Tải bản đầy đủ (.doc) (57 trang)

NGHỆ THUẬT CHỈ đạo KHỞI NGHĨA vũ TRANG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG tám

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.19 KB, 57 trang )

Chuyên đề:
NGHỆ THUẬT CHỈ ĐẠO KHỞI NGHĨA VŨ TRANG TRONG
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Nguyễn Thị Kim Nhung
Trường THPT chuyên Thái Nguyên
Cách mạng tháng Tám năm 1945 giành thắng lợi đã mở ra một bước ngoặt
vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam: phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp
và ách thống trị của phát xít Nhật, lật nhào ngai vàng phong kiến; mở đầu kỉ
nguyên mới của dân tộc: kỉ nguyên độc lập tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Cách mạng tháng Tám đã chứng minh khả năng lãnh đạo tài tình, sáng suốt của
Đảng Cộng sản Đông Dương, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh với đường
đường lối cách mạng đúng đắn, dựa trên cơ sở lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin được
vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam. Thắng lợi của cuộc Cách mạng
Tháng Tám năm 1945 để lại cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta nhiều bài học
kinh nghiệm quý báu, trong đó nổi bật là bài học về nghệ thuật khởi nghĩa vũ
trang cách mạng giành chính quyền.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp bị trị muốn giành
chính quyền, xác lập địa vị thống trị trong xã hội, không có con đường nào khác
ngoài cách mạng bạo lực.
Thấm nhuần quan điểm cách mạng bạo lực của chủ nghĩa Mác - Lênin,
ngay từ khi ra đời, trong Luận cương cách mạng tư sản dân quyền (10/1930),
Đảng ta đã vach rõ: “Võ trang bạo động không phải là một việc thường, chẳng
những là theo tình thế trực tiếp cách mạng, mà lại theo khuôn phép nhà binh, cho
nên cần phải chú ý. Trong khi không có tình thế trực tiếp cách mạng cũng cứ
kịch liệt tranh đấu; nhưng kịch liệt tranh đấu ấy không phải là để tổ chức những
cuộc manh động, hoặc là võ trang bạo động quá sớm, mà cốt là để suy động đại
quần chúng ra thị oai, biểu tình bãi công…để dự bị họ về cuộc võ trang bạo động
sau này”. Đây là một quan điểm đúng đắn, có tính xuyên suốt trong đường lối
1



cách mạng của Đảng: coi khởi nghĩa vũ trang là hành động cách mạng của đông
đảo quần chúng nhân dân.
Đứng trên quan điểm quần chúng khi xem xét bạo lực cách mạng trong
thời kì 1930-1939, khi chưa có điều kiện xây dựng lực lượng vũ trang, Đảng ta đã
tập trung vào việc xây dựng, phát triển lực lượng chính trị, đồng thời tổ chức
quần chúng đấu tranh đòi những quyền lợi thiết thực hàng ngày. Qua các phong
trào cách mạng từ năm 1930 đến năm 1939, lực lượng chính trị quần chúng đã
được tập hợp đông đảo, được giác ngộ chính trị và rèn luyện đấu tranh, trở thành
một lực lượng cách mạng hùng hậu, sẵn sàng vùng lên khi những điều kiện chủ
quan và khách quan của cách mạng đi tới chín muồi.
Bước sang những năm 1930-1940, tình hình thế giới và trong nước có
nhiều chuyển biến quan trọng. Tháng 1/1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng
nổ, phát xít Đức đánh chiếm các nước châu Âu tư bản. Tháng 6/1940, Pháp đầu
hàng Đức. Chính phủ Pháp thực hiện chính sách thù địch đối với các lực lượng
tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa, trong đó có
Đông Dương. Thực dân Pháp trắng trợn phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay
đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta, chĩa mũi nhọn vào Đảng Cộng sản
Đông Dương. Cuối tháng 9/1940, quân Nhật Bản vượt biên giới Việt-Trung vào
miền Bắc Việt Nam. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Nhân dân Việt Nam lâm
vào cảnh một cổ hai tròng nô lệ. Vận mệnh của dân tộc bị đe dọa nghiêm trọng.
Những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước đặt ra cho Đảng ta
nhiệm vụ phải nắm bắt và đánh giá chính xác, kịp thời tình hình, đề ra đường lối
đấu tranh phù hợp.
Trong hoàn cảnh ấy, từ ngày 6 đến ngày 8/11/1939, Hội nghị Ban Chấp
hành trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ VI được triệu tập tại Bà
Điểm (Hóc Môn-Gia Định). Nghị quyết của Hội nghị đã khẳng định: “Bước
đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương không còn có con đường nào khác
hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da
trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Về phương pháp cách mạng,
2



chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ
chính quyền đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt
động bí mật và bất hợp pháp.
Từ ngày 6 đến ngày 9/11/1940, tại làng Đình Bảng (Từ Sơn-Bắc Ninh),
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương lần thứ VII
được triệu tập. Hội nghị tiếp tục xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương
là đế quốc Pháp-Nhật; quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn để xây dựng thành
lực lượng vũ trang cách mạng, tiến tới thành lập căn cứ du kích.
Đặc biệt, sau một thời gian dài hoạt động cách mạng ở nước ngoài, ngày
28/1/1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Từ ngày 10
đến ngày 19/5/1941, Người chủ trì Hội nghị lần thứ VIII Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Đông Dương tại Pác Bó (Hà Quảng-Cao Bằng).
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải
phóng dân tộc, xác định hình thái của cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi
nghĩa từng phần lên tổng khởi nghĩa và kết luận: chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ
trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại. Nghị quyết của Hội
nghị nêu rõ: “Cuộc cách mạng Đông Dương phải kết liễu bằng một cuộc khởi
nghĩa vũ trang”, “muốn có một lực lượng đủ sức tiến hành khởi nghĩa thì cần
phải mở rộng và củng cố các tổ chức cứu quốc sẵn có làm cho các đoàn thể có
một tinh thần hi sinh tranh đấu, sẵn sàng gây cuộc khởi nghĩa…Phải có những tổ
chức tiểu tổ du kích, du kích chính thức và tổ chức binh lính đế quốc”.
Thông qua thực tế cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn và Nam Kì, Đảng ta càng thấy
rõ cần phải vũ trang cho quần chúng để tiến tời khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền: “Mặt trận phải trực tiếp vũ trang cho dân chúng cùng Đảng tổ chức nhân
dân cách mệnh quân, trực tiếp tham gia điều khiển bạo động”. Quan điểm của
Đảng ta là song song với lực lượng chính trị của quần chúng và trên cơ sở lực
lượng chính trị, phải từng bước xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, lấy lực
lượng vũ trang làm lực lượng chủ yếu quyết định trong khởi nghĩa vũ trang giành

