Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

Quản lý đăng ký khai sinh cho trẻ trên địa bàn xã phổ phong, huyện đức phổ, tỉnh quảng ngãi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (228.08 KB, 34 trang )

Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu.
Trong các loại giấy tờ tùy thân, Giấy khai sinh là loại giấy tờ được cơ quan
Nhàn nước có thẩm quyền cấp sớm nhất cho một con người. Đối với mỗi người sau
khai có giấy khai sinh , hộ tịch gốc, người đó có đủ quyền, nghĩa vụ theo pháp luật
đối với Nhà nước và xã hội. Tất cả những thông số có liên quan đến cuộc đời cá
nhân luôn bắt đầu từ hộ tịch gốc này.
Với tầm quan trọng đó, nếu trong quá trình thực hiện có sai sót mà không
được phát hiện kịp thời sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý cũng như khắc phục,
sửa chữa sai sót, và đặc biệt sẽ gây ra không ít những phiền hà cho công dân trong
việc thống nhất giấy tờ quan trọng khác sau này: hồ sơ đi học, xin việc làm hay
xuất ngoại ….
Nhận rõ tầm quan trọng của giấy tờ “hộ tịch gốc” đối với công tác quản lý
cũng như gắn với quyền lợi chính đáng của mỗi công dân, Đảng, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật liên quan tới công tác đăng ký và quản lý hộ tịch
mà mới đây nhất là : Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính
phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch (thay thế Nghị định số 83/1998NĐ-CP ngày
10/10/1998).
Nhìn chung mảng đề tài về công tác đăng ký và quản lý hộ tịch nói chung từ
trước tới nay đã có nhiều học giả tập trung nghiên cứu và đạt được những kết quả
đáng khích lệ nhưng xét một cách khách quan, những đề tài đó còn mang tầm vĩ mô
chưa sát hợp vào địa phương cụ thể. Với tư cách là sinh viên đang được nghiên cứu
về khía cạnh này tôi xin mạnh dạn đưa ra những ý kiến của mình về công tác đăng
ký và quản lý hộ tịch.
Xuất phát từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài: “ Quản lý đăng ký
khai sinh cho trẻ trên địa bàn xã Phổ Phong huyện Đức Phổ” làm vấn đề
nghiên cứu. Thông qua nội dung nghiên cứu này em xin khái quát về thực trạng


công tác quản lý đăng ký khai sinh trên địa bàn xã, từ đó đưa ra những giải
pháp, kiến nghị nhằm tăng cường hơn nữa công tác quản lý đăng ký khai sinh
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

1


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

của xã, đồng thời hướng tới khắc phục những hạn chế, tháo gỡ những khó khăn
mắc phải trong quá trình quản lý đăng ký khai sinh trên địa bàn xã.
1.2 Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1 Mục tiêu chung
Đánh giá tình hình thực hiện quản lý nhà nước về giấy khai sinh tại xã Phổ
Phong, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp và kiến nghị góp phần giúp cấp ủy
chính quyền địa phương đua ra những chủ trương đúng đắn nhằm tăng cường
công tác quản lý đăng ký giấy khai sinh tại địa phương.
1.2.2 Mục tiêu cụ thể
- Góp phần hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý đăng ký
giấy khai sinh
- Đánh giá thực trạng quản lý đăng ký giấy khai sinh tại xã
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm góp phần công tác quản lý
đăng ký giấy khai sinh tại địa phương tốt hơn.
1.3 Đối tượng, địa bàn, phạm vi nghiên cứu
1.3.1 Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu những vấn đề có tính lý luận và thực tiễn về đăng ký giấy khai

sinh.
1.3.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ.
- Phạm vi thời gian:
+ Thời gian thực hiện đề tài từ 20/6/2015 đến 20/8/2015.
1.4. Phương pháp nghiên cứu
1.4.1. Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu thứ cấp
Đây là phương pháp được áp dụng để tiến hành thu thập các tài liệu như:
điều kiện tự nhiên, kinh tế văn hóa xã hội, … đã được công bố thông qua sách,
báo, báo cáo của địa phương nhằm mô tả, đánh giá được những nét cơ bản của
địa phương cũng như công tác quản lý đăng ký giấy khai sinh.
1.4.2. Phương pháp điều tra, thu thập tài liệu sơ cấp
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

2


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

- Cùng cán bộ địa phương có chuyên môn, tham khảo ý kiến của một số
người dân bản địa để đánh giá tình hình quản lý đăng ký giấy khai sinh tại xã.
1.4.3. Phương pháp xử lý số liệu
Các số liệu thu thập được tổng hợp và xử lý trên phần mềm Excel.
1.4.4. Phương pháp phân tích số liệu
- Phương pháp thống kê mô tả: mô tả các chỉ số lớn nhất, nhỏ nhất, tổng
số, số bình quân, tỷ trọng….

- Phương pháp thống kê so sánh: so sánh, đối chiếu giữa các năm.
1.5. Kết cấu đề tài
Ngoài phần “mở đầu”, “kết luận”, “danh mục tài liệu tham khảo”, thì đề tài
được chia làm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của công tác quản lý đăng ký khai sinh cấp cơ sở.
Chương 2: Thực trạng công tác quản lý đăng ký khai sinh xã Phổ Phong
(2008-2009).
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý đăng ký khai
sinh của xã Phổ Phong (2013-2014).

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

3


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

NỘI DUNG
PHẦN I: BÁO CÁO TỔNG QUAN
1. Nội dung thực tập
- Khái quát một số thông tin về UBND xã Phổ Phong.
- Những đặc điểm cơ bản của xã Phổ Phong.
- Thực trạng quản lý nhà nước về đăng ký giấy khai sinh của xã Phổ
Phong.
- Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý đăng ký giấy khai sinh của
xã.

- Những thuận lợi và khó khăn trong việc đăng ký giấy khai sinh của xã.
- Các giải pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác đăng ký giấy
khai sinh cho xã Phổ Phong.
2. Quá trình thực tập
2.1. Cơ quan thực tập: UBND xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ
2.2. Thời gian thực tập:
- Thời gian thực tập: 02 tháng, keå từ ngày 20/6/2015 đến ngày 20/8/2015.
2.3. Giảng viên hướng dẫn: Ngô Thị Nghĩa Bình
3. Tóm tắt quá trình thực tập:
- Tuần 1+2 (từ 20/6/2015 đến 27/6/2015): tìm hiểu và làm quen với tổ chức
bộ máy cơ quan nơi thực tập và cơ chế làm việc của UBND xã Phổ Phong.
- Tuần 3+4 (từ 30/6/2015 đến 10/7/2015): Thực tập và nghiên cứu một số
văn bản của UBND xã Phổ Phong, tìm hiểu văn bản lý luận về đăng ký giấy
khai sinh.
- Tuần 5+6 (từ 13/7/2015 đến 24/7/2015): Tìm hiểu thực trạng về đăng ký
giấy khai sinh xã Phổ Phong trong thời gian qua.
- Tuần 7+8+9 (từ 27/7/2015 đến 15/8/2015): Thu thập một số tài liệu chuẩn
bị viết báo cáo thực tập và tiến hành viết báo cáo thực tập, tham khảo ý kiến
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

