Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

KHÁI NIỆM CỦA HƯƠNG ƯỚC MỚI VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.78 KB, 8 trang )

KHÁI NIỆM CỦA HƯƠNG ƯỚC MỚI VÀ HÌNH THỨC THỂ HIỆN

KHÁI NIỆM VỀ HƯƠNG ƯỚC
Hương ước là thuật ngữ gốc Hán, khi du nhập vào Việt Nam nó vẫn được
giữ nguyên nghĩa. Hương ước là những qui ước, điều lệ của một cộng đồng chung
sống trong một khu vực. Là bản pháp lý đầu tiên của các làng xã nhằm góp phần
điều hòa các mối quan hệ trong xã hội cộng đồng, tuy vậy Hương ước chỉ là danh
từ chung để chỉ các qui ước của làng xã, thực tế Hương ước còn được gọi bằng
những tên khác như : hương biên, hương khoán, hương lệ khoán ước, khoán lệ,
cựu khoán tục lệ, điều ước, điều lệ.
Ngoài những lợi ích mang tính chính trị thì những lợi ích mang tính xã hội
của hương ước cũng đã được ghi nhận, đó là lợi ích về mặt giáo dục.
Hương ước đã khẳng định vai trò của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội :”
dân làng nhà ai có con phải cho đi học, vì trong làng có nhiều người đi học thì mới
có văn minh tiến hóa được. Cấm không cho con lêu lổng.”- hương ước làng Tô
Xuyên.
Không chỉ vậy, hương ước còn thể hiện giá trị nhân văn rõ nét trong việc đề
cao đạo, tình thầy trò, răn học trò phải biết kính thầy, yêu thầy. Ấy là nét đẹp văn
hoá truyền thống của người Việt ta.
HƯƠNG ƯỚC MỚI HAY HƯƠNG ƯỚC NÔNG THÔN MỚI
Trước đây, Hương ước chủ yếu do các vị có vai vế trong làng bàn bạc để xây
dựng nên. Tuy nhiên, đến ngày nay, Hương ước cũng có đôi chút thay đổi, Theo
quy định chỉ thị 24/1998/CT-TTg về xây dựng và thực hiện hương ước, quy ước
làng, bản thôn, ấp, cụm dân cư do Chính Phủ ban ngày 19/06/1988 tại điểm 2 thì:
“Dự thảo hương ước, phải được nhân dân trên địa bàn thảo luận, được hội nghị cử
tri hoặc hội nghị đại biểu hộ gia đình ở làng, bảng, thôn, ấp, cụm dân cư thông qua
và được UBND cấp huyện phê duyệt trước khi thi hành nhằm đảm bảo nội dung
của hương ước, quy định không trái với quy định của pháp luật hiện hành, không
chứa đựng các quy định xử phạt nặng nề, các khoán phí và lệ phí có thể gây thiệt
hại hoặc ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân”. Như vậy hương
ước ngày nay và trước đây mặc dù đã có sự khác biệt trong thủ tục, quá trình tạo




lập, ban hành tuy nhiên về nội dung vai trò của Hương ước làng xã trong đời sống
người dân Việt Nam về cơ bản vẫn không hề thay đổi.

Như chúng ta đã biết, hương ước là của làng xã một khi làng xã bị xóa bỏ thì hiệu
lực của hương ước cũng không còn. Sau khi hòa bình lập lại (1954) ở miền Bắc đặt
biệt là các thập kỷ 60,70 với chế độ hợp tác hóa (thực chất là tập thể hóa) với cơ
cấu tổ chức xã hội đã được kinh tế hóa, các đội sản xuất trùm lên các buôn làng.
Lúc đó chỉ còn cấp xã và dưới xã là các hợp tác xã, dưới hợp tác xã là các đội sản
xuất. Thời kỳ đó gia đình với tư cách là một hộ kinh tế đã bị xóa bỏ, cùng với họ là
làng (thôn) không còn là một cơ cấu xã hội truyền thống nữa. Do vậy các phong
tục, nghi lễ, sinh hoạt văn hóa cổ truyền gắn với làng với hương ước cũng hầu như
bị xóa bỏ hay mai một.
Từ sau đổi mới (1986) với chính sách khoán hộ (khoán 10), vai trò của nông dân
với tư cách là hộ kinh tế ở nông thôn được thừa nhận, tổ chức hợp tác xã cơ bản bị
giải thể, hệ thống tổ đội sản xuất cơ bản bị xóa bỏ. Lúc này hộ nông dân, mà đây
vẫn và hộ nông dân tiểu nông thôn, không thể tồn tại nếu thiếu cơ cấu làng xã. Đấy
chính là cơ hội để làng xã vào những năm 60, 70 tuy chẳng ai khai trừ nó, nhưng
thực sự nó đã chết, nhưng nay cũng không ai khai sinh nó, nhưng nó sống lại. Làng
xã hồi sinh kéo theo các sinh hoạt văn hóa cổ truyền, các tục lễ, nghi lễ được hồi
phục. Đấy chính là môi trường, cơ hội để hương ước, một công cụ quản lý làng xã
phát huy tác dụng trở lại.
Nhận thức được vai trò và tác dụng của hương ước với sự phát triển nông thôn hiện
nay, một số địa phương nhất là tỉnh Hà Bắc (cũ) đã đề xuất chủ trương và thực hiện
thí điểm ở một số làng xây dựng “Quy ước làng” đạt kết quả tốt. Đến năm 1992
phong trào lan rộng ra hơn 500 làng soạn thảo quy ước làng văn hóa.
Đó là sự kết hợp giữa các hình phạt theo luật tục và cách hình thức giáo dục đạo
đức, thông qua các lwoif răn dạy. qua dư luận xã hội. Sự kết hợp này không chỉ xử
lý đúng các sai phạm đã xảy ra mà còn có tác dụng ngăn ngừa những sai phạm.

