mới dạy học ở trường THPT. Việc ứng dụng công thức
GIPO không chỉ đáp ứng được yêu cầu đổi mới thiết kế bài học nói chung mà còn góp
phần nâng cao hiệu quả dạy và học Địa lí nói riêng.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của việc đổi mới thiết kế bài học Địa lí lớp 11 THPT theo công thức GIPO
1.1. Cơ sở lí luận
Trong thời gian gần đây, dạy học Địa lí trong nhà trường THPT đã có nhiều
chuyển biến mạnh mẽ theo hướng tích cực và đã đạt được những kết quả đáng kể. Quá
trình đổi mới dạy học Địa lí đã được khởi xướng từ những năm đầu thập kỉ 90 của thế
kỉ XX và được đẩy mạnh trong những năm gần đây. Tuy nhiên, phương pháp dạy học
Địa lí hiện nay ở các trường THPT phần lớn vẫn thiên về thuyết trình và đàm thoại, chất
lượng dạy và học Địa lí vẫn chưa cao. Để nâng cao chất lượng dạy học Địa lí có rất
nhiều biện pháp khác nhau nhưng trước hết đó là phải đổi mới thiết kế bài học Địa lí, vì
việc thiết kế bài học có tính chất quyết định đến thành công của bài giảng, đến việc tổ
chức các hoạt động dạy học của giáo viên. Chính vì vậy mà việc đổi mới thiết kế bài
học là hết sức cần thiết.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Thực trạng của việc đổi mới thiết kế bài học Địa lí ở THPT

Thực tế hiện nay cho thấy, đa số giáo viên vẫn thường thiết kế bài học Địa lí theo
kiểu " lấy giáo viên làm trung tâm", tuy nhiên cũng có một số giáo viên đã có thiết kế bài
học theo xu hướng đổi mới. Chẳng hạn như trong bản thiết kế bài học, giáo viên đã giảm

120


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

bớt những hoạt động của giáo viên và tăng cường thêm các hoạt động của học sinh.
1.2.2. Về phương pháp trình bày bài giảng
Hiện nay, đa phần giáo viên vẫn trình bày bài giảng theo hướng đó là giáo viên
giảng và học sinh ghi chép một cách thụ động. Số lượng giáo viên trình bày bài giảng
theo kiểu phát huy tính tích cực hoạt động của học sinh không nhiều.
Nguyên nhân của tình trạng trên xuất phát từ cả giáo viên và học sinh, giáo viên
thì do đã quen với kiểu thiết kế truyền thống và ngại tiếp cận với kiểu thiết kế mới còn
học sinh thì đa số các em chưa tích cực trong việc học tập Địa lí, nhiều em vẫn cho rằng
Địa lí là môn học phụ.
1.2.3. Trình độ nhận thức của học sinh lớp 11
Học sinh lớp 11 là những em trung bình từ 16 -17 tuổi, đây là lứa tuổi đang
trong quá trình hoàn thiện về mặt thể chất, sự phát triển ổn định của bộ não và chức
năng thần kinh tạo nên những điều kiện tối ưu cho sự phát triển các hoạt động nhận thức
của các em. Các em luôn luôn nhiệt tình hoạt động không mệt mỏi, đặc biệt là luôn
muốn thể hiện mình trước mọi người nên tự đặt ra những câu hỏi và tìm tòi, sáng tạo ra
những cách giải quyết mới. Vì vậy phương pháp truyền thống không còn phù hợp với
lứa tuổi này, đây chính là cơ sở quan trọng để giáo viên tìm ra phương pháp thích hợp
nâng cao hiệu quả dạy học.
2. Đổi mới thiết kế bài học Đại lí lớp 11 - THPT theo quan điểm công nghệ dạy học
nói chung và theo công thức GIPO nói riêng.
2.1. Thiết kế bài học theo quan điểm công nghệ dạy học:

ĐẦU VÀO
Trình độ xuất phát
của người học về
- Kiến thức
- Kĩ năng
- Hành vi-Thái
độ

BỘ PHẬN TÁC ĐỘNG

KĨ THUẬT
CON NGƯỜI
THÔNG TIN

TỔ CHỨC

ĐẦU RA
Kết quả đạt được ở
người học về
- Kiến thức
- Kĩ năng
- Hành vi-Thái
độ

Hình 1: Sơ đồ về các bộ phận cấu thành của công nghệ dạy học
2.2. Thiết kế bài học theo công thức GIPO
2.2.1. GIPO là gì?
GIPO là chữ viết tắt gồm 4 chữ cái đầu của tiếng anh (Goal, Input, Process và
Ouput). Trong đó:
- G (Goal): Là mục tiêu của bài học hoặc mục tiêu hoạt động của thầy- trò.


