Tải bản đầy đủ (.docx) (50 trang)

Tìm hiểu CHỈ số PHÁT TRIỂN CON NGƯỜi HDI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.63 KB, 50 trang )

MỤC LỤC
A Đặt vấn đề
B Nội dung
I : tìm hiểu chung về HDI
II : Vấn đề về tuổi thọ
III : Vấn đề về giáo dục
IV : Vấn đề về kinh tế
V : giải pháp cơ bản để phát triển con người ở Việt Nam
hiện nay
C Kết luận
Tài liệu tham khảo
A Đặt vấn đề
Trong sự phát triển của mỗi quốc gia, vai trò của con người với tư cách là người lao động –
người sản xuất là rất lớn lao. Ở nước ngoài sự quan tâm đến sức lao động luôn đi kèm với
việc nâng cao về chất lượng, tiềm năng của con người, nhằm làm tạo ra nguồn lao động có
chất lượng cao, có năng suất cao hơn là rất quan trọng. Chất lượng lao động có thể được
nâng cao nhờ giáo dục cả trẻ em và người lớn, nhờ chăm sóc sức khỏe tốt và sự nuôi dưỡng
đối với trẻ em và người lao động… Chính vì vậy nhiều nước coi việc đầu tư vào tư bản con
người quan trọng không kém đầu tư về sức lực. Sự phát triển tiềm năng của con người và
phát triển kinh tế xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và ảnh hưởng đến nhau. Để thể
hiện tầm quan trọng của con người, cơ quan Báo cáo phát triển con người của chương trình
phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã nghiên cứu và đưa ra chỉ số phát triển con người
(HDI).
1


B NỘI DUNG
I : Tìm hiểu chung về HDI
HDI (Human developmen Index) là thước đo tổng hợp về sự phát triển của con
người, phản ánh mức độ đạt được những khát vọng chung của họ. Đó là sức khỏe dồi
dào, có tri thức và mức thu nhập cao,chỉ số này dao động từ 0-1


Để xác định chỉ số HDI trước đây người ta chỉ căn cứ vào chỉ tiêu mức sống của con
người. Như vậy những nước có thu nhập bình quân cao, mức sống cao đương nhiên có chỉ
số HDI cao. Tuy nhiên, thực tế chỉ ra rằng, không phải nước nào có thu nhập lớn thì trình độ
dân trí đều cao và đều chú ý chăm lo sức khỏe, phúc lợi xã hội cho con người. Ngược lại,
nhiều nước có thu nhập bình quân thấp, mức sống chưa cao nhưng rất quan tâm tới mục tiêu
giáo dục, y tế và chăm sóc sức khỏe cho mọi thành viên. Chính vì vậy hiện nay cơ quan báo
cáo phát triển con người của chương trình phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) đã lựa chọn
đưa ra 3 chỉ số liên quan đến sự phát triển con người để đánh giá HDI, đó là: Tuổi thọ, giáo
dục, mức sống.
Sức khỏe: Một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh, đo bằng tuổi thọ trung bình.
Tri thức: Được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các cấp giáo dục (tiểu
học, trung học, đại học).
1.

Thu nhập: Mức sống đo bằng GDP bình quân đầu

người.
HDI là số trung bình nhân của các số sau:
Chỉ số tuổi thọ trung bình – LEI (Life expectancy)
Chỉ số tuổi thọ trung bình =

Tuổi thọ trung bình - 20
83.4 - 20

Chỉ số học vấn – EI
2/3 tỉ lệ số người lớn biết chữ cộng với 1/3 tỷ lệ chung trong cả nước.
Chỉ số GDP bình quân đầu người – II
(GDP tính theo phương pháp sức mua tương đương quy ra dollar Mỹ):

2



Chỉ số thu nhập đầu người =
Chỉ số phát triển con người: HDI =

Bảng 1. Phân loại HDI 2011
Phân loại

HDI

Xếp hạng quốc gia

Rất cao

từ 0,889 trở lên

1 – 47

Cao

0,741 – 0,888

48 – 94

Trung bình

0,630 – 0,740

95 – 141


Thấp

0,456 – 0,629

142 - 187

Bảng phân loại HDI của UNDP năm 2011

Bản đồ số liệu về chỉ số phát triển con người trên thế giới (dựa trên dữ liệu năm 2011, công
bố vào 2 tháng 11, 2011)
3


