Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động pháp luật tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM VĂN BẰNG

HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ ĐÁNH GIÁ
TÁC ĐỘNG PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN HOÀNG ANH

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Văn Bằng


MỤC LỤC


Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục hình vẽ
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG
PHÁP LUẬT .............................................................................................. 10
1.1.

Quan niệm và mục tiêu thực hiện đánh giá tác động pháp luật ...........10

1.1.1.

Quan niệm về đánh giá tác động pháp luật .................................................10

1.1.2.

Mục tiêu thực hiện đánh giá tác động pháp luật .........................................12

1.2.

Kinh nghiệm một số nước trong đánh giá tác động pháp luật và
bài học rút ra ............................................................................................. 14

1.2.1.

Thời điểm thực hiện việc đánh giá tác động pháp luật ............................... 14


1.2.2.

Phạm vi chính sách phải thực hiện đánh giá tác động, mức độ và nội
dung đánh giá .............................................................................................. 16

1.2.3.

Cơ chế kiểm soát, giám sát việc thực hiện đánh giá tác động pháp luật .....18

1.2.4.

Xây dựng khung pháp lý điều chỉnh đánh giá tác động pháp luật ..................20

1.2.5.

Chủ thể thực hiện đánh giá tác động pháp luật ...........................................21

1.2.6.

Các biện pháp đảm bảo đánh giá tác động pháp luật được thực thi và
đạt chất lượng .............................................................................................. 23

1.3.

Mục tiêu đưa quy định đánh giá tác động pháp luật trong Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 .........................................25

Chương 2: PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH
VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG XÂY
DỰNG PHÁP LUẬT TẠI VIỆT NAM ...................................................27

2.1.

Tình hình xây dựng và thi hành pháp luật nước ta trong thời gian qua ....27

2.2.

Thực trạng pháp luật điều chỉnh đánh giá tác động pháp luật ............32

2.2.1.

Khung pháp luật điều chỉnh đánh giá tác động pháp luật ...........................32


2.2.2.

Phạm vi văn bản phải thực hiện đánh giá tác động pháp luật .....................36

2.2.3.

Các hình thức đánh giá tác động pháp luật .................................................40

2.2.4.

Vấn đề lấy ý kiến trong quá trình tiến hành đánh giá tác động pháp luật .......49

2.2.5.

Cơ chế kiểm soát, giám sát việc tuân thủ thực hiện quy định về đánh
giá tác động pháp luật..................................................................................53


2.2.6.

Kinh phí đảm bảo thực hiện đánh giá tác động pháp luật ...........................54

2.3.

Thực tiễn thi hành các quy định về đánh giá tác động pháp luật
trong thời gian qua ....................................................................................56

2.3.1.

Về nhận thức và năng lực của cán bộ ..........................................................56

2.3.2.

Về việc tổ chức thực hiện và tuân thủ các quy định đánh giá tác động
pháp luật ......................................................................................................60

2.4.

Nguyên nhân của những tồn tại, yếu kém...............................................67

2.4.1.

Bất cập trong quy định pháp luật về quy trình xây dựng văn bản quy
phạm pháp luật ............................................................................................ 67

2.4.2.

Trình độ, năng lực cán bộ thực hiện RIA còn hạn chế................................ 69


2.4.3.

Các điều kiện bảo đảm thực hiện đánh giá tác động pháp luật còn
hạn chế ........................................................................................................70

Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ NÂNG CAO HIỆU
QUẢ HOẠT ĐỘNG ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG TẠI VIỆT NAM .........73
3.1.

Quan điểm hoàn thiện chế định RIA và nâng cao hiệu quả thực
hiện đánh giá tác động pháp luật ............................................................. 73

3.2.

Một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả
thực hiện quy định đánh giá tác động pháp luật ....................................75

3.2.1.

Đổi mới quy trình đề xuất và xây dựng chính sách, luật ............................ 75

3.2.2.

Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động pháp luật ............................ 78

3.2.3.

Giải pháp nâng cao nhận thức, kỹ năng thực hiện đánh giá tác động
pháp luật ......................................................................................................88


3.2.4.

Giải pháp tăng cường bảo đảm điều kiện thực hiện đánh giá tác động
pháp luật ......................................................................................................89

KẾT LUẬN ..............................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 93


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
OBPR

Cơ quan kiểm soát, đánh giá chất lượng của các đề xuất
tại Australia

OECD

Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế

RIA

Đánh giá tác động pháp luật

UNDP

Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc

USD


Đô la

VNCI

Dự án sáng kiến năng lực cạnh tranh Việt Nam

CIEM

Viện Quản lý kinh tế Trung ương

BTP

Bộ Tư pháp

USAID

Cơ quan phát triển quốc tế Hoa kỳ

UNDP

Chương trình phát triển liên hợp quốc


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1: Chi phí hàng năm và lợi ích của việc đưa RIA bắt buộc đối với
ban hành văn bản quy phạm pháp luật .................................................37
Bảng 2.2: Chi phí hàng năm và lợi ích của việc đưa RIA sơ bộ vào Chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh ............................................................... 42
Bảng 2.3: Kinh phí xây dựng báo cáo RIA và chất lượng báo cáo RIA ................55
Bảng 2.4: Số lượng dự thảo Luật, Pháp lệnh có RIA .............................................63



DANH MỤC HÌNH VẼ
Hình 2.1:

