Tải bản đầy đủ (.doc) (37 trang)

Cau hoi on tap mon duong loi cong san chuong 4.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.77 KB, 37 trang )

CÂU 1: CÔNG NGHIỆP HÓA TRƯỚC ĐỔI MỚI
*, ĐĂC ĐIỂM CƠ BẢN:
1. Chủ trương của Đảng
a. Mục tiêu và phương hướng của công nghiệp hóa XHCN
- Được hình thành từ Đại hội III của Đảng(tháng 9/1960).
- 25 năm tiến hành CNH qua 2 giai đoạn:
+ 1960-1975 : ở miền Bắc
• Từ 1 nền kinh tế lạc hậu tiến thăng lên CNXH
• Đảng khẳng định tính tất yếu của CNH đối với công cuộc xây dựng CNXH ở nước
ta
• Đại hội cũng chi rõ, để thực hiện được mục tiêu trên thì vấn đề quan trọng có tính
chất quyết định là thực hiện trang bị kỹ thuật cho toàn bộ nền kinh tế quốc dân, thực
hiện cơ giới hóa sản xuất, từ đó nâng cao năng suất lao động.
• Công nghiệp hóa XHCN là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH
ở nước ta.
• Mục tiêu cơ bản: xây dựng một nền kinh tế XHCN cân đối và hiện đại; bước đầu
xây dựng cơ sở vật chất và kỹ thuật của CNXH
• Phương hướng chỉ đạo xây dựng và phát triển Công nghiệp (Hội nghị TW lần thứ
7(khóa III))
* Ưu tiên phát triển công nghiêp nặng 1 cách hợp lý
* kết hợp chặt chẽ phát triển CN với NN
* Ra sức phát triển Công nghiệp nhẹ song song với việc ưu tiên phát triển Công
nghiệp nặng
* Ra sức phát triển công nghiệp TW, đồng thời đẩy mạng phát triển Công
nghiệp địa phương.
+ 1975-1885: trên phạm vi cả nước
• Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước độc lập, thống nhất và quá độ lên
CNXH
• Đại hội IV của Đảng(12/1976) “Đẩy mạnh Công nghiệp hóa XHCN, xây dựng cơ sở
vật chất – kỹ thuật của CNXH, đưa nền kinh tế nước ta từ sản xuất nhỏ lên sản xuất
lớn XHCN. Ưu tiên phát triển công nghiêp nặng 1 cách hợp lý trên cở sở phát triển


công nghiệp nhẹ, kết hợp xây dựng công nghiệp và nông nghiệp cả nước thành một
cơ cấu kinh tế công-nông nghiệp; vừa xây dựng kinh tế TW vừa phát triển kinh tế
địa phương, kết hợp kinh tế TW với địa phương thành một cơ cấu kinh tế thống
nhất.”
 nhất trí với nhưng nhận thức cơ bản về CN hóa ở miền Bắc trước đây đồng thời
có chỉ đạo thêm.
• Sau khi thực hiện Công nghiệp hóa 5 năm(1976-1981)
1
 từ 1 nền sản xuất nhỏ đi lên, điểu quan trọng là phải xác định đúng bước đi của
CN hóa cho phù hợp với mục tiêu và khả năng của mỗi chặng đường.
• Đại hội lần thứ V( tháng 3/1982) khằng định
* lấy nông nghiệp làm mặt trận hàng đầu
* phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng
* xây dựng và phát triển công nghiệp nặng cần làm có mức độ, vừa sức
 nội dung chính của CN hóa trong chặng đường trước mắt.
b. Đặc trưng
• CN hóa theo mô hình nền kinh tế khép kín, hướng nội và thiên về phát triển công
nghiệp nặng
• CN hóa chủ yếu dựa vào lợi thế về lao động, tài nguyên, đất đai và nguồn viện trợ
của các nước XHCN; chủ lực thực hiện CN hóa là NN và các doanh nghiệp NN; vệc
phân bổ nguồn nhân lực để CN hóa được thực hiện thông qua cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu, bao cấp không tôn trọng các quy luật của thị trường.
• Nóng vội, giản đơn, chủ quan duy ý chí, ham làm nhanh làm lớn, không quan tâm
đến hiệu quả kinh tế xã hội.
2) kết quả và ý nghĩa:
- Công nghiệp:
+ Số xí nghiệp tăng lên 16,5 lần so với năm 1955
+ nhiều khu công nghiệp lớn đã hình thành,
 có nhiều cơ sở đầu tiên của các ngành công nghiệp nặng quan trọng như điện than, cơ
khí, luyện kim….