  0,900 trở lên

  0,650–0,699

  0,400–0,449

  0,850–0,899

  0,600–0,649

  0,350–0,399

  0,800–0,849

  0,550–0,599

  0,300–0,349


  0,750–0.799

  0,500–0,549

  dưới 0,300

  0,700–0,749

  0,450–0,499

  Không có dữ liệu

Nguồn biểu đồ: />Tình hình HDI của Việt Nam và thế giới

4


Báo cáo phát triển con người 2011 do Chương trình Phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)
công bố tại Hà Nội ngày 9 tháng 11 năm 2011 cho thấy Việt Nam đứng trong nhóm các
nước có mức phát triển con người trung bình và xếp thứ 128 trên 187 nước được khảo sát
với chỉ số tuổi thọ trung bình của người VN là 75,2, thu nhập quốc dân đầu người là 2.805
USD/năm và số năm đến trường trung bình của người VN chỉ tăng một năm từ 4,5 lên 5,5
năm. Chỉ số này đã tăng 11% so với mức được công bố 10 năm trước đây nhưng không
thay đổi so với năm 2010. Những tiến bộ mà Việt Nam đã đạt được trong từng chỉ số thành
phần của HDI cho thấy tiến bộ chung về phát triển con người chủ yếu do tăng trưởng kinh
tế. Những tiến bộ về phát triển xã hội, bao gồm cả y tế và giáo dục diễn ra chậm hơn và
đóng góp ít hơn cho HDI của Việt Nam.

Trích báo cáo phát triển con người của Liên Hợp Quốc năm 2011

Vấn đề được đặt ra là tại sao lại có sự chênh lêch lớn đến như vậy? Sự chênh lệch đó có
ảnh hưởng như thế nào đến sự phát triển bền vững của HDI. Và đề ra phương án giải
quyết thực trạng này. Do đó, chúng ta cần nghiên cứu sâu hơn về 3 yếu tố này để đưa
ra câu trả lời phù hợp nhất cho 3 vấn đề trên

5


II Vấn đề tuổi thọ trung bình:
1. Định nghĩa

Tuổi thọ trung bình (tiếng Anh: Life expectancy) là số năm dự kiến còn lại của cuộc đời
ở một độ tuổi nhất định. Tuổi thọ trung bình phụ thuộc vào các tiêu chuẩn được sử dụng để
chọn các nhóm. Tuổi thọ trung bình thường được tính riêng cho nam và nữ. Nữ giới
thường sống lâu hơn nam giới ở hầu hết các quốc gia có hệ thống y tế sản khoa tốt.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thọ

2.1. Di truyền

Trong một nghiên cứu công bố trên tạp chí "American Geriatrics Society" ra ngày
2/8/2011, các nhà khoa học Israel cho biết con người sống lâu còn do gen di truyền.
Các nhà khoa học thuộc trường Đại học Y Albert Einstein của Israel đã tiến hành nghiên cứu
đối với 477 cụ già Ashkenazim - người Do Thái thuần chủng - có tuổi thọ từ 95-122, sống
độc lập, tự xoay sở cho cuộc sống sinh hoạt hàng ngày.
Kết quả nghiên cứu cho thấy so với 3.164 người khác ra đời cùng thời gian, chế độ ăn uống
và thói quen sinh hoạt của nhóm cụ già người Ashkenazim không hề tốt hơn, nhưng họ vẫn
sống thọ hơn. Thậm chí, những cụ ông trong nhóm "bách niên giai lão" này còn uống rượu
nhiều hơn (24%) và luyện tập sức khỏe ít hơn (43%) so với nhóm người bình thường
(22%uống rượu và 57% tập thể dục)


6


Chế độ ăn uống và thói quen sinh hoạt của nhóm cụ già người Ashkenazim không hề tốt
hơn, nhưng họ vẫn sống thọ hơn.
Nhà khoa học Nir Barzilaiph, trưởng nhóm nghiên cứu trên cho biết những cụ trăm tuổi trên
có thể sở hữu các gen sống thọ, giúp họ chống chọi được với tác động tiêu cực của lối sống
không thực sự lành mạnh. Cùng bị thừa cân, nhưng các cụ thuộc nhóm người Ashkenazim
lại không có nguy cơ béo phì cao như nhóm người bình thường.
Người Ashkenazim được chọn để nghiên cứu do họ có sự ổn định về gen hơn các tộc người
khác. Điều đó giúp giới chuyên môn dễ phát hiện sự khác nhau về gen khi nghiên cứu.
2.2 Giới tính
Viện nghiên cứu khoa học xã hội và y tế công cộng của Anh đã phân tích tỷ lệ tử vong của
30 quốc gia châu Âu và đưa ra kết luận rằng trong mỗi 100.000 người, tỷ lệ tử vong của nam
giới luôn nhiều hơn nữ giới vài trăm người. Cùng với xu hướng chung của thế giới, Việt
Nam cũng là một trong số những quốc gia được đánh giá là có sự chênh lệch tuổi thọ trung
bình giữa nam và nữ.(tuối thọ trung bình của người Việt Nam năm 2010 là 72,8 tuổi trong
đó nữ là 75.6 tuổi và nam là 70,2 tuổi)

