Đề tài:
“Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ
Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc”
Câu 4 Phân tích những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về
cách mạng giải phóng dân tộc
1.Cách mạng giải phóg dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đưòng
cách mạng vô sản
Thất bại của các phong trào yêu nứoc chống thực dân Pháp ở Viêt Nam cuối
thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX chứng tỏ những con đường giải phóng dân tộc
dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư sản là không đáp ứng được yêu
cầu khách quan là giành độc lập, tự do của daan tộc do lịch sử đặt ra.Hồ Chí
Minh rất khâm phục tinh thần cứu nước của cha ông, nhưng Người khong
tán thành những con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm đi theo con đường
cứu nước mới.Con đường cách mạng đó bao gồm những nọi dung chủ yếu
sau:
+ Tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc và dần dần từng bứoc “đi tới xã
hội cộng sản”.
+ Lực lượng lãnh đạo là giai cấp công nhân mà đội tiền phong của nó là
Đảng Cộng sản.
+ Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh
giữa giai cấp công nhân và nông dân và lao động trí óc.
+ Sự nghiệp cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng
thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
2. Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng
sản lãnh đạo
Các nhà yêu nước Việt Nam đã ý thức được tầm quan trọng và vai trò của tổ
chức cách mạng. Phan Châu Trinh nói: ngày nay, muốn độc lập, tự do, phải
có đoàn thể. Rất tiếc ông chưa kịp thực hiện ý tưởng của mình thì bị bắt và
giam lỏng tại Huế.
Dù đã thành lập hay chưa thì các tổ chức cách mạng kiểu cũ không thể đưa
cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công, vì nó thiếu một đường lối
chính tri đúng đắn và một phương pháp cách mạng khoa học, không có cơ sở
rộng rãi trong quần chúng.
Hồ Chí Minh khẳng định: Muốn giải phóng dân tộc thành công “ trước hết
phải có đường cách mệnh”.
3. Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
Theo Hồ Chí Minh, cách mạng giải phóng dân tộc “ là viẹc chung của toàn
dân chứ khong phải là việc của một hai người”. Người phân tích: “ dân tộc
cách mệnh chưa phân giai cấp, nghĩa là sĩ, công, nông, thương đều nhất trí
chống lại cường quyền.Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của nhân dân
trong khởi nghĩa vũ trang. Người coi sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo
vô tận của quần chúng là then chốt bảo đảm thắng lợi .Trong cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng, Người xác địng lực lượng cách mạng bao gồm
toàn dân tộc: Đảng phải tập hợp đại bộ phận giai cấp công nhân, nông dân,
dân cáy, tiểu thương …đi vào phe giai cấp vô sản; với bộ phận phú nông, địa
chủ, tư bản Việt Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì cho ho đứng trung
lập. Bộ phận nào đã ra mặt phản cách mạng thì phải đánh đổ.
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quóc Mỹ, Hồ Chí
Minh lấy dân làm nguồn gốc sức mạnh.Người đặt niềm tin ở truyền thống
yêu nứoc nồng nàn của nhân dân Việt Nam. Người khẳng định: “Địch chiếm
trời, địch chiếm đất nhưng làm sao chiếm lòng yêu nướic nồng nàn của nhân
dân ta”.
Xuất phát từ tưong quan lực lượng lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều, Hồ
Chí Minh chủ trương phát động chiến tranh nhân dân. Khang chiến toàn dân
gắn với kháng chiến toàn diện.Lức lượng toàn dân là điều kiện để đấu tranh
toàn diện với kẻ thù đế quốc, giải phóng dân tộc
Trong chiến tranh, “ quân sự là việc chủ chốt”, nhưng phải kết hợp chặt chẽ
với đấu tranh chính trị. Đấu tranh ngoại giao cũng là một mặt trận có ý nghĩa
chiến lược,có tác dụng thêm bạn bớt thù, phân hoá và cô lập kể thù, tranh
thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế.
Đấu tranh kinh tế là ra sức tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm phát triển
kinh tế của ta, phá hoại kinh tế của địch. Chiến tranh về mặtvăn hoá hay tư
tưỏng so với những mặt khác cũng không kém quan trọng”.
Mục đích cách mạng và chiến tranh chính nghĩa – vì độc lập tự do,làm cho
khả năng tiến hành chiến tranh mhân dân trở thành hiện thực, làm cho nhân
dân tự giác tham gia kháng chiến. Tư tưỏng chiến tranh nhân dân của Hồ
Chí Minh là ngọn cờ cổ vũ, dẫn dắt cả dân tộc ta đứng lên kháng chiến và
kháng chiến thắng lợi, đáng thắng hai đế quốc hùng mạnh làm nên tháng lợi
vĩ đại có tính thời đại sâu sắc.
4. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo
và có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Theo Hồ Chí Minh, giữa cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách
mạng vo sản ở chính quốc có ói quan hệ mật thiết , qua lại với nhau trong
cuọc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ
bình đẳng.
