Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến văn hóa việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.44 MB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ẢNH HƯỞNG CỦA HỘI NHẬP QUỐC TẾ ĐẾN VĂN
HÓA VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên ngành: Sư phạm Giáo dục công dân
Mã ngành: 52140203

Giáo viên hướng dẫn:
ThS. GVC Phan Văn Thạng

Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Thị Quyễn Nhi
MSSV: 6106635
Lớp: SP. Giáo dục công dân k36

Cần Thơ, 2013


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................... 2
1.Lý do chọn đề tài. ................................................................................................. 2
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu. ...................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu. .................................................................................... 3
5. Kết cấu luận văn. ................................................................................................. 3
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ .............................................................................................................. 4


1.1 Văn hóa và đặc trưng của văn hóa...................................................................... 4
1.2 Hội nhập quốc tế và ảnh hưởng của nó đến các nền văn hóa. ........................... 10
1.3 Quan điểm Đảng ta về phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc………………………………………………………………………….20
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH
HỘI NHẬP QUỐC TẾ. ....................................................................................... 28
2.1 Những ảnh hưởng tích cực của hội nhập quốc tế đến văn hóa Việt Nam. ......... 28
2.2 Những ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập quốc tế đến văn hóa Việt Nam. ......... 38
CHƯƠNG III: NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY NHỮNG
MẶT TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ NHỮNG MẶT TIÊU CỰC ĐỐI VỚI NỀN
VĂN HÓA VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ. ......... 49
3.1 Đẩy mạnh xây dựng môi trường văn hóa trong quá trình hội nhập quốc tế. ...... 49
3.2 Tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn hóa. ........................ 51
3.3 Nâng cao phương thức lãnh đạo cũa Đảng trên lĩnh vực văn hóa. .................... 53
3.4 Mở rộng hợp tác quốc tế về văn hóa. ............................................................... 55
3.5 Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật. ......................................................... 57
3.6 Bảo tồn, phát huy di sản văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập quốc tế....... 59
PHỤ LỤC – MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ VĂN HÓA VIỆT NAM ...................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................. 698

1


PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài.
Văn hóa là một vấn đề rộng lớn rất phong phú và phức tạp có tác động lớn
đến sự trường tồn của dân tộc. Văn hóa không chỉ là đặc trưng riêng của một dân
tộc, một quốc gia mà còn là mục tiêu và động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã
hội. Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc, mang nội dung cốt lõi là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết tinh

truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc vừa tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ngày nay, quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra ngày càng mạnh mẽ, việc
mở rộng giao lưu với bạn bè quốc tế là cơ hội để chúng ta tiếp thu bước đường chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế và đã đạt được những kết quả rất ghi nhận trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống, kinh tế - xã hội. Trong đó, lĩnh vực văn hóa đạt được
những thành tựu trên nhiều mặt.
Tuy nhiên, cùng với quá trình mở cửa, phát triển kinh tế thị trường thì các sản
phẩm của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa sẽ có cơ hội vào nước ta. Sự tác
động của nền văn hóa bên ngoài vào nền văn hóa dân tộc sẽ nảy sinh ra những thời
cơ và thách thức mới, những thuận lợi và khó khăn mà hậu quả không những tác
động đến nền văn hóa dân tộc mà còn tác động đến tương lai đất nước. Điều đó đã
đặt ra một thách thức mới đối với chúng ta trước nguy cơ đánh mất bản sắc văn hóa
dân tộc. Vì vậy, trong quá trình hội nhập quốc tế chúng ta phải biết tiếp thu và phát
huy những mặt tích cực, nhận biết và ngăn chặn, đẩy lùi những mặt tiêu cực của nền
văn hóa bên ngoài để góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất, tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Chính vì lý do trên, tác giả chọn nghiên cứu đề tài: “Văn hóa Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế - Thực trạng và giải pháp.”
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu về lĩnh vực văn hóa Việt Nam trong
quá trình hội nhập quốc tế từ năm 2000 đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.

2


- Mục đích nghiên cứu: làm rõ thực trạng văn hóa Việt Nam nhằm tìm ra giải
pháp góp phần thúc đẩy văn hóa Việt Nam phát triển trong quá trình hội nhập quốc tế.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:

Một là, tìm hiểu cơ sở lý luận chung về văn hóa và hội nhập quốc tế.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng văn hóa Việt Nam trong quá trình hội
nhập quốc tế.
Ba là, đề xuất ra những giải pháp chủ yếu nhằm phát huy những mặt tích cực và
hạn chế những mặt tiêu cực của văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Trong luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử,
thống kê, so sánh và một số phương pháp cụ thể khác.
5. Kết cấu luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương và 10 tiết.

3


CHƯƠNG I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1 Văn hóa và đặc trưng của văn hóa.
1.1.1 Khái niệm văn hóa.
Văn hóa là một lĩnh vực rộng lớn, vô cùng phong phú và đa dạng, có mặt và
thấm sâu trong toàn bộ đời sống xã hội và đời sống con người, vì thế có rất nhiều
định nghĩa, cách hiểu và khai thác khác nhau về văn hóa. Trong quá trình đi tìm
định nghĩa và xác định nội hàm của văn hóa, đã có những tìm tòi khoa học có giá
trị sâu sắc, tiếp sức nhau đạt tới những nhận thức ngày càng hoàn chỉnh hơn của
con người về một lĩnh vực rất độc đáo do chính con người và chỉ có con người
sáng tạo nên, đó chính là văn hóa. Từ xa xưa, hai từ văn hóa đã xuất hiện rất sớm
trong ngôn ngữ loài người, đặc biệt là ở những quốc gia được coi là cái nôi của
văn minh nhân loại.
Khái niệm văn hóa xuất hiện ở Đông Á từ rất sớm. Lưu Hướng (năm 776
trước công nguyên) thời Tây Hán (Trung Quốc) là người đầu tiên đưa ra định nghĩa

về văn hóa. Trong sách Thuyết Uyển bài Chi Vũ ông viết: “Bậc thánh nhân tự thiên
hạ, trước dùng văn đức sau mới dùng vũ lực. Phàm khi đã dùng vũ lực để đối phó
kẻ bất phục tùng, dùng văn hóa không thay đổi sau đó sẽ chinh phạt”. Như vậy văn
hóa được dùng để đối lập với vũ lực. Ở phương Tây, trong nền văn minh cổ đại Hy
Lạp – La Mã, từ văn hóa (cultura) có nghĩa là trồng trọt cây cối, sau dần dần biến
thành nghĩa gieo trồng trí tuệ (tinh thần) con người. Như vậy, trong quan niệm của
người cổ đại, dù phương Đông hay phương Tây, văn hóa đã mang ý nghĩa giáo hóa
con người. Cho đến nay, theo thống kê, có tới trên 400 định nghĩa khác nhau về văn
hóa. Mỗi định nghĩa đều xuất phát từ những cứ liệu riêng, những góc độ riêng, mục
đích riêng phù hợp với vấn đề mà họ quan tâm hay nghiên cứu.
Các nhà tâm lý học xem xét văn hóa từ góc độ tác động của nó đến cá nhân
trong quá trình xã hội hóa:“Văn hóa là toàn thể những môn học cho phép cá nhân
trong xã hội nhất định đạt đến sự phát triển nào đó về cảm năng, về ý thức phê
phán và các năng lực nhận thức, các khả năng sáng tạo” (TeanLadriere, UNESCO
1977).

