Tải bản đầy đủ (.doc) (2 trang)

Phân tích ý nghĩa tư tưởng & giá trị nghệ thuật của truyện Vợ nhặt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 2 trang )

Nông thôn và nông dân vốn là đề tài quen thuộc của thể loại truyện ngắn từ xưa và nay. Dù ta phân loại
dòng văn học tiểu thuyết theo phương diện nào cũng không thể bỏ qua dòng tiểu thuyết về nông thôn. Với
đề tài đó, nhiều nhà văn đã trở nên nổi tiếng và học cũng đã cho ra đời nhiều tác phẩm có giá trị. Chẳng
hạn trước Cách mạng tháng Tám có tác phẩm “Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, tác phẩm “Chí Phèo” của Nam
Cao, rồi tác phẩm “Con trâu” của Trần Tiêu... Những tác phẩm này đã được viết với nội dung đơn giản
nhưng mang tư tưởng khá sâu sắc. Trong số những nhà văn viết về nông thôn đó, có một người tuy viết
sau và viết ít, nhưng khi tác phẩm vừa ra đời thì đã cho mọi người ưa thích và hoan nghênh. Đó chính là
truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân. Với truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân đã viết rất chân thật
và hết sức sắc sảo và để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Thông thường một tác phẩm chỉ có thể đứng vững khi nhà văn có nội dung mới, cách nói mới. Tác phẩm
“Vợ nhặt” của Kim Lân cũng vậy.
Trước hết, mới qua cái tựa đề “Vợ nhặt” thôi mà nó cũng đã mang lớp ý nghĩa, nó gây cho độc giả một sự
chú ý hết sức đặc biệt trước khi thưởng thức tác phẩm. Bởi xưa nay trên thế gian người ta nói là nhặt
được cái này, cái nọ chớ có ai nói là nhặt được vợ bao giờ ?. Vả lại, lấy vợ vốn là một trong ba việc khó
nhất đời của người đàn ông : “tậu trâu, lấy vợ, làm nhà”. Bởi vì việc dựng vợ, dựng chồng phần nhiều
được tổ chức thế này thế nọ, hết sức long trọng. Ấy vậy mà anh Tràng tự nhiên nhặt được cô vợ thì quả
thật là việc bất ngờ, lý thú. Và với cái nội dung đó thì chỉ có cái nhan đề “Vợ nhặt” mới nói đúng và sát
với diễn biến câu chuyện mà thôi. Cũng với nhan đề độc đáo đó mà Kim Lân đã nói lên được thân phận
con người lao động nông dân trong những năm bốn mươi lăm đói kém đến nỗi vợ mà người ta có thể nhặt
được một cách dễ dàng như nhặt một cọng rơm, cọng cỏ vậy.
Một điều quan trọng hơn góp phần tạo nên sự thành công của tác phẩm đó chính là nghệ thuật dựng
truyện. Đọc qua những trang truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân một sự tưởng tượng hết sức phong phú
cứ gợi và diễn ra trong tâm trí của chúng ta. Một bức tranh nông dân trong những năm bị cái đói hoành
hành của một phần tư đất nước, cứ như rõ mồn một. Nhân dân lao động bị đói, tiều tụy đáng thương cứ
hiện lên trước mắt. Còn nỗi đau đớn nào hơn khi chứng kiến cái cảnh “cái đói đã tràn về”, trẻ con vì đói
khát mà “chúng ngồi ủ rũ không buồn nhúc nhích”. Trẻ em vì thế, người lớn phải trôi dạt nay đây mai đó.
Một cọng rau cho đỡ đói cũng không, đâu tới hạt cơm hạt thóc... bởi thế những góc tường, phố chợ người
đói nằm “la liệt như ngã rạ” càng kinh tởm và đớn đau khi có “cái mùi gây gây của xác người chết”.
Kim Lân đã dàn truyện dựng cảnh hiện thực một cách độc đáo như vậy nhưng về phương diện khác cách
xây dựng nhân vật và diễn biến tâm lý nhân vật lại càng độc đáo hơn. Nhân vật Tràng hiện lên qua trang
văn với đầy đủ những gì chân thật nhất của người nông dân - người nông dân bị đói khát: “Chiếc áo vắt