chính quyền.
3


Thực hiện Nghị quyết của các Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương lần thứ VI, VII, VIII, công tác chuẩn bị cho cuộc khởi
nghĩa vũ trang được đẩy mạnh, bao gồm chuẩn bị về lực lượng chính trị, lực
lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Một trong những nhiệm vụ cấp bách của Đảng là vận động quần chúng
tham gia vào Mặt trận Việt Minh (thành lập ngày 19/5/1941). Cao Bằng là nơi thí
điểm cuộc vận động xây dựng các hội cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến
năm 1942, khắp các châu ở Cao Bằng đều có hội cứu quốc, trong đó có ba châu
hoàn toàn. Tiếp đó, Ủy ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Ủy ban Việt Minh lâm
thời liên tỉnh Cao-Bắc-Lạng được thành lập.
Ở nhiều tỉnh miền Bắc, một số tỉnh miền Trung, ở Hà Nội, Hải Phòng, hầu
hết các hội phản đế (thời kì Mặt trận phản đế Đông Dương từ tháng 11/1939 đến
tháng 5/1941) chuyển thành các hội cứu quốc, nhiều hội cứu quốc mới được
thành lập.
Trong khi chú trọng tới công nhân, nông dân, Đảng còn tranh thủ tập hợp
rộng rãi các tầng lớp khác như sinh viên, học sinh, trí thức, tư sản dân tộc vào
mặt trận cứu quốc. Năm 1943, Đảng đề ra bản Đề cương văn hóa Việt Nam. Năm
1944, Đảng Dân chủ Việt Nam và Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam được thành
lập, đứng trong Mặt trận Việt Minh. Đảng cũng tăng cường công tác vận động
binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương
chống phát xít.
Báo chí của Đảng và của Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập, Giải
phóng, Cờ giải phóng, Chặt xiềng…) đã góp phần vào việc tuyên truyền đường
lối chính sách của Đảng, đấu tranh chống thủ đoạn chính trị, văn hóa của địch.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ VIII, nhiệm vụ
xây dựng lực lượng vũ trang của Đảng bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh xây dựng

các đội vũ trang cách mạng tập trung làm nòng cốt cho phong trào đánh Pháp,
đuổi Nhật, chuẩn bị cho khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa

4


phương. Căn cứ địa Cao Bằng và Bắc Sơn-Võ Nhai là những nơi có lực lượng vũ
trang phát triển mạnh mẽ
Thực hiện chủ trương về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực
lượng vũ trang và để cho phù hợp với nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới,
theo Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, Đội du kích Bắc Sơn được
đổi tên thành Đội Cứu quốc quân Bắc Sơn và được nâng lên thành Trung đội Cứu
quốc quân I để làm nòng cốt phát triển lực lượng vũ trang và mở rộng căn cứ, cổ
vũ phong trào giải phóng dân tộc trong cả nước. Trung đội gồm có 37 người,
được biên chế thành 3 tiểu đội.
Ngày 15/9/1941, Trung đội Cứu quốc quân II được thành lập gồm 47
người (có 3 nữ). Nhiệm vụ trước mắt của Trung đội Cứu quốc quân II là đấu
tranh chống địch khủng bố, diệt ác, trừ gian, củng cố và phát triển các đội tự vệ
làm nguồn bổ sung cho Cứu quốc quân, củng cố và mở rộng địa bàn hoạt động ra
các nơi, duy trì tiếng súng đấu tranh để cổ vũ phong trào cách mạng toàn quốc.
Trung đội Cứu quốc quân I và II đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Ban Thường
vụ Trung ương Đảng.
Ban chỉ huy Cứu quốc quân II tổ chức tuyển chọn thanh niên, du kích gia
nhập Cứu quốc quân. Đến cuối tháng 10II1941, Trung đội Cứu quốc quân II phát
triển lên 70 người, biên chế 7 tiểu đội. Trung đội Cứu quốc quân II thành lập một
chi bộ, mỗi tiểu đội có một tổ Đảng lãnh đạo.
Giữa vòng vây của quân thù, cán bộ và chiến sĩ Trung đội Cứu quốc quân I
cùng tự vệ và quần chúng nhân dân anh dũng chiến đấu chống địch khủng bố,
bảo vệ các đồng chí Trung ương về xuôi an toàn (7/1941). Trung đội Cứu quốc
quân II vừa học tập chính trị, huấn luyện quân sự, vừa đánh một số trận tiêu biểu

là các trận Khuôn Kẹn (2/10/1941), Khuôn Ba (5/10/1941), Khuôn Đã
(15/10/1941), Mỏ Mùng (12/10/1941), Tràng Xá (31/10/1941)... gây cho địch
nhiều thiệt hại.

5


Sau 8 tháng hoạt động du kích (7/1941-2/1942), cơ sở của Cứu quôc quân
phát triển nhanh chóng sang các vùng Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Giang, Vĩnh
Yên…
Ngày 25/2/1944, Trung đội Cứu quốc quân 3 được thành lập gồm 30
người, đánh dấu sự phát triển mới của Cứu quốc quân. Từ một trung đội phát
triển thành ba trung đội, hoạt động trên một địa bàn rộng lớn thuộc các huyện Võ
Nhai, Đình Cả, Đại Từ, Định Hóa, Phú Lương (Thái Nguyên), Bắc Sơn, Bình
Gia, Tràng Định (Lạng Sơn), Yên Thế, Hữu Lũng (Bắc Giang). Sau khi Trung
đội Cứu quốc quân III được thành lập, địa bàn hoạt động của Cứu quốc quân đã
mở rộng xuống Sơn Dương (Tuyên Quang), giáp Lập Thạch (Vĩnh Yên) và Hàm
Yên, Na Hang (Tuyên Quang),... Tại các địa phương này, Cứu quốc quân đã tổ
chức và huấn luyện cấp tốc về quân sự, chính trị được nhiều trung đội, tiểu đội vũ
trang, phối hợp với quần chúng bảo vệ trật tự, trị an làng bản, bảo vệ cơ sở cách
mạng, tổ chức quần chúng vào các Hội Cứu quốc quân.
Chiến tranh du kích và căn cứ địa là hai yếu tố cơ bản của cuộc đấu tranh
giải phóng dân tộc trước kẻ địch đang chiếm ưu thế về sức mạnh quân sự. Sau
Hội nghị Trung ương lần thứ VIII, ở những nơi phong trào Việt Minh phát triển
có các đội tự vệ, đội du kích vững mạnh, các căn cứ địa cách mạng cũng manh
nha hình thành.
Mức độ thấp của các khu căn cứ địa cách mạng trong cuộc Cách mạng
Tháng Tám là các khu an toàn. Trong các khu an toàn có cơ sở cách mạng vững,
có tổ chức vũ trang tự vệ mạnh và những điều kiện thuận lợi cho việc bảo vệ và
liên lạc. Nhiều tỉnh đã xây dựng được các khu an toàn của tỉnh mình. Thậm chí

các khu an toàn của cơ quan Trung ương Đảng được xây dựng tại vùng ven Hà
Nội, chỉ cách trung tâm thành phố từ 15 đến 20 km như Vạn Phúc (Hà Đông);
Đình Bảng (Bắc Ninh)...
Các khu an toàn dần phát triển thành các khu du kích trong cao trào kháng
Nhật cứu nước trước Tổng khởi nghĩa. Hai khu du kích đầu tiên được xây dựng
là khu căn cứ Cao Bằng do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo, với hoạt
6