7


Nguyên nhân:


Do gen :
Một nghiên cứu mới phát hiện, các biến dị đối với ADN của ti thể (mitochondria) trong tế
bào sinh vật có thể là nguyên nhân gây những khác biệt về tuổi thọ của nam và nữ. Ti thể bào quan phổ biến ở hầu hết các tế bào động vật – đóng một vai trò thiết yếu đối với sự sống
vì chúng là nơi chuyển hóa thức ăn thành năng lượng vận hành cơ thể. Ở hầu hết các loài,
ADN của ti thể chỉ được truyền từ mẹ cho con, không “dính líu” đến bố.

Tiến sĩ Damian Dowling và nghiên cứu sinh tiến sĩ Florencia Camus đến từ Trường nghiên
cứu Sinh vật học Monash (Mỹ) đã hợp tác với tiến sĩ David Clancy thuộc Đại học Lancaster
(Anh) để khám phá ra những khác biệt về tuổi thọ và quá trình lão hóa sinh vật ở ruồi giấm
đực và cái mang các biến dị ti thể.Nhóm nghiên cứu nhận thấy, biến thể gen ở các ti thể là
dấu hiệu đáng tin cậy về tuổi thọ ở giống đực, không phải giống cái.
Trang Daily Mail dẫn lời tiến sĩ Dowling nói, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng vô số biến dị
bên trong ADN của ti thể ảnh hưởng tới việc giống đực sống lâu tới mức nào cũng như tốc
độ lão hóa của chúng.
8


- Do thói quen hàng ngày và hoạt động sống


Nam giới thường sử dụng nhiều rượu bia, thuốc lá, chất gây nghiện,…là nguyên nhân chính
gây ra các bệnh nguy hiểm như ung thư phổi, lao, sơ gan



Nam giới cũng thường tử vong cao hơn nữ giới do các chấn thương như : tai nan giao thông,
bạo lực, chiến tranh,…….
Trong nghiên cứu về bệnh tật và tử vong hàng đầu tại Việt Nam trong 5 năm (2007 –
2011), TS. Nguyễn Phương Hoa (Đại học Y Hà Nội) chỉ rõ: kết quả điều tra hơn 10.000
ca tử vong tại 192 xã thuộc 16 tỉnh ở Việt Nam, thì tai nạn giao thông đứng thứ 2, chỉ
sau các bệnh lý về mạch máu não, xếp trên cả các nguyên nhân gây tử vong như ung
thư, HIV/AIDS. Tỉ lệ người chết vì tai nạn giao thông đang bị trẻ hoá, với 14% người
chết trong độ tuổi từ 15 – 19. 80% số người chết và bị thương do tai nạn giao thông là
nam giới.

- Sự khác biệt về sinh học thì giải thích rằng phụ nữ có khả năng miễn dịch tốt hơn với

9


các bệnh về lây nhiễm hay thoái hóa. Sinh lý học: Theo chủ hướng tiến hóa, giống cái
của các loài có hai nhiệm vụ: một là chuyển lại gen của mình cho con cái (di truyền),
hai là nuôi dưỡng và bảo vệ con cái. Ở con người, phụ nữ khoảng tuổi trên 50 bị tắt
kinh, mất khả năng sinh sản, do đó có đủ thời gian và sức khỏe tiếp tục che chở nuôi
con và cháu của mình. Còn đàn ông thì chỉ cần đưa gen (tinh trùng) xong là đủ. Vì vậy,
động lực tiến hóa sinh tồn của phụ nữ mạnh hơn đàn ông.[7]
- Sinh sản an toàn: Nhờ phát triển y học nên số phụ nữ chết khi sinh nở giảm nhiều
2.3 Những yếu tố địa lý :