4


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

lãnh đạo UBND xã sau khi viết báo cáo xong, sửa lỗi, bổ sung những thiếu sót

của báo cáo trên cơ sở tham khảo ý kiến thu được. Hoàn thành báo cáo thực tập
gửi cơ quan nơi thực tập và học viện.
2. Tổng quan về xã Phổ Phong, huyện Đức Phổ.
2.1 Điều kiện tự nhiên và tình hình kinh tế xã hội ở xã Phổ Phong:
2.1.1 Vị trí địa lý:
Xã Phổ Phong là một xã miền núi nằm phía Tây Bắc huyện Đức Phổ.
Tọa độ địa lý:
+ Kinh độ Đông: 108o 47’ 50” – 108o 54’ 52”
+ Vĩ độ Bắc:

14o 48’ 50” - 14o 53’ 30”

Có giới cận:
+ Đông giáp: xã Phổ Thuận.
+ Tây giáp : xã Ba Liên, huyện Ba Tơ và xã Hành Tín Đông, Nghĩa Hành
+ Bắc giáp : xã Đức Lân, Đức Phú, huyện Mộ Đức.
+ Nam giáp : xã Phổ Nhơn.
2.1.2. Diện tích tự nhiên:
Diện tích tự nhiên: 5.433,05ha.
Địa bàn xã có 07 thôn: Gia An, Hiệp An, Vĩnh Xuân, Tân Phong, Vạn lý,
Hùng Nghĩa và Trung Liêm.
2.1.3 Đặc điểm, địa hình, thổ nhưỡng, thuỷ văn:
Xã Phổ Phong có địa hình phức tạp, đa dạng và bị chia cắt do núi và đồng
bằng xen kẻ, điểm cao nhất là 1.200m và Sông Ba Liên cắt một phần diện tích
của xã. Có hệ thống giao thông xuyên suốt với Quốc lộ 1A liên thông với các xã
trong và ngoài huyện, có đường sắt Bắc Nam và một điểm Ga Thạch Trụ trên
địa bàn thôn Hiệp An, có Quốc lộ 24 đi qua nối với các tỉnh Tây nguyên và các
tỉnh đồng bằng chạy qua trên địa bàn xã.
Điều kiện khí hậu:
+ Lượng mưa trung bình: 2.465mm.

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

5


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

+ Độ ẩm không khí trung bình năm: 85%.
2.1.4. Nhân lực:
- Số hộ: 2.539 hộ.
- Số nhân khẩu: 8.808 người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1%, tỷ lệ tử
vong 0,59%, mật độ phân bố dân cư 795 người/km2.
- Số lao động trong độ tuổi: 4.829 người.
2.2 Tình hình kinh tế - xã hội:
2.2.1 Về kinh tế :
Nông nghiệp :
Xã Phổ Phong là xã được xác định là xã nông nghiệp với 80% số hộ gia
đình trong xã phát triển kinh tế trong lĩnh vực nông nghiệp như: Trồng trọt, chăn
nuôi như năm 2013, tổng giá trị sản xuất kinh tế trong toàn xã đã đạt trên 224 tỷ
đồng, đạt 93,8 chỉ tiêu; tăng 5,9% so với năm 2012; thu nhập bình quân đầu
người đạt 6.400.000đ. Điều này đã được chứng minh qua tổng giá trị thu hoạch
khi ngành nông nghiệp đạt 135.179.900.000đồng trong tổng thu của xã trong
khi, giá trị của ngành tiểu thủ công nghiệp chỉ đạt 28.841.000.000đồng và giá
trị về thương mại và các dịch vụ khác đạt 46.981.400.000 đồng.
Xác định nền kinh tế mũi nhọn của xã là phát triển nông nghiệp và định
hướng phát triển nông nghiệp, thương mại dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp nên

lãnh đạo xã, HĐND xã đã đặt chỉ tiêu tập trung phát triển nông nghiệp với nhiều
hoạt động thiết thực. Ví dụ như để hỗ trợ nông dân phát triển chăn nuôi, nâng
cao chất lượng hàng hóa nông sản, xã đã phối hợp với Trạm khuyến nông,
khuyến ngư, Hội nông dân, chi cục bảo vệ thực vật mở hàng trăm lớp tập huấn
và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật, các phương thức phòng trừ sâu bệnh,
xử lý dư lượng chất bảo vệ thực vật, xử lý các loại bệnh trên giống cây trồng,
vật nuôi không để xảy ra dịch bệnh trên diện rộng thu hút hơn 3.700 lượt người
tham gia.
Để tạo điều kiện thuận tiện hơn cho người dân trong việc đi lại, trao đổi
thông tin và giúp các thương lái có thể đến tận các chân ruộng để thu mua sản
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

6


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

phẩm nông sản do người dân làm ra, chính quyền xã cũng đã rất chú trọng đến
việc phát triển hệ thống đường giao thông nông thôn trong xã. Những con đường
lớn được trải nhựa hoặc đổ đất đã vươn đến những chân ruộng xa nhất, xe ô tô
hoặc xe chở hàng đã có thể vào tận ruộng để tải hàng hóa.
Lâm nghiệp
Trên địa bàn xã diện tích đất Lâm nghiệp chiếm 50,82% so với diện tích
tự nhiên, năm qua xã đã trồng mới 15ha rừng và tiếp tục quản lý bảo vệ rừng,
phòng chóng cháy rừng, hạn chế tình trạng, chặt phá, khai thác trái phép. Hiện
nay đất trống đồi núi trọc trên địa bàn xã còn khá nhiều, chiếm khoảng 50,82%

diện đất lâm nghiệp, để phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, chống xói mòn, giữ
nguồn nước.
Tiểu thủ công nghiệp – thương mại – dịch vụ
Hiện nay toàn xã có 02 xí nghiệp gạch ngói, 01 xí nghiệp xay đá, 15 cơ sở
xay xát, 03 xưởng cưa, đã quy hoạch 01 khu công nghiệp Phổ Phong, 01 cụm
công nghiệp, điểm công nghiệp và 01 làng nghề, đã hình thành khu công nghiệp
Phổ Phong là 140ha. Toàn xã có 510 cơ sở kinh doanh công nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế…có khoảng 300 hộ buôn bán, làm dịch vụ các nghề khác.
Nhìn chung hoạt động tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp dịch vụ ở xã Phổ
Phong có chiều hướng phát triển mạnh, góp phần đáp ứng một phần nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân trong vùng, giải quyết lực lượng lao động dư thừa của địa
phương.
2.2.2. Về văn hóa – xã hội
Trong những năm gần đây, ngoài việc quan tâm phát triển kinh tế - xã hội
cho người dân trong xã, chính quyền xã còn luôn quan tâm đến việc nâng cao
đời sống tinh thần cho nhân dân. Vào các dịp lễ, tết, các ngày kỷ niệm lớn, Văn
hóa xã hội đã phối hợp với các Ban ngành đoàn thể tổ chức các buổi giao lưu
văn nghệ - thể thao cho các tầng lớp nhân dân trong xã tham gia nâng mức
hưởng thụ 10 lần/người năm. Bên cạnh đó, cùng với việc đời sống kinh tế được
cải thiện, đa số các hộ dân trong xã đều đã trang bị được cho gia đình mình các
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

