Tải bản đầy đủ (.doc) (100 trang)

Giải pháp quản lý rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Thăng Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.07 KB, 100 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Hệ thống ngân hàng Việt Nam đã trải qua 20 năm đổi mới và đã phát
triển từ hệ thống ngân hàng một cấp sang hệ thống ngân hàng hai cấp, khẳng
định sự phát triển vượt bậc. Đặc biệt hiện nay, hệ thống ngân hàng đang phát
triển rất mạnh, nhiều ngân hàng mới ra đời và các sản phẩm và dịch vụ ngân
hàng ngày cũng rất đa dạng và phong phú, mới mẻ: dịch vụ huy động vốn,
dịch vụ tín dụng, dịch vụ ngân quỹ, dịch vụ thanh toán, và các dịch vụ khác:
dịch vụ ngân hàng điện tử, thẻ ngân hàng, bao thanh toán...Chính sự phát
triển đa dạng nhiều loại hình dịch vụ này đã góp phần đóng góp không nhỏ
vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy ngành ngân hàng ngày càng mở rộng tăng
trưởng.
Tuy nhiên trong đó hoạt động cơ bản của ngân hàng vẫn là họat động
tín dụng. Đây là một hoạt động đặc trưng không thể thiếu của các ngân hàng,
là hoạt đông mang lại lợi nhuận cao nhất song cũng mang lại rủi ro cao nhất
cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng gây ảnh hưởng trực tiếp tới thu nhập và sự
tồn tại phát triển của ngân hàng. Nếu rủi ro tín dụng xảy ra ở mức độ cao sẽ
dẫn đến khủng hoảng thanh khoản và sẽ dẫn đến sự phá sản ngân hàng. Theo
phản ứng dây chuyền sự phá sản của một ngân hàng sẽ dẫn đến sự hoảng
loạn của các ngân hàng khác, gây ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ ngành kinh
tế. Tuy nhiên đối với ngân hàng, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là
khách quan, là bạn đường trong kinh doanh chỉ có thể đề phòng và hạn chế
chứ không thể loại trừ. Do vậy rủi ro tín dụng dự kiến luôn được xác định
trong chiến lược họat động chung của ngân hàng.Quản lý rủi ro tín dụng
luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của tất cả các ngân hàng.
1
Nhận thức được điều đó, cùng với quá trình thực tập tại NHNN & PTNT
chi nhánh Thăng Long tôi đã lựa chọn đề tài : "Giải pháp quản lý rủi ro tín
dụng tại NHNo & PTNT chi nhánh Thăng Long" làm đề tài tốt nghiệp
của mình.
Kết cấu của chuyên đề như sau:
Chương 1: Một số vấn đề cơ bản về quản l rủi ro tín dụng trong hoạt động


kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT Chi
nhánh Thăng Long
Chương 3: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại NHNo & PTNT
chi nhánh Thăng Long
Rủi ro tín dụng là vấn đề rộng lớn và phức tạp do vậy trong bài viết
này em chỉ tập trung nghiên cứu về rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay
của chi nhánh NHNo & PTNT chi nhánh Thăng Long trong giai đoạn 2005-
2007. Mặc dù đã cố gắng nhưng chắc chắn bài viết này còn nhiều thiếu sót vì
vậy em rất mong nhận đuợc sự góp ý từ các thầy cô giáo để bài viết hoàn
thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Tiến sĩ Hoàng Xuân Quế và
các anh chị tại Chi nhánh đã giúp em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này

Sinh viên

Phan Thị Linh Giang
2
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN
DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NHTM
1.1. Khái quát về hoạt động kinh doanh và các rủi ro của NHTM
1.1.1.Khái niệm ngân hàng thương mại:
Ngân hàng thương mại là một trung gia tài chính lớn nhất và quan
trọng nhất trong nền kinh tế. Về ngân hàng thương mại, có rất nhiều đinh
nghĩa.
Theo điều 20 của Luật các tổ chức tín dụng của Việt Nam định nghĩa
thì :
“ Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh trên lĩnh vực tài chín tiền tệ, với các nội dung chính là huy động vốn,
cho vay vốn và cung cấp các dịch vụ thanh toán và dịch vụ khác”