- Giáo dục: Có hàng chục trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, dạy nghề
đào tạo được đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật xấp xỉ 43 vạn người, tăng 19 lần so với năm
1960
 có ý nghĩa hết sức quan trọng, tạo cơ sở ban đầu để nước ta phát triển nhanh hơn trong
các giai đoạn tiếp theo
CÂU 2:HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN:
- Hạn chế
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật hết sức lạc hậu. Những ngành công nghiệp then chốt còn hết sức
nhỏ bé và chưa được xây dựng đồng bộ, chưa đủ sức làm nền tảng vững chắc cho nền kinh
tế quốc dân.
+ Lực lượng sản xuất trong nông nghiệp chỉ mới bước đầu phát triển, NN chưa đáp ứng
được nhu cầu về lương thực, thực phẩm cho xã hội. Đất nước vẫn còn trong tình trạng
nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, rơi vào khủng hoảng kinh tế- xã hội.
2
- Nguyên nhân:
+ khách quan: tiến hành công nghiệp hóa từ một nền kinh tế lạc hậu, nghèo nàn và trong
điều kiện chiến tranh kéo dài, vừa bị tàn phá nặng nề, vừa không thể tập trung sức người,
sức của cho công nghiệp hóa.
+ chủ quan: chúng ta đã mắc những sai lầm nghiêm trọng trong việc xác định mục tiêu,
bước đi về cơ sở vật chất, kỹ thuật, bố trí cơ cấu sản xuất, cơ cấu đầu tư,..v..v
 Đó là những sai lầm xuất phát từ chủ quan duy ý chí
CÂU 3: .MỤC TIÊU, Ý NGHĨA CÔNG NGHIỆP HÓA HIỆN ĐẠI HÓA
3.1. Mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Là cải biến nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, có cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, ph hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất, mức sống vật chất v tinh thần cao, quốc phịng - an ninh vững chắc, dn giu, nước
mạnh, x hội cơng bằng, văn minh.
- Để thực hiện mục tiêu trên, ở mỗi thời kỳ phải đạt được những mục tiêu cụ thể. Đại hội X
xác định mục tiêu đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức để sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng km pht triển, tạo nền tảng đến năm 2020 đưa nước ta cơ bản trở

thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
3.2. Ý nghĩa công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Một l, Công nghiệp hóa gắn với hiện đại hóa và công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức.
Từ thế kỷ XVII, XVIII, các nước Tây Âu đ tiến hnh cơng nghiệp hĩa.
Gọi l CNH TBCN bởi vì nĩ diễn ra ở cc nước Tư bản (Anh, Pháp...), hay cịn gọi đây là
cuộc cách mạng công nghệ lần thứ nhất.
- Cơng nghiệp nhĩa là quá trình biến một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công
nghiệp, nhưng cái cốt li nhất của cơng nghiệp hĩa l qu trình chuyển lao động thủ công sang
lao động sử dụng máy móc: quá trình cơ khí hóa nền kinh tế (thay đổi LLSX kéo theo thay
đổi QHSX và các mặt khác).
- Hiện đại hóa xuất hiện giữa thế kỷ XX trở lại đây, gắn với cuộc cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại. Hiện đại hóa theo nghĩa đơn giản là quá trình nng cấp, thay đổi kỹ
thuật từ trình độ thấp lên trình độ cao.
- Nước ta thực hiện CNH, HĐH khi nền kinh tế tri thức đ pht triển.
"Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai
trị quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc
sống"
Trong nền kinh tế tri thức, những nền kinh tế có tác động to lớn tới sự phá triển là
những ngành dựa vào tri thức, dựa vào các thành tựu mới của khoa học, công nghệ (công
nghệ thông tin, công nghệ sinh học, cả những ngành kinh tế truyền thống như nông nghiệp,
3
công nghiệp, dịch vụ được ứng dụng khoa học công nghệ cao)
- Đại hội X chỉ r: đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Hai l, cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế thị trường định hướng
XHCN và hội nhập kinh tế quốc tế.
- Khác với CNH ở thời kỳ trước đổi mới, được tiến hành trong nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, lực lượng làm CNh chỉ có Nhà nước,theo kế hoạch của Nhà nước thông qua các
chỉ tiêu pháp lệnh.