Life Expectancy at birth (years)
over 80

60-65

77.5-80

55-60

75-77.5

50-55

72.5-75

45-50

70-72.5


40-45

67.5-70

under 40

10


65-67.5
2.3.1. Khí hậu

not available

Người ta thấy rằng, phần lớn các cụ có tuổi thọ cao thường sống ở các vùng có khí hậu
trong lành như vùng biển hoặc nông thôn, miền núi, nơi có nhiều cây xanh và khí hậu trong
lành quanh năm.
Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, tỷ lệ người cao tuổi chiếm tới 11-12%. Riêng huyện
Giao Thủy, tỉnh Nam Định, với số dân gần 10.000 người đã có 2.400 người cao tuổi.
Kết quả công trình nghiên cứu do các nhà khoa học thuộc trường đại học Queensland
University of Technology và CSIRO thực hiện cho thấy việc nhiệt độ toàn cầu tăng thêm 2
độ C vào năm 2050 sẽ làm cho tuổi thọ trung bình của con người bị giảm đi đáng kể. Nghiên
cứu được đăng tải trên tạp chí Nature Climate Change này tập trung vào thành phố Brisbane,
nơi có đặc điểm khí hậu cận nhiệt đới. Giáo sư Adrian Barnett, trưởng nhóm nghiên cứu cho
biết: "Nhiệt độ tại Brisbane tăng thêm 2 độ C từ nay tới năm 2050 sẽ làm tổng tuổi thọ của
người dân tại thành phố này giảm đi 381 năm mỗi năm." Nhiệt độ tăng cao hơn con số trên
sẽ dẫn tới thảm họa. Các nhà nghiên cứu dự đoán nếu nhiệt độ tăng thêm 4 độ C thì tổng tuổi
thọ của người dân ở Brisbane sẽ giảm 3.242 năm mỗi năm.
2.3.2. Đai cao

Theo nghiên cứu của các nhà khoa học và ngiên cứu sinh ở đại học Harvad và Đại học
Athens (2007) tại một ngôi làng ở độ cao 3.100 mét ở Hy Lạp, cư dân ở đây bị cơn đau tim
ít hơn và sống lâu hơn so với người dân ở hai vùng đồng bằng gần đó. Nghiên cứu của họ
theo dõi 1.198 nam giới và phụ nữ trong nhiều năm l5. Mặc dù các cư dân miền núi trung
bình có huyết áp cao, mức cholesterol và mỡ trong máu, họ chết vì bệnh tim ở mức ít hơn
một nửa của vùng đồng bằng. Tỷ lệ tử vong thấp hơn 61% đối với những người đàn ông,
54% thấp hơn cho phụ nữ
2.4 Những yếu tố xã hội: giáo dục, tội phạm, chiến tranh,….
Các quốc gia đang xảy ra chiến tranh hoặc có tình hình chính trị bất ổn thì tuổi thọ của người
dân không cao như Liberia có tuổi thọ trung bình của người dân là 45,7 năm, Nam Phi là
49,3 năm , Afganítan là 43,8 năm,……

11


3 Tình hình tuổi thọ ở Việt Namvà trên thế giới hiện nay
3.1 Tình hình tuổi thọ của một số nước trên thế giới
Quốc gia

Tuổi thọ

Tuổi thọ

trung bình

trung bình

năm 2002

năm 2005


Tây Ban Nha

81,02

82,31

Úc

80,00

80,39

Ý

79,25

79,68

Pháp

79,05

79,60

Đức

77,78

78,65


Anh

77,99

78,4

Hoa Kỳ

77,4

77,7

Hiện nay dân Nhật bản sống lâu nhất : tuổi thọ trung bình là 86,44 tuổi ( năm 2009 )
Các nước tiên tiến là 77-83 tuổi (thí dụ: Canada: 80.1 tuổi theo thống kê năm 2005)
Các nước chậm tiến là 35-60 tuổi (thí dụ: Mozambique: 40.3 tuổi theo thống kê năm 2005)
3.2 Tình hình tuổi thọ ở Việt Nam hiện nay
3.2.1 Tuổi thọ trung bình của Việt Nam qua các năm
Tuổi thọ trung bình của người dân Việt Nam 50 năm qua đã tăng được 35 tuổi (từ 40 tuổi
vào năm 1960 lên 75 tuổi vào năm 2010). Trong khi đó, tuổi thọ trung bình của thế giới chỉ
tăng được 21 tuổi (từ 48 tuổi lên 69 tuổi).
Hiện nước ta có khoảng 8,65 triệu người cao tuổi, chiếm 9,9% dân số. Trong số đó chỉ có
4,8% NCT có sức khỏe tốt và rất tốt, 65,4% là yếu và rất yếu. Trong đó, có 26,1% NCT
không có bất cứ loại bảo hiểm y tế nào, trên 51% NCT không đủ tiền chi trả cho việc điều
trị, dẫn đến không điều trị.

12


Năm


2003

2004

2005

2006

2007

2008

2009

2010

2011

Tuổi

70.05

70.61

70,61

70,85

70,07


73

72

72,6

75

thọ
trung
binh
Theo "Toàn cảnh Dân số thế giới, 2008" của Liên hợp quốc, vào năm 2050, tuổi thọ
trung bình của người Việt Nam sẽ là 80,4 trong đó nữ là 82,5 tuổi, nam là 78,2 tuổi.