4


Theo Từ điển Triết học, tiếng Hungari 1986: “Văn hóa là toàn bộ những giá
trị vật chất, tinh thần do con người tạo ra trong quá trình thực tiễn lịch sử xã hội và
đặc trưng cho trình độ đạt được trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội”.
Pufendorf – nhà khoa học Đức, người đầu tiên sử dụng từ văn hóa đã cho
rằng: Văn hóa là toàn bộ những gì được tạo ra do hoạt động xã hội, nghĩa là văn
hóa đối lập với trạng thái tự nhiên. Tiếp tục ý tưởng đó, nhà triết học Đức Herder
(1744-1803) cho rằng: Văn hóa là sự hình thành lần thứ hai của con người nghĩa
là, lần thứ nhất, con người xuất hiện với tư cách một thực thể tự nhiên, đến lần thứ
hai, con người hình thành và phát triển với tư cách là một thực thể xã hội, tức là
một nhân cách văn hóa.
Khái niệm hiện đại về văn hóa được E.B Taylor, nhà nhân chủng học Anh

định nghĩa trong cuốn “Văn hóa nguyên thủy” xuất bản năm 1871. Theo đó văn hóa
là một tổng thể phức tạp, bao gồm trí thức tính ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật
pháp, phong tục, tập quán và những thói quen mà con người đạt được trong xã hội.
Khái niệm văn hóa của UNESCO hướng vào cái cơ bản nhất và là cái chung
nhất của mọi nền văn hóa là xu hướng hoàn thiện và tôn vinh con người mà với
hình thức biểu hiện cụ thể của nó khiến các nền văn hóa mang đặc điểm riêng. Theo
đó, văn hóa được định nghĩa: Văn hóa là tất cả những gì làm cho dân tộc này khác
với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng,
phong tục, tập quán, lối sống và lao động, nhờ đó mà con người tự định vị mình
trong không gian và thời gian nhất định để có thể giải thích thế giới, phát triển các
năng lực biểu hiện giao lưu, sáng tạo.
Trần Ngọc Thêm trong cuốn “Cơ sở văn hóa Việt Nam” định nghĩa: Văn hóa
là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và
tích lũy qua trong quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người
với môi trường tự nhiên và xã hội.
Văn hóa theo nghĩa rộng nhất – đó là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh
thần do loài người sáng tạo ra để đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của mình
trong tiến trình đi lên của lịch sử. Văn hóa là đặc trưng của toàn bộ đời sống của

5


loài người. Xây dựng văn hóa là xây dựng tất cả các mặt của đời sống xã hội và
quan tâm đến trình độ phát triển của con người.
Văn hóa được hiểu theo nghĩa hẹp hơn – đó là những giá trị tinh thần, là đời
sống tinh thần của xã hội như đạo đức, tín ngưỡng, tôn giáo, thẩm mỹ, tâm linh,
nghệ thuật...Như vậy, văn hóa là một mặt chứ không phải toàn bộ đời sống xã hội
của loài người.
Văn hóa còn được hiểu theo nghĩa hẹp nhất, thường dùng hằng ngày – đó là
trình độ học vấn của con người.

Theo định nghĩa của Tổng thư ký UNESCO Federico Mayor: “Văn hóa là
tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo ( của các cá nhân và các cộng đồng)
trong quá khứ và hiện tại. Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên
hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định đặc tính
riêng của các dân tộc”.
Như vậy, văn hóa theo nghĩa rộng nhất – đó là toàn bộ những giá trị vật chất
và tinh thần do loài người sáng tạo, tác động vào tự nhiên vào xã hội và con người
nhằm tạo ra các giá trị vật chất và tinh thần ngày càng cao hơn để vươn tới sự chân,
thiện, mĩ và góp phần thúc đẩy sự tiến bộ, phát triển của đời sống văn hóa.
Tháng 8 – 1943, trong khi đang phải tập trung cao độ cho nhiệm vụ hàng đầu
là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc, lại phải ở trong nhà tù Tưởng Giới
Thạch, nhưng Hồ Chí Minh vẫn nghĩ đến một xã hội tốt đẹp trong tương lai, nghĩ
đến việc xây dựng một nền văn hóa mới.
Về văn hóa, Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của
cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức,
pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt
hằng ngày về mặc, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát
minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt, cùng
với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm mục đích thích ứng với nhu
cầu đời sống và đòi hỏi sinh tồn” [11, tr431].
Phạm vi của văn hóa hết sức rộng lớn, có mặt trong toàn bộ hoạt động đời
sống xã hội và đời sống con người, nhưng quan trọng hơn cả, nó là những giá trị

6


do hoạt động tinh thần – sáng tạo của con người tạo ra, biểu hiện trình độ hiểu
biết, năng lực và phẩm giá cộng đồng và từng cá thể, là thước đo trình độ phát
triển và sức vươn lên tự hoàn thiện của con người theo lý tưởng chân, thiện, mỹ,
đồng thời nó góp phần trực tiếp cho quá trình vươn lên đó của con người. Theo