Theo giáo trình Ngân hàng thương mại thì định nghĩa về Ngân hàng
được xét trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp: “
Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài
chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và
thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh
doanh nào trong nền kinh tế ”
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với nền kinh tế,
thông qua các hoạt động của mình các ngân hàng thực hiện các chức năng
tài chính và đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế.Ngân hàng thương
3
mại là cầu nối giữa người muốn tiết kiệm và người muốn đầu tư, là nguồn
tạo ra đổi mới tài chính nhanh chóng…
Theo Luật các tổ chức tín dụng thì “ Hoạt động ngân hàng là hoạt
động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là
nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch
vụ thanh toán”
* Một số hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại
- Huy động vốn: là hoạtđộng tạo nguồn vốn cho NHTM , đóng vai trò
quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng và hoạt động của ngân hàng bao
gồm: nhận tiền gửi thanh toán,tiền gửi tiết kiệm , phát hàng giấy tờ
có giá trên thị trường vốn và thị trường nợ như : cổ phiếu, trái
phiếu…
- Cấp tín dụng: Hình thức tín dụng của ngân hàng là cho khách hàng
vay ngắn hạn và trung dài hạn, cho vay thương mại, tài trợ cho dự án
ngoài ra còn có các hình thức : chiết khấu giấy tờ có giá, bảo lãnh
hoặc tái bảo lãnh cho khách hàng, cho thuê tài chính…
- Cấp tín dụng là một hoạt động mang lại lợi nhuận cao cho ngân hàng
nhưng cũng hàm chứa rất nhiều rủi ro, vì thế các nhà quản lý ngân
hàng cần phải cân nhắc rất kỹ trước khi ra quyết định cấp tín dụng
- Các hoạt động khác: ngoài những hoạt động cơ bản trên để tăng thêm

lợi nhuận và đa dạng hoá các dịch vụ, ngân hàng còn cung cấp hàng
loạt các dịch vụ khác: uỷ thác đầu tư và tư vấn đầu tư, cung cấp các
khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, bảo quản
vật có giá, cung cấp dịch vụ đại lý, bao thanh toán…
4
* Chức năng của ngân hàng thương mại:
- Trung gian tài chính: NHTM là một trung gian tài chính với hoạt
động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, là kênh dẫn vốn từ
những người thừa vốn sang những người cần vốn vì thế NHTM đã
giải quyết được mâu thuẫn của tín dụng trực tiếp: sự không phù hợp
về quy mô, thời gian, không gian, rủi ro cao và chi phí cao…Như
vậy, NHTM đã tăng thu nhập cho người tiết kiệm từ đó mà khuyến
khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư, từ
đó khuyến khích đầu tư
- Tạo phương tiện thanh toán: Trong điều kiện phát triển thanh toán
qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán , họ có thể chi trả để có được hàng hoá
và dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ
bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (Mo),
thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của các khách hàng
tại các ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản tiền gửi tiết
kiệm và tiền gửi có kỳ hạn…Khi các ngân hàng cho vay, số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có
thể dùng để mua mua hàng và dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay(hay
tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham
gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện
thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này
đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay.
5
- Trung gian thanh toán: NHTM đã trở thành trung gian thanh toán

lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Ngân hàng thay mặt khách
hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh
toán nhanh chóng và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách
hàng nhiều hình thức thanh toán như : thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm
chi, nhờ thu, các loại thẻ…Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán
bù trừ với nhau thông qua ngân hàng TW hoặc thông qua các trung
tâm thanh toán.
- Người bảo lãnh: cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất
khả năng thanh toán (chẳng hạn phát hành thư tín dụng)
- Là đại lý thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản của họ, phát
hàng hoặc chuộc lại chứng khoán.
- Thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều tiết sự
tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội.
1.1.2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của NHTM
NHTM là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hoá đặc biệt – hàng
hóa tiền tệ.Hoạt động của NHTM gắn liền với rủi ro. Rủi ro hầu như có mặt
trong từng nghiệp vụ ngân hàng, muốn có lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi
ro.Rủi ro của ngân hàng có thể phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau
nhưng đều có bản chất chung đó là : rủi ro là những tổn thất có thể xảy ra
ngoài dự kiến.Và rủi ro của ngân hàng gắn liền với giảm sút thu nhập ngoài
dự kiến.
6
Rủi ro tín dụng của NHTM có thể được phân thành các loại rủi ro
chính sau:
1.1.2.1. Rủi ro lãi suất
Rủi ro lãi suất là khả năng xảy ra những tổn thất khi lãi suất ngân hàng
thay đổi ngoài dự tính. Lãi suất ngân hàng (cả bên tài sản và bên nguồn
vốn) thường xuyên biến động với các mức độ khác nhau có thể dẫn đến tổn
thất. Rủi ro lãi suất không những gắn với biến động của lãi suất ngân hàng
mà còn gắn với nhiều nhân tố khác như cấu trúc và kì hạn của tài sản và