Mối liên hệ giữa các báo cáo đánh giá tác động pháp luật ....................41


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Đánh giá tác động kinh tế xã hội về một đạo luật (Regulatory Impact
Assessment - gọi tắt là RIA), là một khái niệm mới ở Việt Nam, được tiếp
thu từ quy trình xây dựng và hoàn thiện pháp luật của các quốc gia tiên tiến
trên thế giới.
Với ý nghĩa chung nhất, RIA là phương pháp đánh giá chi phí, lợi
ích của những tác động có thể xảy ra đối với các nhóm trong xã hội,
các khu vực hoặc toàn bộ xã hội và nền kinh tế từ sự thay đổi chính
sách hoặc pháp luật, được thực hiện trong quá trình làm luật, sửa đổi
bổ sung các quy định pháp luật hoặc ban hành chính sách mới [32].
Đặc biệt, điều quan trọng, cơ bản nhất là nó đưa ra nhiều phương án
khác nhau; nghiên cứu, phân tích, đánh giá, so sánh tác động của các giải
pháp, từ đó cung cấp thông tin cho các cơ quan, người có thẩm quyền để họ
có thể lựa chọn được giải pháp tốt nhất. “Lần đầu tiên RIA được áp dụng trên
thế giới là vào giữa những năm 1970 tại Mỹ dưới thời Tổng thống Ford do có
lo ngại về gánh nặng quy định pháp luật đè lên vai xã hội, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ; cộng với lo ngại điều đó có thể làm gia tăng lạm
phát”[36]. Lúc đầu, người ta chỉ chú ý phân tích tác động đối với doanh
nghiệp, sau đó mới chú ý đánh giá tác động đến chủ thể khác. Đến nay, RIA
đã được áp dụng ở đại đa số các nước OECD, nhiều nước châu Âu chuyển
đổi, châu Á, châu Phi, châu Mỹ La tinh.

Ở các nước khác nhau, RIA có thể được tiến hành ở những công đoạn
khác nhau, tuy nhiên có thể tóm lại ở các công đoạn sau:
1. Khi xem xét sự cần thiết ban hành văn bản, RIA được tiến hành
để xác định các phương án, so sánh tác động của chúng, từ đó xác
định phương án tối ưu;

1


2. Trong quá trình soạn thảo dự thảo phương án đã được lựa chọn,
RIA được tiến hành để phân tích xem mục đích ban hành có đạt
được một cách tối ưu trong dự thảo hay không; các nhóm chịu sự
điều chỉnh của văn bản có dễ dàng thực thi, tuân thủ không; mức độ
mà văn bản làm giảm hoặc tăng gánh nặng đối với các nhóm chịu
sự điều chỉnh của văn bản đó;
3. Sau khi văn bản được ban hành, RIA được thực hiện để đánh giá
tác động thực tế của một văn bản đang có hiệu lực so với các tác
động được dự tính để xác định văn bản đó đạt được mục tiêu đề ra
không, có cần sửa đổi không, sửa đổi ở mức nào [57]…
Với ý nghĩa chung nhất, RIA là một tập hợp các bước logic hỗ trợ cho
việc chuẩn bị các đề xuất chính sách. Nó bao gồm việc nghiên cứu sâu các
hoạt động đi kèm với quá trình xây dựng chính sách và chính thức hóa các kết
quả nghiên cứu bằng một bản báo cáo độc lập. Trách nhiệm thực hiện RIA
được giao cho tổ chức phụ trách việc đề xuất chính sách. Tuy nhiên, RIA là
công cụ trợ giúp cho việc xây dựng chính sách chứ không phải là công cụ
thay thế nó (không nên nhầm lẫn giữa RIA với đề xuất chính sách hoặc với tờ
trình trước khi đề xuất). “Cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu các kết
quả của RIA khi ra quyết định. Việc đề xuất, thông qua chính sách là quyết
định chính trị thuộc cơ quan chủ trì soạn thảo mà không phải nhiệm vụ của
các chuyên gia thực hiện việc đánh giá tác động của văn bản”[18].

Về nội dung, RIA tập hợp và trình bày các chứng cứ để xác định việc
lựa chọn chính sách có thể được ban hành với các ưu, nhược điểm của chúng.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, RIA được thực hiện song song với việc
nêu sáng kiến lập pháp, lập quy và được lồng ghép vào quy trình xác lập
chính sách của các bộ, ngành… hoặc chủ thể khác khi đề xuất xây dựng luật
và văn bản của Chính phủ. Cơ quan chủ trì soạn thảo cần nghiên cứu các kết

2


quả của RIA khi ra quyết định có ban hành văn bản điều chỉnh chính sách đó
hay không. Việc đề xuất, thông qua chính sách là quyết định chính trị thuộc
về cơ quan chủ trì soạn thảo, Chính phủ, Quốc hội (theo các giai đoạn khác
nhau), mà không phải là nhiệm vụ của các chuyên gia thực hiện đánh giá tác
động của văn bản.
Bản chất của RIA là việc xem xét, đánh giá các đề xuất chính sách
quản lý khi được thể chế hoá thành quy phạm pháp luật. Quá trình đó tuân thủ
5 nguyên tắc cơ bản sau:
- Tính tương xứng – xem xét và cân nhắc rủi ro có thể. Chỉ áp dụng
khi cần và khi lợi ích cân xứng với rủi ro có thể xảy ra khi chính sách được
lựa chọn.
- Tính chịu trách nhiệm – người, cơ quan có thẩm quyền ban hành phải
chịu trách nhiệm đối với văn bản được ban hành và trước nhân dân. Chịu
trách nhiệm trước các đối tượng chịu sự điều chỉnh của quy định và người có
thẩm quyền trao quyền ban hành quy định.
- Tính nhất quán và minh bạch – tức là có thể dự báo được, do đó mọi
người có thể biết mình thuộc đối tượng nào, có thuộc đối tượng bị áp dụng
không … dựa trên việc lấy ý kiến và phản hồi của các bên liên quan.
- Tính rõ ràng (dễ hiểu) – Công khai rõ ràng (open), đơn giản và gần
gũi với người sử dụng.