121


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

- I (Input): Là đầu vào bao gồm các yếu tố sau học sinh (trình độ, khả năng, nhận
thức…) và phương tiện như các loại thiết bị,máy móc (phần cứng) và SGK, tài liệu in
ấn (phần mềm),thời gian dạy học.
- P (Process): Đây là quá trình tương tác giữa thầy và trò; giữa trò và trò để đạt được
mục tiêu.
- O (Out put) – Đầu ra: Là sản phẩm cuối cùng của bài học .Đó có thể là sơ đồ,biểu đồ,
lời giải của một bài tập nhận thức…). Sản phẩm có thể được thể hiện bằng bài viết, có thể
là lời của các thao tác tư duy hành động, có thể là thao tác tư duy hành động hoặc cả hai.
2.2.2. Quy trình và kĩ thuật thiết kế bài học Địa lí lớp 11 theo công thức GIPO
- Bước 1: Xác định mục tiêu bài dạy
Mục tiêu của bài học chính là các kiến thức, kĩ năng, phuơng pháp hay hành vi
thái độ mới, cơ bản mà thông qua bài học học sinh cần phải đạt tới. Ngoài việc xác định
các mục tiêu có tính khả thi về mặt nhận thức (theo các mức độ khác nhau theo phân
loại của Bloom), thì việc xác định một số lượng vừa phải các mục tiêu (nên giới hạn từ
2-3 mục tiêu chính) cho một bài học là điều hết sức cần thiết.
- Bước 2: Lựa chọn và xác định yếu tố đầu vào
Giáo viên cần phải chú ý rằng kiến thức, kĩ năng sẵn có của học sinh là một
nguyên liệu đầu vào rất quan trọng để thiết kế các hoạt động thích. Bên cạnh đó, thời
gian, phương tiện-công cụ dạy học cũng như qui mô và không gian lớp học… cũng là
những yếu tố đầu vào rất cơ bản cần được chú ý khi thiết kế bài học theo công thức GIPO.
- Bước 3: Thiết kế các hoạt động dạy học của thầy và trò
Các quá trình nhận thức theo kiểu qui nạp hay diễn dịch, cũng như các quá trình học
tập theo kiểu nêu vấn đề, tìm tòi khám phá hay mang đặc tính tương tác cao (dạy học hợp
tác) cần được giáo viên tính đến khi thiết kế các hoạt động cụ thể.

- Bước 4: Xác định cách thức củng cố, kiểm tra và đánh giá sản phẩm
Bản thiết kế một hoạt động dạy học cần phải thể hiện rõ là học sinh sẽ đạt được
những kiến thức và kĩ năng cụ thể gì sau khi tham gia thực hiện một hoạt động và điều
đó có thể kiểm chứng, đo lường được.
2.2.3. Điều kiện để thiết kế và thực hiện bài học được thiết kế theo công thức GIPO
Có thể thấy, so với việc thiết kế bài học theo hình thức thông thường thì việc
thiết kế bài học theo công thức GIPO là khá mới mẻ, phức tạp và đòi hỏi nhiều tư duy.
Vì vậy, đòi hỏi một số điều kiện khá khắt khe nhất là với giáo viên sau đó là đến học
sinh và phương tiện dạy học.
- Đối với giáo viên: Khi thiết kế bài học theo công thức GIPO thì trước tiên, người
giáo viên phải có được những hiểu biết nhất định về quan niệm đổi mới phương pháo dạy
học nói chung và nhất là quan điểm đổi mới phương pháp dạy học theo công thức GIPO.
- Đối với học sinh: Học sinh phải có khả năng để thích ứng với phương pháp dạy học