động của đội vũ trang Cao Bằng, và khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai do Trung
ương Đảng trực tiếp tổ chức xây dựng. Tới cuối năm 1943, hai khu căn cứ địa nối
liền với nhau, tạo nên thế liên hoàn, vững chắc làm tiền đề cho sự ra đời Khu giải
phóng Việt Bắc (6/4/1945), gồm các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Hà
Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và vùng ngoại vi.
Tại các chiến khu, với vũ khí thô sơ, tự tạo và cướp được của giặc, các đội
du kích vừa chiến đấu vừa xây dựng lực lượng. Lực lượng vũ trang cách mạng
hoạt động mạnh đã có những tác động to lớn trực tiếp thúc đẩy phong trào cách
mạng tại chỗ phát triển đồng thời chi viện lực lượng, hỗ trợ đấu tranh cho các địa
phương khác.
Từ giữa năm 1944, Chiến tranh thế giới thứ hai sắp đi vào giai đoạn kết
thúc. Hồng quân Liên Xô phản công thắng lợi ở mặt trận châu Âu. Vấn đề tiêu
diệt lực lượng phát xít chỉ còn là thời gian không xa. Ở mặt trận Thái Bình
Dương, lực lượng Pháp hoạt động ráo riết, chờ quân Đồng Minh đổ bộ vào các
nước Đông Dương sẽ nổi lên đánh Nhật, khôi phục lại quyền thống trị của chúng.
Trước tình hình đó, ngày 7/5/1944, theo chủ trương của Trung ương Đảng,
Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị về "Sửa soạn khởi nghĩa" để đẩy mạnh phong trào
cách mạng lên một bước mới. Chỉ thị nhấn mạnh: muốn đi tới khởi nghĩa vũ
trang “phải có những đội quân cách mạng cơ bản, có tập tành thao lược sẵn sàng,
theo hiệu lệnh, đồng thời xông ra trước rồi dân chúng hưởng ứng theo”.
Theo phương hướng ấy, Đảng ta tổ chức lực lượng vũ trang dưới ba hình

thức: bộ đội du kích, đội tự vệ cứu quốc và tiểu tổ du kích.
Bộ đội du kích là những người hăng hái, khỏe mạnh, có lòng quyết tâm hi
sinh vì mục đích cứu nước, thoát ly sản xuất, có vũ khí, thường xuyên luyện tập
cách đánh du kích, “đóng ở những nơi căn cứ, sẵn sàng chờ hiệu lệnh của đoàn
thể xông ra giết giặc, nổ những tiếng sung khởi nghĩa đầu tiên”.

7


Đội tự vệ cứu quốc gồm những người hăng hái, nhanh nhẹn, họp lại thành
những đội nhỏ để canh gác, dò xét quân địch, thông tin liên lạc cho đoàn thể, làm
hậu thuẫn cho quần chúng đấu tranh.
Tiểu tổ du kích (hoặc tự vệ chiến đấu) là những đội quân nhỏ, không thoát
ly sản xuất trong đó gồm những người khỏe mạnh, nhanh nhẹn, hăng hái, quyết
tâm nhất, được tuyển từ trong các đội tự vệ và được luyện tập quân sự. Lúc bình
thường, các đội viên đội tự vệ vẫn tăng gia sản xuất, nhưng khi có chiến sự thì
nhanh chóng được tổ chức lại như một đội du kích nhỏ để chiến đấu.
Theo sự chỉ đạo của Đảng, “bộ đội du kích chính thức, và những đội dân
quân du kích sẽ xông ra đánh quân thù, khi có lệnh phát động khởi nghĩa. Họ là
những đội tiền phong cách mạng kéo các tầng lớp nhân dân đứng dậy tất cả”.
Đảng còn đề ra 5 công việc cấp bách cần phải làm để chuẩn bị khởi nghĩa:
“Một là, phải ra sức phát triển các tổ chức tự vệ và tổ chức thêm các bộ đội
chiến đấu.
Hai là, phải huấn luyện cán bộ quân sự để chỉ huy các tổ chức có tính cách
quân sự.
Ba là, phải tìm cách sắm vũ khí để vũ trang cho các bộ đội và các tổ chức
tự vệ.
Bốn là, phải hết sức vận động binh lính để lấy súng bắn thù.
Năm là, phải làm cho chiến thuật khởi nghĩa được phổ biến trong các tổ
chức cách mạng và trong dân chúng…”

Do có những chủ trương trên, vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang và đấu
tranh vũ trang càng được đẩy mạnh. Để đáp ứng với yêu cầu cách mạng, lãnh tụ
Hồ Chí Minh chủ trương thành lập đội vũ trang tuyên truyền và vạch ra những
nét chính về hình thức tổ chức, xây dựng và hoạt động của nó. Theo tinh thần đó,
tháng 12/1944, Người viết Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân.

8


Ngày 22/2/1944, theo chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân ra đời, gồm 34 cán bộ và chiến sĩ, biên chế thành 3 tiểu
đội . Đây là đội quân chủ lực đầu tiên của cách mạng Việt Nam, hoạt động theo
phương châm chính trị trọng hơn quân sự, tuyên truyền trọng hơn tác chiến. “Tuy
lúc đầu quy mô của nó còn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi
điểm của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt
Nam”. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta lúc này vẫn là: trên cơ sở lực lượng chính
trị phải đẩy mạnh phát triển lực lượng vũ trang, đưa lực lượng vũ trang và khởi
nghĩa vũ trang lên vị trí hàng đầu, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong tổng khởi
nghĩa giành chính quyền.
Thực hiện chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh, cán bộ và chiến sĩ đẩy mạnh
công tác vũ trang tuyên truyền trong mọi hoạt động. Đến đâu, Đội đều tuyên
truyền đường lối, chính sách của Mặt trận Việt Minh, vận động quần chúng tổ
chức cơ sở chính trị và lực lượng tự vệ chiến đấu của địa phương.
Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân ra đời trong lúc Cứu quốc
quân đang chiến đấu quyết liệt chống địch khủng bố ở Võ Nhai. Trước tình hình
đó, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân khẩn trương chuẩn bị hành động.
Đội đã liên tiếp đánh thắng hai trận Phay Khắt (25/12) và Nà Ngần (26/12).
Chiến thắng Phay Khắt, Nà Ngần cùng với những thắng lợi của Cứu quốc quân,
các đội du kích, tự vệ ở các địa phương đã góp phần củng cố, mở rộng khu căn cứ

Cao - Bắc - Lạng và Thái Nguyên - Tuyên Quang; đồng thời cổ vũ và động viên
toàn dân đẩy mạnh phong trào đấu tranh, chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang.
Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béc-lin, sào
huyệt cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước châu Âu được giải phóng. Ở mặt
trận châu Á-Thái Bình Dương, quân Đồng minh giáng cho quân phát xít những
đòn nặng nề. Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ-gôn ráo riết hoạt
động, chờ thời cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật – Pháp trở nên gay
gắt.
9


Trước tình hình trên, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20h ngày
9/3/1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài nơi rồi
mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật dựng lên chính phủ
Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm Quốc trưởng. Nhật Bản đã hoàn toàn
độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và
đàn áp dã man những người cách mạng.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp, khi điều kiện khách quan phát triển hết sức
thuận lợi cho cách mạng Việt Nam và thời cơ khởi nghĩa đang chin muồi, ngày
12/3/945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật-Pháp bắn nhau và
hành động của chúng ta”.
Bản chỉ thị nhận định: Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính
trị sâu sắc, nhưng những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín muồi. Phát xít Nhật
trở thành kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu “Đánh đuổi Pháp –
Nhật” được thay bằng khẩu hiệu “Đánh đuổi phát xít Nhật”. Hình thức đấu tranh
được xác định là từ bất hợp tác, bãi thị đến biểu tình, thị uy, vũ trang du kích và
sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa khi có điều kiện. Bản chỉ thị cũng
nêu rõ phải “tổ chức thêm nhiều bộ đội du kích và tiểu tổ du kích; thành lập
những căn cứ địa mới; thống nhất các chiến khu và thành lập Việt Nam cứu quốc
quân; tổ chức ủy ban quân sự cách mạng (tức Ủy ban khởi nghĩa) để thống nhất