- Thời kỳ đổi mới CHH, HĐH tiến hành trong nền KTTT ĐH XHCN, nhiều thành phần.
Do đó CNH, HĐH không chỉ là việc của Nhà nước mà là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước là chủ đạo.
Thời kỳ trước đổi mới phân bố nguồn lực để CNh được thực hiện bằng cơ chế kế hoạch
hóa tập trung của Nhà nước. Thời kỳ đổi mới thì vic phn bố nguồn lực chủ yếu bằng cơ chế
thị trường.
+ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế
- Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế ở nước ta hiện nay diễn ra trong bối cảnh toàn
cầu hóa kinh tế -> đây là xu hướng kháchquan tất yếu -> phải hội nhập và mở rộng quan hệ
kinh tế quốc tế.
- Hội nhập KT quốc tế, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm: thu hút vố đầu tư nước
ngoài, thu hút công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý tin tiến của Thế giới ->
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng km ph triển.
- Hội nhập kinh tế quốc tế cịn nhằm khai thc thị trường Thế giới để tiêu thụ những sản
phẩm mà nước ta có nhiều lợi thế, có sức cạnh tranh cao.
Ba là, lấy phát huy nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững
- Để tăng trưởng kinh tế cần 5 yếu tố chủ yếu: vốn, khoa học công nghệ, con người, thể chế
chính trị v quản lý nh nước, cơ cấu kinh tế thì yếu tố con người là yếu tố quyết định.
Con người là quan trọng nhất vì con người có khả năng sáng tạo ra các nhân tố khác, và sử
dụng các nhân tố đó.
- Muốn công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì phải đầy tư nhân tố con người => coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu
Phải tạo ra nguồn lực phù hợp, phải đông đảo và đồng bộ.
Bốn là, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Khoa học cơng nghệ cĩ vai trị quyết định đến tăng năng suất lao động, giảm chi phí sản
xuất, nâng cao lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế nói chung.
- Muốn đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH gắn với phát triển Kinh tế tri thức thì pht triển
khoa học cơng nghệ l yếu cầu tất yếu v bức xc.
Phải đẩy mạnh việc chọn lọc nhập công nghệ, mua sáng chế kết hợp với phát triển công

4
nghệ nội sinh để nhanh chóng đổi mới và nâng cao trình độ công nghệ (công nghệ thông
tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới).
Năm là, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện
tiến bộ và công bằng x hội, bảo vệ mơi trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
- Xây dựng CNXH ở nước ta thực chất là nhằm mục tiêu dân giàu, nước mạnh, x hội cơng
bằng, dn chủ, văn minh. Để thực hiện được điều đó, trước hết kinh tế phải phát triển nhanh,
hiệu quả và bền vững.
- Sự phát triển nhanh, hiệu quả, bền vững có quan hệ chặt chẽ với việc bảo vệ môi trường
tự nhiên và bảo tồn đa dạng sinh học.
Câu 4: tại sao vn phải công nghiệp hóa_hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri
thức
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học -
công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và
phương thức họat động.
- Kinh tế tri thức: Có nhiều định nghĩa khác nhau nhưng có định nghĩa của của tổ chức hợp
tác và phát triển kinh tế đưa ra năm 1995:
Nền kinh tế tri thức là nên kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ
vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng
cuộc sống.
+ Định nghĩa trên được hiểu là: Kinh tế tri thức là trình độ phát triển cao của lực lượng sản
xuất xã hội…
+ Trong nền kinh tế tri thức, những ngành kinh tế có tác động to lớn tới sự phát triển là
những ngành dựa vào tri thức, dựa vào những thành tựu mới của khoa học, công nghệ…
+ Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị do tri thức
tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo ( khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành nào đó. Một
nền kinh tế được coi là là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm các ngành
kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
5