- Có mục tiêu - tập trung vào vấn đề chính sách cần giải quyết và giảm
thiểu các tác động không mong muốn.
Chất lượng của RIA được xem xét thường xuyên bởi một cơ quan
chuyên môn về lập pháp. Chúng cũng được sử dụng trong các biên bản họp
của Quốc hội khi chúng được đưa ra như là căn cứ (chứng cứ) và các thông
tin thu thập được về sự lựa chọn chính sách đang được xem xét.
Báo cáo RIA phải xác định được các phương án, chính sách và sự chọn

3


lựa tối ưu để giải quyết vấn để đang đặt ra. Những chính sách đưa ra để tiến
hành RIA phải gồm có một lựa chọn không hành động và lựa chọn không
mang tính pháp lý giống như các quy tắc thông lệ, các tiêu chuẩn công nghệ
(công nghiệp) hoặc chính sách mang tính sự phối hợp.
Tại Việt Nam, trước đây theo quy định tại Điều 22 Luật Ban hành văn
bản quy phạm pháp luật năm 1996 mới chỉ quy định đề nghị xây dựng luật,
pháp lệnh phải dự báo tác động kinh tế - xã hội của văn bản. Nội dung của dự
báo nhiều trường hợp mang tính hình thức và tính chủ quan của cơ quan đề
nghị xây dựng Luật, pháp lệnh...Tiếp thu kinh nghiệm của thế giới, lần đầu
tiên trong lịch sử lập pháp Việt Nam, yêu cầu về đánh giá tác động kinh tế xã hội được quy định trong một đạo luật - Luật Ban hành văn bản quy phạm
pháp luật năm 2008. Theo đó, đánh giá tác động pháp luật của văn bản được
thực hiện ở hai giai đoạn: (1) giai đoạn đề nghị xây dựng văn bản (luật, pháp
lệnh, nghị định); (2) giai đoạn soạn thảo văn bản. Việc đánh giá tác động kinh
tế - xã hội của một đạo luật là một yêu cầu bắt buộc, là một khâu trong quy
trình xây dựng pháp luật. Về thực chất, hoạt động đánh giá tác động kinh tế xã hội đề cập trong Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và các
văn bản hướng dẫn thi hành Luật ở Việt Nam chính là đánh giá tác động pháp
luật (RIA) mà nhiều nước trên thế giới đã và đang áp dụng trong hoạt động
xây dựng pháp luật của họ. Trong thực tiễn thi hành quy định nói trên của
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008, trừ việc đánh giá tác động

pháp luật (RIA) đã được tiến hành một cách khá bài bản trong quá trình xây
dựng hai Dự án Luật là Luật Đầu tư chung và Luật Doanh nghiệp mới (ban
hành 2005) thì đối với đại đa số các dự án luật còn lại, việc đánh giá tác động
kinh tế - xã hội mới chỉ được tiến hành một cách hình thức, sơ sài.
Phần ánh giá tác động kinh tế- xã hội trong Bản thuyết minh đề
nghị xây dựng Luật của đa số các Bộ, Ngành hoặc tổ chức khác đều

4


mới chỉ dừng ở mức sơ lược, thiếu các luận cứ khoa học và thực
tiễn được nghiên cứu và phân tích một cách thấu đáo trên cơ sở kết
quả các điều tra và tham vấn công phu với những tài liệu, số liệu rõ
ràng, chính xác khoa học để chứng minh cho những chính sách
pháp lý của một dự án luật và các phương án khác nhau trong quá
trình hình thành dự án luật đó. Việc hỏi ý kiến những đối tượng
chịu tác động trực tiếp của luật tuy có thực hiện nhưng nhiều lúc chỉ
là hình thức, không đạt hiệu quả cao” [5].
Từ thực tiễn thực hiện chế định RIA trong gần 3 năm qua cho thấy,
việc tuân thủ chế định RIA còn gặp một số khó khăn, vướng mắc cơ bản sau:
Một là, thiếu nhận thức một cách thống nhất, đầy đủ về mục tiêu, ý
nghĩa, vai trò, nội dung của hoạt động đánh giá tác động kinh tế xã hội đối với
toàn bộ quá trình xây dựng một dự án Luật (bắt đầu từ khi đưa ra sáng kiến
lập pháp và cho đến khi đạo luật được ban hành);
Hai là, chúng ta thiếu quy trình, phương pháp và kỹ năng để thực hiện
hoạt động đánh giá tác động kinh - tế xã hội đối với một đạo luật một cách có
hiệu quả. Cũng tương tự như đối với hoạt động xây dựng pháp luật, lý do chủ
yếu những hạn chế trong công tác tổng kết thi hành luật hiện nay là nó chưa
được xem là cơ sở rất quan trọng để hình thành các chính sách pháp lý cho
việc sửa đổi, bổ sung hoặc thay thế một đạo luật mới và thiếu các tiêu chí,

phương pháp cần thiết để đảm bảo hiệu quả của hoạt động tổng kết thi hành
luật (mà trong đó một số phương pháp, tiêu chí của hoạt động đánh giá tác
động kinh tế- xã hội của đạo luật phải được xem là cốt lõi để vận dụng, làm
căn cứ so sánh hiệu quả).
Ba là, các bản RIA đa số còn mang tính hình thức, hợp lệ theo thủ tục
để trình cơ quan có thẩm quyền, coi như đủ hồ sơ, thủ tục.
Đặc biệt là trong điều kiện hiện nay khi chúng ta đang tiến hành sửa đổi