chỉ huy du kích các chiến khu”.
Hội nghị Ban thường vụ Trung ương cũng quyết định phát động một “Cao
trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho tổng khởi nghĩa”.
Chấp hành chỉ thị "Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta" của
Ban Thường vụ Trung ương Đảng và hưởng ứng phong trào kháng Nhật, cứu
nước, các trung đội Cứu quốc quân II, III cùng Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân và các đội du kích, tự vệ chiến đấu hỗ trợ nhân dân nổi dậy giành
chính quyền. Ngày 26/3/1945, Cứu quốc quân III cùng tự vệ địa phương tiến
đánh quân địch ở Chợ Chu (Thái Nguyên), giải phóng châu lỵ, hỗ trợ quần chúng
phá trại giam Chợ Chu, giải thoát hơn 30 tù chính trị, phá kho thóc chia cho dân
10


nghèo, xóa bỏ chính quyền địch, thành lập Ủy ban giải phóng dân tộc lâm thời
phủ Định Hóa. Tiếp đó, chiều 29/3/1945, Cứu quốc quân cùng tự vệ địa phương
tiến công bao vây, làm chủ phủ lỵ huyện Đại Từ. Trong khi đó, một bộ phận Cứu
quốc quân hoạt động ở Tuyên Quang đã phối hợp cùng tự vệ và nhân dân các địa
phương khởi nghĩa giải phóng các châu Sơn Dương (11/3), Yên Sơn, Na Hang,
Hàm Yên (1/4). Ở Thái Nguyên, một bộ phận Cứu quốc quân cùng tự vệ và quần
chúng giải phóng La Hiên (10/4). Ở Bắc Giang, Cứu quốc quân cùng tự vệ địa
phương đột nhập vào phủ lỵ Yên Thế (15/4), tiếp đó bao vây châu lỵ Hữu Lũng...
Tại Cao Bằng, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân chia thành ba
bộ phận: Một bộ phận đánh chiếm đồn Sóc Giang, giải phóng châu lỵ Hà Quảng
rồi tiến sang Bắc Quang (Hà Giang). Một bộ phận chiến đấu dọc biên giới Việt Trung từ Bảo Lạc sang Thất Khê, vòng xuống Bình Gia. Một bộ phận thực hiện
giải phóng các châu lỵ Ngân Sơn, Chợ Rã, Chợ Đồn (Bắc Cạn) rồi tiến xuống
Chợ Chu (Thái Nguyên)...
Ở Bắc Kì và Trung Kì, trước nạn đói đang diễn ra trầm trọng do chính sách
cướp bóc của Pháp - Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc giải quyết nạn
đói”. Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân nên tạo
thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.

Hàng triệu quần chúng kéo đi phá kho thóc, chống đói dưới nhiều hình
thức. Có nơi quần chúng đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở
các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ninh Bình, Nghệ An, Hà
Tĩnh…
Đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên
nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh, 10/3),
Bần Yên Nhân (Hưng Yên, 11/3)…
Ở Quảng Ngãi, Đội vũ trang xung kích Ba Tơ đã mưu trí, dũng cảm đánh
chiếm đồn Ba Tơ, giải tán chính quyền địch (11/3). Tại các vùng giải phóng,
chính quyền cách mạng được thành lập.
11


Nhằm đẩy mạnh hơn nữa việc đánh Nhật, từng bước giành thắng lợi, tiến
tới chuẩn bị Tổng khởi nghĩa, từ ngày 15 đến 20/4/1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng triệu tập Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kỳ tại Hiệp Hòa (Bắc
Giang). Đây là Hội nghị quân sự đầu tiên của Đảng về xây dựng lực lượng vũ
trang, Hội nghị quyết định thống nhất Cứu quốc quân và Việt Nam tuyên truyền
giải phóng quân cùng các tổ chức vũ trang khác thành một lực lượng vũ trang
thống nhất mang tên Việt Nam giải phóng quân để cùng nhân dân tiến hành khởi
nghĩa từng phần, tiến tới tổng khởi nghĩa. Hội nghị nhấn mạnh: “Tình thế đã đặt
nhiệm vụ quân sự lên trên tất cả các nhiệm vụ quan trọng và cần kíp trong lúc
này. Chúng ta phải tích cực phát triển chiến tranh du kích, gây dựng căn cứ địa
kháng Nhật, để chuẩn bị cuộc tổng khởi nghĩa cho kịp thời cơ”.
Thực hiện Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì, ngày
15/5/1945, tại Định Biên, (Định Hóa - Thái Nguyên), Đội Việt Nam, truyền gải
phóng quân và Cứu quốc quân thống nhất thành Việt Nam giải phóng quân.
Trong tháng 5 và tháng 6/1945, Việt Nam giải phóng quân cùng nhân dân
các dân tộc Việt Bắc đánh bại cuộc tấn công của 2000 quân Nhật, bảo vệ căn cứ
địa. Ngày 4/6/1946, Khu giải phóng thành lập gồm 6 tỉnh: Cao Bằng, Bắc Cạn,

Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một phần các tỉnh Bắc
Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên với một lực lượng vũ trang gần 300 người.
Tân Trào được chọn làm Thủ đô của Khu giải phóng. Ủy ban lâm thời Khu giải
phóng Việt Bắc được thành lập. Nhiều đơn vị vũ trang cũng ra đời ở các nơi:
tháng 6/1945, đội du kích chống Nhật của chiến khu Đông Triều được thành lập.
Ngày 20/6/1945, thành lập Trung đội giải phóng quân của chiến khu Hòa - Ninh Thanh, gồm 140 người, trang bị 19 khẩu sung, một số mã tấu, biên chế thành 3
tiểu đội.
Cùng với việc xây dựng và phát triển các đội tự vệ, du kích, các trường,
lớp cấp tốc cũng được mở ra để đào tạo cán bộ quân sự. Tháng 6/1945, trường
Quân chính kháng Nhật khai giảng khóa I tại xóm Khuổi Kịch, xã Tân Trào,
huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang. Nhà trường có nhiệm vụ đào tạo cấp tốc
12


cán bộ trung đội trưởng và chính trị viên trung đội, đáp ứng nhu cầu cho cuộc
khởi nghĩa vũ trang sắp tới. Học viên theo học là những cán bộ, chiến sĩ Việt
Nam giải phóng quân, một số cán bộ và học viên cứu quốc nhiều tỉnh. Học viên
được học tập về tình hình thế giới và trong nước, chương trình Mặt trận Việt
Minh, Mười lời thề, Mười hai điều kỉ luật, công tác chính trị trong quân đội; kĩ
thuật tháo, lắp và sử dụng các loại sung trường, sung máy, cách đánh tập kích,
phục kích…
Sau khóa I, Trường quân chính mở tiếp khóa II và III.Trong ba khóa, nhà
trường đã đào tạo được 260 cán bộ quân sự, chính trị cung cấp cho các đơn vị vũ
trang và các địa phương.
Theo chiều hướng phát triển như trên, chắc chắn lưc lượng vũ trang và đấu
tranh vũ trang sẽ đóng vai trò nòng cốt trong khởi nghĩa vũ trang giành chính
quyền đúng với tư tưởng chỉ đạo của Đảng ta. Nhưng thực tế lịch sử đã diễn ra
không bình thường. Chính trong hoàn cảnh ấy, Đảng Cộng sản Đông Dương đã
có một sự chuyển hướng kịp thời, sáng tạo để chớp thời cơ.
Đúng ba tháng sau khi phát xít Đức bị tiêu diệt, ngày 8/8/1945 Hồng Quân