7


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp


phương tiện nghe nhìn, có điều kiện thực hiện nếp sống văn minh. Đến hết năm
2013, đã có gần 85% hộ gia đình trong toàn xã đạt danh hiệu gia đình văn hóa.
Công tác xóa đói giảm nghèo, công tác đền ơn đáp nghĩa ngày càng được chú
trọng và nâng cao.
2.2.3. Giáo dục – Y tế
Trên địa bàn xã hiện có 07 trường mẫu giáo với 14 lớp học, 11 giáo viên.
Có 228 trẻ trong độ tuổi được đến học tại các trường mẫu giáo.
Có 01 trường Trường THCS , 03 trường Tiểu học với 44 lớp học 70 giáo
viên thuộc các khối lớp học thu hút 1.422 em trong độ tuổi đến trường.
Về y tế : Trên địa bàn xã hiện có 01 trạm y tế xã với 06 cán bộ y tế hoạt
động nổ lực chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân trong xã.
2.2.4 Xây dựng nông thôn mới:
Năm 2014 thực hiện đạt 04 tiêu chí gồm:
- Tiêu chí số 5: Trường học.
- Tiêu chí số 6: Cơ sở vật chất văn hoá.
- Tiêu chí số 9: Nhà ở dân cư.
- Tiêu chí số 14: Giáo dục.
Các tiêu chí thực hiện đạt trong năm 2013 nhưng năm 2014 không đạt
gồm:
- Tiêu chí số 1: Quy hoạch.
- Tiêu chí số 15: Y tế.
- Tiêu chí số 19: An ninh trật tự xã hội.
* Tổng số tiêu chí đến nay UBND xã thực hiện đạt 08/19 tiêu chí, tăng
01 tiêu chí so với năm 2013, đạt 33,3% so với chỉ tiêu NQ đề ra (NQ là thực
hiện đạt từ 3-5 tiêu chí), cụ thể các tiêu chí đạt được:
- Tiêu chí số 4: Điện.
- Tiêu chí số 5: Tường học.
- Tiêu chí số 6: Cơ sở vật chất văn hoá
- Tiêu chí số 8: Bưu điện.

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

8


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

- Tiêu chí số 9: Nhà ở dân cư.
- Tiêu chí số 12: Tỷ lệ lao động có việc làm thường xuyên.
- Tiêu chí số 13: Hình thức tổ chức sản xuất (HTX hoạt động có hiệu
quả).
- Tiêu chí số 14: Giáo dục.
PHẦN II:
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ ĐĂNG KÝ GIẤY KHAI SINH

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐĂNG KÝ KHAI SINH Ở
CẤP CƠ SỞ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1 Khái niệm cấp cơ sở
Cấp cơ sở là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong hệ thống hành chính bốn cấp
ở nước ta. Đây là nơi thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp
luật của Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung Ương
Đảng Cộng sản Việt Nam khóa IX đã chỉ rõ “cấp cơ sở xã, phường, thị trấn là nơi
tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Hệ thống chính trị cở sở có vai trò
quan trọng trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách

của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ
chức cuộc sống cộng đồng dân cư”.
Từ những nội dung trên có thể khái quát về chính quyền cấp cơ sở như sau:


Cấp cơ sở là cấp xã, phường, thị trấn, là đơn vị hành chính lãnh thổ nhỏ



Cấp cơ sở là cấp hành chính thấp nhất trong hệ thống hành chính của

nhất.
nước ta.
1.1.2. Quản lý xã hội cấp cơ sở

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

9


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Quản lý xã hội cấp cơ sở là sự tác động bằng quyền lực nhà nước và bằng
các thiết chế xã hội khác điều chỉnh các quá trình xã hội ở cơ sở và hành vi của con
người nhằm duy trì trật tự xã hội ổn định xã hội ở cấp cơ sở.

1.1.3. Khái niệm về Đăng ký khai sinh (ĐKKS)


Giấy khai sinh (GKS)

Quyền được khai sinh là một trong những quyền nhân thân quan trọng của
mỗi người được pháp luật quy định và bảo vệ.
Điều 29 (Bộ luật Dân sự nước Việt Nam) quy định: Quyền được khai sinh
Cá nhân khi sinh ra có quyền được khai sinh.
Điều 7(Công ước Liên hiệp quốc về quyền trẻ em) quy định: “Trẻ em phải
được đăng ký ngay lập tức sau khi sinh ra và có quyền có họ tên, có quốc tịch và
trong chừng mực có thể, có quyền được biết cha mẹ mình và được cha mẹ mình
chăm sóc”.
Nguyên tắc 3 trong Tuyên ngôn của Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em năm
1959 ghi nhận: “Trẻ em sinh ra có quyền được khai sinh”.
Ngoài ra quyền được khai sinh của trẻ cũng được quy định trong Luật bảo
vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em Việt Nam: “Trẻ em có quyền được khai sinh và có
quốc tịch” (khoản 1, điều 5).
Có thể nói, quyền được khai sinh là quyền đầu tiên khẳng định mỗi trẻ em là
một công dân một quốc gia, một công dân bình đẳng như mọi công dân khác.
Sự quan trọng của GKS thể hiện:
-

Điều 5 Nghị Định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và

quản lý hộ tịch có hiệu lực từ ngày 1/4/2006 khẳng định “GKS là giấy tờ hộ tịch
gốc của mỗi cá nhân. Mọi hồ sơ, giấy tờ của cá nhân có nội dung ghi về: họ tên,
chữ đệm, ngày tháng năm sinh, giới tính, dân tộc, quốc gia, quê quán, quan hệ cha
mẹ, con phải phù hợp với GKS của người đó”.
-


GKS là một “chứng từ gốc” của con người khi mới sinh ra, làm cơ sở

cho việc cấp các giấy tờ tùy thân khác, xác định các mối quan hệ ràng buộc về mặt
pháp lý của con người trong quá trình sống.
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