- Trong nền kinh tế tri thức, tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất,
là nguồn lực quan trọng hàng đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những
biến đổi sâu sắc, nhanh chóng; trong đó các các ngành kinh tế dựa vào tri thức, dựa vào các
thành tựu mới nhất của khoa học và công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số.
- Trong nền kinh tế tri thức, công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh
vực và thiết lập được các mạng thông tin đa phương diện được phủ khắp nước, nối với hầu
hết các tổ chức, các gia đình. Thông tin trở thành tài nguyên quan trọng nhất của nền kinh
tế.
- Trong nền kinh tế tri thức, nhuồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo,
đổi mới, học tập trở thành yêu cầu thường xuyên đối với mọi người và phát triển cong
người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
- Trong nền kinh tế tri thức, mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh
tế, có tác động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi
quốc gia và trên toàn thế giới.
* Yêu cầu đối với Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
- Nhất thiết phải tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn
những thành tựu công nghệ hiện đại và tri thức mới;
- Kết hợp quá trình phát tuần tự với đi tắt đón đầu.
- CNH, HĐH gắn với kinh tế trí thức
- Kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức của Việt Nam với tri thức mới nhất của nhân
loại
- Từng bước phát triển kinh tế tri thức, để vừa phát triển kinh tế - xã hội nhanh bền vững
vừa rút ngắn được khoảng cách với các nước trong khu vực và trên thế giới.
Câu 5 : những hiểu biết của bạn vể cơ chế bao cấp
6
thời bao cấp là tên gọi được sử dụng tại Việt Nam để chỉ một giai đoạn mà hầu hết sinh
hoạt kinh tế diễn ra dưới nền kinh tế kế hoạch hóa, một đặc điểm của nền kinh tế theo chủ
nghĩa cộng sản. Hàng hóa được nhà nước phân phối theo chế độ tem phiếu, hàng hóa
không được mua bán tự do trên thị trường, không được phép vận chuyển tự do hàng hoá từ

địa phương này sang địa phương khác. Phân phối hàng hóa, hạn chế trao đổi bằng tiền mặt.
Chế độ hộ khẩu được thiết lập trong thời kỳ này để phân phối lương thực, thực phẩm theo
đầu người. Lương đôi khi cũng được trả bằng hiện vật.
Mặc dù chế độ bao cấp đã tồn tại ở miền Bắc từ trước năm 1975, song thời kỳ bao cấp
thường được dùng để chỉ sinh hoạt kinh tế cả nước Việt Nam ở giai đoạn từ đầu năm 1976
đến cuối năm 1986, tức là trước thời kỳ Đổi mới. Đây được coi như một giai đoạn thất bại
và tù đọng nhất của nền kinh tế Việt Nam trong thế kỷ 20.
CÂU 6: SỰ ĐỔI MỚI TƯ DUY CỦA ĐẢNG TỪ ĐẠI HỘI 9 ĐẾN ĐẠI HỘI 10
Bước ngoặt trong đổi mới tư duy kinh tế của Đảng là chúng ta chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Thành tựu nổi bật nhất trong bước khởi đầu đổi mới tư duy kinh tế là phát triển nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà
nước. Quan điểm về mô hình nền kinh tế trong thời kỳ quá độ đã thay đổi căn bản và đến
nay đã được xác lập, đó là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ có
hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể mà tồn tại nhiều thành phần kinh tế khác
nhau. Qua quá trình phát triển nhận thức, cũng như tư duy lý luận về các thành phần kinh
tế ngày một hoàn chỉnh, đến Đại hội X của Đảng, nền kinh tế nước ta được xác lập gồm 5
thành phần kinh tế: Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư
hữu tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài(*). Sự đổi mới
tư duy kinh tế của Đảng không chỉ dừng lại ở việc xác định số lượng các thành phần kinh
tế tồn tại trong nền kinh tế, mà còn xác lập đúng vị trí, vai trò của từng thành phần kinh tế
trong nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, sự đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về các thành
phần kinh tế có tầm quan trọng đặc biệt, nó tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá nhân, tổ
chức trong toàn xã hội phát huy mọi tiềm năng, sáng tạo, tạo ra sức mạnh to lớn cho sự
nghiệp phát triển kinh tế, xã hội của đất nước, đồng thời nó là động lực to lớn cho chúng ta
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới tư duy kinh tế về
phát triển nền kinh tế nhiều thành phần còn góp phần quan trọng trong việc hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thông qua tính dân chủ trong hoạt động kinh tế, mọi cá
7
nhân đều có quyền tổ chức hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách bình đẳng theo pháp