Liên Xô chính thức tuyên chiến với phát xít Nhật. Chỉ trong vòng một tuần lễ,
hơn một triệu quân Quan Đông đã bị Hông Quân Liên Xô đánh bại hoàn toàn.
Đòn quyết định của Hồng Quân Liên Xô đã buộc chính phủ Nhật phải tuyên bố
đầu hàng Đồng minh vô điều kiện. Quân đội phát xít Nhật ở Đông Dương cùng
chính phủ bù nhìn tay sai hoang mang, dao động cực điểm.
Trong khi đó, cao trào kháng Nhật cứu nước của nhân đân ta tiếp tục lan
rộng. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi. Khu giải phóng đã
hình thành và ngày càng mở rộng. Khí thế cách mạng trong quần chúng ngày
càng sôi động. Một bộ phận trong các tầng lớp trung gian đã ngả về phía cách
mạng.
Tình hình trên là những dấu hiệu chứng tỏ thời cơ cho dân tộc ta nổi dậy tự
giải phóng đã chín muồi. Thời cơ khởi nghĩa xuất hiện đúng vào lúc lực lượng vũ
trang cách mạng chưa đủ thời gian để phát triển rộng khắp. Hầu hết các địa
13


phương cũng chỉ mới thành lập được các đội du kích, tự vệ với trang bị vũ khí
thô sơ và thiếu thốn. Cán bộ chỉ huy chưa được huấn luyện chu đáo và cũng chưa
kinh qua chiến đấu.
Trong hoàn cảnh ấy, không thể cứng nhắc chờ lực lượng vũ trang lớn
mạnh mới phát động khởi nghĩa vũ trang, bởi vì cùng lúc thời cơ xuất hiện thì
một số nước đế quốc và phản động quốc tế trong phe Đồng minh (Anh – Pháp và
Tưởng) cũng đang ráo riết chuẩn bị kéo vào Đông Dương. Thời cơ đến với dân
tộc ta là vô cùng thuận lợi, nhưng cũng hết sức khẩn cấp. Nếu không nhanh
chóng quyết định, thời cơ sẽ bị bỏ lỡ. Tình hình lúc này đòi hỏi người lãnh đạo
không chỉ có lòng quyết tâm, mà còn phải có tri thức cách mạng, không phải chỉ
có lòng dũng cảm, mà còn phải khôn ngoan sáng tạo.
Với sự nhạy bén chính trị, Đảng Cộng Sản Đông Dương kịp thời triệu tập
Hội nghị đại biểu Đảng toàn quốc (13 - 15/8/1945), quyết định phát động tổng
khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Ngoài ba nguyên tắc cơ bản: Tập

trung - Thống nhất - Kịp thời, Hội nghị còn nêu lên một số phương châm hành
động cụ thể cho toàn Đảng, toàn dân trong những ngày tổng khởi nghĩa. Hội
nghị nhấn mạnh phải “đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, không kể thành
phố hay thôn quê”; phải “làm tan rã tinh thần quân địch và dụ chúng ra hàng
trước khi đánh”, thành lập ủy ban nhân dân ở nơi ta đã làm chủ
Phương châm trên đã đươc quán triệt đầy đủ trong cuộc Tổng khởi nghĩa
tháng 8/1945. Trên toàn cục, lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị được sử
dụng trước tiên và có tính chất phổ biến. Khắp nơi, từ nông thôn đến thành thị,
đông đảo quần chúng mang theo băng cờ, biểu ngữ xuống đường hô vang khẩu
hiệu “Đả đảo phát xít Nhật và bè lũ tay sai!”, “Ủng hộ Việt Minh”, “Việt Nam
độc lập muôn năm!”. Khí thế cách mạng sục sôi của quần chúng đã khiến cho
phát xít Nhật và tay sai hoang mang, lo sợ, phải co lại trong các doanh trại, tìm
cách cố thủ. Địa bàn khởi nghĩa diễn ra cả nông thôn và thành thị với tinh thần
đồng loạt nổi dậy. Khi nhận được “Quân lệnh số 1”, hầu như cả nước đều nhất
loạt khởi nghĩa (ở miền Bắc nhất loạt cả thành thị và nông thôn, miền Nam từ
14


thành thị lan về nông thôn), làm cho quân Nhật trở tay không kịp, không còn khả
năng giải tỏa, ứng cứu chi viện cho nhau. Về mục tiêu tổng khởi nghĩa, Trung
ương Đảng chọn các cơ quan đầu não, các công sở chính quyền địch làm mục
tiêu tiến công chủ yếu, như: Tòa Khâm sai, Phủ Toàn quyền và những cơ quan
đầu não ở các tỉnh, thành phố... Xuất phát từ tình hình cụ thể lúc bấy giờ, trước
khi nổ súng, chúng ta gửi tối hậu thư yêu cầu quân Nhật không được can thiệp
vào công việc nội bộ của nhân dân Việt Nam, phải trao vũ khí cho cách mạng thì
sẽ được đảm bảo tính mạng. Trước sức mạnh của quần chúng, nhìn chung quân
Nhật đã phải chấp nhận yêu cầu do cách mạng đưa ra. Chỉ có một vài nơi (Thị xã
Tuyên Quang, Thái Nguyên, Hà Đông, huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa…), do
địch ngoan cố chống lại nên đã xảy ra xung đột vũ trang. Nhưng ngay trong
trường hợp này, chúng ta vẫn huy động lực lượng quần chúng để áp đảo tinh thần

quân địch, buộc chúng phải nhanh chóng đầu hàng.
Kịp thời chuyển từ phương thức dùng lực lượng vũ trang làm công cụ chủ
yếu trực tiếp tham gia điều khiển bạo động sang lực lượng chính trị và đấu tranh
chính trị là một quyết định đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong quá trình lãnh
đạo tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Nhận rõ tâm trạng hoang mang, dao
động của kẻ thù, trong khi kết hợp chặt chẽ hai lực lượng, Đảng ta đã biết phát
huy cao độ sức mạnh của lực lượng chính trị để khắc phục những hạn chế của lực
lượng vũ trang. Mặt khác, để tăng thêm sức manh của lực lượng chính trị, trong
những ngày Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, Trung ương Đảng vẫn quyết
định “Chỉnh đốn và phát triển bộ đội…tổ chức thêm những bộ đội mới. Chỉnh
đốn bộ đội tụ vệ chiến đấu và tiểu tổ du kích để thành lập Giải phóng quân ở
ngoài khu giải phóng”.
Sự chuyển hướng kịp thời của Đảng trong những ngày Tổng khởi khĩa có
tác dụng hạn chế sự phản kháng của kẻ thù. Cũng bởi vậy mà Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền đã diễn ra nhanh chóng (14 - 28/8/1945) và tổn thất rất ít.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám 1945 là sự thành công của Đảng về
nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang, về việc sử dụng và kết hợp các hình thức
15


bạo lực cách mạng thích hợp để giành chính quyền. Sự thành công của Đảng
trong nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa là ở chỗ nhạy bén, sáng tạo, linh hoạt, khi
tình hình đã trở nên thuận lợi, Đảng đã kịp thời chuyển hướng, kết hợp đấu tranh
vũ trang với đấu tranh chính trị, kết hợp lực lượng vũ trang với lực lượng chính
trị, trong đó lực lượng chính trị và đấu tranh chính trị đóng vai trò chủ yếu, trực
tiếp, quyết định nhất, lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang giữ vai trò hỗ trợ.
Nghệ thuật chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang của Đảng trong cách mạng tháng Tám là
hiện thực hóa của tư tưởng về cuộc chiến tranh cách mạng mang tính toàn dân,
toàn diện, cần phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân; tư tưởng về tổ chức lực
lượng vũ trang nhân dân... Đó sẽ mãi mãi mãi là một bài học kinh nghiệm sâu

sắc, quý báu đối với toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp dựng
nước và giữ nước của dân tộc.