nguồn vốn, qui mô và kì hạn của các hợp đồng kì hạn…Rủi ro lãi suất có
liên quan chặt chẽ với rủi ro tín dụng hay nói cách khác rủi ro tín dụng
thường bắt nguồn từ rủi ro lãi suất.
1.1.2.2. Rủi ro hối đoái
Rủi ro hối đoái là khả năng xảy tổn thất ngoài dự kiến cho ngân hàng
khi tỷ giá hối đoái thay đổi vượt quá thay đổi dự tính. Trong cơ chế thị
trường , tỷ giá hối đoái thường xuyên dao động. Sự thay đổi này cùng với
trạng thái hối đoái của ngân hàng tạo ra thu nhập thặng dư hoặc thâm hụt
tạm thời. Tuy nhiên có những thay đổi tỷ giá ngoài dự kiến dẫn đến tổn thất
cho ngân hàng. Để phòng ngừa rủi ro hối đoái phát sinh thì ngân hàng phải
làm cho cân xứng giữa tài sản có và tài sản nợ đối với mỗi loại ngoại tệ
trong bảng cân đối tài sản của ngân hàng mình.
1.1.2.3.Rủi ro thanh khoản
Rủi ro thanh khoản là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho
ngân hàng khi nhu cầu thanh khoản thực tế vượt quá (hoặc nhỏ hơn) khả
năng thanh khoản dự kíên làm gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu
thanh khoản hoặc làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán. Rủi ro thanh
khoản ở mức ngân hàng phải gia tăng các chi phí để đáp ứng nhu cầu thanh
7
khoản sẽ làm giảm thu nhập ròng của ngân hàng; ở mức cao hơn ngân hàng
mất khả năng thanh toán sẽ dẫn đến phá sản.
1.1.2.4. Rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất ngoài dự kiến cho ngân
hàng khi khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả hoặc không trả đủ
cả gốc lẫn lãi
1.1.2.5. Rủi ro hoạt động ngoại bảng
Hiện này, các dịch vụ ngoại bảng của NHTM ngày càng được mở
rộng và phát triển. Theo định nghĩa hoạt động ngoại bảng là các hoạt động
không thuộc bảng cân đối tài sản (nội bảng) bởi vì các hoạt động này không
liên quan đến việc nắm giữ các chứng khoán hay giấy nhận nợ sơ cấp hay

các ngân hàng phát hành chứng khoán hay giấy nhận nợ thứ cấp. Tuy nhiên
các hoạt động ngoại bảng có thể tạo ra các tài sản có hoặc tài sản nợ bổ
sung cho bảng cân đối nội bảng. Ví dụ như phát hành thư tín dụng dự
phòng bảo lãnh cho công ty phát hành trái phiếu. Thư bảo lãnh tín dụng chỉ
được sử dụng trong trường hợp nếu công ty phát hành trái phiếu không có
đủ khả năng thanh toán một phần hay toàn bộ số tiền gốc và lãi trái phiếu.
Còn trong trường hợp công ty phát hành trái phiếu thanh toán đủ cả gốc lẫn
lãi thì thư tín dụng bảo lãnh sẽ tự động hết hiệu lực do đó sẽ không có bất
kỳ điều gì xảy ra đối với bảng cân đối nội bảng của NHTM. Tuy nhiên
khoản chi phí phát hành thư bảo lãnh tín dụng được hạch toán vào báo cáo
thu nhập chi phí và kết quả kinh doanh của NHTM và được hạch toán vào
nội bảng.
Tuy hoạt động ngoại bảng tạo nguồn thu nhập cho khách hàng
nhưng hoạt động này cũng tiềm ẩn nhiều rủi ro. Ví dụ đó là khi bên được
bảo lãnh không có đủ khả năng thanh toán một phần hoặc tất cả gốc và lãi,
8
hoặc là vi phạm hợp đồng… thì ngân hàng phải dùng một phần vốn kinh
doanh của mình để trả cho bên hưởng bảo lãnh. Trong thực tế những trường
hợp thua lỗ nghiêm trọng trong các hoạt động ngoại bảng đã gây ra tổn thất
rất lớn cho ngân hàng và gây phá sản.
Ngoài bảo lãnh, hoạt động ngoại bảng còn có nhiều dịch vụ phong
phú và đa dạng: bao thầu phát hành trái phiếu, trạng thái ngoại hối có kì
hạn, tương lai, hoán đổi; cam kết tín dụng…Hiệu quả kinh doanh của hoạt
động ngoại bảng rất cao nhưng rủi ro trong kinh doanh không phải là nhỏ.
Do đó quản trị rủi ro hoạt động ngoại bảng rất được coi trọng với một mô
hình hoạt động của một ngân hàng hiện đại.
1.1.2.6. Rủi ro khác:
Các rủi ro khác xảy ra đối với ngân hàng ví dụ như rủi ro công nghệ (
xảy ra khi những khoản đầu tư cho công nghệ không tạo ra được khoản tiết
kiệm trong chi phí như đã dự tính), rủi ro hoạt động ( xảy ra khi hệ thống