122


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

mới. Học sinh phải có mục đích học tập rõ ràng, có ý thức trách nhiệm về kết quả học tập của
mình cũng như của lớp, biết phát huy năng lực tự học và khả năng tư duy, phân tích vấn đề…
- Điều kiện về phương tiện và thiết bị dạy học: Trước tiên, đó là sách giáo khoa
vì đây là phương tiện cơ bản và cần thiết nhất trong khi tiến hành thiết kế bài học và
giảng dạy. Bên cạnh SGK thì hệ thống các bản đồ và lược đồ cũng rất quan trọng và các
phương tiện hiện đại hơn như máy chiếu, máy tính…
3. Thiết kế mẫu bài học Địa lí lớp 11 - THPT theo công thức GIPO
3.1. Chương trình Địa lí lớp 11
Chương trình Địa lí lớp 11 nằm trong hệ thống chương trình Địa lí PTTH, trang
bị cho học sinh những kiến thức về địa lí kinh tế xã hội thế giới, tình hình của thế giới
trong thời gian gần đây theo cách đi từ những kiến thức khái quát đến những kiến thức

cụ thể. Và từ những khái niệm, những quy luật chung về Địa lí kinh tế – xã hội, đến đặc
điểm riêng về kinh tế và xã hội của các khu vực, nhóm nước, và đi vào cụ thể một số
nước tiêu biểu. Chương trình bao gồm hai mảng nội dung chính là:
- Phần A: Khái quát nền kinh tế - xã hội thế giới.
- Phần B: Địa lí khu vực và quốc gia .
Thêm vào đó, hệ thống phương tiện dạy học phong phú như hệ thống bản đồ, biểu đồ
và các bảng số liệu. Tất cả những yếu tố đó cho phép giáo viên dễ dàng lựa chọn các
phương pháp dạy học để thiết kế bài học theo quan điểm công nghệ dạy học nói chung
và theo công thức GIPO nói riêng.
3.2. Thiết kế bài học cụ thể trong chương trình Địa lí lớp 11 theo công thức GIPO
Dựa trên cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc thiết kế bài học theo công thức
GIPO, cũng như là quy trình thiết kế bài học theo công thức GIPO, tác giả đã thiết kế
bài học cụ thể trong chương trình Địa lí lớp 11 để minh họa cụ thể cho báo cáo.
KẾT LUẬN
Đề tài đã đi vào nghiên cứu về quy trình cũng như kĩ thuật thiết kế bài học theo
quan điểm công nghệ dạy học mà cụ thể là theo công thức GIPO, góp phần vào việc đổi
mới phương pháp dạy học Địa lí và nâng cao chất lượng dạy và học Địa lí hiện nay ở các
trường THPT. "Ứng dụng công thức GIPO vào việc đổi mới thiết kế bài học Địa lí kinh tế –
xã hội thế giới lớp 11” nhằm tạo ra một mẫu thiết kế khoa học, dễ hiểu và đáp ứng phần nào
yêu cầu của giáo viên hiện nay là hết sức cần thiết và có tính thực tiễn sâu sắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đặng Văn Đức, Nguyễn Thu Hằng. Phương pháp dạy học địa lý theo hướng tích
cực.NXB ĐHSP 2003
[2] PGS.TS Trần Đức Tuấn. Mô hình thiết kế bài học Địa lí theo quan điểm công nghệ dạy học.
[3] Lê Thông (Tổng chủ biên), Nguyễn Thị Minh Phương (Chủ biên) và nhiều tác giả
khác - Địa lí 11 SGK ban Cơ bản. NXB Giáo dục 2009.