Hình 1: Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam, 2010 -2050
3.2.2 . Chênh lệch về tuổi thọ giữa các vùng Việt Nam
Theo số liệu của Điều tra người cao tuổi Việt Nam năm 2011, 39% người cao tuổi Việt Nam
vẫn đang làm việc, tỷ lệ người cao tuổi ở vùng nông thôn và phụ nữ cao tuổi tham gia vào
lực lượng lao động cao hơn đáng kể so với người cao tuổi sinh sống tại các khu vực đô thị
và nam giới cao tuổi.
Người ta thấy rằng, phần lớn các cụ có tuổi thọ cao thường sống ở các vùng có khí hậu
trong lành như vùng biển hoặc nông thôn, miền núi, nơi có nhiều cây xanh và khí hậu trong
lành quanh năm. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ nước ta, tỷ lệ người cao tuổi chiếm tới 11-12%.
Riêng huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định, với số dân gần 10.000 người đã có 2.400 người
cao tuổi. Những nơi có điều kiện kinh tế phát triển tuổi thọ trung bình cao hơn so với các
13


khu vực điều kiện kinh tế khó khăn.

Nguyên nhân:
- Chất lượng cuộc sống của người thành thị cao hơn nông thôn, mức sống cao là một trong
những nhân tố tích cực nâng cao tuổi thọ của con người và thúc đẩy già hóa dân số ở thành
thị. Ví dụ ở thành thị có nhiều khu vui chơi giải trí cho mọi lứa tuổi, nhiều câu lạc bộ, khu
du lịch, khu nghỉ dưỡng... đáp ứng đủ đời sống tinh thần và nhu cầu của bản thân



Chế độ dinh dưỡng cũng có sự khác biệt lớn giữa thành thị và nông thôn. Ở thành thị nhu
cầu dinh dưỡng luôn được đáp ứng một cách đầy đủ và liên tục trong mỗi bữa ăn hằng ngày
đảm bảo nguồn năng lượng để phát triển toàn diện. Trong khi đó các bữa ăn của những gia
đình ở nông thôn thường bị mất cân bằng dinh dưỡng cụ thể có những nhóm dinh dưỡng
quá thừa so với nhu cầu cơ thể nhưng có những nhóm dinh dưỡng lại thiếu một các trầm
trọng

(bữa cơm của người thành phố)
14

(bữa cơm của người nông thôn)




Điều kiện cơ sở vật chất ở khu vực nông thôn còn kém, người nông dân phần lớn không
quan tâm đến sức khỏe, chỉ khi bệnh nặng mới đi khám, sử dụng thuốc bừa bãi không theo
chỉ dẫn thậm chí còn không chịu chữa bệnh. Đến khi khám phát hiện ra bệnh thỉ đã quá
muộn, khả năng chữa khỏi không cao

3.2.3. Chênh lệch tuổi thọ giữa các ngành nghề
Theo thống kê của các Sở LĐ-TB&XH, giai đoạn 2005-2010, cả nước đã có trên 30.000

người bị tai nạn lao động (TNLĐ) và trên 4.000 người chết vì TNLĐ. Thực tế, số vụ TNLĐ
và số người chết còn cao hơn nhiều do có những trường hợp TNLĐ bị doanh nghiệp che
giấu, không khai báo. Theo dự báo, giai đoạn 2010-2015, mỗi năm sẽ có thêm khoảng
170.000 người bị TNLĐ với 1.700 người chết, số người mắc mới bệnh nghề nghiệp hàng
năm cũng sẽ tăng trên 1.000 người; thiệt hại ước tính sẽ trên 2.000 tỷ đồng mỗi năm.
Tuổi thọ của các nhóm nghề là khác nhau và khoảng cách giữa các nhóm nghề cũng khác
nhau. Đáng chú ý là tuổi thọ trung bình tăng và khoảng cách tuổi thọ giữa các nhóm đã bị
thu hẹp.
Tuy nhiên, điều lạ là nhóm nghề thuộc lĩnh vực giải trí lại có tuổi thọ thấp hơn. Trong thế kỷ
20, tuổi thọ trung bình của nhóm nhà báo tăng nhẹ, lên 72 tuổi nhưng với tuổi thọ trung bình
vào những năm 60 và 70 là 61 năm và năm 90 là 65 năm, các nhà báo vẫn thuộc nhóm có
tuổi thọ thấp nhất. Những người trong ngành thể thao cũng không sống thọ với tuổi thọ là 61
năm vào những năm 60, 70 và 68 năm vào những năm 80, 69 năm vào những năm 2000.
Thời điểm duy nhất họ sống thọ hơn 70 tuổi là vào những năm 90 thế kỷ 20 với tuổi thọ
trung bình là 71. Chênh lệch tuổi thọ cao nhất là giữa nhóm người làm tôn giáo vào những
15