công nghệ trục trặc hay hệ thống bên trọng ngừng hoạt động ), rủi ro từ
trách nhiệm của cán bộ ngân hàng, rủi ro từ các chính sách vĩ mô của nhà
nước, rủi ro từ hoả hoạn, cướp bóc….
1.1.3.Rủi ro tín dụng và nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng
1.1.3.1. Khái niệm
Hoạt động kinh doanh ngân hàng rất nhạy cảm, có liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác nhau của nền kinh tế, chịu sự tác động của nhiều nhân tố khách
quan và chủ quan như kinh tế, chính trị, xã hội…Hơn nữa ngân hàng kinh
doanh trên nhiều lĩnh vực như hoạt động huy động vốn, cho vay, bảo lãnh,
kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, thanh toán…Do đặc thù kinh doanh
của NHTM nên rủi ro của NHTM là rất đa dạng: rủi ro lãi suất, rủi ro tín
dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái, rủi ro ngoại bảng…Trong số tất cả
9
các loại rủi ro kể trên thì rủi ro tín dụng chiếm tỉ lệ đáng kể nhất và phức
tạp nhất
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất tài chính ngoài dự kiến
cho ngân hàng khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ đúng hạn
theo cam kết hoặc mất khả năng thanh toán.
Rủi ro tín dụng gắn liền với hoạt động quan trọng nhất và có qui mô
lớn nhất của NHTM - hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài
trợ cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho
độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định cho vay khi
thấy an toàn. Tuy nhiên khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể
thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa nhiều cán bộ ngân hàng không có
khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy rủi ro tín dụng là
không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm cho rằng rủi ro tín
dụng là bạn đường trong kinh doanh của NHTM, chỉ có thể đề phòng hạn
chế chứ không thể loại bỏ hoàn toàn. Do vậy rủi ro tín dụng luôn được xác
định trước trong chiến lược hoạt động chung của ngân hàng.
1.1.3.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng

a, Nguyên nhân khách quan
Đây là những nguyên nhân không xuất phát từ cán bộ cho vay hay ý
thức trả nợ của khách hàng mà do môi trường bên ngoài tác động vào.
Những nguyên nhân này tác động thường xuyên liên tục tới người vay tạo
thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay và khách hàng cho vay. Nhóm
những nguyên nhân khách quan này bao gồm:
i. Rủi ro do biến động của môi trường thiên nhiên
Những biến động về thời tiết, khí hậu gây ảnh hưởng tới hoạt động sản
xuất kinh doanh đặc biệt là lĩnh vực sản xuất nông nghiệp. Điều kiện tự
10
nhiên là yếu tố khó đoán, nó thường xảy ra bất ngờ với thiệt hại lớn nằm
ngoài sự kiểm soát của con
người. Vì vậy khi có thiên tai địch hoạ xảy ra thì nguy cơ tổn thất của khách
hàng cùng ngân hàng cho vay sẽ rất lớn, phương án kinh doanh sẽ không có
nguồn thu. Ở Việt Nam thời tiết diễn biến phức tạp nên môi trường tự nhiên
được coi là một trong nhiều nguyên nhân gây ra rủi ro cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng khi đầu tư phát triển các thành phần kinh tế
ii. Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định
 Sự biến động quá nhanh và không dự đoán được của thị trường thế
giới. Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn phụ thuộc quá nhiều vào sản
xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ nông nghiệp (nuôi trồng,
chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công, …vốn
rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị tổn
thương khi thị trường thế giới biến động xấu.
 Rủi ro tất yếu của quá trình tự do hoá tài chính, hội nhập quốc tế.
Quá trình tự do hoá tài chính và hội nhập quốc tế có thể làm cho nợ
xấu gia tăng khi tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt khiến hầu
hết các doanh nghiệp , những ngân hàng thường xuyên của khách
hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và qui luật chọn lọc khắc
nghiệt của thị trường. Bên cạnh đó, bản thân sự cạnh tranh của

NHTM trong môi trường hội nhập kinh tế khiến cho các ngân hàng
trong nước với hệ thống quản lý yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ
xấu tăng lên bởi hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ
bị ngân hàng nước ngoài thu hút
 Sự tấn công của hàng nhập lậu. Hàng lậu vẫn tràn lan tại các thành
phố lớn, làm điêu đứng các doanh nghiệp trong nước và các ngân
hàng đầu tư vốn cho các doanh nghiệp này.
11
 Thiếu sự qui hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến
khủng hoảng thừa về đầu tư trong một số ngành và lãng phí tài
nguyên quốc gia.
iii. Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi
 Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. Trong những
năm gần đây, Quốc hội, chính phủ và NHNN và các cơ quan liên
quan đã ban hành nhiều luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân
hàng. Tuy nhiên luật và văn bản đã có song việc triển khai vào hoạt
động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều
vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ.
Điều này dẫn đến tình trạng các NHTM không thể giải quyết được nợ
tồn đọng, tài sản tồn đọng.
 Sự thanh tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN còn chưa có sự cải
thiện căn bản về chất lượng. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa
đáp ứng được yêu cầu. Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát
lạc hậu, chậm được đổi mới, Vai trò kiểm toán chưa được phát huy
và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh
tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ
thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu….
 Hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Hiện nay ở VN còn chưa có
một cơ chế công bố thông tin đầy đủ về doanh nghiệp và ngân hàng.
Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàn (CIC) của NHNN đã hoạt