16


Chuyên đề
VAI TRÒ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG ĐỐI
VỚI CÁCH MẠNG VIỆT NAM TỪ NĂM 1930 - 1945 THÔNG QUA CÁC
HỘI NGHỊ BCH TW VÀ BTV TW.
Ths. Phan Đình Thuận
Trường THPT chuyên Thái Nguyên
Tổng khởi nghĩa tháng Tám ở Việt Nam diễn ra giành thắng lợi trong thời
gian 15 ngày, ít đổ máu đó không phải là sự “ngẫu nhiên” mà là kết quả của quá
trình 15 năm chuẩn bị của Đảng ta trên cơ sở chớp thời cơ. Vai trò lãnh đạo kịp
thời, sáng tạo của Đảng trong cuộc vận động giải phóng dân tộc 1930 - 1945 gắn
liền với các hội nghị Ban Chấp hành Trung ương và Ban Thường vụ Trung ương.
1. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng (Từ ngày 14 đến
ngày 31-10-1930)
Tháng 4-1930, đồng chí Trần Phú sau thời gian học tập ở Liên Xô đã trở về
nước hoạt động. Theo đề nghị của Nguyễn Ái Quốc, đồng chí Trần Phú tham gia
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời và được phân công cùng Ban Thường vụ
Trung ương chuẩn bị Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương và dự
thảo bản Luận cương chính trị.
Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương diễn ra từ ngày 14 đến
ngày 31-10-1930 tại Hương Cảng (Trung Quốc), do đồng chí Trần Phú chủ trì,
đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, dự thảo
Luận cương chính trị của Đảng, Điều lệ các tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị
của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng
Cộng sản Đông Dương. Hội nghị bầu Ban Chấp hành Trung ương chính thức

của Đảng, trong đó có Trần Phú, Nguyễn Trọng Nhã, Trần Văn Lan, Nguyễn
Phong Sắc, Ngô Đức Trì... Ban Thường vụ Trung ương gồm có Trần Phú, Ngô
Đức Trì và Nguyễn Trọng Nhã. Đồng chí Trần Phú là Tổng Bí thư.
17


Dự thảo Luận cương chính trị được Hội nghị thông qua đã phân tích sâu sắc
tình hình thế giới và trong nước. Luận cương nhận định thời kỳ tạm ổn định của
chủ nghĩa tư bản đã chấm dứt, chủ nghĩa tư bản đang lâm vào cuộc tổng khủng
hoảng; phong trào cách mạng vô sản và cách mạng thuộc địa đã lên đến trình độ
cao. Phong trào cách mạng thế giới ảnh hưởng rất mạnh đến phong trào cách
mạng Đông Dương. Vì vậy, giai cấp công nhân và nhân dân lao động Đông
Dương phải liên hệ chặt chẽ với cách mạng thế giới.
Về tính chất xã hội của ba nước Đông Dương (Việt Nam, Lào,
Campuchia), Luận cương chính trị chỉ rõ đó là xã hội thuộc địa nửa phong kiến.
Thực dân Pháp chủ trương không phát triển công nghiệp nặng, kìm hãm công
nghiệp nhẹ, cột chặt nền kinh tế thuộc địa vào nền kinh tế chính quốc. Kinh tế
Đông Dương vẫn là kinh tế nông nghiệp. Ở Đông Dương mâu thuẫn giai cấp
giữa "một bên thì thợ thuyền, dân cày và các phần tử lao khổ; một bên thì địa
chủ, phong kiến, tư bổn và đế quốc chủ nghĩa"
Tính chất cách mạng Đông Dương lúc đầu là cách mạng tư sản dân quyền,
sau đó bỏ qua thời kỳ tư bản chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Ở giai đoạn đầu, cách mạng "có tánh chất thổ địa và phản đế", cụ thể là đánh đổ
đế quốc giành độc lập dân tộc và đánh đổ địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày.
Hai nhiệm vụ chống đế quốc và phong kiến có mối quan hệ khăng khít với nhau,
"có đánh đổ đế quốc chủ nghĩa mới phá được cái giai cấp địa chủ và làm cách
mạng thổ địa được thắng lợi; mà có phá tan chế độ phong kiến thì mới đánh đổ
được đế quốc chủ nghĩa".
Về lực lượng cách mạng, Luận cương chính trị chỉ rõ: Giai cấp vô sản vừa
là động lực chính vừa là giai cấp lãnh đạo nhân dân lao động đấu tranh. Dân cày

là động lực mạnh. Các phần tử lao khổ ở thành phố như người bán rao, thủ công
nghiệp nhỏ do đời sống cực khổ nên đều tham gia cách mạng.
Về phương pháp cách mạng, Luận cương chính trị chỉ rõ: Phải tùy tình
hình mà đặt khẩu hiệu tối thiểu để bênh vực quyền lợi cho quần chúng. Đến lúc
thực lực cách mạng lên cao, giai cấp thống trị lung lay, giai cấp trung gian muốn
18


ngả về phía cách mạng thì Đảng phải lãnh đạo quần chúng để giành chính
quyền. Phải sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để giành chính quyền:
"Võ trang bạo động không phải là một việc thường... phải theo khuôn phép nhà
binh".
Về lãnh đạo cách mạng, Luận cương chính trị khẳng định: "Điều kiện cốt
yếu cho sự thắng lợi của cuộc cách mạng ở Đông Dương là cần phải có một
Đảng Cộng sản có một đường lối chánh trị đúng, có kỷ luật, tập trung, mật thiết
liên lạc với quần chúng, và từng trải đấu tranh mà trưởng thành. Đảng là đội tiên
phong của vô sản giai cấp lấy chủ nghĩa Các Mác và Lênin làm gốc".
Về quan hệ quốc tế, Luận cương chính trị chỉ rõ: cách mạng Đông Dương
và cách mạng thế giới phải có liên lạc chặt chẽ với nhau, giai cấp vô sản Đông
Dương phải có quan hệ mật thiết với giai cấp vô sản trên thế giới, nhất là giai
cấp vô sản Pháp.
Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 với việc thông qua Luận cương chính
trị đã khẳng định những vấn đề cơ bản về chiến lược cách mạng mà Chánh
cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt đã nêu, như: vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng
sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân
quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và
người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa; hai
nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến có quan hệ khăng khít với nhau;
lực lượng chính của cách mạng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, trong
đó giai cấp công nhân là lực lượng lãnh đạo cách mạng; sử dụng bạo lực cách

mạng của quần chúng để giành chính quyền; cách mạng Việt Nam có liên hệ
mật thiết với cách mạng thế giới.
Bên cạnh đó, Hội nghị Trung ương tháng 10-1930 có hạn chế là chưa chỉ ra
được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc Pháp,
từ đó không đặt nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu, đánh giá chưa khách
quan vai trò và thái độ cách mạng của tiểu tư sản và mặt yêu nước của tư sản
dân tộc cũng như một bộ phận địa chủ nhỏ. Sở dĩ có hạn chế đó là do Hội nghị
19