5


luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất thì vấn đề chất lượng
của các báo cáo đánh giá tác động pháp luật là một trong 4 vấn đề chính mà
Dự thảo Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hợp nhất quan tâm. Xuất
phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu hoàn thiện các quy định pháp luật
điều chỉnh đánh giá tác động pháp luật và các giải pháp để đảm bảo các quy
định đó được thực thi trên thực tế là điều hết sức cần thiết, do đó tôi đã chọn
đề tài “Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động pháp luật tại Việt
Nam” nghiên cứu luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu luận văn
Hoàn thiện các quy định về đánh giá tác động pháp luật là một vấn đề
quan trọng hiện nay đặt ra trong quá trình hoàn thiện pháp luật về quy trình
xây dựng pháp luật ở Việt Nam. Đây là công trình nghiên cứu nhằm đánh giá
một cách tổng thể hệ thống pháp luật hiện hành cũng như tình hình thực thi
các quy định về đánh giá dự báo tác động luật ở Việt Nam trong thời gian
qua. Theo đó, công trình nghiên cứu mang tính thực tiễn và ứng dụng trong
bối cảnh việc hoàn thiện các quy định pháp luật về đánh giá tác động trong
Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hợp nhất.
Liên quan đến nội dung nghiên cứu của luận văn, đã có một số công
trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết tiếp cận dưới các góc độ khác

nhau, trong đó, có các công trình nghiên cứu đáng chú ý như: Bộ Tư pháp –
UNDP, Sổ tay kỹ thuật soạn thảo, thẩm định đánh giá tác động văn bản quy
phạm pháp luật, (NXB Tư pháp, 2011); Trường Đại học Khoa học xã hội và
nhân văn – Rosa, Kỹ năng phân tích và hoạch định chính sách, (NXB Thế
giới, 2011); Bộ Tư pháp, Báo cáo đánh giá tác động Dự thảo Luật Ban hành
văn bản quy phạm pháp luật, 2008; Học viện Hành chính, Giáo trình hoạch
định và phân tích chính sách công, (NXB Khoa học và Kỹ thuật, 2010); GTZ,
Thực hiện hiệu quả quy trình đánh giá dự báo tác động pháp luật tại Việt

6


Nam; ThS. Nguyễn Thị Thanh Tâm, Luận văn thạc sỹ, Đánh giá tác động của
pháp luật trong hoạt động xây dựng pháp luật ở Việt Nam hiện nay....
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này đề cập đến những vấn đề cơ
sở lý luận, sự hình thành và quy định RIA tại Việt Nam… ở dưới các góc độ
khác nhau. Một số công trình có đề cập đến các quy định pháp luật điều chỉnh
hoạt động đánh giá dự báo tác động pháp luật hoặc đã tiến hành đánh giá thực
tiễn thi hành chế định RIA qua việc chấm điểm, rà soát các báo cáo RIA đã
được công bố....Tuy nhiên, trong bối cảnh Bộ Tư pháp đang tiến hành đánh
giá tổng kết thi hành Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và tiến
tới xây dựng Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật hợp nhất thì vấn đề
nghiên cứu lý luận và thực tiễn liên quan đến chế định RIA là một vấn đề
quan trọng, có tính thời sự. Theo đó, tác giả đã lựa chọn đề tài này nhằm
nghiên cứu, đánh giá một cách toàn diện thể chế hiện hành điều chỉnh về đánh
giá tác động pháp luật từ đó đề xuất một số giải pháp góp phần quan trọng
trong việc hoàn thiện các quy định pháp luật về đánh giá tác động pháp luật
và đưa các quy định này vào thực tiễn một cách có hiệu quả.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục tiêu của đề tài: Hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh

đánh giá tác động pháp luật trong quy trình xây dựng pháp luật.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Những vấn đề chung về đánh giá tác động pháp luật và việc đưa quy
định đánh giá tác động pháp luật vào Việt Nam.
- Thực trạng pháp luật điều chỉnh đánh giá tác động pháp luật tại
Việt Nam.
-Thực tiễn thi hành các quy định pháp luật về đánh giá tác động pháp
luật trong thời gian qua tại Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật điều chỉnh
đánh giá tác động pháp luật trong quy trình xây dựng pháp luật.
7


4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở
phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
a. Phương pháp nghiên cứu tại chỗ.
Nghiên cứu hệ thống văn bản pháp luật, thu thập, nghiên cứu các tài
liệu trong và ngoài nước về các vấn đề thuộc nội dung nghiên cứu của Đề tài.
b. Thu thập, thống kê số liệu:
+ Số liệu thống kê từ các website về cơ sở dữ liệu luật như:
; ;
;; ;
/>+ Số liệu thống kê từ Cục kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật,
Vụ các vấn đề chung về xây dựng pháp luật, Viện Khoa học Pháp lý của
Bộ Tư pháp,….
+ Phương tiện truyền thông, báo chí…
c. Phân tích, tổng hợp Để đi đến những kết quả cuối cùng một trong

những phương pháp không thể thiếu chính là sự phân tích, đánh giá, tổng hợp
mà tác giả nghiên cứu cần phải tiến hành sau khi đã có đầy đủ các thông tin,
dữ liệu cần thiết.
5. Những nét mới của Luận văn
Đây là một trong những công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu về
đánh giá tác động pháp luật, những vấn đề lí luận và thực tiễn đối với Việt
Nam một cách tương đối toàn diện và có hệ thống.
Luận văn làm rõ khái niệm, nhận diện đúng bản chất về đánh giá tác
động pháp luật trên cơ sở nhìn nhận kinh nghiệm quốc tế và thực tế cách hiểu
ở Việt Nam trong thời gian qua. Bên cạnh đó, Luận văn còn đánh giá một

8


cách toàn diện về thể chế hiện hành đang điều chỉnh đánh giá tác động pháp
luật cũng như thực trạng tổ chức thi hành chế định RIA ở nước ta sau 3 năm
thi hành từ đó đề xuất một số các giải pháp, cơ chế nhằm cải thiện tình hình
thực thi hoạt động đánh giá tác động RIA ở Việt Nam trong thời gian tới
6. Kết quả nghiên cứu và ý nghĩa của Luận văn
Luận văn được thực hiện trong bối cảnh Bộ Tư pháp đang trong quá
trình xây dựng Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hợp nhất và tác
giả cũng đã được tham dự các buổi hội thảo, buổi họp của Tổ biên tập Dự án
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hợp nhất. Theo đó, những phát
hiện, ý kiến của tác giả cũng kịp thời phản ánh, bày tỏ quan điểm cá nhân liên
quan đến chế định đánh giá tác động pháp luật trong quy trình xây dựng, ban
hành văn bản ở Việt Nam. Do đó, việc thực hiện công trình nghiên cứu sẽ góp
phần tích cực, hiệu quả hơn khi công trình đánh giá một cách tổng thể, có hệ
thống, logic về đánh giá tác động pháp luật sẽ là một tài liệu tham khảo quan
trọng cho Tổ biên tập Dự án Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật liên
qua đến chế định RIA.