động quá một thập niên và đã đạt được những kết quả bước đầu rất
đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt
động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh
nghiệp một cách độc lập và hiệu quả.
b, Nguyên nhân chủ quan
12
i. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía khách hàng vay
 Sử dụng vốn sai mục đích, không có thiện chí trong việc trả nợ
vay. Đa số các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các
phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Số lượng các doanh nghiệp sử
dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản
không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề,
liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các
doanh nghiệp khác.
 Khả năng quản lý kinh doanh kém. Khi các doanh nghiệp vay tiền
ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là tập trung vốn
đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới
cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính,
kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so
với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của các phương
án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế
 Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch. Quy mô
tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nơ so với vốn tự có cao là đặc điểm
chung của hầu hết các doanh nghiệp VN. Ngoài ra, thói quen ghi chép
đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các
doanh nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế
toán mà các doanh nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang
tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi cán bộ ngân hàng lập các bản
phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh
nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là

nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế
chấp như là chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
13
ii. Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay
 Lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng. Kiểm tra nội
bộ có điểm mạnh hơn thanh tra NHNN ở tính thời gian vì nó nhanh
chóng, kịp thời ngay khi vừa phát sinh vấn đề và tính sâu sát của người
kiểm tra viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với
công việc kinh doanh. Nhưng trong thời gian trước đây, công việc
kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức
 Bố trí cán bộ thiếu đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ.Đạo đức
của cán bộ là một trong các yếu tố tối quan trọng để giải quyết vấn đề
hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ kém về năng lực có thể bồi dưỡng
thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp
vụ thì thật vô cùng nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín
dụng. Nhiều cán bộ tín dụng làm trái qui trình tín dụng để mưu lợi cá
nhân, đinh giá tài sản thế chấp không đúng với giá trị thực tế do thông
đồng với khách hàng, lập hồ sơ vay vốn giả, tẩy xoá sửa chữa chứng
từ….
 Thiếu giám sát và quản lý sau khi cho vay. Các ngân hàng thường có
thói quen tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho
vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, kiểm soát đồng vốn sau khi cho
vay. Khi ngân hàng cho vay thì khoản cho vay cần phải được quản lý
một cách chủ động để đảm bảo sẽ đựơc hoàn trả. Theo dõi nợ là một
trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng
và của ngân hàng nói chung. Việc theo dõi hoạt động của khách hàng
vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa
khách hàng và ngân hàng nhằm tìm ra những cơ hội kinh doanh mới và
14
mở rộng cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên trong thời gian qua các NHTM

chưa thực hiện tốt công tác này. Điều này một phần do yếu tố tâm lý
ngại gây phiền hà cho khách hàng của cán bộ ngân hàng, một phần do
hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp
quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời, đầy đủ các thông tin mà
NHTM yêu cầu.
 Sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo. Kinh doanh ngân hàng là
một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay hay nói cách khác đi vay
để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể
tránh khỏi, các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm
hạn chế rủi ro. Sự hợp tác nảy sinh do nhu cầu quản lý rủi ro đối với
cùng một khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng.
Trong quản trị tài chính, khả năng trả nợ của một khách hàng là một
con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông
tin, dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho vay một khách hàng đến
mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ
không chừa một ngân hàng nào. .
1.2. Quản lý rủi ro tín dụng trong ngân hàng thương mại.
1.2.1. Khái niệm quản lý rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng là khách quan và luôn tồn tại trong từng nghiệp vụ tín
dụng cuả NHTM. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan, chỉ
có thể hạn chế chứ không thể loại trừ. Do đó rủi ro tín dụng cần được các nhà
quản lý ngân hàng dự kiến và lường trước. Đó chính là xuất phát điểm hình
thành nên quản trị rủi ro tín dụng của NHTM
15
Hơn nữa, rủi ro tín dụng chỉ là khả năng xảy ra tổn thất cho ngân hàng
và không phải bao giờ cũng xảy ra tuy nhiên do tính lặp lại của rủi ro nên
trong nhiều trường hợp người ta nhận thức được qui luật của rủi ro tín dụng.
Chính vì điều này mà ngân hàng có thể tìm ra những biện pháp quản lý nhằm
hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn thất do rủi ro tín
dụng gây ra.