10


Trường Đại học Quy Nhơn


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Đăng ký khai sinh

Là việc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ghi nhận sự kiện pháp lý liên quan
tới nhân thân của một cá nhân.
Nghị định số 36/2005/NĐ-CP ngày 17/03/2005 của Chính phủ về …quy
định:
- Cha mẹ, người giám hộ có trách nhiệm khai sinh cho trẻ em đúng thời hạn.
Việc khai sinh cho trẻ em được thực hiện theo quy định của pháp luật về đăng ký
hộ tịch.
- UBND xã, phường, thị trấn (gọi chung UBND cấp xã) có trách nhiệm thực
hiện đăng ký khai sinh cho trẻ; vận động cha mẹ, người giám hộ khai sinh cho trẻ
em đúng thời hạn. Trong trường hợp thiếu hồ sơ, thủ tục, người có thẩm quyền
đăng ký khai sinh phải hướng dẫn, không được gây phiền hà đối với người đi khai

sinh.
- Cán bộ hộ tịch tư pháp có trách nhiệm giúp UBND cấp xã tiếp nhận hồ sơ,
xác minh, kiểm tra, làm thủ tục ĐKKS; thường xuyên kiểm tra, ĐKKS kịp thời;
phổ biến, vận động nhân dân chấp hành các quy định của pháp luật về hộ tịch; thực
hiện việc báo cáo tình hình; sử dụng biểu mẫu theo quy định, lưu trữ sổ sách, hồ sơ
về ĐKKS. Đối với những khu vực có điều kiện đi lại khó khăn, người dân còn bị
chi phối bởi những phong tục tập quán, cán bộ hộ tịch tư pháp phải có loichj định
ký đến tận nhà dân để ĐKKS cho trẻ em.
- Trẻ em của hộ nghèo không phải nộp lệ phí ĐKKS. UBND cấp

xã xác

định gia đình thuộc diện hộ nghèo theo quy định chuẩn nghèo hiện hành được áp
dụng trong từng thời kỳ.
- Cơ quan dân số, gia đình và trẻ em các cấp chủ trì, phối hợp với cơ quan tư
pháp cùng cấp tuyên truyền hướng dẫn, giúp đỡ cha mẹ, người giám hộ để họ khai
sinh cho trẻ đúng thời hạn.
Vai trò việc ĐKKS:
Không ĐKKS thì trẻ thật khó có thể được hưởng những dịch vụ thiết yếu
như: chăm sóc y tế, giáo dục và hỗ trợ pháp lý.
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

11


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp


Việc không có giấy khai sinh cũng phủ nhận quyền bầu cử, ứng cử, tham gia
các tổ chức, đoàn thể xã hội …
Trẻ em không được ĐKKS rất dễ bị xâm hại và bị đối xử tệ, trở thành nạn
nhân của nạn buôn người, mại dâm, cưỡng ép tảo hôn ….
1.1.4. Khái niệm quản lý ĐKKS
Đây là công việc quan trọng, diễn ra hàng ngày, hàng giờ ở mọi nơi mọi lúc.
Là việc chính quyền cấp cơ sở dựa trên quyền lực công quản lý sự kiện pháp
lý liên quan sự kiện sinh của các công dân trên địa bàn mình quản lý.
1.2. Vai trò của công tác quản lý ĐKKS
Công tác quản lý ĐKKS có vai trò to lớn đối với Nhà nước, xã hội và bản
thân mỗi cá nhân.
Đăng ký khai sinh là một loại sự kiện đăng ký hộ tịch, là sự kiện đăng ký đầu
tiên có liên quan đến nhân thân của một người từ khi mới sinh ra.Từ khái niệm
đăng ký hộ tịch nêu ra ở trên chúng ta suy ra khái niệm đăng ký khai sinh là việc cơ
quan nhà nước có thẩm quyền xác nhận và ghi vào Sổ đăng ký khai sinh sự kiện
được sinh ra của một cá nhân. Nội dung đăng ký là việc xác định những thông tin
về bản thân người được đăng ký khai sinh như họ tên, ngày tháng năm sinh, giới
tính, dân tộc, quốc tịch, nơi sinh và thông tin về cha, mẹ của người được đăng ký
khai sinh…Sau khi được đăng ký khai sinh cá nhân được cơ quan đăng ký cấp cho
Giấy khai sinh có ghi nhận đầy đủ các thông tin liên quan đến nhân thân của cá
nhân như nội dung mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã ghi nhận.
Ở mỗi thời kỳ, tùy thuộc vào điều kiện hoàn cảnh của đất nước, tùy thuộc vào
mong muốn của nhà quản lý, việc đăng ký khai sinh có một ý nghĩa nhất định.
Cùng với sự phát triển của đất nước, ngày nay việc đăng ký khai sinh được hoàn
thiện dần cùng với công tác đăng ký hộ tịch qua các văn bản về hộ tịch mà Nhà
nước đã ban hành. Đăng ký khai sinh là một lĩnh vực trong công tác đăng ký hộ
tịch, đăng ký khai sinh có vai trò ý nghĩa rất quan trọng đối với công dân và đối
với Nhà nước, đăng ký khai sinh tạo mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.


Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

12


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Thứ nhất, vai trò của đăng ký khai sinh đối với việc quản lý nhà nước:
Nhà nước đăng ký khai sinh cho công dân là để Nhà nước quản lý về mặt pháp
lý từng người dân, qua đó quản lý toàn bộ dân cư trong cả nước, nắm bắt được
biến động tự nhiên về dân cư. Nhà nước quản lý con người, thống kê được dân
số, tình hình tăng dân số giúp Nhà nước có cơ sở hoạch định chính sách dân số
và kế hoạch hóa gia đình. Qua đó, Nhà nước có cơ sở khoa học để hoạch định
các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và trật tự an toàn
xã hội. Mặt khác công tác đăng ký khai sinh một yêu cầu không thể thiếu trong
quản lý nhà nước về hộ tịch, là ghi nhận về mặt pháp lý sự tồn tại của một cá
nhân, là cơ sở ràng buộc trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân, từ đó phát
sinh trách nhiệm của Nhà nước trong việc chăm lo đời sống người dân, đảm bảo
các quyền và lợi ích hợp pháp của người dân. Hơn thế nữa, đối với Nhà nước
thông qua việc đăng ký này đảm bảo được quyền của công dân, quyền được khai
sinh mà pháp luật đã quy định. Đặc biệt đối với trẻ em đối tượng Nhà nước quan
tâm bảo vệ, thì đăng ký khai sinh cho trẻ em là nghĩa vụ phải làm của Nhà nước
nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của trẻ em, đối tượng được quan tâm hàng đầu
trong mọi xã hội.
Khi đăng ký khai sinh Nhà nước cấp cho người dân chứng thư pháp lý là
Giấy khai sinh. Giấy khai sinh góp phần hỗ trợ hoạt động các cơ quan nhà nước

trong việc xác định nhân thân của một người như độ tuổi, giới tính, cha mẹ….,
phục vụ cho các quan hệ khác. Ví dụ: Giấy khai sinh dùng để xác định cha và
mẹ đẻ của một cá nhân, giúp cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết việc
phân chia di sản thừa kế trong trường hợp người chết không để lại di chúc, phân
chia tài sản theo pháp luật, hay Giấy khai sinh dùng để hỗ trợ cho cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc xác định tuổi của một người để áp dụng chính sách trong
tố tụng cho phù hợp…
Thứ hai, vai trò của đăng ký khai sinh đối với công dân: Đăng ký khai
sinh là quyền của mỗi người được pháp luật quốc tế ghi nhận, đồng thời cũng
được ghi nhận trong pháp luật của quốc gia. Đăng ký khai sinh có vai trò, ý
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