Các kết quả của luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ việc
nghiên cứu, giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo về luật học và
phần nào có ý nghĩa đối với cán bộ làm công tác thực tiễn trong lĩnh vực
pháp luật để tìm hiểu, vận dụng để xây dựng quy định và thực thi đánh giá
tác động pháp luật.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, danh mục từ viết tắt, danh mục bảng biểu
thì luận văn được kết cầu gồm 3 chương:
Chương 1. Những vấn đề chung về đánh giá tác động pháp luật.
Chương 2. Pháp luật và thực tiễn thi hành các quy định về đánh giá tác
động pháp luật ở Việt Nam.
Chương 3. Một số giải pháp hoàn thiện và nâng cao hiệu quả đánh giá
tác động pháp luật ở Việt Nam.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ĐÁNH GIÁ TÁC ĐỘNG PHÁP LUẬT
1.1. Quan niệm và mục tiêu thực hiện đánh giá tác động pháp luật
1.1.1. Quan niệm về đánh giá tác động pháp luật
Thuật ngữ Regulatory Impact Assessment được dịch sang tiếng Việt là
đánh giá tác động pháp luật hay còn được gọi tắt là RIA, là một khái niệm
được “du nhập” vào Việt Nam, được tiếp thu từ quy trình xây dựng và hoàn
thiện pháp luật của các quốc gia tiên tiến trên thế giới. RIA là một tập hợp các
bước logic hỗ trợ cho việc chuẩn bị các đề xuất chính sách. Nó bao gồm việc
nghiên cứu sâu các hoạt động đi kèm với quá trình xây dựng chính sách và
chính thức hóa các kết quả nghiên cứu bằng một báo cáo độc lập. RIA được
xác định là công cụ chủ yếu cho việc xây dựng chính sách, giúp cho người ra
quyết định có những thông tin chính xác dựa trên những đánh giá khoa học để

có những quyết định đúng.
RIA được áp dụng để đánh giá dự kiến tác động của chính sách, pháp
luật. Theo Tổ chức hợp tác phát triển kinh tế (gọi tắt là OECD) “chính sách,
pháp luật ở đây được hiểu theo một nghĩa rộng nhất, tức là bất kỳ một sự can
thiệp nào của Chính phủ mà có tác động lên cá nhân, cơ quan, tổ chức, một
nhóm người ở khu vực tư nhân hay nhà nước, xã hội nói chung” [26]. RIA
đã được sử dụng như một công cụ hữu hiệu nhằm đảm bảo chất lượng và
tính hiệu quả của môi trường pháp lý. RIA được xem như một phương pháp
đánh giá một cách thống nhất và có hệ thống một số tác động tiềm năng của
một hành động của Chính phủ trên cơ sở so sánh với bối cảnh giả định và
không có hành động đó, đồng thời phổ biến các thông tin cho người ra quyết
định và công chúng.

10


Về bản chất, RIA hướng tới mục đích mở rộng sứ mệnh của các nhà
lập pháp từ chỉ việc tập trung vào giải quyết vấn đề sang việc quyết
định nhằm đảm bảo tính cân bằng trong việc giải quyết vấn đề và
các mục tiêu kinh tế và phân phối lại. RIA được thực hiện khi xem
xét có nên triển khai một đề xuất về thay đổi chính sách hay pháp
luật hay không? [9].
Một đặc điểm quan trọng của RIA là quá trình dự báo và đánh giá một
cách có hệ thống các tác động về kinh tế, chủ yếu các tác động về lợi ích, chi
phí của một đề xuất quyết định chính sách, pháp luật. RIA không thay thế
trình tự, thủ tục ban hành chính sách, luật pháp mà nó góp phần hỗ trợ tích
cực cho quá trình này bằng cách cung cấp các chứng cứ rõ ràng cho cơ quan
soạn thảo lựa chọn phương án tốt nhất, chuẩn bị dự thảo và cơ quan có thẩm
quyền thảo luận và thông qua chính sách, pháp luật. Quá trình RIA phải được
coi là một phần trong quá trình soạn thảo và ban hành chính sách, pháp luật;

quá trình này được khuyến nghị thực hiện từ trước hoặc cùng với việc soạn
thảo và hoàn thiện dự thảo. RIA là một công cụ quan trọng kiểm soát quá
trình rà chính sách, luật. Nó giúp các nhà hoạch định chính sách gạt bỏ được
những chính sách không cần thiết, có hại.
Thực tế thực hiện RIA cho thấy, RIA có thể bị hiểu nhầm với việc đánh
giá tác động chính sách, pháp luật - tức là việc tổng kết, đánh giá thực tế thực
hiện một chính sách, quy định pháp luật sau một thời gian thực hiện. Hoặc
RIA cũng thể bị hiểu lầm rằng khi hoạt động soạn thảo, quy phạm hoá được
thực hiện xong thì mới thực hiện RIA. Chúng tôi cho rằng, RIA và việc đánh
giá thực tế thực hiện chính sách, pháp luật là cơ bản khác nhau ở chỗ RIA là
dự báo những tác động trong tương lai nếu đề xuất chính sách, pháp luật được
thực hiện; còn đánh giá tác động chính sách, pháp luật thông thường là đánh
giá tác động đã xảy ra của chính sách, pháp luật đã được ban hành. Hai quá