Điều này khiến lục tục khác biệt với luật pháp nhà nước là luật pháp chú ý nhiều
tới các hình phạt khi sự vi phạm xảy ra.
HÌNH THỨC THỂ HIỆN CỦA HƯƠNG ƯỚC


Hương ước thể hiện văn hóa địa phương, nêu mục đích của việc xây dựng hương
ước. Tiếp đến là các chương, mục, điều, khoản, điểm.
- Về tên gọi: Thống nhất tên gọi chung về hương ước hoặc Quy ước (làng, thôn,
ấp, bản, cụm dân cư)
- về cơ cấu có lời nói đầu ghi nhận truyền thống

NỘI DUNG CỦA HƯƠNG ƯỚC MỚI
NỘI DUNG CỦA HƯƠNG ƯỚC LÀNG HỒI QUAN TỈNH HÀ BẮC (IN
THÁNG 7/1990) QUY ĐỊNH
-

-

-

Xây dựng nếp sống văn hóa gồm 4 điều khoản bảo vệ di tích, tổ chức ma
chay, cưới xin, lập hội đồng niên (mỗi khoản này lại được cụ thể hóa bằng
những tiểu mục khác)
Xây dựng kỷ cương trật tự xã hội thôn xóm gồm 4 điều về cấm cờ bạc, ngăn
chặn nạn trộm cắp gay rối trật tự , bảo vệ và giữ gìn các công trình công
cộng, cấm nuôi chó và quy định đi lại vào ban đêm.
Những quy ước về bảo vệ đồng tiền
Những hình thức khen thưởng và xử phạt

NỘI DUNG HƯƠNG ƯỚC LÀNG TRANG LIỆT HUYỆN TIÊN SƠN

-

-

Quy định chung 2 điều
Lễ nghi tôn giáo; 4 điều quy định về ban khánh tiết, bản trưởng, ban chạ là
những thiết chế cũ của làng xã được khôi phục lại để đảm đương các công
việc trong làng, việc lễ hội và việc tang ma.
Nếp sông văn hóa : 5 điều về lễ hội, cưới xin, tang ma, cải táng, bài trừ mê
tín dị đoan.
Đạo lý gia đình xã hội: 2 điều về các quan hệ trong gia đình , làng xóm.
An ninh trật tự xóm làng; 2 điều về chống cờ bạc, trộm cắp , bảo vệ công
trình tập thể
Tổ chức thực hiện , khen thưởng kỷ luật 2 điều


Bản quy ước thôn Trung (xã Nghĩa Trung, huyện Việt Yên) ngoài những nội
dung trên, còn thêm chương bảo vệ sản xuất và quản lý đất đai đặt biệt có phần
phụ lục về phạt vi cảnh theo quy ước làng gồm 9 mục với 44 điều khoản ( trong
đó mục quản lý điện- 3 điều khoản)
Quy ước nếp sống của Làng Đông Cao tỉnh thanh Hóa được tổng hợp gồm 4
phần chính:
-

-

Văn hóa xã hội: 7 điều về xây dựng gia đình văn hóa mới, khuyến khích học
hành, tổ chức cưới xin, tang ma, lễ hội, thọ lão… theo đời sống mới.
Xây dựng kinh tế: 5 điều về nghĩa vụ của người nhận ruộng khoán, khai
hoang phục hóa đất đai, bảo vệ đường sá và các công trình thủy lợi. phát

triển chăn nuôi trong mối liên quan với bảo vệ thành quả của sản xuất nông
nghiệp..
Trật tự an ninh: 4 điều về việc phạt những người say rượu , trọm cắp, gay gỗ
đánh nhau, về đăng ký tạm trú, về giới nguyên thôn xóm
Quy định chung: 8 điều về việc lập quỹ làng, hoạt động của tổ an ninh. Việc
xử kiện. thi hành…