năm 80 thế kỷ 20 với tuổi thọ 80 và nhóm tác giả vào cùng thời gian này với tuổi thọ trung
bình 61 tuổi.
S
o
s

n
h
t
u
ổ
i

t
h

t
r
u
n
g
b
ì
n
h
16


c

c
n
h

m
n
g
h
ề
t
r
o
n

g
1
0
n
ă
m
g

n
17


đ
â
y

Xêp
loại

Nhóm
nghề

Tuổi thọ
(Bảng số liệu khảo sát năm 2010)
Như vậy có sự chênh lệch lớn về tuổi thọ giữa các nhóm ngành nghề khác nhau, do đặc thù,
hoàn cảnh điều kiện công việc của các nhóm ngành nghề là khác nhau
Vậy để có sức khỏe tốt và để kéo dài tuổi thọ con người cần có biện pháp khắc phục các
điều kiện khó khăn trong công việc như :



Cải thiện môi trường làm việc, điều kiện lao đông của người lao động
18




Sử dụng các thiết bị bảo hộ phù hợp với từng loại công việc




Tuyên truyền, giáo dục ý thức cho người lao động tầm quan trọng của an toàn lao động
Các cơ quan quản lý Nhà nước thường xuyên kiểm tra chặt chẽ,nhằm kịp thời phát hiện và
ngăn chặn các vụ TNLĐ, đề ra chế tài xử phạt nặng các hành vi cố ý vi phạm
Tuy nhiên biện pháp được xem là hiệu quả nhất để tăng tuổi thọ ở người đó là:’’Luôn luôn
sống thật vui vẻ,ăn uống thật hợp lý’’
III Vấn đề giáo dục:
1. Tình hình giáo dục ở Việt Nam
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế,
nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan trọng, quyết định sự thành
công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục ngày càng có vai trò và nhiệm vụ
quan trọng trong việc xây dựng một thế hệ người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế-xã hội. Điều này đòi hỏi giáo dục phải có chiến lược phát triển đúng
hướng, hợp quy luật, xu thế và xứng tầm thời đại.
19


1.1. Một số thành tựu của nền giáo dục Việt Nam
Trong vấn đề giáo dục,. TS Mark Ashwill (Giám đốc Viện Giáo dục Quốc tế (IIE) ở Việt
Nam): Thuận lợi của giáo dục Việt Nam là văn hóa coi trọng việc học hành, là sự đầu tư về

thời gian và tiền bạc của cha mẹ cho con cái họ, là sự ham học hỏi và mong muốn của những
bạn trẻ muốn phát triển tiềm năng của họ thông qua giáo dục và những hoạt động liên quan
đến giáo dục.


Việt Nam đã đạt được sự chuyển biến ấn tượng .Đó

chính là số năm đi học kỳ vọng tăng từ 7,8 năm vào năm 1990 lên 10,4 năm vào năm
2011


Quy mô giáo dục và mạng lưới cơ sở giáo dục được

phát triển, đáp ứng tốt hơn nhu cầu học tập của xã hội.
Năm học 2007-2008, cả nước có gần 23 triệu học sinh, sinh viên, tăng 2,86% so với năm
học 2000-2001; trong đó số học sinh học nghề tăng 2,14 lần; số học sinh trung cấp chuyên
nghiệp tăng 2,41 lần; số sinh viên cao đẳng, đại học tăng 1,75 lần, nâng tỷ lệ sinh viên cao
đẳng, đại học trên một vạn dân tăng 1,6 lần, số học viên cao học và nghiên cứu sinh tăng 2,5
lần


Mạng lưới trường lớp được phát triển rộng khắp trong toàn quốc. Về cơ bản đã xóa được
"xã trắng" về giáo dục mầm non; trường tiểu học đã có ở tất cả các xã, trường trung học cơ
sở có ở xã hoặc cụm liên xã, trường trung học phổ thông có ở tất cả các huyện. Các cơ sở
đào tạo nghề, cao đẳng và đại học được thành lập ở hầu hết các địa bàn dân cư lớn, các
vùng, các địa phương.
Hiện nay, cả nước có trên 9.000 trung tâm học tập cộng đồng, gần 700 trung tâm giáo dục
thường xuyên cấp tỉnh và huyện, 1.300 trung tâm tin học, nhiều trường đại học triển khai các
chương trình đào tạo từ xa. Ngoài ra, có nhiều cơ sở đào tạo ngoại ngữ và bồi dưỡng nâng
cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ có yếu tố nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam. Một

xã hội học tập đã hình thành rõ nét ở Việt Nam.