123



Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

ĐA DẠNG HOÁ CÁC BÀI TẬP NHẬN THỨC TRONG DẠY HỌC
ĐỊA LÝ 11- THPT
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Thị Hạnh, K57TN
Giáo viên hướng dẫn: PGS.TS Trần Đức Tuấn
ĐẶT VẤN ĐỀ
Để nâng cao hiệu quả của quá trình dạy và học, việc sử dụng bài tập nhận thức
(BTNT) trong dạy học được xem là một phương pháp có nhiều ưu điểm. Việc sử dụng
BTNT đúng lúc, đúng chỗ sẽ tăng cường hoạt động nhận thức độc lập, tích cực của học
sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng bài tập nhận thức vào bài giảng sao cho đúng lúc, đúng
chỗ không phải là đơn giản. Chất lượng của một giờ học tốt hay không phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố. Đặc biệt, với thời gian 45 phút thì bên cạnh xây dựng những BTNT
khó cần nhiều thời gian, còn phải có những BTNT chỉ cần ít thời gian là có thể hoàn
thành. Và yêu cầu bức thiết đặt ra là cần phải thực hiện đa dạng hóa các BTNT, để có
thể áp dụng linh hoạt cho mọi đối tượng học sinh, mọi lớp học, và mọi thời gian.
NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc đa dạng hoá BTNT
1.1. Khái niệm BTNT và ý nghĩa của việc sử dụng BTNT trong dạy học lớp 11 – THPT
BTNT là một thành tố cơ bản trong công tác độc lập của học sinh, để phát huy
tính tích cực, độc lập nhận thức của học sinh giúp phát triển những năng lực trí tuệ và
phẩm chất nhân cách quý báu của học sinh trong nhà trường hiện đại. Mặt khác, BTNT
còn được xem là các bài toán nhận thức, bao gồm các thành tố cơ bản cái cho, cái tìm,
và chương trình giải (algorit).
Ý nghĩa: BTNT sẽ tăng cường hoạt động nhận thức tích cực, độc lập của học sinh.
Thông qua quá trình nhận thức này sẽ giúp cho học sinh hiểu kiến thức một cách bản chất,
chắc chắn và vận dụng được vào thực tiễn, không dễ gục ngã trước những hoàn cảnh khó
khăn. Sử dụng BTNT trong dạy học chính là công cụ để hình thành kiến thức mới và hoàn
thiện kiến thức đã có. Đồng thời còn là công cụ để hình thành thế giới quan khoa học cho
học sinh, phát triển tư duy năng lực thực hành.

1.2. Bản chất của việc dạy học bằng BTNT và phân loại BTNT
Bản chất của quá trình dạy học bằng các BTNT là sự phối hợp thống nhất hoạt
động chỉ đạo của thầy và hoạt động lĩnh hội tích cực, tự lực, sáng tạo của trò nhằm làm
cho trò đạt tới mục đích dạy học. Việc sử dụng BTNT vào quá trình dạy học là thực
hiện thay đổi quan điểm dạy học từ “Lấy thầy làm trung tâm”, sang “Lấy học sinh làm
trung tâm”, phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo trong nhận thức của học sinh.
Có nhiều căn cứ để phân loại BTNT. Có thể có những dạng BTNT sau: BTNT
hình thành khái niệm chung, khái niệm riêng, khái niệm tập hợp, mối quan hệ nhân quả, BTNT tìm tòi hay BTNT biến đổi, xây dựng, BTNT alogit- orixtic…

124


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

2. Sự cần thiết phải đa dạng hoá các BTNT trong dạy học Địa Lý lớp 11-THPT
2.1. Tại sao phải đa dạng hóa các BTNT
Ở đây, ta có thể hiểu đa dạng hóa có nghĩa là tạo ra nhiều dạng cho BTNT và đa
dạng hóa về tất cả các khía cạnh, cả hình thức thể hiện, cả mục đích sử dụng (như hình
thành kiến thức mới, củng cố kiến thức cũ hay để kiểm tra, đánh giá…). Sự đa dạng hóa
hình thức biểu hiện của BTNT một mặt sẽ làm giảm bớt sự đơn điệu, lặp đi lặp lại về
loại hình của BTNT và làm tăng sự chú ý và hứng thú của học sinh. Thứ hai là chất
lượng dạy học phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mục đích, yêu cầu của từng chương,
từng bài, trình độ của học sinh trong lớp, điều kiện dạy học và thời gian dành cho các
BTNT. Vì vậy, bên cạnh những BTNT đòi hỏi học sinh phải có sự căng thẳng về trí lực
và thể lực mới có thể hoàn thành được trong khoảng thời gian trên dưới 10 phút thì còn
có những BTNT chỉ đòi hỏi một khoảng thời gian ngắn là học sinh có thể hoàn thành
được. Mặt khác, việc đa dạng hóa BTNT còn có tác dụng giúp học sinh hình thành .
củng cố kiến thức, đánh giá được trình độ, kiến thức của mình để từ đó có những biện
pháp để phát huy những mặt mạnh và hạn chế những mặt tiêu cực.
Dạy học Địa lý ở trường THPT đặc biệt là lớp 11 là một quá trình phức tạp bao