tiếp cận này, Phạm Văn Đồng, nhà văn hóa lớn của đất nước ta thế kỷ XX, cho
rằng: Nói tới văn hóa là nói tới lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm
tất cả những gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong một
quá trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… “Cốt lõi của
sức sống dân tộc là văn hóa với nghĩa bao quát và cao đẹp nhất của nó, bao gồm
cả một hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức và phẩm chất, tri tuệ và tài
năng, sức nhạy cảm tiếp thu từ bên ngoài, ý thức bảo vệ bản lĩnh và bản sắc của
cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu để tự bảo vệ mình và không
ngừng lớn mạnh”[18.tr 207 – 208]
1.1.2 Đặc trưng của văn hóa.
Mặc dù văn hóa là một khái niệm có nội hàm hết sức phong phú và phức tạp,
với nhiều đặc trưng (do vậy mà có nhiều cách hiểu, cách định nghĩa khác nhau), ta
vẫn có thể thấy ở văn hóa nổi lên bốn đặc trưng cơ bản nhất là tính nhân sinh, tính
giá trị, tính hệ thống và tính lịch sử.
Văn hóa trước hết phải có tính hệ thống. Nói đến hệ thống là phải hiểu đó là
một tổng thể các yếu tố có quan hệ lẫn nhau. Mọi sự vật, hiện tượng thuộc một
nền văn hóa đều có liên quan mật thiết với nhau. Đặc trưng này cần để phân biệt
hệ thống với tập hợp; nó giúp phát hiện những mối liên hệ mật thiết giữa các hiện
tượng, sự kiện thuộc một nền văn hóa; phát hiện các đặc trưng, những quy luật
hình thành và phát triển của nó. Nhờ có tính hệ thống mà văn hóa, với tư cách là
một thực thể bao trùm mọi hoạt động của xã hội, thực hiện được chức năng tổ
chức xã hội. Chính văn hóa thường xuyên làm tăng độ ổn định của xã hội, cung
cấp cho xã hội mọi phương tiện cần thiết để ứng phó với môi trường tự nhiên và
xã hội của mình. Nó là nền tảng của xã hội.
Đặc trưng quan trọng thứ hai của văn hóa là tính giá trị.Văn hóa theo nghĩa
đen nghĩa là "trở thành đẹp, thành có giá trị". Văn hóa chỉ chứa cái đẹp, chứa các

7



giá trị. Tính giá trị cần để phân biệt giá trị với phi giá trị (vd: thiên tai, mafia). Nó
là thước đo mức độ nhân bản của xã hội và con người. Các giá trị văn hóa, theo
mục đích có thể chia thành giá trị vật chất (phục vụ cho nhu cầu vật chất) và giá trị
tinh thần (phục vụ cho nhu cầu tinh thần). Nếu theo ý nghĩa có thể chia thành giá
trị sử dụng, giá trị đạo đức và giá trị thẩm mĩ (chân, thiện, mỹ). Các giá trị đạo
đức và giá trị thẩm mỹ đều thuộc phạm trù giá trị tinh thần.
Giá trị tinh thần còn bao gồm các tư tưởng có giá trị sử dụng (khoa học, giáo
dục), trong đó có cả bản thân cách thức sáng tạo ra các giá trị mà qua kinh nghiệm
ngàn đời con người đã được tích lũy. Theo L.White, văn hóa là một phạm trù khoa
học biểu thị một lĩnh vực hoạt động đặt biệt chỉ có riêng ở xã hội loài người, với
những quy luật hành chức và phát triển riêng của mình. Tính giá trị cho phép phân
biệt văn hóa với hậu quả của nó hoặc những hiện tượng phi văn hóa.
Nếu theo thời gian các giá trị văn hóa được chia thành giá trị vĩnh cửu và giá
trị nhất thời. Trong giá trị nhất thời bao gồm các giá trị đã lỗi thời, các giá trị hiện
hành và các giá trị đang hình thành. Sự phân biệt các giá trị theo thời gian cho
phép ta có được cái nhìn biện chứng và khách quan trong việc đánh giá tính giá trị
của sự vật, hiện tượng; tránh được những xu hướng cực đoan - phủ nhận sạch trơn
hoặc tán dương hết lời.Vì vậy, khi xét giá trị, cần phải vận dụng một cách thích
đáng cái nhìn đồng đại và cái nhìn lịch đại.Về mặt đồng đại, cùng một hiện tượng
có thể có giá trị nhiều hay ít tùy theo góc nhìn, theo bình diện được xem xét.
Muốn kết luận một hiện tượng có thuộc phạm trù văn hóa hay không phải xem xét
mối tương quan giữa các mức độ "giá trị" và “phi giá trị" của nó.
Về mặt lịch đại, cùng một hiện tượng sẽ có thể có giá trị hay không tùy
thuộc vào chuẩn mực văn hóa của từng giai đoạn lịch sử. Chẳng hạn, chiếm hữu
nô lệ với tính dã man của nó được xem là phi giá trị. Song, ngay chính F. Ănghen
trong “Chống Đuyrinh” đã từng nói rằng “nếu không có chế độ nô lệ cổ đại thì
không thể có chủ nghĩa xã hội hiện đại”, bởi nhờ nó đã tạo ra sự phân công lao
động trên một quy mô rộng lớn mà nền văn minh Hy Lạp được hình thành.
Ănghen cũng đã giải thích “nếu không có cơ sở văn minh Hy Lạp và đế quốc La
Mã thì không thể có Châu Âu hiện đại được”. Áp dụng vào Việt Nam, việc đánh


8


giá chế độ phong kiến, vai trò của Nho giáo, các triều đại nhà Hồ, nhà Nguyễn...
đều đòi hỏi một tư duy biện chứng như thế. Nhờ thường xuyên xem xét các giá trị
mà văn hóa thực hiện được chức năng quan trọng thứ hai là chức năng điều chỉnh
xã hội, giúp cho xã hội duy trì được trạng thái cân bằng động, không ngừng tự
hoàn thiện và thích ứng với những biến đổi của môi trường, giúp định hướng các
chuẩn mực, làm động lực cho sự phát triển của xã hội.
Đặc trưng thứ ba của văn hóa là tính nhân sinh. Tính nhân sinh cho phép
phân biệt văn hoá như một hiện tượng xã hội (do con người sáng tạo, nhân tạo)
với các giá trị tự nhiên (thiên tạo). Văn hóa là cái tự nhiên được biến đổi bởi con
người. Sự tác động của con người vào tự nhiên có thể mang tính vật chất (như việc
luyện quặng, đẽo gỗ...) hoặc mang tính tinh thần (như việc đặt tên, truyền thuyết
cho các cảnh quan thiên nhiên: Vịnh Hạ Long, núi Ngũ Hành, động Phong Nha
...). Như vậy, văn hóa học không đồng nhất với đất nước học. Nhiệm vụ của đất
nước học là giới thiệu thiên nhiên - đất nước - con người. Đối tượng của nó bao
gồm cả các giá trị tự nhiên, và không nhất thiết chỉ bao gồm các giá trị. Về mặt
này thì nó rộng hơn văn hoá học. Mặt khác, đất nước học chủ yếu quan tâm đến
các vấn đề đương đại, về mặt này thì nó hẹp hơn văn hóa học. Do mang tính nhân
sinh, văn hóa trở thành sợi dây nối liền con người với con người, nó thực hiện
chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ lại với nhau.
Văn hóa còn có tính lịch sử. Nó cho phép phân biệt văn hóa như sản phẩm
của một quá trình và được tích luỹ qua nhiều thế hệ với văn minh như sản phẩm
cuối cùng, chỉ ra trình độ phát triển của từng giai đoạn. Tính lịch sử tạo cho văn
hóa một bề dày, một chiều sâu; nó buộc văn hóa thường xuyên tự điều chỉnh, tiến
hành phân loại và phân bố lại các giá trị. Tính lịch sử được duy trì bằng truyền
thống văn hóa. Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định (những
kinh nghiệm tập thể) được tích lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không

gian và thời gian, được đúc kết thành những khuôn mẫu xã hội và cố định hóa
dưới dạng ngôn ngữ, phong tục, tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận...Truyền
thống văn hóa tồn tại nhờ giáo dục. Chức năng giáo dục là chức năng quan trọng
thứ tư của văn hóa. Nhưng văn hóa thực hiện chức năng giáo dục không chỉ bằng