13


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

nghĩa là sự ghi nhận về mặt pháp lý tình trạng nhân thân của một người được
sinh ra, thông qua đăng ký khai sinh, cá nhân được cấp Giấy khai sinh, là cơ sở
xác định nguồn gốc các mối quan hệ nhân thân, quan hệ gia đình; là một trong
những chứng cứ pháp lý tạo ra sự ràng buộc về mặt pháp lý giữa Nhà nước và
công dân và có giá trị chứng minh đối với các mối quan hệ khác trong xã hội ví
dụ như truy nhận cha, mẹ con, thừa kế di sản, học tập…Đăng ký khai sinh cho
một cá nhân là cơ sở đầu tiên để cá nhân đó trở thành công dân một quốc gia,
làm phát sinh quyền của mình, công dân thực hiện được các quyền của mình
được Nhà nước ghi nhận và là cơ sở để được Nhà nước bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của cá nhân. Nếu cá nhân không đăng ký khai sinh, cá nhân sẽ không
hưởng được các quyền dành cho công dân mà Nhà nước quy định, cũng như
công dân sẽ không được bảo vệ khi quyền và lợi ích bị xâm hại. Nếu không có
khai sinh thì không có cơ sở chắc chắn để phân biệt cá nhân này với cá nhân
khác thông qua các yếu tố cơ bản như: họ tên, ngày tháng năm sinh, giới tính,
dân tộc, nơi sinh, thông tin về cha mẹ…
Trong cộc sống, Đăng ký khai sinh có vai trò và ý nghĩa quan trọng đối với
người dân, tuy nhiên nếu không thực hiện đúng quy định pháp luật thì sẽ gây thiệt
hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Đăng ký khai sinh đòi hỏi phải
được đăng ký chính xác tuyệt đối các thông tin liên quan đến nhân thân của một cá
nhân. Nếu trong việc đăng ký khai sinh có sự không chính xác trong việc ghi nhận
các thông tin đã đăng ký thì hệ lụy này do người dân gánh chịu
1.2.1. Đối với Nhà nước, xã hội
Hoạt động quản lý ĐKKS ngày càng khẳng định vị trí, vai trò trong tiến trình
xây dựng một xã hội phát triển và được Chính phủ xác định là một trong những
lĩnh vực trong tâm trong xây dựng nền hành chính phục vụ.
Thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, các cấp chính
quyền tới người dân mà ở đây là những mầm non - chủ nhân tương lai của đất
nước.

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

14


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp


Đảm bảo quyền được khai sinh của đứa trẻ và nghĩa vụ trách nhiệm phải đi
khai sinh cho con em mình của bậc cha mẹ và những người thân khác.
Tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động quản lý dân cư trên địa bàn cả nước
cũng như từng địa phương để từ đó có biện pháp, kế hoạch phát triển kinh tế xã
hội, ổn định dân số, chính sách y tế - giáo dục, an ninh quốc phòng phù hợp đảm
bảo quyền lợi ích hợp pháp của cá nhân gia đình.
Phát hiện những sai sót, khó khăn trong công tác đăng ký, quản lý khai sinh
của các cấp chính quyền từ đó có giải pháp, phương hướng giải quyết kịp thời.
Là căn cứ phát sinh quyền, nghĩa vụ pháp lý của một cá nhân với tư cách là
công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: xác định tuổi được hưởng
những phúc lợi xã hội dành cho trẻ; xác định tuổi đi học; phát sinh quyền nghĩa vụ
cơ bản của công dân trên các lĩnh vực đặc biệt quyền được tham gia bầu cử, ứng cử
của công dân; thực hiện nghĩa vụ với Nhà nước và xã hội…
Tạo trật tự xã hội ổn định hướng tới mục tiêu “xây dựng dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”
1.2.2. Đối với bản thân công dân
Đây là quyền cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ và quy định rõ tại
Điều 29 Bộ Luật Dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Công dân được hưởng quyền, lợi ích chính đáng của mình thông qua hệ
thống chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Đồng thời đó cũng là căn cứ làm
phát sinh các nghĩa vụ khác của công dân với Nhà nước và xã hội.
Đánh dấu sự kiện pháp lý về sự sinh của một cá nhân. Nếu không có sự quản
lý ĐKKS thì công dân nghiễm nhiên bị tước những quyền chính đáng mà Nhà nước
ghi nhận: quyền đi học, khám chữa bệnh miễn phí cho trẻ em tại các cơ sở y tế Nhà
nước, quyền bầu cử, ứng cử …
Đặc biệt với trẻ em cha mẹ mất sớm nếu không có công tác đăng ký và quản
lý ĐKKS thì rất có thể em đó sẽ không biết cha mẹ mình là ai, tên tuổi, năm sinh
thế nào, như thế rất thiệt thòi cho đứa trẻ.


Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

15


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Việc quản lý ĐKKS đó cũng tạo thuận lợi khi cá nhân đánh mất các giấy tờ
tùy thân khác hay muốn xin cấp lại GKS bản gốc hay bản sao căn cứ vào hồ sơ lưu
trữ cán bộ tư pháp hộ tịch sẽ giải quyết đơn giản hơn.
1.3.

Nội dung quản lý ĐKKS cấp cơ sở

Chính quyền cơ sở thực hiện ĐKKS theo thẩm quyền của cấp mình quản lý.
Thẩm quyền ĐKKS của cấp xã được quy định cụ thể tại Nghị Định số
158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác.
Tuyên truyền, phổ biến, vận động nhân dân từ biết, đến hiểu, làm đúng các
quy định của pháp luật về ĐKKS
Quản lý, sử dụng sổ ĐKKS, biểu mẫu ĐKKS theo quy định của Bộ Tư pháp.
Thực hiện công tác lưu trữ và quản lý giấy tờ sổ sách, biểu mẫu liên quan tới
công tác khai sinh.
Cấp bản sao GKS từ sổ ĐKKS.
Căn cứ vào quy định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành cải
chính, bổ sung, thay đổi những nội dung liên quan tới GKS: họ tên đệm, ngày
tháng năm sinh, dân tộc, địa điểm thường trú, cha, mẹ, nghề nghiệp của công dân

khi yêu cầu của họ là chính đáng và có căn cứ pháp luật.
Tổng hợp, thống kê số liệu về tình hịnh ĐKKS ở địa phương cho UBND
huyện theo định kỳ (6 tháng một lần).
Giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân, có biện pháp xử lý nghiêm minh với
những hành vi vi phạm.