gồm một số khâu cơ bản có mục đích lí luận dạy học khác nhau. Không thể có BTNT
vạn năng dùng cho bất cứ mục đích nào cũng được. Mục đích nào thì BTNT ấy. Chính
vì những lí do trên mà việc đa dạng hóa BTNT là rất cần thiết và đã trở thành một yêu
cầu cấp thiết.
2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự đa dạng hóa các BTNT
- Mục tiêu, chương trình dạy học trong SGK Địa lý 11: Đa dạng hóa các BTNT
để đảm bảo nghiên cứu được cả khái niệm chung, khái niệm tập hợp, khái niệm riêng và
rèn luyện kỹ năng cho học sinh là một việc làm cần thiết.
- Trình độ nhận thức của học sinh lớp 11 hiện nay: Ở lứa tuổi này, các em hứng
thú, say mê với những cái mới, không thích những cái cũ, cái lặp lại và đặc biệt, trình
độ của học sinh có sự phân hóa rõ rệt, bên cạnh những học sinh khá giỏi còn có những
học sinh yếu kém.
- Thời gian: Số phút quy định trong giờ học là 45 phút nên bên cạnh những BTNT
cần nhiều thời gian thì cũng đòi hỏi những BTNT cần ít thời gian, thì mới có thể tạo
điều kiện cho học sinh hứng thú trong cả giờ học.
- Trình độ giáo viên và điều kiện dạy học ngày nay,…
3. Quan niệm và cách thức để đa dạng hóa bài tập nhận thức.
3.1. Các cách biến hóa nội dung BTNT
Có nhiều cách biến đổi BTNT. Sau đây là một số cách biến hóa BTNT:
- Phức tạp hóa hoặc đơn giản hóa” cái cho”: Phức tạp hóa “cái cho” là giảm bớt
những dữ liệu, thông tin ở cái cho, còn đơn giản hóa “cái cho” là tăng thêm dữ liệu,

125


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

thông tin, điều kiện và cả về chương trình giải..
- Phức tạp hóa hay đơn giản hóa cái tìm: Tức là rút bớt hoặc tăng thêm dữ liệu,
thông tin ở “cái tìm”.

- Phức tạp hóa hay đơn giản hóa đồng thời cả cái cho, cái tìm.
- Nghịch đảo, đổi vị trí cái cho, cái tìm: Việc biến hóa BTNT theo cách này
thường chuyển từ BTNT kiểu chấp hành sang BTNT dạng xây dựng và ngược lại.
3.2. Các hướng đa dạng hóa BTNT
3.2.1. Theo hình thức:
a. Bài tập dạng truyền thống: được sử dụng chủ yếu nhằm mục đích tiếp thu, củng
cố kiến thức hoặc khái quát hóa kiến thức. Loại hình bài tập này có thể là một hay nhiều câu
hỏi riêng lẻ đi kèm với bảng số liệu, biểu đồ, sơ đồ... Thời gian để học sinh hoàn thành
loại BTNT này là 5- 10 phút.
b.Các bài tập dạng test:
Bài tập dạng Test là bài tập dưới hình thức trắc nghiệm, thường được áp dụng
trong kiểm tra, đánh giá kiến thức của học sinh và cũng sử dụng để tiếp thu kiến thức
mới và khái quát hóa kiến thức. Bài tập dạng Test có những dạng cơ bản sau:
 Các test Đúng/ Sai: Các test này thường có một câu dẫn (thông thường không
phải là một câu hỏi), học sinh phải xác định câu dẫn đó đúng hay sai.
 Các test có nhiều sự lựa chọn: Đây là loại test thông dụng nhất. Trong loại test
này bao gồm một câu hỏi và nhiều câu trả lời, trong đó chỉ có một câu trả lời đúng, yêu
cầu học sinh phải tìm ra câu trả lời đúng đó.
 Các test ghép đôi: Loại này thường có hai dãy thông tin, một bên là các câu
dẫn, một bên là các câu đáp, học sinh phải tìm ra các cặp câu tương ứng. Các bài tập
này có thể rèn luyện khả năng nhận biết hoặc xác định các mối liên hệ.
 Các test điền khuyết: Loại test này đòi hỏi phải điền hoặc liệt kê ra một từ hoặc
một cụm từ cho một câu hỏi trực tiếp hoặc một nhận định chưa đầy đủ.
 Test sắp xếp theo thứ tự : Trong loại test này có nhiều sự vật, hiện tượng được
đưa ra. Nhiệm vụ của học sinh là phải sắp xếp chúng theo một tiêu chí nhất định mà
BTNT đòi hỏi.
3.2.2. Theo mục đích:
Tùy theo mục đích dạy học mà ta có thể có những dạng BTNT khác nhau. đối
với mục đích giúp cho học sinh phải biết khái quát hóa, hệ thống hóa kiến thức sẽ đòi
hỏi khó hơn, đòi hỏi học sinh phải “động não” nhiều hơn mới có thể hoàn thành BTNT