Chất lượng giáo dục ở các cấp học và trình độ đào tạo đã có chuyển biến.
Giáo dục mầm non, tiểu học:TheoQuyết định số 149/2006/QĐ –TTg ngày 23/06/2006, các
nguồn tài chính dành cho GD mầm non trong vòng 10 năm trở lại đây cũng đã tăng lên đáng
kể: từ 1.359 tỷ VNĐ năm 2001 lên 6.920 tỷ VNĐ năm 2008, theo số liệu này chi tiêu cho
20


GDMN đã tăng từ 6.88% năm 2001 lên 8.5% năm 2008; tỷ lệ trẻ 5 tuổi đến trường đã tăng
từ 74% năm 2004 lên 98,6% năm 2009; cơ sở vật chất được cải thiện đáng kể và các trường
đạt chuẩn quốc gia về cơ sở vật chất đã đạt 13,2% vào năm 2009
● Tính đến tháng 5/2005 cả nước có 979000 nhà giáo, trong đó có 47646 giảng viên đại học và
cao đẳng. Tỷ lệ sinh viên ĐH, CĐ/giảng viên là 28, khá cao so với các nước khác
● Tất cả các tỉnh, thành phố trong cả nước đã được công nhận chuẩn quốc gia về xoá mù chữ,


phổ cập giáo dục tiểu học và đang thực hiện phổ cập trung học cơ sở.
Công tác xã hội hoá giáo dục và việc huy động nguồn lực cho giáo dục đã đạt được những

kết quả bước đầu.
● Công bằng xã hội trong giáo dục đã được cải thiện, đặc biệt tăng cơ hội học tập cho trẻ em
gái, trẻ em người dân tộc, con em các gia đình nghèo và trẻ em khuyết tật.

Giờ học môn Tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số ở Lào Cai.



Công tác quản lý giáo dục đã có nhiều chuyển biến
- Tỷ lệ biết đọc, biết viết của dân số Việt Namở từ 15 tuổi trở lên là 93,5 phần trăm.
- Sự khác biệt về tỷ lệ biết đọc, biết viết giữa nam và nữ có xu hướng giảm mạnh - từ
10 phần trăm vào năm 1989 xuống còn 7 phần trăm vào năm 1999 và chỉ còn 4,4
phần trăm vào năm 2009. Tuy nhiên, nữ nông thôn đang bị tụt hậu nhiều về trình độ
chuyên môn kỹ thuật.
- 22,7 % người Kinh đã hoàn thành trung học cơ sở hoặc cao hơn, trong khi chỉ số
này chỉ ở mức khoảng 9% đối với các nhóm dân tộc thiểu số.

21


1.2 Một số tồn tại chính trong nền giáo dục hiện nay
1.2.1 Vẫn tồn tại sự chệnh lệch về tỷ lệ biết đọc, biết viết và trình độ học vấn giữa các
dân tộc thiểu số và dân tộc Kinh.
Tỷ lệ biết đọc, biết viết của dân số Việt Nam ở độ tuổi từ 15 trở lên là 93,5 phần trăm – tăng
lên 3,2 phần trăm so với năm 1999. Mặc dù tỷ lệ biết đọc, biết viết của cả nước rất cao
nhưng tỷ lệ này ở các dân tộc Thái, Khơ me, và Mông vẫn còn tương đối thấp so với dân tộc
Kinh (xem hình 1). Dân tộc Kinh có trình độ học vấn cao hơn nhiều so với các dân tộc thiểu
số. 22,7 phần trăm người Kinh đã hoàn thành trung học cơ sở hoặc cao hơn, trong khi chỉ số
này chỉ ở mức khoảng 9 phần trăm đối với các nhóm dân tộc thiểu số. Một điểm đáng chú ý
khác là tỷ lệ bỏ học trong các nhóm dân tộc thiểu số là cao nhất (xem hình 2).
Hình 1: Tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở lên biết đọc