Nội dung công tác ĐKKS

-

Căn cứ pháp lý

Quyết định 01/2006/QĐ-BTP về việc ban hành sổ hộ tịch, biểu mẫu hộ tịch.
Thông tư 01/2008/TT-BTP hướng dẫn thực hiện một số quy định của Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý
hộ tịch.
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký và quản lý hộ
tịch.
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

16


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp


- Về thẩm quyền ĐKKS:
UBND cấp xã, nơi cư trú của người mẹ thực hiện việc ĐKKS cho trẻ em.
Nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, thì UBND xã, nơi cư trú
của người cha thực hiện việc ĐKKS.
Trong trường hợp không xác định được nơi cư trú của cả cha lẫn mẹ, thì
UBND cấp xã, nơi trẻ em đang sinh sống trên thực tế thực hiện việc ĐKKS.
Trẻ em bị bỏ rơi thì ĐKKS tại UBND cấp xã, nơi cư trú của người đang tạm
thời nuôi dưỡng đứa trẻ đó.
- Về thời hạn đăng ký khai sinh
Trong vòng 60 ngày, kể từ ngày sinh con, cha, mẹ có trách nhiệm đi khai
sinh cho con. Nếu cha mẹ không thể đi khai sinh cho con thì ông, bà hoặc những
người thân thích khác đi khai sinh cho trẻ em.
- Về thủ tục đăng ký
Nộp giấy chứng sinh (theo mẫu quy định). Giấy chứng sinh ra cơ sở y tế, nơi
sinh trẻ em cấp; nếu trẻ em sinh ra ngoài cơ sở y tế, thì Giấy chứng sinh được thay
bằng văn bản xác nhận của người làm chứng. Trong trường hợp không có người
làm chứng, thì người đi khai sinh phải làm giấy cam đoan về việc sinh là có thực.
Xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn của cha mẹ trẻ em (nếu có). Trong
trường hợp cán bộ hộ tịch biết rõ về quan hệ hôn nhân của cha mẹ trẻ em, thì không
bắt buộc phải xuất trình Giấy chứng nhận kết hôn.
Cán bộ hộ tịch tư pháp sau khi kiểm tra các giấy tờ, nếu thấy hợp lệ thì tiến
hành ghi vào Sổ ĐKKS và bản chính GKS, chủ tịch UBND cấp xã ký và cấp cho
người đi khai sinh một bản chính GKS. Bản sao GKS được cấp theo yêu cầu của
người đi khai sinh.
Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được
người cha, thì phần ghi về người cha trong Sổ ĐKKS để trống. Nếu vào thời điểm
ĐKKS có người nhận con, thì UBND cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và
ĐKKS.

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật


Trang

17


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Chương 2
THỰC TRANG CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐĂNG KÝ KHAI SINH TẠI
XÃ PHỔ PHONG
2.1. Thực trạng công tác quản lý ĐKKS của xã Phổ Phong (2013-2014)
2.1.1. Thành tựu
Quản lý hộ tịch nói chung và quản lý ĐKKS nói riêng là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên của chính quyền các cấp nhằm theo dõi thực trạng và sự biến
đổi về dân số, trên cơ sở đó bảo hộ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, gia
đình, đồng thời góp phần xây dựng các chính sách kinh tế, an ninh quốc phòng, dân
số, kế hoạch hóa gia đình.
Sau Cách mạng tháng 8/1945, việc quản lý hộ tịch nói chung và quản lý
ĐKKS nói riêng đã được Nhà nước tổ chức lại theo các thông tư hướng dẫn của Bộ
Nội Vụ và Bộ Tư Pháp. Tiêu biểu nhất là điều lệ đăng ký hộ tịch kèm theo Nghị
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

18



Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

định số 764/1956/NĐ-CP ngày 08/5/1956 và hiện nay là văn bản điều chỉnh về
đăng ký hộ tịch là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ
về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Sau 7 năm tổ chức thi hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP, những cố gắng
của toàn bộ hệ thống tổ chức, quản lý và đăng ký hộ tịch từ trung ương tới địa
phương đã tạo được những bước chuyển biến tích cực trong công tác đăng ký và
quản lý hộ tịch nói chung quản lý ĐKKS nói riêng.
Việc ban hành Nghị định số 158 chính phủ đã khẳng định quyết tâm thực
hiện xây dựng hệ thống quản lý hộ tịch chuyên nghiệp, hiệu quả, đảm bảo đăng ký
và quản lý “kịp thời, đầy đủ, chính xác” mọi sự kiện phát sinh trong đời sống.
Với tinh thần đó, ban tư pháp xã phối hợp với UBND xã thực hiện công tác
quản lý đăng ký giấy khai sinh trên địa bàn mình quản lý cụ thể:
Về công tác tuyên truyền, ban tư pháp xã đã tham mưu cho UBND xã xây
dựng kế hoạch thực hiện tổ chức triển khai, quán triệt nội dung các văn bản luật do
Nhà nước ban hành liên quan tới công tác đăng ký và quản lý hộ tịch cho các lãnh
đạo chủ chốt của Đảng, chính quyền, cán bộ chuyên môn có liên quan, hiệu trưởng
các trường đóng trên địa bàn xã, cán bộ các ban ngành, đoàn thể, bí thư chi bộ,
trưởng thôn, ban chi ủy các thôn, làng …, đồng thời chỉ đạo, củng cố, kiện toàn cán
bộ tư pháp hộ tịch, trang bị phương tiện, kỹ thuật làm việc phục vụ cho công tác hộ
tịch nói chung và quản lý ĐKKS nói riêng, niêm yết công khai các thủ tục và mức
lệ phí, bố trí kịp thời cán bộ tiếp dân, giải quyết các yêu cầu về ĐKKS cho công
dân.
Xác định rõ đây là vấn đề liên quan trực tiếp tới đời sống của cán bộ, nhân
dân trên địa bàn xã, ban tư pháp còn phối hợp với Hội Phụ nữ, ngành Công an, cơ
sở giáo dục, trạm y tế … đẩy mạnh công


tác tuyên truyền cho cán bộ và nhân dân

trong địa bàn xã bằng nhiều hình thức, với nhiều nội dung phong phú đa dạng: phát
thanh trên đài truyền thanh xã (2 lần/ tuần vào buổi sáng), tổ chức các cuộc nói
chuyện, hội thảo, chuyên đề tuyên truyền quy định của pháp luật về đăng ký và
quản lý ĐKKS tới người dân.
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

19


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Nhờ thực hiện tích cực công tác tuyên truyền tới người dân về vai trò quan
trọng của việc ĐKKS cho trẻ, công tác quản lý ĐKKS ngày càng đi kỷ cương, nề
nếp. Tính trong 2 năm (2013-2014) trên địa bàn xã đã tiến hành cấp giấy khai sinh
cho 479 trẻ em, trong đó đăng ký đúng hạn là 452 cháu (chiếm 93,52% tổng số
sinh), quá hạn là 13 cháu (chiếm 2,50%), đăng ký lại 14 trường hợp (chiếm 2,92%),
con ngoài giá thú 9 cháu (chiếm 0,02%), trong giá thú là 470 cháu.
Để đánh giá rõ hơn thành tựu đạt được trong công tác quản lý ĐKKS cho trẻ
trên địa bàn xã chúng ta sẽ đi so sánh kết quả đạt được những năm trước khi ban
hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP và sau khi ban hành nghị định này. Cụ thể ở
đây so sánh số liệu năm (2013-2014) so với năm (2011-2012
Giai đoạn

Tổng số sinh


Đăng ký

Đăng ký Đăng ký
quá hạn lại
39
5
13

Năm

420

đúng hạn
376

(2011-2012)
Năm

479

452

14

(2013-2014)

Bảng thống kê công tác quản lý ĐKKS xã Phổ Phong (2011-2014)

Qua bảng thống kê trên ta thấy:

Trẻ em được ĐKKS đúng hạn trong hai năm (2013-2014) (chiếm 54,49%)
tăng so với giai đoạn (2011-2012) (chiếm 45,51%) tăng 7,26%.
Số trẻ em đăng ký quá hạn giảm 26 trẻ (ứng 25%)
Số trẻ đăng ký lại tăng 9 trường hợp so với giai đoạn (2011-2012)
Sở dĩ có tình trạng trên bởi:
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

20


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Việc ban hành Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký
hộ tịch đã quy định đầy đủ, chi tiết và ưu việt hơn trong việc khai sinh cho trẻ. Nếu
như trước đây theo Nghị định 83/1998/NĐ-CP ngày 10/10/1998 về đăng ký hộ tịch,
thì thẩm quyền ĐKKS được quy định tại nơi có hộ khẩu thường trú, tạm trú của
người mẹ nên gây ra nhiều vướng mắc cho việc ĐKKS, đặc biệt khi không xác
định rõ nơi cư trú của người mẹ hoặc quá xa so với nơi ở hiện tại nên tỷ lệ trẻ đăng
ký quá hạn còn chiếm tỷ lệ cao trong tổng số trẻ được ĐKKS (2004-2005: 9,29%).
Theo quy định mới thẩm quyền cấp giấy khai sinh thuộc UBND cấp xã, nơi cư trú
của người mẹ; nếu không xác định được nơi cư trú của người mẹ, thì UBND cấp xã
nơi cư trú của người cha thực hiện việc ĐKKS. Việc mở rộng thẩm quyền ĐKKS
cho trẻ theo nơi cư trú theo nghị định 158 đã góp phần làm tăng tỷ lệ trẻ đăng ký
đúng hạn, giảm tỷ lệ đăng ký quá hạn trong 2 năm (2008-2009) so với năm (20042005).
Cũng theo quy định mới việc khai sinh, nếu không có giấy chứng sinh của
trẻ thì chỉ cần giấy cam đoan của người đi khai sinh và xuất trình giấy chứng nhận

kết hôn của cha mẹ (nếu có).
Như vậy, vơi việc thực thi Nghị định 158, nếu cha mẹ không thể đến các cơ
quan chức nămg để khai sinh cho con thì ông bà, hoặc những người thân thích khác
có thể khai sinh cho trẻ. Bên cạnh đó, Nghị định còn tạo cơ sở pháp lý cho việc cấp
lại bản chính giấy khai sinh, con nuôi được đổi GKS… tạo điều kiện thuận lợi đảm
bảo cho trẻ được khai sinh đúng hạn, giảm phiền hà, rắc rối khi phải thực hiện thủ
tục qua nhiều khâu trung gian.
Số trẻ em đăng ký khai sinh lại giai đoạn (2013-2014) tăng so với giai đoạn
(2011-2012) bởi: so với quy định trước đây thì việc khai sinh đã giảm bớt những
yêu cầu về sổ hộ khẩu hoặc giấy đăng ký tạm trú của người mẹ, đồng thời giảm bớt
các điều kiện đối với người làm chứng cho việc sinh của trẻ. Nếu quá thời hạn 60
ngày, GKS cũng vẫn được cấp nhưng ghi vào đó là đăng ký quá hạn. Với quy định
thông thoáng như thế tạo điều kiện thuận lợi giúp những gia đình ở xa không có

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

21


Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

người thân tại nơi cư trú hoặc do điều kiện không về được ĐKKS cho con em họ
đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đứa trẻ được sinh ra.
Với việc ban hành Nghị định 158/2005/NĐ-CP thay thế cho Nghị định
83/1998/NĐ-CP về đăng ký hộ tịch, những quy định, sửa đổi quan trọng trong việc
phân công, phân cấp, đơn giản hóa thủ tục hành chính trong ĐKKS cho trẻ đã tạo

điều kiện thuận lợi cho cả người dân lẫn cán bộ tư pháp hộ tịch trong việc cấp GKS
và quản lý ĐKKS.
Về cán bộ tư pháp: thời gian qua, đội ngũ cán bộ tư pháp hộ tịch xã thường
xuyên được tập huyến chuyên sâu về nghiệp vụ (1 lần/năm) nhằm nâng cao trình
độ chuyên môn của cán bộ, đồng thời dưới sự chỉ đạo của phòng tư pháp huyện,
UBND phối hợp với các xã lân cận tổ chức những buổi thảo luận, chuyên đề, cuộc
thi tìm hiểu pháp luật về quản lý hộ tịch vừa trang bị, trau dồi kiến thức cho cán bộ
tư pháp hộ tịch đồng thời bàn luận tháo gỡ những vướng mắc gặp phải trong quá
trình thực thi nhiệm vụ được Đảng, chính quyền, nhân dân giao phó.
Cũng với sự giúp đỡ của phòng tư pháp huyện, UBND xã đã cung cấp đầy
đủ các loại sổ sách, biểu mẫu giấy khai sinh mới, loại dấu (theo quy định mới của
Nghị định 158) phục vụ cho công tác quản lý ĐKKS.
Công tác thống kê tư pháp hộ tịch thực hiện thường xuyên (6 tháng/lần),
chính xác tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý cũng như ban hành chính sách
kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh quốc phòng trên địa bàn xã.
Việc lưu trữ thực hiện tốt, có cơ sở khoa học, đã trang bị một máy vi tính
phục vụ cho công tác thống kê và kiểm tra hộ tịch, việc giải quyết khiếu nại tố cáo
những hành vi sai trái của cán bộ, công dân được tiến hành kịp thời, tạo niềm tin
của cán bộ, công dân với hoạt động quản lý của UBND.
Nhìn chung thời gian qua, được sự quan tâm chỉ đạo của UBND tỉnh Quảng
Ngãi, UBND huyện Đức Phổ, đặc biệt là sự chỉ đạo của UBND xã, công tác quản
lý ĐKKS xã đã có nhiều chuyển biến tịch cực, góp phần tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, tạo điều kiện thuận lợi chính quyền, ban ngành, bộ phận chuyên môn
xã xây dựng, hoạch định những chính sách phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

22



Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

phòng, kế hoạch hóa gia đình, phù hợp với yêu cầu khách quan của xã, đáp ứng
nhu cầu nguyện vọng nhân dân.
2.2.2. Hạn chế
Thứ nhất, nhiều trẻ em sinh ra vẫn chưa được ĐKKS luôn theo quy định của
pháp luật (60 ngày sau khi trẻ em sinh ra)
Thứ hai, tình trạng khai sinh quá hạn vẫn còn nhiều (13 trường hợp)
Thứ ba, quy định của pháp luật:
Thực hiện việc đăng ký và quản lý GKS theo quy định tại Nghị định số 158
ngày 27/12/2005 của Chính phủ đã tháo gỡ được nhiều vướng mắc mà Nghị định
số 83 ngày 10/10/1998 chưa giải quyết được tuy nhiên vẫn còn một số vướng mắc
dưới đây cần phải điều chỉnh và hướng dẫn kịp thời.


Quy định không rõ ràng về thẩm quyền giải quyết ĐKKS dẫn tới tình

trạng khó áp dụng. Nếu chấp nhận cho trẻ khai sinh tại nơi mẹ thường trú sẽ xảy ra
trường hợp một người có tới 2 GKS do hai nơi khác nhau cấp.