Nhân dân các dân tộc thuộc đại có khả năng cách mạng to lớn.Theo Hồ Chí
Minh, khối liên minh các dân tộc thuộc địa là một trong những cái cánh của
cách mạng vô sản.
5.Cách mạng giải phóng dân tộc phải đựoc tiến hành bằng con đưòng
cách mạng bạo lực
a) Bạo lực cách mạng trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lựoc và thống trị thuộc địa, đàn
áp dã man các phong trào yêu nước. Chế độ thực dân , tự bản thân nó đã
thành một hành động bạo lực của kẻ mạnh với kẻ yếu.Chưa đè bẹp đựoc ý
chí xâm lựoc của chúng thì chưa thể có thắng lợi hoàn toàn. Vì thế con
đường để giành và giữ độc lập là con đường cách mạng bạo lực.
Quán triệt quan điểm sự nghiệp cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Hồ
Chí Minh cho rằng bạo lực của cách mạng cuãng là bạo lực của quần
chúng.Hình thức của bạo lực cách mạng bao gồm cả đáu tranh chính trị và
đấu tranh vũ trang. Trong chiến tranh cách mạng, lực lưọng đấu trang vũ
trang và đáu trang vũ trang giữ vị trí quyết định trong việc tiêu diệt lực
lưọng quân sự địch, làm thất bại những âm mưu quân sự và chính trị của
chúng.Nhưng đaúu tranh vũ trang không tách biệt với đấu tranh chính trị.
Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể cách mạng càng phát triển, quần chúng đấu
tranh chính trị càng mạnh thì càng có cơ sở vững chắc để tổ chức lực lượng
vũ trang và tiến hành đấu tranh vũ trang.
Xuất phát từ tình yêu thương con người,quý trọng sinh mạng con người, Hồ
Chí Minh luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu nhất.
Người tìm mọi cách bgăn chăn xung đột vũ trang, tìm cách giải quyết bằng
hoà bình, chủ động đàm phán, thưong lượng, chấp nhận những nhượng bộ
có nguyên tắc.
Việc tiến hành chiến tranh chỉ là phải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi
không còn khả năng hoà hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trưòng tực
dân,chỉ muón giành thắng lợi bằngquân sự, thì Hồ Chí Minh mới kiên quyết
phát động chiến tranh.
Trong khi tiến hành chiến tranh, Người vẫn tìm mọi cách để vãn hồi hoà
bình. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người nhiều lần gửi thư cho
Chính Phủ và người dân Pháp cho các chính phủ các nhà hoạt động chính trị,
văn hóa các nước vừa tố cáo cuộc chiếm tranh xâm lược của thực dân Pháp
vừa kêu gọi đàm phán hoàn bình.
Tư tưỏng bạo lực cách mạng và tư tưỏng nhân đạo hoà bình thống nhất biện
chứng với nhau trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Người chủ trương yêu nứoc,
thương dân, yêu chuộng hoà bình, tự do, công lý,tranh thủ hoà bình giải
quyết xung đột, nhưng khi không thể tránh khỏi chiến tranh thì phải kiên
quyết tiến hành chiến tranh, kiên quyết dùng bạo lực cách mạng, dùng khởi
nghĩ và chiến tranh cách mạng để giành, giữ và bảo vệ hoà bình, vì độc lập
tự do.
b) Phưong châm chiến lược đánh lâu dài trong cách mạng giải phóng
dân tộc
Trước những kẻ thù lớn mạnh, Hồ Chí Minh chủ trương sử dụng phương
châm chiến lược đánh lâu dài. Trong khangs chiến chống thực dân Pháp,
Người nói : “Địch muốn tốc chiến tốc thắng. Ta lấy trường kỳ kháng chiến
trị nó, thì địch nhất định thua,ta nhất địng thắng”.Trường kỳ kháng chiến
nhât sđịng thắng lợi. Kháng chiến phải trưòng kỳ vì đất ta hep, dân ta ít,
nước ta nghèo ta phải chuẩn bị lâu dài và phải có sự chuẩn bị toàn diện của
toàn dân.
Trong kháng chiến chông Mỹ, cứu nước, Người khẳng định: Chiến tranh có
thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa.Hà Nội, Hải Phòng và
một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam
quyết không sợ! Không có gì quý hơn độc lập tự do. Đến ngày thắng lợi
nhân dân ta sẽ xây dựng đất nước đàng hoàng hơn,to đẹp hơn!
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường kết hợp với sự giúp đỡ của quốc tế là một
quan điểm nhất quán trong tư tưởng Hồ Chí Minh.Trong hai cuộc kháng
chiến chống Pháp và chống Mỹ, Người đã động viên sức mạnh của toàn dân
tộc, đông thời ra sức vận động, trang thủ sự giúp đỡ quốc tế to lớn và có hiệu
quả cả về vật chất lẫn tinh thần, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời
đại để kháng chiến thắng lợi.