Nội dung của các bản quy ước làng
Nhìn chung khá toàn diện, tuân thủ các nguyên tác quy định pháp luật và
chính sách xủa Đảng, nhà nước, kế thừa được nhiều mặt tích cực của các bản
Hương ước cũa. Tuy nhiên, ác điều khoản liên quan tới văn hóa xã hội và bảo
vệ an ninh thôn xóm vẫn là nội dung trội trong bản quy ước.
Hầu hết ở các bản quy ước làng hiện có quy định về cấm tệ nạn cờ bạc , cấm
trộm cắp, cấm gây rối loạn trật tự, bảo vệ giữ gìn các công trình công cộng, bảo
vệ đồn điền…đã cụ thể hóa quy định của pháo luật và hỗ trợ cho các quy định
của pháp luật đi vào cuộc sống.
Quy ước làng văn hóa còn có những chương, điều quy định riêng về những
mảnh phong tục, tập quán tưởng như nhỏ nhặt nhưng rất cần thiết trong cuộc
sống của cộng đồng làng xã. Những mảnh luật pháp không thể quy định chi tiết
mà chỉ có quy ước làng mới có thể tác động được một cách hữu hiệu như: việc
cưới xin, ma chay, cúng giỗ, cải táng, đạo lý gia đình và xã hội.
NỘI DUNG QUY ĐỊNH CỦA HƯƠNG ƯỚC:


Hương ước là văn bản quy quạm xã hội trong đó quy định các quy tắc xử sự
chung do cộng đồng dân cư cùng thỏa thuận đặt ra để điều chỉnh các quan hệ xã
hội mang tính tự quản của nhân dân nhằm giữ gìn và phát huy những phong tục
tâp quán tốt đẹp và truyền thống văn hóa trên địa bàn làng, bản, thôn, ấp, cụm
dân cư, góp phần xây dựng hỗ trợ tích cực cho việc quản lý nhà nước bằng pháp
luật.

Nội dung hương ước gồm các điểm như sau:
- Đề ra các biện pháp, phương thức thích hợp giúp dân cư trên địa bàn tham gia
quản lý Nhà nước, quản lý xã hôi, đảm bảo phát huy quyền tự do, dân chủ của
nhân dân; động viên và tạo điều kiện để nhân dân thực hiện tốt các quyền và
nghĩa vụ công dân.
- Đảm bảo giữ gìn và phát huy thuần phong , mỹ tục, thực hiện nếp sống văn
minh trong ứng xử, giao tiếp, ăn, ở, đi lại, xóa bỏ hủ tục, phát triển các hoạt
động văn hóa lành mạnh, xây dựng và phát huy tình làng nghĩa xóm, đoàn kết
tương thân, tương ái, hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cộng đồng dân; thực hiện
các chính sách xã hội của Đảng và nhà nước;
- Đề ra các biện pháp góp phần bảo vệ tài sản nhà nước, tài sản công cộng, tài
sản công dân, bảo vệ môi trường sống, bảo vệ rừng,biển, sông, hồ, danh lam
thắng cảnh, đền chùa, miếu mạo, các nguồn nước, đê điều, đập nước, kênh
mương, kè cống, đường dây tải điện; xây dựng và phát triển đường làng, ngõ
xóm, trồng cây xanh.
- Đề ra các biện pháp bảo vệ thuần phong, mỹ tục, bài trừ các hủ tục, tệ nạn xã
hội và mê tín dị đoan trong việc cưới hỏi, việc tang, lễ hội, thờ phụng ở địa
phương; khuyến khích những lễ nghu lành mạnh, tiết kiệm, hạn chế ăn uống
lãng phí, tốn kém.
- Góp phần xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, xây dựng làng,
thôn, bản, ấp, cụm dân cư văn hóa, hình thành các quy tắc đạo đức mới trong
gia đình cộng đồng; khuyến khích mọi người đùm bọc; giúp đỡ nhau khi gặp
khó khăn; hoạn nạn, ốm đâu, vận động thực hiện các chính sách dân số - kế
hoạch hóa gia đình, xây dựng các gia đình theo tiêu chuẩn gia đình văn hóa.
- Đề ra các biện pháp thưởng, phạt phù hợp để đảm bảo thực hiện hương ước:


- Hương ước quy định các hình thức và biện pháp khen thưởng đối với cá nhân,
hộ gia đình có thành tích trong việc xây dựng và thực hiện các hương ước như:
lập sổ vàng truyền thống, nêu gương người tốt việc tốt, ghi nhận công lao, thành

tích của tập thể, cá nhân; bình xét, công nhận gia đình văn hóa và các hình thức
khen thưởng khác do cộng đồng tự thỏa thuận hoặc đề nghị các cấp chính quyền
khen thưởng quy định chung của Nhà nước.
- Đối với những người có hành vi vi phạm các quy định của hương ước thì chủ
yếu áp dụng các hình thức giáo dục, phê bình của gia đình, tập thể cộng đồng,
thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng cơ sở. Trường hợp vi phạm
nghiêm trọng các quy định của hương ước thì trên cơ sở thảo luận thống nhất
trong tập thể cộng đồng, có thể buộc thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm trong
phạm vi cộng đồng hoặc áp dụng các biện pháp phạt nhưng không được đặt ra
các biện pháp xủa phạt nặng nề xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tự do, danh
dự, nhân phẩm, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân. Trong
hương ước không đặt ra các khoản lệ phí.
Hương ước có thể đề ra các biện phám nhằm góp phần giáo dục những người có
hành vi vi phạm pháp luật bị giáo dục tại xã, phường, thị trấn; giáo dục, cảm
hóa, giúp đỡ những người phạm tội sau khi ra tù trở thành người lương thiện,
có ích cho xã hội.
Nhữnng hành vi vi phạm pháp luật phải do các cơ quan có thẩm quyền xử lý
theo quy định của pháp luật. Việc áp dụng các biện pháp xử lý vi phạm hương
ước không thay thế các biện pháp xử lý theo quy định của pháp luật.
Mối liên hệ giữa pháp luật và hương ước trong giai đoạn hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay nhất là từ khi có chính sách khoán nông nghiệp của
nhà nước, vai trò của các làng (thôn)lại được đề cao. Nhiều làng ở đồng bằng
Bắc bộ coi đó làm “cơ sở pháp lý” để quản lý, điều chỉnh cacsc sinh hoạt hàng
ngày của cộng đồng, dòng tộc. Từ năm 1990 nhiều địa phương như Thái Bình,
Hải Hưng, Hà Bắc, Hà Tây, Lào Cai, Thanh Hóa, đã biên soạn hoặc dự định
biên soạn những hương ước với nhiều tên khác nhau: Hương ước, qui ước văn
hóa, qui ước làng..v..v phổ biến gọi là qui ước làng.


Có thể thấy rằng, tùy theo đặc điểm kinh tế, xã hội, văn hóa, học vấn, tin

ngưỡng.. mà mỗi làng xã có qui mô, số điều khoản, nội dung chi tiết trong từng
hương ước có sự khác nhau.
Ở tỉnh Hải Hưng theo báo cáo của sở tư pháp thì tính đến năm 1994, tất cả các
huyện, thị xã trong tỉnh đã phát động, triển khai phong trào xây dựng làng văn
hóa, phong trào xây dựng qui ước làng. Cả tỉnh có 300 làng đăng ký xây dựng
làng văn hóa, hiện tại đang và đã xây dựng hương ước (huyện Nam Thanh vó
36 làng đã xây dựng xong)
Tỉnh Hà Bắc có tới 600 bản qui ước của làng, tỉnh Thái Bình trong năm 1993,
1994 tổ chức xây dựng thí điểm qui ước làng ở mỗi Huyện 3 làng, 4 xã. Riêng
huyện Hưng Hà năm 1993 có 50% số xã triển khai.
Một số dẫn chứng trên giúp cho chúng ta có thể khẳng định được việc ra đời
của hương ước là kết quả, đồng thời là nhu cầu tất yếu của quá trình phát triển
nội tại đời sống kinh tế- xã hội ở nông thôn .

e) Xây dựng tình đoàn kết, tương thân, tương ái trong cộng đồng,
vận động các thành viên trong gia đình, họ tộc, xóm làng đoàn
kết nhau để xóa đói giảm nghèo, phát triển sản xuất, nâng cao
đời sống, khuyến học, khuyến nghề ở địa phương; vận động các
thành viên trong cộng đồng tham gia tổ hợp tác, hợp tác xã
nhằm phát triển sản xuất. Khuyến khích phát triển các làng
nghề; đóng góp xây dựng cơ sở hạ tầng và các công trình phúc
lợi công cộng: điện, đường, trường học, trạm xá, nghĩa trang, các
công trình văn hóa thể thao trên địa bàn. Lập, thu chi các loại
quỹ trong khuôn khổ pháp luật và phù hợp khả năng đóng góp
của nhân dân





×