Quyền được khai sinh là quyền của trẻ em đã được Luật Dân sự bảo vệ

và công ước Liên hiệp quốc công nhận nhưng với trường hợp trẻ em sinh ra tại các
trại giam thì phần ghi các thông tin cho trẻ tiến hành ra sao? Nếu ghi đúng nơi sinh
là “trại giam …” và người đi khai sinh là “cán bộ quản giáo” thì ảnh hưởng rất lớn
cho tương lai của đứa trẻ. Đấy là chưa tính tới việc không xác định được nơi cư trú

của cha (mẹ) đứa trẻ hoặc xác định được nhưng đã bị xóa đăng ký thường trú.


Việc đăng ký quá hạn, tại khoản 1 điều 44 Nghị định số 158/2005/NĐ-

CP của Chính phủ ngày 27/12/2005 quy định thì trong trường hợp những người đã
thành niên ĐKKS quá hạn cho mình thì có thể đăng ký tại UBND cấp xã nơi có
thẩm quyền ĐKKS theo quy định của pháp luật tài điều 13 Nghị định này hoặc
UBND cấp xã nơi người đó cư trú.
Quy định này là chưa phù hợp với thực tế vì theo quy định của pháp luật về
giáo dục thì phải đi học mới được cấp văn bằng, chứng chỉ và khi đi học phải có
giấy khai sinh để xác định họ tên, tuổi … và theo quy định của pháp luật về cư trú
thì khi đi đăng ký hộ khẩu thường trú phải xuất trình giấy khai sinh.
Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

23


Trường Đại học Quy Nhơn


Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Mẫu giấy khai sinh quá sơ sài, đặc biệt phần nội dung khai về cha mẹ

lại không hề có thông tin cha mẹ làm nghề gì, bao nhiêu tuổi, quê quán ở đâu …
mà vẻn vẹn chỉ có họ tên cha mẹ “dân tộc Kinh, quốc tịch Việt Nam” là hết. Với
cách khai như vậy thì việc “tên trùng tên” là điều khó tránh khỏi …. Sau này lúc

các bé lớn lên không biết rõ quê quán cha mẹ ở đâu, lúc sinh ra mình cha mẹ bao
nhiêu tuổi, làm nghề gì, ngụ ở đâu …. Với thông tin chung chung về cha mẹ như
thế rất khó khăn phân biệt về dõng dõi, thân thế. Nói chung GKS mới được cải tiến
hóa ra lại quá sơ sài, gây phiền hà cho nhân dân, dẫn tới tình trạng nhiều người dân
phải thủ sẵn trong người những giấy tờ tùy thân khác sẵn sàng bổ sung cho những
nội dung còn thiều trong GKS. Nhiều người nhận xét “GKS trước đây đúng kích
thước, nội dung kê khai đầy đủ, nay được cải tiến nhưng lại dở hơn”
Chưa hết, quy định ĐKKS còn chưa xác định rõ việc khai dân tộc cho trẻ thì
phải theo dân tộc cha hoặc mẹ; việc ghi quê quán thì phải theo quê nội, nơi sinh của
cha hay nơi thường trú của cha mẹ; nơi sinh của đứa trẻ nên ghi là tỉnh, thành phố
hay tên bệnh viện nơi đứa trẻ sinh ra.
Thứ tư, một số cơ quan, đơn vị, và bản thân người dân chưa nhận thức được
tầm quan trọng của việc đăng ký và quản lý ĐKKS nên chưa có sự quan tâm, chỉ
đạo thực hiện, công tác phối hợp giữa các cơ quan liên quan trong việc giải quyết
sai sót hồ sơ giấy tờ liên quan tới khai sinh.
Thứ năm, công tác phổ biến, giáo dục tuyên truyền pháp luật, trợ giúp pháp
lý về đăng ký và quản lý khai sinh chưa thực sự sâu rộng dẫn tới số lượng khai sinh
chậm, quá hạn vẫn còn nhiều, tình trạng cải chính ngày càng tăng, gây khó khăn
cho công tác quản lý, điều tra dân số.
Thứ sáu, cán bộ tư pháp hộ tịch quá tải công việc trong khi trình độ, năng lực
của một số cán bộ tư pháp hộ tịch còn hạn chế, chưa có cán bộ hộ tịch chuyên trách
phần lớn chưa được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ lại hay thay đổi công tác nên
việc lưu giữ sổ sách, giấy tờ liên quan khai sinh không đảm bảo.

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

24



Trường Đại học Quy Nhơn

Báo cáo thực tập tốt nghiệp

Thứ bảy, công tác báo cáo thống kê tư pháp hộ tịch không thường xuyên,
thiếu chính xác, một số nơi dùng biểu mẫu, sổ sách không thống nhất với quy định
pháp luật.
Thứ tám, việc ghi chép không đầy đủ nội dung, dữ kiện trong GKS và Sổ
ĐKKS, nơi sinh trong GKS chỉ ghi địa danh xã và còn viết tắt; trong sổ đăng ký
không ghi tên, chức vụ của người cấp GKS, họ tên, chữ ký của cán bộ tư pháp hộ
tịch và không có chữ ký của người đi khai sinh; cột ghi chú không ghi đăng ký quá
hạn, đăng ký lại, ghi chưa chính xác về quan hệ giữa người đi khai với người đăng
ký sự kiện khai sinh.; tẩy xóa, ghi không thống nhất màu mực, không thực hiện ghi
chú, không đóng dấu; không thống nhất giữa GKS và Sổ ĐKKS, gây rắc rối không
nhỏ cho công dân sau này
Thứ chín, nhiều cán bộ cố tình thu thêm lệ phí, đòi hỏi những giấy tờ trái với
quy định pháp luật gây phiền hà cho dân chúng.
Thứ mười, thủ tục rườm rà gây khó khăn cho công dân
2.2.3. Nguyên nhân ưu khuyết điểm
2.2.3.1. Ưu điểm
Thành tựu UBND xã Phổ Phong đạt được trong công tác quản lý ĐKKS như
trên là sự tổng hợp của các nguyên nhân:
Đảng, Nhà nước kịp thời ban hành những quy định mới của pháp luật cụ thể
ở đây là Nghị định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 về đăng ký hộ tịch và Thông
tư số 01/2008/TT-BTP ngày 02/6/2008 của Bộ Tư Pháp hướng dẫn thi hành thực
hiện một số quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP, Thông tư liên tịch số
11/2008/TTLT-BTP ngày 31/12/2008 của Bộ Tư Pháp, Bộ Ngoại giao hướng dẫn
thi hành thực hiện một số quy định của Nghị định 158/2005/NĐ-CP. Những văn
bản pháp luật đó đã tạo điều kiện tháo gỡ những vướng mắc, thủ tục rườm rà trong

việc cấp và quản lý ĐKKS cho cán bộ cũng như người dân khi đi ĐKKS.
Sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, chính quyền tỉnh, huyện, xã, của cán bộ tư
pháp hộ tịch tới công tác quản lý ĐKKS.

Sinh viên thực tập: Huỳnh Văn Nhật

Trang

25


×