được giao. Hoặc với mục đích kiểm tra, đánh giá học sinh nếu yêu cầu chỉ là tái hiện
kiến thức thì sẽ đơn giản hơn so với mục đích kiểm tra, đánh giá mà yêu cầu là phải
biết tổng hợp kiến thức, suy luận ra những kiến thức mới dựa vào những kiến thức có

126


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

sẵn. Nếu trong trường hợp kiểm tra, đánh giá thì việc áp dụng các dạng BTNT dạng test
đang được vận dụng nhiều và dần trở thành phổ biến.
3.2.3. Theo thời gian:
Thời gian nhiều hay ít sẽ quyết định đến việc sẽ sử dụng dạng BTNT nào. Nếu
như trong một khoảng thời gian ngắn thì tất yếu sẽ phải hình thành cho học sinh những
BTNT đơn giản hơn so với những trường hợp mà thời gian nhiều. Đối với trường hợp ít
thời gian thì việc sử dụng những dạng BTNT dạng test cùng khá phù hợp. Vì học sinh
có thể hoàn thành một cách nhanh chóng. Đặc biệt, những dạng BTNT theo kiểu đơn
giản hóa cái cho, cái tìm cũng cần được áp dụng linh hoạt.Đối với thời gian tự học của
học sinh ở nhà có nhiều thời gian cũng cần học theo kiểu BTNT với những BTNT đủ
khó, đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ mới có thể hoàn thành được.
3.2.4. Theo đối tượng nhận thức:
Vì trình độ của học sinh trong một lớp là không giống nhau nên phải có nhiều
dạng BTNT. Đối với những đối tượng học sinh yếu và trung bình thì không nên giao
những bài tập nhận thức khó vì như vậy sẽ gây ra tinh thần chán học cho học sinh,
không phát huy được hứng thú học cho học sinh. Ngược lại đối với những học sinh giỏi
thì lại không nên giao những bài tập nhận thức dễ vì không tạo được động lực tìm tòi,
khám phá. Khi đáp ứng được như vậy thì có nghĩa là bên cạnh những BTNT khó phải
có những BTNT dễ.
3.2.5. Đối với kênh hình:
Kênh hình ở đây có thể hiểu là những sơ đồ, biểu đồ, lược đồ….Tuy nhiên việc soạn

