Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (41.38 KB, 2 trang )
Có những chi tiết nghệ thuật đọc rồi là nhớ mãi bởi nó có sức rung động sâu xa, sức ám ảnh lâu bền trong
người đọc như “bát cháo hành” của Thị Nở trong Chí Phèo (Nam Cao), như “nồi cháo cám” của bà cụ Tứ
trong Vợ nhặt (Kim Lân). Nếu bát cháo hành là liều thuốc giải độc đối với những “con quỷ dữ” như Chí
Phèo biết quay về cuộc sông lương thiện, thì nồi cháo cám chính là tấm lòng thương yêu chân thực, cảm
động của người mẹ nghèo khổ đối với những đứa con trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới.
Gấp trang truyện lại, không hiểu sao trước mắt ta cứ hiện lên rõ ràng như thực hình ảnh “người mẹ tươi
cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn
đấy”. Có thật chăng món chè cám ngon đáo để? Có thật chăng lòng người mẹ đang vui sướng? Chỉ biết
rằng cỏ một niềm xúc động rất thật cứ dâng lên trong lòng ta trước tấm lòng bà cụ Tứ khi bà “lễ mễ”
bưng nồi cháo ra, đon đả tươi cười múc cháo cho hai đứa con.
Nhớ lại cuộc đời dài nghèo khổ của bà, mấy khi trên gương mặt u tối ấy sáng lên một nụ cười? Ngay cả
đêm qua, biết con trai đã nên vợ nên chồng, trong giờ phút đầu tiên gặp người con dâu mới, nước mắt khổ
đau và lo lắng của bà vẫn chảy nhiều hơn tuy trong thâm tâm bà cũng có chút “mừng lòng” và một vài tia
hi vọng về chúng. Vậy thì vì sao trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới lại có chuyện “nồi cháo cám" với
nụ cười đon đả làm bừng sáng cả khuôn mặt già nua, nhẫn nhục của bà? Ta hiểu, không phải bà vui cho
bà, mà chính là bà đang cố tạo ra những niềm vui, dù còn rất mong manh, cho con trai và con dâu trong
ngày đầu tiên nên vợ nên chồng. Tâm lòng người mẹ nghèo thương con thật cảm động. Bà đã dậy sớm,
“xăm xắn” dọn dẹp nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, trong bữa cơm toàn nói những chuyện vui về
tương lai như chuyện nuôi gà … Và “nồi cháo cám” chính là đỉnh cao của tấm lòng người mẹ nghèo
thương hai đứa con vừa tìm đến với nhau trong cảnh “vợ nhặt” giữa những ngày đói khủng khiếp nhất của
năm 1945.
Còn nhớ một điều, đây không phải là một bữa cơm thường nhật hằng ngày, mà là bữa cơm đầu tiên đón
dâu mới, bữa cơm ngày “nhị hỉ” thiêng liêng theo phong tục Việt Nam. Chính đêm qua, bà đã nói với
người đàn bà lạ bỗng trở nên thân thiết với mình: “Lẽ ra mẹ phải có dăm ba mâm, mời bà con họ hàng,
nhưng Bữa cơm ấy phải tươm tất, nhưng vì đang trong những ngày đói nên chỉ có “một niêu cháo lõng
bõng, một dúm rau chuối thái rối chấm với muối trắng”. Ba mẹ con ăn vui vẻ nhưng loáng cái đã hết
nhẵn, không còn chút gì trên cái mẹt rách được dùng làm mâm. Một tình thế hụt hẫng sẽ đến trong bữa
cơm ngày cưới, điều này, bà đã nhìn thấy trước, và bằng tấm lòng thương yêu của mình, bà đã tìm cách
“cứu nguy” cho nó, mục đích là để cho con trai và con dâu có được niềm vui trọn vẹn trong ngày đầu tiện
nên vợ nên chồng. Nồi cháo cám có được là do lòng thương con chân thành của bà, cũng là do cách nghĩ