Vậy quản lý rủi ro tín dụng là một trong những nội dung quản trị rủi ro
của NHTM nhằm hạn chế khả năng xảy ra rủi ro tín dụng và giảm thiểu tổn
thất do rủi ro tín dụng bao gồm các hoạt động: nhận biết và đánh giá mức độ
rủi ro , đo lường phân tích rủi ro , kiểm soát nhằm hạn chế rủi ro và báo cáo
về rủi ro.
1.2.2. Sự cần thiết phải quản lý rủi ro tín dụng
Hoạt động tín dụng chiếm khoảng 60-80% trong danh mục tài sản có
của ngân hàng. Các rủi ro tín dụng vì thế có ảnh hưởng rất lớn va chiếm 90%
các rủi ro cơ bản. Do đó quản lý rủi ro tín dụng là một trong những vấn đề
trọng tâm, đang được các ngân hàng quan tâm.
Khi ngân hàng không kiểm soát được rủi ro tín dụng sẽ gây nên nhiều
bất lợi cho cả ngân hàng cho vay nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
1.2.2.1. Đối với ngân hàng
Khi rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm phát sinh các khoản nợ khó đòi, ngân
hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay đồng thời lại phát
sinh thêm các chi phí quản lý và chi phí giám sát thu nợ. Thế nhưng ngân
hàng vẫn phải trả vốn và lãi khi đến hạn cho các khoản tiền gửi. Vì thế ngân
16
hàng bị giảm lợi nhụân và bị mất cân đối thu chi. Khi không thu được nợ thì
vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không hiệu quả.
Không những thế, các món vay được thanh toán không đúng hạn và
đầy đủ sẽ dẫn đến sự không cân đối giữa hai dòng tiền ra và dòng tiền vaò
của ngân hàng làm cho ngân hàng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin
người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, bị cấp trên khiển trách.
Đối với cấp dưới, do ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng nên không có tiền
lương trả cho công nhân viên vì thế nhưng người có năng lực sẽ thuyên
chuyển công tác, gây khó khắn cho ngân hàng.
1.2.2.2. Đối với khách hàng:
i. Đối với khách hàng vay vốn: Khi rủi ro tín dụng xảy ra thì không có
gì đảm bảo các hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng vay

vốn còn nguyên giá trị. Quá trình giải ngân bị dừng lại, do vậy sẽ có
tác động xấu tới tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp gây
nên tình trạng đình đốn trong sản xuất kinh doanh.
ii. Đối với khách hàng gửi tiền: Rủi ro tín dụng xảy ra sẽ làm giảm khả
năng thanh toán và giảm uy tín của ngân hàng. Khi đó người gửi tiền
sẽ đồng loạt rút tiền ở ngân hàng để tránh rủi ro cho đồng tiền của
mình. Mặc dù ngân hàng luôn ưu tiên thanh toán cho khách hàng gửi
tiền tại ngân hàng nhưng điều đó không đảm bảo rằng ngân hàng sẽ
thanh toán đầy đủ cho tất cả các khách hàng của mình. Người gửi tiền
sẽ không chắc chắn về khả năng ngân hàng sẽ thanh toán cho mình.
1.2.2.3. Đối với nền kinh tế
17
Hoạt động ngân hàng là một lĩnh vực nhạy cảm, chỉ một ảnh hưởng cũng
có thể gây tác động lớn đối với nền kinh tế
Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động nhiều doanh nghiệp, nhiều
ngành, nhiều cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế. Do đó khi một ngân hàng
gặp rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác
hoang mang lo sợ cho đồng tiền của mình, sẽ ồ ạt đi rút tiền. Hiệu ứng dây
chuyền này gây ra sự hoảng loạn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng.Trường
hợp xấu nhất có thể dẫn đến sự đổ vỡ hàng loạt của các ngân hàng và các tổ
chức tín dụng khác. Nó làm cho nền kinh tế suy thoái, giá cả tăng, sức mua
giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn đinh. Ngoài ra, rủi ro tín dụng cũng
ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều
phụ thuộc vào nền kinh tế mỗi khu vực và thế giới. Cuộc khủng hoảnh tài
chinh châu Á (1997) và cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã
làm rung chuyển toàn cầu.
Tóm lại, rủi ro tín dụng của một ngân hàng xảy ra ở các mức độ khác
nhau: nhẹ nhất là ngân hàng bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho
vay, nặng nhất là khi ngân hàng không thu được vốn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ
cao dẫn đến ngân hàng bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không

khắc phục được, ngân hàng sẽ bị phá sản gây hậu quả nghiêm trọng cho hệ
thống ngân hàng và nền kinh tế. Chính vì thế, đòi hỏi các nhà quản trị ngân
hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp để giảm thiểu
rủi ro trong cho vay.
1.2.3. Nội dung quản lý rủi ro tín dụng của NHTM
1.2.3.1. Dấu hiệu nhận biết rủi ro tín dụng
18
Tuy rủi ro tín dụng là tổn thất xảy ra ngoài dự kiến tuy nhiên trước khi
rủi ro đó xảy ra, cũng có dấu hiệu báo động. Có dấu hiệu biểu hiện mờ nhạt,
có dấu hiệu biểu hiện rất rõ ràng, Vì vậy ngân hàng cần có biện pháp để nhận
ra những dấu hiệu ban đầu của các khoản vay có vấn đề và ngăn chặn và xử
lý chúng. Đây chính là một nội dung trong quá trình quản trị rủi ro tín dụng
của NHTM. Có thể sắp xếp dấu hiệu của rủi ro tín dụng thành các nhóm sau:
Nhóm 1: Nhóm các dấu hiệu liên quan đến mối quan hệ với ngân hàng
* Trong qua trình hạch toán của khách hàng, xu hướng của các tài khoản
của khách hàng qua một quá trình sẽ cung cấp cho ngân hàng một số dấu
hiệu quan trọng bao gồm”
 Phát hành séc quá bảo chứng hoặc bị từ chối
 Khó khăn trong thanh toán lương
 Sự dao động của các tài khoản mà đặc biệt là giảm sút số dư tài khoản
tiền gửi
 Tăng mức sử dụng bình quân trong các tài khoản
 Thường xuyên yêu cầu hỗ trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn
khác nhau
 Không có khả năng thực hiện các hoạt động cắt giảm chi phí
 Gia tăng các khoản nợ thương mại hoặc không có khả năng thanh toán
nợ khi đến hạn.
* Các hoạt động cho vay
19
 Mức độ cho vay thường xuyên gia tăng