11


trình này có quan hệ mật thiết với nhau, “việc đánh giá tác động chính sách,
pháp luật hỗ trợ cho quá trình thực hiện RIA bằng việc cung cấp các thông tin
cần thiết cho RIA”.[26]
Như vậy, đánh giá tác động pháp luật là quá trình đánh giá các tác
động của một quy định, chính sách và các phương án thay thế cho các quy
định đang có hoặc chưa có. Đánh giá này được thể hiện trong báo cáo đánh
giá tác động pháp luật và báo cáo này là một công cụ hỗ trợ giúp đưa ra
quyết định tốt nhất trên cơ sở những thông tin, bằng chứng khoa học. Tuy
nhiên, ở Việt Nam hiện nay chưa có sự tách bạch khâu xây dựng chính sách
và quy phạm hóa chính sách nên khi công cụ đánh giá tác động pháp luật
này được du nhập vào Việt Nam nó được đưa vào quy trình xây dựng pháp
luật và được thực hiện chủ yếu sau khi chính sách đã được quyết định phê
duyệt và bước đầu hoạt động phân tích đánh giá chính sách được đề cập đến

trong báo cáo đánh giá tác động sơ bộ của chính sách trong quá trình đề xuất
chính sách. “Công cụ đánh giá tác động pháp luật cũng được luật hóa trong
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2008 và thường với cụm từ đánh
giá tác động dự thảo văn bản” [47] điều này rất dễ gây nhầm lẫn về cách
hiểu, tổ chức thực hiện trong thực tiễn với cách hiểu có dự thảo văn bản
xong thì mới thực hiện việc đánh giá tác động. Do đó, việc nhìn nhận đúng
bản chất của hoạt động đánh giá dự báo tác động RIA sẽ giúp cho các nhà
hoạch định chính sách và người dân có cách nhìn đúng đắn hơn về RIA
trong hoạt động xây dựng, ban hành chính sách.
1.1.2. Mục tiêu thực hiện đánh giá tác động pháp luật
“Đánh giá tác động pháp luật với tư cách là một công cụ hỗ trợ quá
trình ra quyết định dựa trên những bằng chứng sẽ giúp quá trình ra quyết sách
tốt hơn nhằm đảm bảo các quy định đạt được mục tiêu đề ra một cách hiệu
quả” [1]. “Do đó, mục tiêu của công cụ đánh giá tác động pháp luật nhằm
hướng tới đảm bảo các văn bản pháp luật có chất lượng cao hơn” [9].

12


Việc sử dụng công cụ đánh giá tác động pháp luật ở các nước phương
tây đặt ra với mục đích chính là kiểm soát quá trình ra chính sách thông qua
công cụ RIA nhằm hướng tới gạt bỏ những chính sách không hiệu quả. “Ví
dụ, ở Hoa Kỳ mỗi năm, gần chục ngàn dự án luật được các nghị sỹ đệ trình
trước Lưỡng viện Quốc hội. Tuy nhiên, số dự án luật được chính thức thông
qua chỉ vào khoảng 125-400. Ví dụ, năm 2009, trong số hơn 9000 dự án luật
được đệ trình, chỉ có 125 dự án luật được chính thức ký bởi Tổng thống để trở
thành luật” [39]. Điều đó hàm ý rằng, để một dự án luật được sống sót, các lý
do để ngăn chặn sự thông qua của dự án luật, dù là lý do chính trị hay lý do kỹ
thuật (như dự luật kém chất lượng, không khả thi v.v.) thường phải được vượt
qua. Nói cách khác, để một dự luật được thông qua một cách thành công, sự

đầu tư của chủ thể bảo trợ và ủng hộ dự án luật phải rất lớn và công phu,
trong đó có sự đầu tư cho việc lý giải về tính cấp thiết của việc ban hành đạo
luật, đánh giá những tác động và ích lợi của dự án luật khi thông qua mang lại
cho quốc gia... Điều này cũng lý giải vì sao quy trình xây dựng, ban hành
chính sách của các nước thường có tên là quy trình kiểm soát. Bởi để thông
qua một chính sách thì nó phải trải qua rất nhiều thủ tục, công đoạn và một
trong những công cụ giúp kiểm soát được quy trình đó chính là RIA.
Trên thực tế, những dự án luật do phía hành pháp chuẩn bị, thường có
tỷ lệ thông qua khá cao. “Tùy sự đầu tư và kỹ năng xây dựng ưu tiên lập pháp
của các đời tổng thống mà tỷ lệ dự án luật phía hành pháp sáng kiến, bảo trợ
có thể khác nhau, nhưng thông thường, những năm đầu tiên của mỗi nhiệm kỳ
tổng thống, tỷ lệ thông qua này có thể lên tới trên 80% (những năm sau đó, có
khi tỷ lệ chỉ đạt khoảng trên 40%)”[39]. Do đó, có thể khẳng định mục tiêu
của hoạt động đánh giá tác động chính sách, pháp luật để loại bỏ những đề
xuất không cần thiết, có hại ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Như vậy, đánh giá tác động pháp luật được các nước sử dụng như một

13


công cụ để kiểm soát, hạn chế ban hành các văn bản không cần thiết, gây hại
cho xã hội. Từ đó chúng ta cũng phải nhìn nhận lại các quy định trong Luật
Ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện với ý nghĩa là tạo điều kiện cho
việc xây dựng, ban hành ra chính sách hay là Luật để cản trở, hạn chế ra chính
sách. Chúng tôi cho rằng, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi xây
dựng quy trình với các công cụ khác nhau, trong đó có RIA là các bước, công
cụ kiểm soát, hạn chế việc ban hành ra các chính sách không cần thiết, tránh
trường hợp như rừng luật như hiện nay.
1.2. Kinh nghiệm một số nước trong đánh giá tác động pháp luật và
bài học rút ra