9


những giá trị đã ổn định (truyền thống), mà còn bằng cả những giá trị đang hình
thành. Hai loại giá trị này tạo thành một hệ thống chuẩn mực mà con người hướng
tới. Nhờ nó mà văn hóa đóng vai trò quyết định trong việc hình thành nhân cách
(trồng người). Từ chức năng giáo dục, văn hóa có chức năng phái sinh là đảm bảo
tính kế tục của tịch sử: Nó là một thứ "gien" xã hội di truyền phẩm chất con người
lại cho các thế hệ mai sau.
1.2 Hội nhập quốc tế và ảnh hưởng của nó đến các nền văn hóa.
1.2.1 Hội nhập quốc tế.
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của
lao động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập quốc tế diễn ra
dưới nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ
thấp đến cao. Hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại,
tác động mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia. Ngày nay,
hội nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân quen với
hầu hết người Việt Nam. Tuy vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái
niệm này. Giới học thuật và những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất
khác nhau và vẫn tiếp tục tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế. Trong
bối cảnh nước ta đang “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” theo tinh thần Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ XI vừa qua, việc xác định đúng ý nghĩa, bản chất, nội
hàm, xu hướng vận động cũng như hệ lụy của hội nhập quốc tế là rất cần thiết và có

ý nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược, chính sách và các biện pháp cụ
thể của nước ta trong quá trình hội nhập.
Thuật ngữ “hội nhập quốc tế” trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng
nước ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration
internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh vực
chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước ở châu
Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương thúc đẩy sự
hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy cơ tái diễn chiến

10


tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu. Trên thực tế cho đến
nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái niệm “hội nhập quốc tế”.
Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho
rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình. Sản
phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay Thụy Sỹ.
Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan tâm chủ yếu tới các
khía cạnh luật định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, xem hội nhập trước hết là sự liên kết các quốc gia thông
qua phát triển các luồng giao lưu như thương mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch,
di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần các cộng đồng an ninh (security community).
Theo Deutsch (Chủ tịch Hiệp hội Khoa học Chính trị Quốc tế), có hai loại cộng
đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng đồng
an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này xem xét hội
nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các
nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân công lao
động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu theo đuổi.

Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội nhập
trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía cạnh
luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình Nhà nước liên
bang. Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải thích thực tiễn của quá
trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau như hiện nay trên
thế giới. Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng dẫn đến một Nhà nước liên bang.
Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận hiện tượng hội nhập vừa trong quá
trình tiến triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối cùng, đồng thời đưa ra được những nội
dung khá cụ thể và sát thực tiễn của quá trình hội nhập, góp phần phân tích và giải
thích nhiều vấn đề của hiện tượng này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi
của hiện tượng, không quan tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng

11


của hội nhập, do vậy, thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản
chất của quá trình hội nhập.
Mặc dầu vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội
nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn. Từ các định nghĩa khác nhau, hội
nhập quốc tế được hiểu theo hai nghĩa.
Thứ nhất, theo nghĩa hẹp coi hội nhập quốc tế là sự tham gia vào các tổ chức
quốc tế và khu vực.
Thứ hai, theo nghĩa rộng, coi hội nhập quốc tế là sự mở cửa và tham gia vào
mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao
lưu quốc tế.
Từ lý luận và thực tiễn trên, hội nhập quốc tế được hiểu như là quá trình các
nước tiến hành các hoạt động tăng cường sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia
sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị, nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính
sách) và tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức
quốc tế. Như vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi

ích hay nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên
trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật cao của
các chủ thể tham gia. Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ
thể chính của quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và
thực hiện các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng
hợp thành lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Ít nhất trong vòng một thập niên tới, công việc chính trong quá trình hội nhập
quốc tế của nước ta vẫn là thực hiện các cam kết quốc tế, trong đó chủ yếu là các
cam kết về thực hiện những chuẩn mực mà chúng ta đã chấp nhận khi gia nhập.
Song song với quá trình này là các hoạt động cùng các nước thành viên xây dựng
các chuẩn mực mới. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân, nhất là hạn chế về thế và lực,
mức độ tham gia của nước ta trong các hoạt động này sẽ tiếp tục ở mức thấp. Để góp
phần làm rõ các nhiệm vụ phải làm trong quá trình hội nhập quốc tế, có thể hiểu
thực chất hội nhập quốc tế của nước ta trong thời gian tới như sau: “Hội nhập quốc
tế là hình thức phát triển cao của hợp tác quốc tế, là quá trình chủ động chấp nhận,

12


áp dụng và tham gia xây dựng các luật lệ và chuẩn mực quốc tế nhằm phục vụ tối đa
lợi ích quốc gia, dân tộc”.
Về bản chất, có thể coi hội nhập quốc tế chính là một hình thức phát triển cao
của hợp tác quốc tế. Hợp tác quốc tế là quá trình các nước giao lưu hoặc hành động
cùng nhau để đạt được một mục tiêu, lợi ích nào đó. Nói rộng ra, hội nhập quốc tế
bao hàm việc chấp nhận, tham gia xây dựng và thực hiện các chuẩn mực quốc tế,
bao gồm: các thể chế, luật lệ, tập quán, nguyên tắc và tiêu chuẩn chung được chấp
nhận rộng rãi. Các chuẩn mực này có thể được hình thành từ quá trình hợp tác quốc
tế, thông qua những hiệp định, thỏa thuận giữa các nhà nước hoặc các chuẩn mực,
tập quán được đặt ra bởi các tổ chức, hiệp hội phi chính phủ được những tổ chức, cá
nhân trên thế giới chấp nhận rộng rãi.