 Thanh toán chậm các khoản nợ gốc và lãi
 Thường xuyên yêu cầu ngân hàng cho đáo hạn
 Yêu cầu các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến
* Phương thức tài chính
 Sử dụng nhiều các khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát triển
dài hạn
 Chấp nhấn sử dụng các nguồn tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động phát
triển dài hạn
 Giảm các khoản phải trả và tăng các khoản phải thu
 Các hệ số thanh toán phát triển theo chiều hướng xấu
 Có biểu hiện giảm vốn điều lệ
Nhóm 2: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới phương pháp quản lý của
khách hàng:
 Thay đổi thường xuyên cơ cấu của hệ thống quản trị hoặc điều hành
 Hệ thống quản trị hoặc ban điều hành luôn bất đồng về mục đích, quản
trị, điều hành độc đoán hoặc ngược lại quá phân tán.
 Cách thức hoạch định của khách hàng có biểu hiện:
- Được hoạch định bởi hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành ít hay
không có kinh nghiệm
20
- Hội đồng quản trị hoặc giám đốc điều hành các doanh nghiệp lớn tham
gia quá sâu vào vấn đề thường nhật
- Thiếu quan tâm đến lợi ích của cổ đông, chủ nợ
 Quản lý có tính gia đình: có biểu hiện thiếu tin tưởng vào những người
quản lý không thuộc gia đình, cho thành viên của gia đình chưa được
huần luyện đào tạo đầy đủ đảm đương vị trí then chốt
 Có tranh chấp trong quá trình quản lý
 Có các chi phí quản lý bất hợp lý
Nhóm 3: Nhóm các dấu hiệu liên quan tới các ưu tiên trong kinh doanh:
 Dấu hiệu hội chứng hợp đồng lớn: Doanh nghiệp bị ấn tượng bởi một

khách hàng có tên tuổi mà sau này có thể trở nên lệ thuộc; Ban giám
đốc cắt giảm lợi nhuận nhằm đạt được hơp đồng lớn
 Dấu hiệu có hội chứng sản phẩm đẹp: Không đúng lúc hoặc bị ám ảnh
bởi một sản phẩm mà không chú ý đến các yếu tố khác
 Sự cấp bách không thích hợp như: Do áp lực nội bộ dẫn đến việc tung
ra sản phẩm quá sớm; các hạn mức thời gian kinh doanh đưa ra không
thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc
Nhóm 4: Nhóm các dấu hiệu thuộc về vấn đề kỹ thuật và thương mại, biểu
hiện:
 Khó khăn trong phát triển sản phẩm
21
 Nhưng thay đổi trên thị trường: tỷ giá, lãi suất, chỉ số chứng khoán,
thay đổi thị hiếu, cập nhật kĩ thuật mới, mất nhà cung ứng hoặc khách
hàng lớn, thêm đối thủ cạnh tranh
 Những thay đổi từ chính sách của Nhà nước: sự tác động của chính
sách thuế…
 Sản phẩm của khách hàng mang tính thời vụ cao
 Có biểu hiện cắt giảm các chi phí sửa chữa thay thế
Nhóm 5: Nhóm các dấu hiệu về xử lý thông tin về tài chính, kế toán
 Chuẩn bị không đầy đủ số liệu tài chính hoặc chậm trễ, trì hoãn nộp
các báo cáo tài chính
 Những kết luận về phân tích tài chính cho thấy:
- Sự gia tăng không cân đối về tỷ lệ nợ thường xuyên
- Khả năng giảm tiền mặt
- Tăng doanh thu nhưng lợi nhuận giảm hoặc không có
- Các tài khoản hạch toán vốn điều lệ không khớp
- Những thay đổi về tỷ lệ lãi gộp và lãi ròng trên doanh số bán
- Lượng hàng hóa tăng nhanh hơn doanh số bán.
- Số khách hàng nợ tăng nhanh và thời hạn thanh toán của các con nợ
được kéo dài