Hình 2: Tỷ lệ bỏ học, phân theo dân tộc

biết viết phân theo dân tộc

1.2.2. Sự khác biệt giữa các vùng, miền vẫn còn tồn tại với tỷ lệ bỏ học cao nhất ở các
tỉnh phía Nam

Số liệu của Tổng điều tra dân số năm 2009 cho thấy tỷ lệ bỏ học ở độ tuổi đi học (5-18) ở
các tỉnh phía Nam cao hơn rất nhiều so với tỷ lệ này ở các tỉnh phía Bắc. Tỷ lệ bỏ học thấp
nhất ở các tỉnh phía Bắc bao gồm Hà Nội (7,8 %), Thái Bình (8,1%), Hải Dương (8,9 phần
trăm). Tỷ lệ bỏ học cao nhất là ở các tỉnh phía Nam bao gồm Bình Dương (30,8 %), Bạc
Liêu (26,2 %), An Giang (25,9 %) và Sóc Trăng (25,8 %). Đồng thời, khu vực đồng bằng
sông Cửu Long luôn có tỷ lệ tốt nghiệp trung học phổ thông và tỷ lệ đạt các trình độ sơ cấp,
trung cấp nghề, và cao đẳng trở lên ở mức thấp nhất.
1.2.3. Công tác quản lý giáo dục còn nhiều bất cập.
22




Có sự chênh lệch giữa giáo dục vùng đồng bằng và miền núi.

(miền núi)



(đồng bằng)

Cơ sở vật chất tuy đã có nhiều biến đổi xong vẫn chưa đáp ứng tối đa nhu cầu của giáo dục.
Tồn tại những bất cập trong thi cử : như hành động gian lận trong thi cử,quay cóp,học nhầm
chỗ,nhầm lớp…..vv.



Có quá nhiều trường đai học, cao đẳng, trung cấp song chất lượng đào tạo chưa thực sự cao.
Đó là chưa kể đến việc tăng thêm thật nhiều nguyện vọng 1.2.3.4 vì không có sinh viên nhập
học.Điếm sàn Đại hoc,cao đẳng trong những năm gần đây có xu hướng giảm mạnh(khối B

năm 2007 là 15 điểm, đến năm 2012 là 13 điểm). Bằng cấp của các trường đại học ở Việt
Nam chưa được quốc tế công nhận, hiện có khoảng 63% sinh viên đại học, cao đẳng thất
nghiệp.
1.2.4. Mặt bằng trình độ chuyên môn, kỹ thuật thấp đặt ra thách thức lớn cho tương
lai
Năm 2009, trong nhóm dân số từ 15 tuổi trở lên, chỉ có 1,63% có bằng cao đẳng, có 4,17%
23


có bằng đại học và 0,21% có bằng sau đại học. Theo phân loại quốc tế về giáo dục của
UNESCO, trong nhóm dân số từ 25 tuổi trở lên ở Việt Nam thì 18,9% đạt được “trình độ
học vấn bậc trung”1 và chỉ có 5,4% có trình độ học vấn bậc cao (xem hình 5).

Hình 5: So sánh tỷ lệ dân số từ 25 tuổi trở lên có trình độ giáo dục bậc cao của Việt Nam
với một số nước trên thế giới
Các số liệu so sánh quốc tế trên hình này cũng bao gồm chỉ số phát triển con người cho thấy
Việt Nam có tỷ lệ dân số có trình độ học vấn bậc cao thấp hơn các nước có cùng xếp hạng
về chỉ số phát triển con người (thậm chí còn thấp hơn) như Mông Cổ và Nam Phi. Điều này
cho thấy Việt Nam vẫn đang phải đối mặt với thách thức lớn về giáo dục đào tạo.
1.2.5. Việt Nam đã đạt được những tựu đáng kể về giáo dục cho phụ nữ nhưng khu
vực nông thôn vẫn còn tụt hậu so với khu vực thành thị

1.
24


.
Đi làm công nhân còn phải đi học bổ túc tiểu học
Ở cấp quốc gia, tỷ lệ biết đọc biết viết của dân số từ 15 tuổi trở lên ở nhóm nam giới cao hơn
so với nữ giới. Tuy nhiên, khi phân tích số liệu của cả 3 cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở

trong các năm từ 1989 đến 2009, sự khác biệt giữa nam và nữ về tỷ lệ biết đọc, biết viết có
xu hướng giảm mạnh - từ 10 % vào năm 1989 xuống còn 4,4 phần trăm vào năm 2009 (xem
hình 3). Những con số này phản ánh tiến bộ đáng kể trong việc đạt được Mục tiêu Phát triển
Thiên niên kỷ số 3 về thúc đẩy bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ.
Hình 4: Tỷ lệ dân số có trình độ chuyên môn,
kỹ thuật cao nhất, phân theo giới tính và
thành thị/nông thôn

Hình 3: Tỷ lệ biết đọc biết viết của nhóm dân
số từ 15 tuổi trở lên
25


×