Về mục tiêu, hội nhập quốc tế cũng như các hình thức hợp tác quốc tế khác đều
vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Các nước tham gia quá trình này cơ bản vì thấy có lợi
cho đất nước. Do đó, việc tham gia phải dựa theo một số tiêu chí với mức độ và lộ
trình phù hợp.
Về hình thức, hội nhập quốc tế bao gồm các hoạt động: thúc đẩy quan hệ song
phương dựa trên các chuẩn mực quốc tế chung, gia nhập các tổ chức quốc tế, các cơ
chế hợp tác quốc tế, xây dựng các luật lệ và chuẩn mực, thực hiện các luật lệ, chuẩn
mực, các hoạt động chung ở phạm vi quốc tế và quốc gia.
Về lĩnh vực, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra trong mọi lĩnh vực từ chính trị,
kinh tế, quốc phòng - an ninh, đến các lĩnh vực khác. Hội nhập quốc tế trên các lĩnh
vực này có mối liên hệ hữu cơ mật thiết, đan xen, tác động qua lại lẫn nhau. Thông
thường, kinh tế thường là lĩnh vực đi đầu và là cơ sở vững chắc cho hội nhập trong
các lĩnh vực khác. Đồng thời, hội nhập quốc tế trong các lĩnh vực khác cũng tạo ra
một môi trường thuận lợi cho hội nhập kinh tế.
Về chủ thể, cả nhà nước và các chủ thể phi nhà nước đều tham gia quá trình
hội nhập quốc tế, tạo nên một sự đan xen nhiều cấp độ, tầng nấc trong hội nhập quốc
tế. Trong các lĩnh vực chính trị và quốc phòng - an ninh, chủ thể chính là nhà nước
và các lực lượng chính trị. Tuy nhiên, trong kinh tế, văn hóa, xã hội và nhiều lĩnh

13


vực khác, vai trò của các chủ thể phi nhà nước, như doanh nghiệp, các tổ chức xã
hội, đoàn thể và người dân là rất quan trọng.
1.2.2 Những mặt tích cực và tiêu cực của hội nhập quốc tế
Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng
thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong thời đại
toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này còn được quyết
định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các nước.
Quá trình hội nhập quốc tế giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại

và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh
tế-xã hội. Hội nhập quốc tế cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; làm tăng khả năng thu
hút đầu tư vào nền kinh tế. Trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học công
nghệ quốc gia được nâng cao nhờ hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa
học với các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài
và chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến. Đồng thời, hội nhập quốc tế đã làm
tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị trường quốc tế, nguồn tín
dụng và các đối tác quốc tế.
Hội nhập quốc tế giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các
nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và
nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu vực và
thế giới. Những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh của thế giới được bổ sung,
làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội. Ngoài ra, hội nhập quốc tế tạo
điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn tình hình và xu thế phát
triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát triển phù hợp cho đất nước và
không bị lề hóa.
Tuy nhiên, hội nhập quốc tế không chỉ đưa lại những mặt tích cực, trái lại, nó
cũng đặt các nước trước nhiều bất lợi và thách thức, trong đó đặc biệt là:
Quá trình hội nhập quốc tế làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều
doanh nghiệp và ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều

14


hậu quả về mặt kinh tế - xã hội. Nền kinh tế quốc gia phụ thuộc vào thị trường bên
ngoài, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động của thị trường
quốc tế. Hội nhập quốc tế không phân phối công bằng lơi ích và rủi ro cho các
nước và các nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng

cách giàu - nghèo.
Ngoài ra, hội nhập quốc tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực
Nhà nước (theo quan niện truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với
việc duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.
Đối với văn hóa, hội nhập quốc tế có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc
và văn hóa truyền thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Hội nhập quốc tế có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng
bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp…
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả tích cực lẫn tiêu cực đối với các nước.
Tuy nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích
và gánh mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng tiềm
năng và đối với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về điều kiện,
hoàn cảnh, trình độ phát triển…Việc khai thác được lợi ích đến đâu và hạn chế các
bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó đặc biệt quan trọng
là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược, chính sách, biện pháp hội nhập và
việc tổ chức thực hiện. Thực tế, nhiều nước đã khai thác rất tốt các cơ hội và lợi ích
của hội nhập để đạt được tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội cao, ổn định trong
nhiều năm liên tục, nhanh chóng vươn lên hàng các nước công nghiệp mới và tạo
dựng được vị thế quốc tế đáng nể, đồng thời xử lý khá thành công các bất lợi và
thách thức của quá trình hội nhập, đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng
Kông, Singapore, Trung Quốc, Malaixia, Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn
gặt hái được nhiều lợi ích từ hội nhập, song xử lý chưa tốt mặt trái của quá trình
này, nên phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn, có thể kể tới trường hợp
Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđônêxia, Việt Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha…
Mặc dù vậy, suy cho cùng lợi ích mà hầu hết các nước đã thu được trên thực tế từ
quá trình hội nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ phải trả cho những tác động tiêu cực

15



xét trên phương diện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này giải thích tại sao
hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của hầu hết các nước trên thế giới
hiện nay.
1.2.3 Những quan điểm cơ bản của Đảng về hội nhập quốc tế
Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để tranh
thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và
phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết
07 của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: “mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ,
kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chũ
nghĩa, thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Quá trình
hội nhập quốc tế trước hết là đáp ứng lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông qua
đó phát huy vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới,
đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản và
bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo đảm vững chắc
an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững độc lập tự chủ thể hiện trước
hết trong quyết sách hội nhập quốc tế nhằm khai thác tối đa các lợi thế, đối phó thắng lợi
với các thách thức đặt ra của quá trình hội nhập quốc tế; chủ động lựa chọn các tổ chức
tham gia, các đối tác và hình thức quan hệ, thời điểm tham gia hội nhập, xây dựng lộ trình
hội nhập hợp lý trong khuôn khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh chính sách cho phù
hợp với mục tiêu và yêu cầu hội nhập. Đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn
dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc đối ngoại cơ bản, bao trùm là vì hoà bình, độc lập,
thống nhất và chủ nghĩa xã hội. Trong phát triển quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế,
Đảng ta còn nêu rõ 4 nguyên tắc cụ thể:
- Một là, tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau.
- Hai là, không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực.
- Ba là, giải quyết các bất đồng và tranh chấp thông qua thương lượng hoà
bình.