22
- Hoạt động lỗ
- Lập kế hoạch trả nợ mà nguồn vốn không đủ
- Không hạch toán đúng tài sản cố định
- Làm đẹp bảng cân đối bằng cách tạo ra các tài sản vô hình
- Thường xuyên không đạt mức kế hoạch về sản xuất và bán hàng
- Tăng giá trị quá cao thông qua việc tính lại tài sản
- Phân bố nợ không thích hợp
- Lệ thuộc vào các sản phẩm bất thường để tạo lợi nhuận
- …..
 Những dấu hiệu phi tài chính khác
Trong các dấu hiệu trên thì đối với ngân hàng dấu hiệu rõ ràng và có ý
nghĩa nhất là khách hàng chậm thanh toán các khoản cho vay
1.2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá đo lường rủi ro tín dụng
a, Các tiêu chuẩn về an toàn tín dụng của ngân hàng theo các quy đinh
quốc tế và trong nước
* Các nguyên tắc chung của Ủy ban giám sát ngân hàng Basel về quản trị
rủi ro tín dụng
Basel là Ủy ban Giám sát ngân hàng do các NHTW các nước G10
thành lập năm 1975 dưới sự bảo trợ của Ngân hàng Thanh toán quốc tế. Sau
23
một thời gian hoạt động, Ủy ban đã nghiên cứu và đưa ra các yêu cầu về an
toàn vốn, được ban hành lần đầu vào năm 1988 và gọi là Basel 1. Năm 1999,
Ủy ban đã đề ra 25 nguyên tắc cơ bản về giám sát ngân hàng hữu hiệu, đây là
những nguyên tắc tối thiểu và được xem là tài liệu để các cơ quan thanh tra,
giám sát ngân hàng và các nhà quản lý tài chính tham khảo. Do những hạn
chế của Basel 1, một hiệp ước mới về vốn đã được thông qua vào năm 2001
và gọi là Basel 2. Hiệp ước Basel 2 gồm 3 trụ cột:
Trụ cột thứ nhất: Yêu cầu về vốn tối thiểu
Trụ cột thứ hai: Cơ quan thanh tra trực tiếp đánh giá mức độ tuân thủ yêu

cầu vốn tối thiểu của ngân hàng;
Trụ cột thứ ba: Nguyên tắc thị trường và minh bạch thông tin
So với Basel 1, Basel 2 chỉ làm tinh xảo hơn cách thức đo lường và
tính toán những rủi ro này nhằm giúp các ngân hàng quản lý rủi ro. Basel 2
vẫn qui định mức vốn an toàn tối thiểu là 8% và chỉ thay đổi cách tính ở mẫu
số trong công thức tỷ lệ đủ vốn: bao gồm cả 3 loại rủi ro tín dụng, rủi ro thị
trường và rủi ro họat động. Basel 2 đã bãi bỏ cách tiếp cận rủi ro của Basel 1
và thay bằng cách phân định các mức rủi ro trên cơ sở xếp hạng chính xác
hơn mức độ rủi ro, các ngân hàng sẽ phải phụ thuộc chủ yếu vào kết quả xếp
hạng và đánh giá tín nhiệm của các tổ chức độc lập như Mooody và S&P. Hệ
thống đo lường theo Basel 2 phức tạp hơn nhưng có khả năng đánh giá chính
xác mức độ an toàn vốn.
Theo Basel 2, các phương pháp đo lường rủi ro tín dụng bao gồm:
 Phương pháp chuẩn hóa: phụ thuộc vào đánh giá của tổ chức xếp hạng
tín nhiệm độc lập. Theo phương pháp này, các nội dung hoạt động của
24
ngân hàng được chia thành 8 lĩnh vực. Theo đó, ngân hàng sẽ tính toán
lượng vốn tối thiểu cần đảm bảo cho từng lĩnh vực kinh doanh bằng
cách nhân thu nhập thuần từ lĩnh vực kinh doanh đó với các hệ số
tương ứng theo quy định của Ủy ban giám sát ngân hàng. Lượng vốn
tối thiểu đối với rủi ro trong hoạt động của toàn ngân hàng sẽ bằng
tổng vốn tối thiểu của từng lĩnh vực kinh doanh.
 Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ cơ bản: Các ngân hàng
đưa ra những khoản rủi ro ngầm định
 Phương pháp dựa trên hệ thống đánh giá nội bộ tiên tiến: Các ngân
hàng đưa ra một loạt thông tin đầu vào về rủi ro
* Các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng của Basel 2 bao gồm:
 Nguyên tắc 1: Phê duyệt và xem xét chiến lược rủi ro tín dụng theo
định kỳ, xem xét những vấn đề như: mức độ rủi ro có thể chấp nhận
được, mức độ khả năng sinh lời

 Nguyên tắc 2: Thực hiện chiến lược chính sách tín dụng. Xây dựng các
chính sách tín dụng. Xây dựng các qui trình thủ tục cho các khoản vay
riêng lẻ và toàn bộ danh mục tín dụng nhằm xác đinh, đánh giá, quản
lý và kiểm soát rủi ro tín dụng
 Nguyên tắc 3: Xác đinh và quản lý rủi ro tín dụng trong tất cả các sản
phẩm và hoạt động.
 Nguyên tắc 4: Tiêu chuẩn cấp tín dụng đầy đủ gồm có: những hiểu biết
về người vay, mục tiêu và cơ cấu tín dụng. nguồn thanh toán
25

×