1.2.1. Thời điểm thực hiện việc đánh giá tác động pháp luật
Theo kinh nghiệm của các nước OECD, RIA phải được thực hiện càng
sớm càng tốt và được thực hiện trước khi bắt tay vào việc quy phạm hóa
chính sách, viết dự thảo quy định. Trong sổ tay hướng dẫn thực hiện đánh giá
tác động hướng dẫn các cán bộ làm chính sách ở Việt Nam cũng khẳng định
RIA phải được thực hiê ̣n sớm ngay trong giai đoạn đầu của quy trình hoạch
định chính sách, trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định có cần can thiệp
hay không và cần can thiệp như thế nào. “Không nên thực hiện RIA sau khi
đã hoàn thành viê ̣c soa ̣n thảo văn bản , vì như thế những phân tích trong RIA
chỉ là đánh giá phương án đã được lựa chọn rồi , chứ không phải là đánh giá ,
so sánh các phương án khác nhau nhằm tìm ra một giải pháp tố i ưu”. [4]
Thực tiễn hoạt động xây dựng pháp luật trước năm 2008 thì đánh giá
tác động pháp luật cũng bước đầu được thực hiện thông qua việc tổng kết
đánh giá thi hành luật để xác định những khó khăn, vướng mắc để từ đó đề
xuất các giải pháp. Hay trong các Tờ trình thuyết minh về sự cần thiết, Báo
cáo về những định hướng lớn của các đơn vị xây dựng pháp luật xin ý kiến
Ban soạn thảo, xin ý kiến Chính phủ trong quá trình xây dựng pháp luật... Tuy

14


nhiên, những văn bản này thường thuần tuý mang tính pháp lý khi chỉ nhận
diện, phân tích đưa ra các lỗi từ hệ thống pháp luật như tính thống nhất, sự
trùng chéo, mâu thuẫn về pháp luật mà không có sự đánh giá một cách toàn
diện, không có các đánh giá về chi phí và lợi ích. Bên cạnh đó, với quy trình
làm xây dựng pháp luật trong thời gian qua mang tính thời hạn và chỉ tiêu dẫn
đến những báo cáo này chỉ xuất hiện khi chính sách đó được thông qua.
Bên cạnh đó, kinh nghiệm các nước trong việc lập chương trình, kế
hoạch ban hành chính sách cũng khẳng định việc này phải được thực hiện
sớm và chỉ có giá trị trong thời gian ngắn. Điều này thể hiện trong việc quy

định khoảng thời gian của kế hoạch, chương trình xây dựng chính sách của
các nước. Đối với Canada thì kế hoạch xây dựng chi tiết của Bộ được đưa
lên website và Báo cáo một năm về kế hoạch và ưu tiên (RPP) trình Quốc
hội cho từng Bộ, cơ quan. Đối với Hoa kỳ tóm tắt RIA được đăng tải sớm 2
lần trong 1 năm trên Website của Chính phủ trong chương trình lập quy
liên bang hợp nhất. Chương trình tóm tắt của quy định từng cơ quan liên
bang dự kiến ban hành trong vòng 6 tháng tới. Đối với Uỷ ban châu âu
(EC), RIA được đưa vào chương trình và kế hoạch chiến lược hàng năm
của Uỷ ban EC. “Việc lập kế hoạch sớm này là điều kiện nâng cao chất
lượng đánh giá tác động”[16]. Điều đặc biệt, quy trình đề xuất chính sách
của các nước này là hoạt động thường xuyên. Bất kỳ chủ thể nào có quyền
đề xuất chính sách đều có quyền đề xuất chính sách đó vào chương trình
xây dựng của nước đó vào bất kỳ thời gian nào trong năm. Tuy nhiên, việc
chính sách đó có được ghi tên vào chương trình hay không phụ thuộc vào
các tài liệu đi kèm, trong đó báo cáo RIA được xem như một tài liệu quan
trọng để cơ quan kiểm soát, đánh giá xem đề xuất chính sách đó có được
trình lên cơ quan, người có thẩm quyền quyết định phê duyệt chính sách.
Đối với các đề xuất đã được ghi tên nhưng trong quá trình nghiên cứu, xây
dựng chính sách cơ quan đề xuất cũng có quyền rút chính sách đó.
15


Từ thực tiễn kinh nghiệm thế giới về lập chương trình, kế hoạch chính
sách chúng ta có thể thấy việc lập chương trình, dự kiến kế hoạch ban hành
chính sách được thực hiện sớm nhưng khoảng cách từ khi đề xuất đến khi xây
dựng chính sách là rất ngắn. Điều đó thể hiện việc nghiên cứu, đánh giá, rà
soát các chính sách được xem như hoạt động thường xuyên không phải chỉ
khi đề xuất chính sách đó được thông qua thì cơ quan đề xuất mới bắt bắt vào
việc tổng kết, nghiên cứu, đánh giá thực tiễn. Trên cơ sở đó, chúng tôi cho
rằng, Việt Nam cần có sự nghiên cứu điều chỉnh các quy định về lập Chương