16


- Bốn là, tôn trọng lẫn nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Về tư tưởng chỉ đạo hội nhập quốc tế: Xuất phát từ mục tiêu và lợi ích của
hội nhập quốc tế, Đảng ta đề ra tư tưởng chỉ đạo đối ngoại nói chung và hội nhập
quốc tế nói riêng. Theo đó, trong hội nhập quốc tế phải giữ vững nguyên tắc vì
độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội, đồng thời phải rất sáng tạo, năng động,
linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, cũng
như diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, phù hợp với từng đối tượng mà
Việt Nam có quan hệ. Đảng vừa kiên định về nguyên tắc chiến lược, vừa mềm
dẻo, linh hoạt về sách lược trong tư tưởng Hồ Chí Minh đối với việc xử lý các
vấn đề quốc tế của nước trong quá trình hội nhập. Quán triệt sâu sắc tư tưởng chỉ
đạo nêu trên, Việt Nam chú trọng mở rộng quan hệ quốc tế cả song phương và đa
phương nhưng có nguyên tắc, mà nguyên tắc cao nhất, đồng thời cũng là lợi ích
dân tộc cao nhất, đó là độc lập dân tộc, thống nhất đất nước và phát triển theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội XI của Đảng chỉ rõ chủ động và tích cực
hội nhập quốc tế là vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh, đồng thời góp phần tích cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Về nội dung, hội nhập quốc tế là thúc đẩy phát triển quan hệ song phương và
đa phương với các nước trên thế giới, tham gia các tổ chức khu vực và thế giới
trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kỹ thuật, các phong trào
chính trị-xã hội... nhằm đáp ứng lợi ích phát triển và nâng cao vị thế quốc tế của
nước ta. Trong quá trình hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước ta chú trọng những
hướng hoạt động đối ngoại như: tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và
các nước lớn; thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện và có hiệu quả với các nước
ASEAN, các nước châu Á - Thái Bình Dương; phát triển quan hệ hợp tác song
phương tin cậy với các đối tác chiến lược. Củng cố quan hệ với các đảng cộng sản,

công nhân, các phong trào độc lập dân tộc và tiến bộ trên thế giới; từng bước mở
rộng quan hệ với các đảng cầm quyền. Tham gia các cơ chế hợp tác chính trị, an
ninh song phương và đa phương vì lợi ích quốc gia trên cơ sở tôn trọng các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên Hợp quốc. Thực hiện tốt các

17


công việc tại các tổ chức quốc tế, đặc biệt là Liên Hợp quốc. Tích cực hợp tác cùng
các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế đối phó với những thách thức an ninh phi
truyền thống, nhất là tình trạng biến đổi khí hậu. Phát triển công tác đối ngoại nhân
dân theo phương châm: chủ động, linh hoạt, sáng tạo và hiệu quả; tích cực tham gia
các diễn đàn và hoạt động của nhân dân thế giới. Tăng cường vận động viện trợ và
nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển
kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin đối ngoại, góp phần tăng
cường sự hợp tác, tình hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước. Chủ động
tham gia cuộc đấu tranh chung vì quyền con người, sẵn sàng đối thoại với các
nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề nhân quyền; song
đồng thời cũng kiên quyết làm thất bại các âm mưu, hành động xuyên tạc và lợi
dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc, tôn giáo can thiệp vào công việc nội
bộ, làm mất an ninh và ổn định chính trị của nước ta...
Phương châm cơ bản để tiến hành hội nhập quốc tế là bảo đảm nguyên tắc
cùng có lợi trong quan hệ song phương và đa phương. Theo nguyên tắc này, một
mặt không để thiệt hại đến lợi ích cần có và hợp lý mà ta được hưởng, mặt khác
phải chấp nhận một sự chia sẻ hợp lý lợi ích cho các đối tác tuỳ theo mức độ đóng
góp của các bên tham hợp tác. Trong hợp tác liên kết và hội nhập quốc tế cần giữ
vững nguyên tắc vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết vừa mềm dẻo để đạt tới
mục tiêu, bảo vệ được lợi ích chính đáng của đất nước; đồng thời phải luôn cảnh
giác, không mơ hồ trước những âm mưu và thủ đoạn lợi dụng hợp tác quốc tế để
can thiệp, áp đặt về chính trị.

1.2.4 Ảnh hưởng của hội nhập quốc tế đến các nền văn hóa.
Hội nhập quốc tế về văn hóa là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các
nước khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn
hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia vào
các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa khu vực và hợp tác chặt chẽ với các nước
thành viên hướng tới xây dựng một cộng đồng văn hóa rộng lớn hơn trên phạm vi
khu vực và toàn cầu (ví dụ, tham gia Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN,

18


UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp định song phương về hợp tác-phát triển
văn hóa - xã hội với các nước.
Ảnh hưởng tích cực của hội nhập quốc tế đến các nền văn hóa:
Hội nhập quốc tế về văn hóa có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu sắc
quá trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền vững hơn
cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày càng gần gũi và
chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức tư duy và hành động; tạo ra
sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa các chính sách xã hội của các
nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người dân mỗi nước được thụ hưởng tốt
hơn các giá trị văn hóa của nhân loại, các phúc lợi xã hội đa dạng; đặc biệt, hình
thành và củng cố tình cảm gắn bó thuộc về một cộng đồng chung rộng lớn hơn quốc
gia của riêng mình (ý thức công dân khu vực/toàn cầu).
Nhờ hội nhập quốc tế, các nước Đông Á trừ một số nước phát triển, còn những
nước chậm phát triển đã có cơ hội phát triển về kinh tế, thâm nhập vào nền kinh tế
thị trường của khu vực và thế giới. Bên cạnh đó là nhiều giá trị văn hóa hiện đại
khác như khoa học và công nghệ, văn học và nghệ thuật cũng được tiếp thu và
chính những yếu tố này đã góp phần thúc đẩy tiến bộ xã hội, làm thay đổi diện mạo
của các cộng đồng, thay đổi cà lối sống của con người. Nhật Bản, Hàn Quốc và một
số nước ở Đông Á đã có những thành công trong việc tiếp nhận cái hay, cái tốt của

nước ngoài, xây dựng “nền văn hóa canh tân”, không những không bị lệ thuộc vào
bên ngoài, mà còn cạnh tranh với các nước đó. Ví dụ: Hàn Quốc chế tạo ôtô cạnh
tranh với Nhật Bản, Singapore có công nghệ lọc dầu không kém Mỹ, Pháp;
Malaysia phát tirển mạnh mẽ sản xuất hàng điện tử tiêu dùng và linh kiện điện tử,
xuất khẩu đi nhiều nước.
Quan trọng hơn, hội nhập quốc tế đã tạo ra cơ hội và khả năng tăng cường
hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc trong và ngoài khu vực, qua đó góp phần nâng
cao dân trí và khả năng tự khẳng định cộng đồng mình trước cộng đồng quốc tế.
Các giá trị văn hóa truyền thống như ham học hỏi, cần cù, đề cao tính cộng đồng,
tôn trọng gia đình và huyết thống được khẳng định và bảo lưu.
Ảnh hưởng tiêu cực của hội nhập quốc tế đến các nền văn hóa:

19


Khi hội nhập quốc tế, các giá trị văn hóa truyền thống và các giá trị khác
không còn bị khép chặt trong biên giới chật hẹp của mỗi quốc gia, dân tộc. Một
mặt, các giá trị văn hóa truyền thống vẫn giữ được những nét độc đáo; mặt khác,
những giá trị đó tránh khỏi sự thương mại hóa khi người ta dung nó để quảng bá
cho mục đích phát triển kinh tế, lúc đó những giá trị nguyên sơ, thâm nghiêm của
nó khó mà bảo lưu được.
Tuy nhiên trong quá trình hội nhập quốc tế, giá trị gia đình từ độ lớn đến độ
bền vững, quan niệm sống của những thành viên trong gia đình đã và đang có
nhiều biến đổi khá nhanh chóng. Số lượng gia đình lớn có từ ba thế hệ trở lên
cùng chung sống càng ít đi, ở cả nông thôn lẫn thành thị. Xã hội hiện đại nhiều lần
lên án lối sống buông thả của thanh niên nam nữ. Sự bền vựng của gia đình cũng
mỏng manh hơn. Số cặp vợ chồng ly hôn ngày càng tăng và điều đáng lo ngại là
thời gian ly hôn sau khi kết hôn và độ tuổi ly hôn ngày càng thấp dần. Quan hệ
hôn nhân và gia đình có xu hướng thực dụng, vụ lợi chạy theo đồng tiền, ích kỷ
ngày một tăng. Nhiều cuộc hôn nhân hoàn toàn không phải xuất phát từ tình yêu

của cả hai phía mà hoàn toàn là những toan tính về địa vị xã hội, về lợi ích vật
chất. Những người lớn trong gia đình cũng không khuyên nhủ con cái, mà còn ủng
hộ hôn nhân theo kiểu thực dụng này, với hy vọng gia đình cũng vì thế mà có cơ
may được đổi đời. Điều này có một phần là do các phương tiện truyền thông hiện
đại và hội nhập văn hóa đã tiếp nhận cả những giá trị tích cực lẫn tiêu cực, trong
đó có lối sống không lành mạnh từ nước ngoài vào, đã làm thay đồi, phá vỡ vụn
những giá trị truyền thống về gia đình của nhiều dân tộc.
Ngoài ra, chủ nghĩa đế quốc văn hóa với mục đích làm suy yếu tiềm năng và
truyền thống dân tộc mà đối tượng chủ yếu của các cuộc xăm lăng này là các nước
Châu Á, Châu Phi, Châu Mỹ, bằng cách: tuyên truyền lối sống thực dụng, buông
thả, phi nhân tính trong quan hệ xã hội; dùng sản phẩm văn hóa phản động, đồi
trụy, bạo lực để đạt mục đích; tuyên truyền cổ động sùng bái văn hóa phương Tây,
lối sống Mỹ.
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học – công nghệ thì mạng lưới
Internet đang được thiết lập để mở rộng sự giao lưu về nhiều mặt giữa các quốc gia,

20


các cộng đồng người và cả các cá nhân ở khắp mọi nơi. Nó rút ngắn thời gian đến
mức tối thiểu thời gian truyền đi những thông tin về mọi mặt và từ nhiều nguồn
khác nhau. Nó mở ra những địa bàn rộng lớn để trao đổi trí tuệ, hàng hóa và dịch
vụ. Nó có tác dụng tiết kiệm rất lớn về của cải cho giao thông liên lạc, góp phần
tăng trưởng kinh tế, phát triển khoa học, công nghệ của các quốc gia. Tuy nhiên,
điểm bất lợi chưa thể khắc phục được của hội nhập quốc tế với mạng lưới Internet
đó chính là trong điều kiện có sự trội lên của một vài quốc gia hùng mạnh thì xu
hướng tạo ra một loại “độc quyền” hoặc lấn át về nhiều thông tin trong nhiều lĩnh
vực, trái với lợi ích của các quốc gia khác là khá hiện thực.
1.3 Quan niệm Đảng ta về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Những quan điểm của Đảng ta về xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc được hình thành và phát triển trong quá trình thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo
xây dựng nền văn hóa cách mạng của dân tộc ta từ 1930 đến nay. Cùng với thực
tiễn văn hóa, thực tiễn cách mạng và kinh nghiệm lãnh đạo, chỉ đạo Đảng ta đã đúc
kết và hoàn chỉnh các quan điểm chỉ đạo cơ bản của mình đối với sự nghiệp xây
dựng và phát triển nền văn hóa cách mạng. Quan điểm nhất quán xuyên suốt toàn
bộ tiến trình lãnh đạo văn hóa của Đảng từ 1930 đến nay luôn khẳng định văn hóa,
văn nghệ là bộ phận khắng khít và gắn bó với đời sống nhân dân.
Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 xác định: “Văn hóa gồm tất cả tư
tưởng, văn học, nghệ thuật”, văn hóa là một trong ba mặt trận: kinh tế, chính trị và
văn hóa; ba phương châm của văn hóa là dân tộc, khoa học, đại chúng. Đây là kim
chỉ nam cho xây dựng nền văn hóa mới. Năm 1946, tại Đại hội văn hóa toàn quốc
lần I, Bác Hồ đã nói: Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi.
Đến Đại hội III của Đảng (1960) đã chỉ ra sự cần thiết phải tiến hành cách
mạng tư tưởng, văn hóa đồng thời với cách mạng kỹ thuật và cách mạng trong quan
hệ sản xuất. Đại hội IV (1976) và Đại hội V (1981) tiếp tục xác định một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của toàn Đảng, toàn dân trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là xây dựng nền văn hóa có nội dung xã hội chủ nghĩa, có hình thức
dân tộc, có tính Đảng và nhân dân.

21


Đại hội VI của Đảng (1986) nhấn mạnh: “Không có hình thái tư tưởng nào có
thể thay thế được văn học, nghệ thuật trong việc xây dựng tính cách lành mạnh, tác
động sâu sắc vào đổi mới nếp suy nghĩ, lẽ sống của con người.”[26, tr.102].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được
thông qua tại Đại hội VII (6-1991), Đảng ta đã trình bày một quan niệm mới về xã
hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng trong đó gồm có sáu đặc trưng có quan hệ hữu
cơ với nhau, tạo nên phẩm chất và giá trị của chủ nghĩa xã hội. Nền văn hóa tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc là một trong sáu đặc trưng của chủ nghĩa xã hội.
Một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong tất cả sự phong phú
của nó, bao giờ cũng dựa trên và gắn liền với tính chất tiên tiến, tiến bộ của một thế
hệ tư tưởng triết học và của một lý tưởng xã hội – đạo đức mà dân tộc và nhân dân
đã lựa chọn. Từ quan điểm đó, đặc trưng yêu nước và tiến bộ được khẳng định là
phẩm chất quan trọng của tiên tiến. Yêu nước là nấc thang giá trị cao nhất của dân
tộc và văn hóa Việt Nam. Đây là một trong những yêu cầu cao nhất, sâu sắc nhất
đối với nền văn hóa của chúng ta, nó vừa là sự kế tục một phẩm chất bền vững của
văn hóa dân tộc trong quá khứ, đồng thời lại phải phát triển mạnh mẽ phẩm chất đó
đối với những đòi hỏi và đặc trưng mới. Ở đây chính là yêu cầu gắn bó chặt chẽ, hài
hòa giữa lý tưởng độc lập dân tôc với lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trở thành nội dung
cốt lõi của nền văn hóa đó trong thời kỳ mới. Như vậy, chứa đựng trong nền văn
hóa của chúng ta là những giá trị bền vững, những tinh hoa của nền văn hóa dân tộc
của truyền thống dân tộc cùng với những giá trị mới được xây đắp và phát triển
trong giai đoạn hiện đại của dân tộc ta.
Tiến bộ là phẩm chất đặc trưng của nền văn hóa tiên tiến phải được hiểu trước
hết là sự gắn bó của nền văn hóa đó với hệ tư tưởng khoa học và cách mạng, văn
hóa Việt Nam hiện đại, hệ tư tưởng đó chính là chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh.
Trước tác động hết sức phức tạp của các hệ tư tưởng thù địch chống độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội, quan điểm trên đây của Đảng ta là một đòi hỏi cao với
văn hóa và những người sáng tạo, hoạt động văn hóa. Vì vậy, quan điểm đó phải
được quán triệt trong toàn bộ hoạt động văn hóa, trong việc định hướng đúng đắn và