Ban Chấp hành Trung ương tháng 10-1930 chưa nắm vững đặc điểm của xã hội
thuộc địa, nửa phong kiến Việt Nam, vận dụng máy móc đường lối của Quốc tế
Cộng sản vào hoàn cảnh nước ta; chưa nhận thức rõ những quan điểm sáng tạo
của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã nêu ra trong các văn kiện được thông qua tại
Hội nghị thành lập Đảng.
Những hạn chế ấy được Đảng ta từng bước khắc phục, bổ khuyết trong tiến
trình cách mạng Việt Nam.
2. Hội nghị Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương và đại
diện các tổ chức Đảng ở trong nước (Từ ngày 16 đến ngày 21-6-1934)
Sau Cao trào cách mạng 1930-1931, Đảng bị khủng bố dữ dội. Hàng chục
vạn chiến sĩ cộng sản và quần chúng yêu nước bị bắt và giết hại. Cơ quan lãnh
đạo của Đảng ở Trung ương và hầu hết các cơ quan Đảng ở địa phương lần lượt
bị phá vỡ. Năm 1932, theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, đồng chí Lê Hồng
Phong cùng một số cán bộ chủ chốt đã bắt tay gây dựng lại tổ chức Đảng. Tháng
6-1932, Đảng Cộng sản Đông Dương đã ra bản Chương trình hành động được
Quốc tế Cộng sản công nhận. Thực hiện Chương trình hành động, tổ chức Đảng
và phong trào đấu tranh của quần chúng từng bước phục hồi ở nhiều nơi. Dưới
sự chỉ đạo của Quốc tế Cộng sản, tháng 3-1934, tại Ma Cao, Ban Chỉ huy ở
ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành lập, đồng chí Lê Hồng
Phong làm Thư ký (Bí thư). Ban Chỉ huy ở ngoài kiêm Ban Chấp hành Trung

ương lâm thời, có nhiệm vụ liên lạc giữa Đảng Cộng sản Đông Dương với Quốc
tế Cộng sản và các đảng anh em, đào tạo cán bộ cho đất nước, ra Tạp chí
Bônsơvích- cơ quan lý luận của Trung ương Đảng. Ban Chỉ huy ở ngoài đã tập
hợp và phục hồi các cơ sở Đảng thành hệ thống, đào tạo và bồi dưỡng cán bộ,
lãnh đạo thực hiện Chương trình hành động của Đảng, chuẩn bị triệu tập Đại hội
Đảng lần thứ nhất.
Hội nghị Ban Chỉ huy ở ngoài có ý nghĩa quan trọng trong quá trình phục
hồi Đảng, phục hồi phong trào đấu tranh của quần chúng và chuẩn bị trực tiếp
cho Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ I của Đảng vào tháng 3-1935.
20


3. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 7-1936
Hội nghị họp vào tháng 7-1936 tại Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị đã
đề ra những chủ trương thích hợp để đưa cách mạng nước ta tiến lên trong tình
hình mới, bổ khuyết những thiếu sót của Đại hội I.
Hội nghị diễn ra trong hoàn cảnh chủ nghĩa phátxít chuẩn bị phát động chiến
tranh thế giới, Quốc tế Cộng sản có sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược là: xác
định nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân quốc tế chưa phải là đấu tranh
lật đổ chủ nghĩa tư bản nói chung, mà là đấu tranh chống chủ nghĩa phátxít và
ngăn ngừa chiến tranh thế giới, giành dân chủ và hoà bình; chủ trương xây dựng
mặt trận nhân dân rộng rãi để tập hợp lực lượng đấu tranh. Tháng 6-1936, Mặt
trận nhân dân Pháp, gồm Đảng Cộng sản, Đảng Xã hội, Đảng Xã hội cấp tiến,...
giành thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử. Chính phủ của Mặt trận nhân dân lên
cầm quyền, ban hành nhiều chính sách tiến bộ có lợi cho thuộc địa.
Căn cứ vào diễn biến tình hình thế giới, trong nước và đường lối của Quốc
tế Cộng sản, Hội nghị xác định: Kẻ thù chủ yếu trước mắt của nhân dân Đông
Dương chưa phải là chủ nghĩa đế quốc Pháp và phong kiến nói chung, mà là bọn
phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng; mục tiêu và nhiệm vụ trực tiếp
trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phátxít và chiến

tranh, đòi dân chủ, dân sinh và hoà bình. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận
nhân dân phản đế Đông Dương. Mặt trận có nhiệm vụ tập hợp rộng rãi "các giai
cấp, các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tôn giáo khác nhau, các
dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để đòi những điều dân chủ
đơn sơ (tức đòi những quyền dân chủ tối thiểu-TG)". Hội nghị quyết định thay
đổi các hình thức tổ chức và phương pháp đấu tranh của quần chúng, từ tổ chức
bí mật, đấu tranh bất hợp pháp là chủ yếu chuyển sang tổ chức và đấu tranh công
khai hợp pháp và nửa hợp pháp là chủ yếu.
Mối quan hệ giữa chiến lược và chỉ đạo chiến lược, giữa mục tiêu lâu dài và
mục tiêu trước mắt, giữa vấn đề giải phóng dân tộc và điền địa,... đã được Hội
21


nghị làm sáng tỏ. Văn kiện Chung quanh vấn đề chiến sách mới ghi rõ: "... chiến
lược của Đảng Cộng sản Đông Dương là phải làm cách mạng tư sản dân quyền phản đế và điền địa - lập chính quyền của công nông bằng hình thức Xôviết, để
dự bị điều kiện đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, đó là mục đích cuối cùng của
cuộc cách mạng trong giai đoạn này, nhưng làm sao đi tới mục đích ấy là vấn đề
chiến sách"và "Cuộc dân tộc giải phóng không nhất định phải kết chặt với cuộc
cách mạng điền địa (...). Nhiệm vụ cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông
Dương là đuổi đế quốc Pháp ra khỏi xứ, tẩy sạch tàn tích phong kiến, Đông
Dương hoàn toàn độc lập! Chủ trương ấy không bao giờ di dịch, nhưng chưa phải
là nhiệm vụ trực tiếp lập tức của Mặt trận nhân dân phản đế trong lúc hiện tại ở
Đông Dương, mà nó là mục đích cuối cùng của Mặt trận nhân dân phản đế"
Sau Đại hội đại biểu lần thứ nhất, 8 đồng chí Uỷ viên Trung ương bị bắt,
công tác của Ban Chấp hành Trung ương do Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng đảm
nhiệm. Tháng 7-1936, đồng chí Hà Huy Tập được phân công về nước để tổ chức
lại Ban Chấp hành Trung ương (đã bị tan rã) và giữ chức Tổng Bí thư của Đảng
cho đến tháng 3-1938.
Những quyết định của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 7-1936
đánh dấu bước trưởng thành mới của Đảng trong việc chỉ đạo chiến lược và sách

lược cách mạng Đông Dương. Trên cơ sở nắm vững mục tiêu chiến lược của cả
tiến trình cách mạng, Đảng đã định ra mục tiêu cụ thể của từng thời kỳ cách
mạng trước mắt phù hợp với những diễn biến tình hình mới, Đảng nhận thức đầy
đủ hơn về vị trí chiến lược của công tác mặt trận, có chủ trương linh hoạt để tập
hợp lực lượng một cách rộng rãi, lôi cuốn mọi lực lượng, dù là tạm thời, vào cuộc
đấu tranh nhằm thực hiện mục tiêu trước mắt. Đảng lại biết lợi dụng một cách
khôn khéo và đúng lúc khả năng đấu tranh công khai hợp pháp và nửa hợp pháp
để đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng, kết hợp chặt chẽ cách mạng
Đông Dương với cách mạng thế giới, cách mạng Đông Dương với cách mạng
Pháp, tranh thủ những điều kiện thuận lợi của tình hình thế giới để thúc đẩy cách
mạng Đông Dương phát triển, góp phần vào sự nghiệp cách mạng thế giới.
22