trình xây dựng pháp luật theo khóa, theo năm như hiện nay.
1.2.2. Phạm vi chính sách phải thực hiện đánh giá tác động, mức độ
và nội dung đánh giá
Theo kinh nghiệm của Australia thì việc thực hiện RIA không chia theo
loại văn bản mà chia theo nội dung chính sách tác động. Theo đó, báo cáo
RIA được yêu cầu thực hiện với tất cả các đề xuất có thể gây tác động thể chế
cho doanh nghiệp, người dân khối phi lợi nhuận, trừ khi tác động tạo ra không
đáng kể hoặc tác động có tính chất máy móc. Cơ quan chịu trách nhiệm đề
xuất chính sách sẽ liên hệ với cơ quan kiểm soát, đánh giá chất lượng của các
đề xuất (gọi tắt là OBPR) kèm theo đánh giá RIA sơ bộ. OBPR sẽ quyết định
việc cần thiết phải thực hiện báo cáo RIA hay không.
Ở Anh, RIA được áp dụng đối với các luật, quy định hướng dẫn thi
hành mà có tác động không thể bỏ qua đối với doanh nghiệp, doanh nghiệp
phi lợi nhuận và lĩnh vực tình nguyện. “Đối với các quy định chỉ có tác động
lên khu vực nhà nước thì chỉ áp dụng đánh giá hiệu ứng chính sách PEF
(policy effects framework)” [17]. Ở Hoa kỳ yêu cầu thực hiện RIA đầy đủ đối
với tất cả các trường hợp sẽ tạo ra tổng chi phí tuân thủ hàng năm lớn hơn 100
triệu USD hoặc tăng đáng kể chi phí tuân thủ cho một ngành, khu vực hoặc có
tác động xấu đến cạnh tranh, việc làm, đầu tư, hiệu quả sản xuất và sáng tạo

16


khoa học. Ở Hà Lan áp dụng phân tích tác động đối với hoạt động kinh
doanh, đặt trọng tâm vào đánh giá các tác động phát sinh từ lĩnh vực kinh
doanh; Cộng hòa Séc áp dụng phân tích các tác động tài chính và tác động đối
với nền kinh tế, sau đó mở rộng ra các lĩnh vực kinh tế - xã hội; ở Pháp áp
dụng phương pháp đánh giá tiền kiểm (ex-ante) để tính toán chi phí pháp lý
phát sinh đối với doanh nghiệp và khu vực hành chính công. Đối với Cộng
hòa Áo, Bồ Đào Nha áp dụng phân tích ngân quỹ, phương pháp này đặt trọng

tâm vào chi phí ngân sách trực tiếp phát sinh đối với các cơ quan nhà nước;
Đối với Phần Lan áp dụng phương pháp phân tích bộ phận trên một quy mô
rộng bao gồm ngân sách, kinh tế, tổ chức bộ máy, nguồn nhân lực, môi
trường, xã hội, y tế, chính sách vùng và bình đẳng giới; “Ở nước Bỉ chỉ thực
hiện đánh giá tác động về rủi ro đối với các văn bản pháp luật liên quan đến y
tế, an toàn và môi trường” [20].
Theo kinh nghiệm một số nước lớn của OECD như Cộng hòa Sec,
Mexico, Canada, Đan Mạch, Newzelan, Đức, Vương quốc Anh...
việc thực hiện RIA trên cơ sở toàn diện phân tích kinh tế đầy đủ. Một
số nghiên cứu chỉ ra rằng, ở các nước đang phát triển, hầu hết các
văn bản pháp luật được xem xét thông qua đánh giá tác động về mặt
kinh tế và ít liên quan đến các tác động về môi trường, xã hội [21].
Từ những thông tin chúng ta có thể thấy các chính sách phải thực
hiện đánh giá tác động RIA nếu chính sách đó thuộc một trong
những tiêu chí sau [26]:
- Có những tác động lớn và xấu đến năng lực cạnh tranh quốc gia.
- Có những tác động lớn và xấu đến các nhóm đối tượng không
được tham gia, hưởng các lợi ích xã hội hoặc dễ bị tổn thương.
- Có tác động lớn đến việc hủy hoại về môi trường.
- Có liên quan đến thay đổi đáng kể về các chính sách liên quan đến
kinh tế thị trường, cạnh tranh hoặc người tiêu dùng.
17


- Có ảnh hưởng đến quyền của công dân.
- Tạo ra chi phí tuân thủ lớn.
- Tạo ra chi phí lớn cho Chính phủ hoặc bên thứ ba, hoặc cho một
nhóm đối tượng hoặc một ngành, lĩnh vực. Chi phí tuân thủ ban đầu
là 10 triệu Euro hoặc tổng chi phí tuân thủ trong 10 năm là 50 triệu
Euro (bao gồm chi phí tuân thủ cho cả Chính phủ và doanh nghiệp,

người tiêu dùng, v.v..) thì được coi là lớn.
Như vậy, kinh nghiệm các nước cho thấy khi mới bắt đầu áp dụng RIA
không áp dụng RIA một cách đại trà, rộng rãi, mà phải xác định phạm vi ưu
tiên áp dụng và khuyến khích áp dụng RIA trong các trường hợp khác. Về cơ
bản, RIA chỉ bắt buộc áp dụng đối với chính sách, quy định có tác động đến
doanh nghiệp. Qua kinh nghiệm các nước cũng cho thấy, yêu cầu bắt buộc
tuân thủ RIA không phải dựa vào hình thức văn bản chứa đựng chính sách mà
là nội dung của chính sách sẽ tác động đến ai, có ảnh hưởng đến quyền của
người dân và tạo ra chi phí tuân thủ lớn. Nội dung thực hiện đánh giá cũng
theo các tiêu chí khác nhau, có nước chính sách phải đánh giá với nhiều nội
dung, có nước chỉ sử dụng một đến hai tiêu chí để đánh giá nhưng về cơ bản
đều có tiêu chí đó là tiêu chí đánh giá chi phí và lợi ích nếu chính sách đó
được thông qua.
1.2.3. Cơ chế kiểm soát, giám sát việc thực hiện đánh giá tác động
pháp luật
Theo kinh nghiệm của Australia việc kiểm soát, giám sát và đánh giá
chất lượng báo cáo RIA được giao cho một cơ quan thống nhất. Cơ quan này
có tên là OBPR. OBPR là cơ quan trực thuộc Bộ Tài Chính. Lý giải về việc
tại sao cơ quan kiểm soát RIA chung lại thuộc Bộ Tài chính, GS.Adrian
Chippindale cho rằng, “Bộ tài chính là một trong những Bộ có quyền lực
nhất ở Australia.Bộ Tài chính là cơ quan sẽ đảm bảo về mặt tài chính cho

18


×