trên vai , dường như mỏi mệt, vật vã của buổi chiều đè nặng trên cái lưng to của hắn”. Ôi !. Tiếng “hắn” cái tiếng xưng gọi mà ta đã quen thuộc ở “Chí Phèo” của Nam Cao, nay lại hiện lên trước mắt : “Hắn ngồi
khóc, khóc rồi chửi, hắn chửi ai ?. Hắn chửi đời, chửi giời, chửi cả làng Vũ Đại, chửi cả những thằng cha
mẹ nào đẻ ra hắn....”. Tiếng “hắn” vẻn vẹn vậy thôi, ghê tởm ư ?. Thù ghét ư ?. Khinh bạc ư ?.
Không !. Cả hai nhà văn Kim Lân và Nam Cao đều gợi lên tiếng “hắn” với tất cả niềm đau xót, thương
cảm ,trân trọng.
Ai đã một lần đọc “Vợ nhặt”,làm sao không xúc động và có thể quên đựơc một nhân vật - bà cụ Tứ - mẹ
anh Tràng.
Không biết được chuyện con mình – Tràng - nhặt đựơc vợ mang về tâm trạng của cụ diễn biến thật phong
phú, phức tạp. Trong những ngày tháng bị cái đói bất hạnh, bà thấu hiểu. Bà rất ý thức về việc dựng vợ,
dựng chồng cho con mình “phải làm thế này, thế nọ”. Nhưng trời ơi “cái khó bó cái khôn”. Con người ta
có thấu hiểu cái lo lắng đến đâu thì cũng chỉ là con số không. Bởi vậy, cụ Tứ chỉ biết nghĩ “tủi thân, tủi
phận” mà thôi. Bà thương con mình rồi thương con dâu. Cái nhìn của người đàn bà lòng đầy thương xót.


Hỡi ơi !. Có ai thấu hiểu cho cụ không ?. Tình thương yêu, sự đồng cảm, chịu đựng hoàn cảnh không chỉ
riêng ai – cái đói cái khát – đã khiến lòng cụ không nghĩ gì khác, lời nói đầy xúc động của cụ : “Chúng
mày lấy nhau lúc này”... thương quá !. Sao nó mặn mà , sâu đậm đến vậy. Hoàn cảnh đói khát đến chết
người vậy mà nổi lên cái nền ấy một khối đầm ấm yêu thương làm sao, có lẽ truyền thống ngàn đời của
dân tộc “Thương người như thể thương thân”, “lá lành đùm lá rách” được Kim Lân gửi gắm qua những
trang văn xúc động này.
Việc Tràng đã có vợ vừa là niềm vui, vừa là nỗi lo của bà cụ Tứ. Có cha mẹ nào không sung sướng, hạnh
phúc khi con cái của mình đủ lông đủ cánh trải qua thời niên thiếu nay trưởng thành đã có vợ có chồng....
Còn lo là lo vì hoàn cảnh hiện tại từ trước đến giờ chỉ có hai mẹ con, nạn đói hoành hành vốn đã khó đủ
ăn nay thêm một miệng ăn lại càng khó khăn vất vả thêm. Tuy vậy, niềm vui vẫn là phần nhiều “khuôn
mặt bủng beo của bà rạng rỡ hẳn lên”, “bà cụ nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai sau này”, bà cố giấu
nỗi lo để cho con dâu được vui vẻ. Tuy vậy bà vẫn “nghẹn” lời. Bà vẫn tin tưởng ở con, ở tương lai rạng
rỡ hơn. Một câu nói đầy tự tin của cụ “Tụi mày ráng bảo nhau mà làm ăn may ra trời cho khá hơn
không... có ai giàu ba họ có ai khó ba đời đâu”. Quả là một sự tin tưởng hoàn toàn khách quan, có căn cứ,
khó khăn rồi nhất định sung sướng, hạnh phúc. Nếu nói như Hồ Chí Minh trong Trời hửng thì cũng chẳng
khác nào : Hết mưa là hửng nắng lên thôi, hết khổ là vui vốn lẽ đời. Vì thực tế là như vậy, hình ảnh lá cờ

đỏ tung bay cùng với đám người cướp kho thóc ở cuối truyện cũng hiện lên trong tâm trí Tràng đã mở ra
một số phận nhân vật một khung trời mới đi làm Cách mạng với những thắng lợi vang dậy non sông như
Cách mạng tháng Tám, Điện Biên Phủ sau này.
Với cách dựng truyện độc đáo, xây dựng nhân vật với sự chuyển biến tâm lí, tinh tế Kim Lân đã thành
công đáng kể với truyện ngắn “Vợ nhặt”. Có thể với nhân vật, tình tiết câu chuyện đi qua số phận nhân
vật là sự mở đầu cho ý thức đấu tranh, giác ngộ Cách mạng. Dù chỉ thông qua một vài câu nói đến “lá cờ
đỏ”, “Việt Minh” nhưng Kim Lân đã thành công được và không để cho số phận nhân vật mình tối tăm bế
tắc như chị Dậu – anh Pha, như Chí Phèo, anh kép Tư Bền... trước đó.
Tóm lại, đồng cảm với Kim Lân, xót thương, cảm thông cho những con người trong "Vợ nhặt", ta hãy hát
cùng Tố Hữu ca khúc vốn là truyền thống của dân tộc Việt Nam ngàn đời : "Có gì đen trên đời hơn thế Người với người sống để yêu nhau".
Tham khảo thêm:



×