Những quyết định của Hội nghị này phản ánh Đảng ta đã vận dụng đúng đắn,
sáng tạo đường lối của Quốc tế Cộng sản vào điều kiện cụ thể của các dân tộc
Đông Dương trong bối cảnh lúc bấy giờ.
Hạn chế của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 7-1936 là chưa nêu
được những khẩu hiệu thích hợp về dân tộc trong lúc còn tạm gác khẩu hiệu
chiến lược đánh đổ đế quốc Pháp giành độc lập dân tộc cho các dân tộc Đông
Dương. Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương mà Hội nghị thành
lập chưa thích ứng với hoàn cảnh cụ thể của Đông Dương thời kỳ này. Bởi vì,
yêu cầu lịch sử đặt ra lúc này là cần có một hình thức Mặt trận rộng rãi hơn để
tập hợp quần chúng đấu tranh đòi quyền dân chủ, chống chiến tranh, chống
phátxít, bảo vệ hoà bình. Các Hội nghị Trung ương Đảng sau đó tiếp tục bổ sung
và phát triển thêm.
4. Hội nghị BCH Trung ương Đảng (Từ ngày 6 đến ngày 8-11-1939)
Ngày 1-9-1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan, mở màn cuộc Chiến tranh
thế giới lần thứ hai. Ở Đông Dương, thực dân Pháp ra sức vơ vét của cải, tiền
bạc, sức người để phục vụ cho chiến tranh. Chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố

phong trào cách mạng, thủ tiêu những quyền dân chủ tối thiểu mà nhân dân ta đã
giành được trong những năm 1936-1938. Mâu thuẫn giữa các dân tộc Đông
Dương với thực dân Pháp trở nên gay gắt. Do đó, trong các ngày 6, 7, 8-11-1939,
Trung ương Đảng họp ở Bà Điểm, Hóc Môn (Gia Định) để bàn các chủ trương
của Đảng trong tình hình mới, dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Văn Cừ.
Tham dự Hội nghị có các đồng chí Lê Duẩn, Phan Đăng Lưu, Võ Văn Tần...
Hội nghị phân tích sâu sắc tính chất, hậu quả của cuộc chiến tranh thế giới;
vai trò, vị trí của Đông Dương trong cuộc chiến tranh đó; bản chất sâu xa trong
các chính sách phản động của thực dân Pháp; thái độ chính trị của các giai cấp
trong xã hội Việt Nam trước biến động của thời cuộc và vạch ra đường lối chính
trị, phương hướng, nhiệm vụ cách mạng Việt Nam trong tình hình mới. Hội nghị
nhận định, phát xít Nhật sẽ chiếm Đông Dương. Bộ máy cai trị ở Đông Dương
23


đang từng bước phát xít hoá, một thứ phát xít thuộc địa tàn bạo và những kẻ đứng
đầu bộ máy đó đang mưu toan thoả hiệp, đầu hàng phát xít Nhật. Các chính sách
phản động của đế quốc Pháp đẩy nhân dân đến chỗ cùng cực, lay động hầu hết
các giai cấp, tầng lớp xã hội, làm cho mâu thuẫn xã hội vốn sâu sắc giữa Pháp với
các tầng lớp nhân dân càng thêm sâu sắc, đòi hỏi được giải quyết. Những nhận
định và phân tích tình hình đó là cơ sở cho việc định ra phương hướng hành động
của toàn Đảng, toàn dân đi tới giải phóng dân tộc, giành chính quyền về tay nhân
dân.
Hội nghị khẳng định hai nhiệm vụ cơ bản của cuộc cách mạng tư sản dân
quyền là đánh đổ đế quốc và giai cấp địa chủ phong kiến không thay đổi, nhưng
phải được áp dụng cho phù hợp với tình hình mới. Trong điều kiện chiến tranh
thế giới đã nổ ra và bọn thống trị ở Đông Dương thi hành các chính sách vô cùng
tàn bạo, chà đạp lên mọi quyền sống của nhân dân, Hội nghị xác định kẻ thù cụ
thể, nguy hiểm nhất của cách mạng Đông Dương lúc này là chủ nghĩa đế quốc và
bọn tay sai phản bội dân tộc, tính chất cuộc cách mạng hiện tại là cách mạng giải

phóng dân tộc. Nhiệm vụ trung tâm trước mắt của cách mạng Việt Nam nói riêng
và cách mạng Đông Dương nói chung là đánh đổ đế quốc và tay sai, giành hoàn
toàn độc lập cho dân tộc: "Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đông Dương
không còn có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp,
chống tất cả ách ngoại xâm, vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng
độc lập".
Để tập trung đông đảo lực lượng dân tộc, Hội nghị quyết định thay đổi một
số khẩu hiệu, chuyển hướng hình thức tổ chức và hình thức đấu tranh:
- Tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của giai cấp địa chủ; chỉ chủ trương
tịch thu ruộng đất của đế quốc và tay sai.
- Không nêu khẩu hiệu lập Chính phủ Xô viết công nông mà đề ra khẩu hiệu
thành lập Chính phủ Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương.
24


- Quyết định thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương
thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương, nhằm liên hiệp các lực lượng dân chủ
và tiến bộ, kể cả các tổ chức cải lương, đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ.
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939 đánh dấu sự trưởng
thành của Đảng, cụ thể hoá một bước đường lối cứu nước trên tinh thần của
Cương lĩnh đầu tiên được hoạch định từ khi thành lập Đảng. Đây là sự chuyển
hướng từ đấu tranh chính trị, hoà bình đòi quyền dân sinh dân chủ sang đấu tranh
vũ trang - bạo lực, kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và khởi
nghĩa vũ trang để giành chính quyền; từ hoạt động công khai, hợp pháp, nửa hợp
pháp là chủ yếu chuyển sang hoạt động bí mật, bất hợp pháp là chủ yếu. Những
chủ trương của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương tháng 11-1939 tiếp tục được
bổ sung, hoàn chỉnh ở Hội nghị Trung ương (tháng 11-1940) và Hội nghị Trung
ương tám (tháng 5-1941).
5. Hội nghị BCH Trung ương Đảng (Từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940)
Hội nghị họp từ ngày 6 đến ngày 9-11-1940, trong bối cảnh phát xít Nhật đổ

bộ chiếm đóng Đông Dương, thực dân Pháp từng bước nhượng bộ và đầu hàng
Nhật, nhân dân Việt Nam chịu cảnh "một cổ hai tròng" thống trị của Pháp - Nhật.
Khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra (ngày 27-9-1940), Xứ uỷ Nam Kỳ sau nhiều lần thảo
luận đã chủ trương phát động nhân dân vũ trang khởi nghĩa.
Sau Hội nghị Trung ương tháng 11-1939, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ,
đồng chí Lê Duẩn và một số đồng chí uỷ viên trung ương khác bị bắt. Các đồng
chí còn lại cùng đồng chí Trường Chinh, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt (Xứ
uỷ Bắc Kỳ) tổ chức lại Ban Chấp hành Trung ương Đảng, đồng chí Trường
Chinh giữ chức quyền Tổng Bí thư của Đảng. Hội nghị Trung ương họp tại Đình
Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh), có các đồng chí Trường Chinh, Phan Đăng Lưu,
Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Trần Đăng Ninh,... tham dự.
Hội nghị đã bàn sâu nhiều chủ trương được nêu ra ở Hội nghị Trung ương
tháng 11-1939. Phân tích về Chiến tranh thế giới lần thứ hai, Hội nghị đã đánh
25


×