thảo BTNT cho kênh hình thường khó hơn rất nhiều so với việc soạn thảo BTNT cho kênh
chữ. Ta có thể sọan thảo BTNT cho những bài thực hành bằng cách cho học sinh điền vào
bản đồ phóng to những nội dung cần đạt được trong bài học. Đây chỉ là một ví dụ cho việc
soạn thảo BTNT cho kênh hình. Hoặc khi học về bất cứ nước nào ta có thể sử dụng bản đồ
về tự nhiên để học sinh khai thác những kiến thức tiếp theo. Rõ ràng đây cũng là một trường
hợp của BTNT.
KẾT LUẬN
Đề tài đã khái quát những lí do cơ bản vì sao cần phải đa dạng hóa BTNT mà
trước đây ít người quan tâm đến. Khi hiểu được những điểm này sẽ giúp cho việc sử dụng
BTNT được linh hoạt hơn rất nhiều. Từ đó, tạo điều kiện giúp cho việc nâng cao hiệu quả
chất lượng dạy và học. Một thực trạng còn tồn tại hiện nay là hầu hết học sinh phổ thông có
thói quen học địa lý theo kiểu học thuộc lòng và cho rằng địa lý là môn học của trí nhớ chứ
không phải là môn học của tư duy. Hơn nữa, các kỹ năng khai thác tri thức từ kênh hình, từ
SGK của học sinh còn chưa tốt nên gặp nhiều khó khăn khi tiến hành giải BTNT.

127


Kỷ yếu Hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học năm 2010

Vì vậy, ta có thể khẳng định đa dạng hóa BTNT là một việc làm cần thiết và khi ta đã
tiến hành đa dạng hóa được BTNT thì học sinh có thể khai thác tốt hơn cả kênh hình và kênh
chữ, cả trong việc tiếp thu kiến thức và trong việc củng cố kiến thức.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Nguyễn Dược, Đặng Văn Đức, Nguyễn Trọng Phúc, Nguyễn Thị Thu Hằng, Trần
Đức Tuấn,1996. Phương pháp dạy học địa lý. NXB Giáo dục.
[2] Nguyễn Đức Vũ, Phạm Thị Sen, 2004. Đổi mới phương pháp dạy học Địa lý ở
trường THPT. NXB Giáo dục.
[3] Trần Đức Tuấn, 2007. Hướng dẫn biên soạn và giải bài tập địa lý 11. NXB Giáo dục.
[4] Trần Đức Tuấn, 1994. Xác lập hệ thống công tác độc lập của học sinh trong dạy học

Địa lý kinh tế- xã hội thế giới ở trường THPT. Luận án PTS khoa Sư phạm tâm lý.
[5] Lê Thị Đào, 2004. Tổ chức cho học sinh tích cực, độc lập giải các BTNT trong các
giờ học Địa lý 10 ở trường THPT. Luận văn Thạc sĩ.

ÁP DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC HỢP TÁC THEO NHÓM TRONG DẠY
HỌC ĐỊA LÍ LỚP 10 ( BAN CƠ BẢN) -THPT
Sinh viên thực hiện: Lê Thị Lam - K57A
Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đặng văn Đức
ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày càng phát triển, từ đó đòi hỏi phải đào tạo ra những con người sáng
tạo, tự chủ, đáp ứng được với yêu cầu của xã hội. Do vậy ngay từ khi còn ngồi trong
ghế nhà trường, mỗi cá nhân phải được rèn luyện theo những phương pháp nhất định và
đủ khả năng thích ứng với thực tiễn cuộc sống. Hiện nay, đổi mới phương pháp dạy học
ở trường phổ thông đang là một phong trào sâu rộng, áp dụng các phương pháp dạy học
tích cực vào trong giảng dạy và học tập môn Địa lí cũng là một yêu cầu cấp thiết.
Phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm là một trong những phương pháp dạy học tích
cực giúp cho giáo viên và học sinh đều chủ động, tự giác, tích cực và sáng tạo trong các
hoạt động dạy và học. Từ đó làm cho việc dạy học đạt kết quả cao hơn. Qua quá trình
nghiên cứu, đề tài này giúp tôi rất nhiều sau khi ra trường, việc nắm vững cơ sở lí luận
và thực tiễn sẽ giúp tôi áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm trong dạy học
bộ môn Địa lí được thành thạo hơn.
NỘI DUNG
1. Cơ sơ lý luận và thực tiễn của việc áp dụng phương pháp dạy học hợp tác theo
nhóm trong dạy học Địa lí lớp 10( Ban cơ bản) - THPT
1.1. Cơ sở lý luận
Khái niệm phương pháp dạy học hợp tác theo nhóm: Theo PGS.TS Đặng Văn Đức

128



×