22


nâng cao chất lượng, hiệu quả cũng như khả năng sử dụng, phát huy văn hóa phục
vụ sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nền văn hóa tiên tiến là nền văn hóa thấm sâu phẩm chất nhân văn và dân

chủ mà trước hết là sự tôn trọng con người, tất cả vì con người, phát triển tự do
toàn diện đời sống tinh thần phong phú, cao đẹp, trong quan hệ hài hòa giữa cá
nhân với cộng đồng, giữa con người với xã hội tự nhiên. Đây là một trong những
phẩm chất cao quý nhất của văn hóa đồng thời qua đó, văn hóa thể hiện sứ mệnh
và sức mạnh của mình “khẳng định và biểu dương những giá trị chân chính, bồi
dưỡng cái chân, cái thiện, cái mỹ theo quan điểm tến bộ, phê phán những cái lỗi
thời thấp kém” [4, tr14].
Với lý tưởng xã hội và thẩm mỹ trên, nền văn hóa tiên tiến được phát triển
phong phú, mở rộng đề tài và chủ đề phản ánh, đa dạng hóa các phương thức thực
hiện, phát triển tự do hài hòa tất cả các lĩnh vực của nó nhằm mục tiêu hoàn thiện
con người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm cao đẹp, đề cao tinh thần tự hào dân tộc,
ý chí tự cường, … phê phán những thói hư tật xấu, cái thấp hèn và độc ác. Nói đến
phẩm chất tiên tiến cũng chính là nói đến phẩm chất hiện đại của nền văn hóa đó.
Nó phải dựa trên cơ sở và gắn bó chặt chẻ với trình độ phát triển của nền kinh tế,
của khoa học và công nghệ và của trình độ dân trí ngày một nâng cao, từ đó đủ
sức giải quyết và thỏa mản các nhu cầu tốt đẹp và đa dạng của cuộc sống hiện tại,
có điều kiện phát triển phong phú và mới mẻ các khả năng chuyển tải và biểu hiện
của mình. Do đó, nền văn hóa này sẻ có diện mạo mới tiên tiến không chỉ về nội
dung tư tưởng mà cả trong hình thức biểu hiện, trong các phương tiện chuyển tải
nội dung.
Nghị quyết Trung ương 4 khóa VII lần đầu tiên khẳng định: “Văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế”. Với vai trò
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hóa có khả năng to lớn khơi
dậy, nhân lên mọi tiềm năng, sức sáng tạo của con người, tạo ra nguồn lực nội sinh
quyết định sự phát triển của xã hội. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, nguồn gốc của
sự giàu có và phát triển toàn diện của một đất nước không chỉ là tài nguyên thiên
nhiên, vốn kỹ thuật mà yếu tố trở nên quyết định chính là nguồn lực con người, là

23



tiềm năng và năng lực sáng tạo của con người. Kinh tế tri thức thời kỳ mới của sự
phát triển xã hội bắt nguồn từ chính đặc điểm này. Tiềm năng năng lực của con
người không nằm ở đâu khác, mà nằm ngay trong văn hóa và do chính văn hóa trực
tiếp tạo nên trong trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, nhân cách, bản lĩnh, sự thành thạo, tài
năng của mỗi cá nhân và cả cộng đồng.
Là động lực của sự phát triển, văn hóa còn thể hiện ở khả năng điều tiết các
chiều hướng phát triển của xã hội và con người, hướng sự vận động tới cái tích
cực tiến bộ, nhân văn và hạn chế những biểu hiện tiêu cực, thái hóa, đen tối…dẫn
tới sự kìm hãm và thậm chí sự tàn phá, xuống cấp của một xã hội, đặc biệt trong
những điều kiện mới của nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, vai trò điều
tiết này thông qua các chuẩn mực mà văn hóa đã xác định hướng giá trị đối với
con người và cộng động.
Tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc là nhân tố và phẩm chất hòa quyện hữu cơ
trong nền văn hóa, tạo nên tổng thể giá trị của nền văn hóa đó, vì vậy không thể
tách rời chúng trong thực tiễn. Như vậy, có nghĩa là nền văn hóa tiên tiến phải
mang cái riêng, cái độc đáo của truyền thống, đặc tính cốt cách và tâm hồn dân
tộc. Nó không thể bị hòa lẫn với các nền văn hóa khác hoàn toàn xa lạ với sự lai
căng, bắt chước học đòi để đánh mất đi bản sắc, tinh độc đáo của dân tộc mình.
Điều đó cũng có nghĩa là, bản sắc dân tộc không dừng lại ở những biểu hiện bên
ngoài mà thực chất là biểu hiện sức sống, sức sáng tạo, phát triển và tính chất độc
lập đặc thù của dân tộc.
Trước hết, bản sắc dân tộc của nền văn hóa được tạo nên những giá trị bền
vững. Trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã khẳng định văn hóa Việt Nam là thành quả nghìn năn lao động, sáng tạo,
đấu tranh kiên cường, dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam,
là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nền văn minh thế giới để không ngừng
hoàn thiện mình. Văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tinh hồn, khí phách, bản
lĩnhViệt Nam, làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang dân tộc. Bản sắc dân tộc của nền văn hóa
việt nam còn gắn chặt với khả năng khai thác, sử dụng, phát huy, tiếp nhận có chọn

lọc và phát triển những phương thức, hình thức biểu hiện hết sức đa dạng và phong

24


×