Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.5 KB, 2 trang )
Nội dung
I.Xuất xứ – Hoàn cảnh sáng tác :
- Bài thứ 41 và 42 trong Nhật ký trong tù
- Bác viết vào khoảng cuối tháng 10 đầu tháng 11 năm 1942 trên đường chuyển lao từ nhà lao Long An
(nhà lao thứ 6) sang nhà lao Đồng Chính (nhà lao thứ 7) sau khi đã đi bộ hơn 200 km và bị bắt hơn 60
ngày.
II. Phân tích :
1/ Bài 1 : Người tù bị giải đi trong đêm khuya
a) Khung cảnh thiên nhiên
-“Đêm chửa tan”, “đường thẳm”,“trận gió hàn”
-> đêm tối, lạnh lẽo, vắng lặng, đầy những thử thách khắc nghiệt.
- “Gà gáy”,“chòm sao nâng nguyệt vượt lên ngàn” ® Cảnh thi vị, gợi chút ấm áp, vui tươi : có âm thanh,
ánh sáng và sự chuyển vận của trăng sao.
® Người tù bị giải đi trong đêm khuya, nhưng qua tâm hồn người thiên nhiên trở nên sinh động, vui tươi
(Người không đi một mình, dường như có cảnh thiên nhiên cùng người lên đường).
b) Hình ảnh người đi :
- “Chinh nhân” (khác tù nhân)
® gây cảm giác người ra đi một cách chủ động, người đi mang sứ mệnh lịch sử.
– “Nghênh diện - trận trận hàn” ® hình ảnh con người đối mặt với thử thách, vượt qua gian khổ với tư thế
hiên ngang.
- Điệp từ “Chinh”, “trận” ® âm điệu rắn rỏi, hào hùng, tô đậm sự xông pha của người chiến sĩ
-> 4 câu thơ là cảnh chuyển lao gian khổ của người tù khi trời chưa sáng nhưng nổi bật lên là hình ảnh
người chiến sĩ lên đường một cách chủ động – con người tự nâng mình vượt lên hoàn cảnh, coi thường
gian khổ.
2/ Bài 2 : Cảnh bình minh trên đường người tù bị giải đi
a) Khung cảnh thiên nhiên :
- Hừng đông bừng sáng
- Bóng đêm bị quét sạch
- Hơi ấm bao la, tràn ngập cả vũ trụ