luật.
Qua hơn 25 năm đổi mới, tư duy về kinh tế thị trường của Đảng ta ngày càng hoàn thiện
hơn. Nếu ở Đại hội VI, Đảng ta mới khẳng định sự cần thiết phải sử dụng quan hệ hàng
hóa - tiền tệ dưới chủ nghĩa xã hội thì đến Đại hội VII và Đại hội VIII Đảng đã khẳng định
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội
IX tiếp tục đánh dấu thêm một bước phát triển mới trong đổi mới tư duy lý luận kinh tế của
Đảng, đã xác định: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô
hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đại hội X
làm sáng tỏ thêm nội dung cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, đó là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường, nâng
cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự
vận hành các loại hình thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh, phát triển
mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức sản xuất, kinh doanh. Nền kinh tế
không chỉ độc tôn bàn tay kế hoạch của Nhà nước, mà phải được vận hành bởi hai bàn tay:
thị trường và Nhà nước. Thực hiện cơ chế thị trường đã khuyến khích sự làm giàu hợp
pháp, tháo gỡ sự kìm hãm sản xuất và lưu thông. Cơ chế thị trường cũng đã góp phần phát
huy lợi thế so sánh giữa các vùng, các khu vực trong nước, giữa thành thị và nông thôn,
góp phần vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng có lợi, cải thiện đời sống nhân dân.
Sự phá bỏ độc quyền, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế, các doanh nghiệp phát huy tính năng động, sáng tạo trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Quá trình đổi mới tư duy về hội nhập kinh tế quốc tế thật sự bắt đầu cùng với sự nghiệp đổi
mới được Đại hội VI của Đảng khởi xướng. Đến Đại hội VII, chủ trương hội nhập kinh tế
quốc tế được khẳng định là chủ trương lớn, chủ đạo của đường lối đổi mới của nước ta. Đại
đội IX của Đảng đã khẳng định chủ trương: Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ
nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh có hiệu quả
và bền vững. Đổi mới tư duy kinh tế của Đảng về hội nhập kinh tế quốc tế đã đem lại thành
tựu to lớn cho đất nước. Đến nay Việt Nam đã có quan hệ hợp tác với nhiều tổ chức kinh
tế, tiền tệ thế giới như Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng
phát triển châu Á (ADB); gia nhập Hiệp hội các nước Đông - Nam Á (ASEAN) năm 1995

và Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) năm 1996; tham gia sáng lập diễn đàn hợp
tác Á - Âu (ASEM) năm 1996; gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình
Dương (APEC) năm 1998 và đặc biệt năm 2007 trở thành thành viên chính thức của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Việt Nam đã đẩy lùi được chính sách bao vây, cô lập về
chính trị, cấm vận về kinh tế của các thế lực thù địch. Hiện chúng ta đã có quan hệ thương
mại với hơn 170 nước và vùng lãnh thổ, đã ký hiệp định thương mại với gần 100 quốc gia
và có thỏa thuận về đối xử tối huệ quốc với 81 quốc gia và vùng lãnh thổ. Hầu hết các
8
nước trên thế giới, kể cả những nước đã từng là thù địch chống nước ta, đều coi Việt Nam
là đối tác tin cậy, là thị trường giàu tiềm năng và ổn định, là nơi đầu tư hết sức lý tưởng
cho các nhà đầu tư nước ngoài, không ít quốc gia lớn, có tiềm lực kinh tế xem Việt Nam là
đối tác kinh tế chiến lược. Những thành tựu đạt được trong đổi mới tư duy kinh tế của
Đảng trong thời gian qua là hết sức to lớn, có thể ví như một cuộc cách mạng thật sự về
kinh tế đối với nước ta. Tuy nhiên, đó mới chỉ là những thành tựu bước đầu, để đạt được
mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” việc tiếp tục đổi
mới mạnh mẽ tư duy lý luận về kinh tế của Đảng đang là đòi hỏi khách quan với các yếu tố
cơ bản sau:
Một là, sự phát triển của nền kinh tế tri thức. Đặc trưng của nền kinh tế tri thức là sử dụng
có hiệu quả tri thức và những sáng tạo mới của con người để đẩy nhanh tốc độ đổi mới sản
phẩm và công nghệ. Dưới quan điểm về kinh tế phát triển, kinh tế tri thức là kinh tế trong
đó sản sinh ra, truyền bá và sử dụng tri thức, là động lực chủ yếu nhất của tăng trưởng, tạo
ra của cải, việc làm trong tất cả các ngành kinh tế và là nền kinh tế mở ra khả năng phát
triển bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nền kinh tế tri thức là điều kiện thuận lợi,
là phương tiện để các quốc gia tăng tốc phát triển kinh tế. Sự xuất hiện của nền kinh tế tri
thức, một mặt tạo cơ hội cho chúng ta tiếp cận những thành tựu của nhân loại, mặt khác nó
buộc chúng ta phải đổi mới tư duy trong ban hành và tổ chức thực hiện chính sách kinh
tế.
Hai là, toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế. Toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế là
điều kiện hết sức thuận lợi để các quốc gia đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đồng thời
cũng tạo nên những thách thức không nhỏ đối với các quốc gia. Toàn cầu hóa tạo điều kiện

giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia, trên cơ sở đó các quốc gia có thể tiếp thu những thành
tựu của văn minh nhân loại để phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội. Nó là quá trình vừa
hợp tác để phát triển, vừa đấu tranh rất phức tạp để tồn tại, đặc biệt là đấu tranh giữa các
nước đang phát triển để bảo vệ lợi ích của mình, trong đó có Việt Nam. Toàn cầu hóa tạo
điều kiện thuận lợi cho các quốc gia thực hiện công cuộc cải cách của mình, đồng thời
cũng là yêu cầu, sức ép đối với các quốc gia trong việc đổi mới và hoàn thiện thể chế kinh
tế, đặc biệt là các chính sách và phương thức quản lý vĩ mô. Toàn cầu hóa tạo dựng các
nhân tố mới và điều kiện mới cho sự phát triển của từng quốc gia và cộng đồng quốc tế
trên cơ sở trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất, là điều kiện để khơi
thông các nguồn lực trong và ngoài nước, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và
các kinh nghiệm quản lý. Tuy nhiên toàn cầu hóa cũng tạo ra nhiều thách thức không nhỏ
đối với các quốc gia, nhất là những quốc gia đang phát triển. Do vậy, để khỏi bị gạt ra
ngoài lề phát triển của thế giới và hội nhập kinh tế quốc tế thành công thì chúng ta phải tiếp
tục đổi mới trong nhận thức, trong tư duy về kinh tế.
9
Ba là, năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn yếu. Một trong
những thách thức lớn nhất đối với Việt Nam hiện nay trong hội nhập kinh tế quốc tế là sức
cạnh tranh của các doanh nghiệp, sản phẩm và quốc gia còn yếu, sức cạnh tranh chủ yếu
dựa vào lợi thế lao động rẻ và tài nguyên. Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới
(WEF) thì Việt Nam vẫn nằm trong số 60 nước có môi trường kinh doanh khó khăn nhất;
đánh giá của WEF, Ngân hàng thế giới và Công ty tài chính quốc tế về năng lực cạnh tranh
toàn cầu thì năm 2006, 2007 Việt Nam xếp hạng 77/125 quốc gia, tụt 3 bậc so với năm
2005. Nguyên nhân của tình trạng này là do chúng ta chậm đổi mới về tư duy kinh tế trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế. Sự đổi mới không theo kịp với xu hướng phát triển của
thời đại đã làm kìm hãm phát triển của doanh nghiệp và quốc gia. Thời gian qua, chúng ta
chỉ tập trung vào các nhân tố bên trong, dựa vào nội lực là chính, chưa thật sự đánh giá
đúng vai trò, cũng như sức ép từ các nhân tố bên ngoài trong phát triển kinh tế. Doanh
nghiệp chưa thật sự quan tâm đến hội nhập, chưa thật sự chủ động thay đổi tư duy, cách
thức tổ chức cho phù hợp với điều kiện mới của môi trường cạnh tranh quốc tế. Trong hơn
25 năm đổi mới, mặc dù chúng ta đã đạt được những thành tựu kinh tế hết sức ấn tượng,

song khách quan mà nói nền kinh tế nước ta vẫn đang trong tình trạng lạc hậu, đổi mới tư
duy về kinh tế chưa theo kịp với sự biến đổi nhanh chóng của thời đại, nhất là những thay
đổi của nhân loại mang tính đột phá như công nghệ thông tin, kinh tế tri thức, công nghệ
sinh học, mô hình phát triển kinh tế. Việt Nam cũng đã có những thứ hạng đáng kể về xuất
khẩu một số mặt hàng và thu hút đầu tư, song nếu phân tích, đánh giá một cách khách quan
thì chưa thật sự tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của đất nước. Vì vậy, chúng ta cần
phải tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế để tiếp tục cải thiện vị thế của mình trong cộng đồng
kinh tế quốc tế.
Bốn là, những bất cập của thực tiễn cuộc sống. Sự phát triển kinh tế trong thời gian qua,
đặc biệt là sự tăng lên mạnh mẽ số lượng các doanh nghiệp và huy động vốn đầu tư đang
gặp những rào cản. Đó là tình trạng ban hành chính sách kinh tế chưa phù hợp với thực tế,
còn có những bất cập trong việc ban hành và thực thi chính sách, nhất là chính sách đất đai
và tín dụng. Môi trường kinh doanh chưa thật sự thuận lợi. Hiện nay, tiềm lực nội tại của
nền kinh tế nước ta vẫn còn rất lớn, nguồn vốn trong dân còn nhiều nhưng chưa được sử
dụng vào đầu tư phát triển kinh tế. Trong một số khu vực kinh tế đã có dấu hiệu chững lại.
Sự phát triển kinh tế đang kéo theo nhiều vấn đề cần phải giải quyết như khoảng cách giàu
nghèo ngày càng lớn, tài nguyên và môi trường bị ảnh hưởng nặng nề, năng suất lao động
và hiệu quả kinh tế còn thấp, chất lượng tăng trưởng kinh tế chưa cao...
Đại hội lần thứ IX của Đảng là “Đại hội của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết, đổi mới” họp tại Hà
Nội từ ngày 19 đến 22-4-2001, dự Đại hội có 1.168 đại biểu đại diện cho 2.479.719 đảng
viên trong toàn Đảng. Đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Thường vụ Bộ Chính trị đọc
diễn văn khai mạc. Đồng chí Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu đọc báo cáo của Ban Chấp hành
10
Trung ương khóa VIII về các văn kiện trình Đại hội IX.
Đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch 5 năm 1996-2000, Báo cáo Chính trị khẳng định 5
nhóm thành tựu quan trọng: Kinh tế tăng trưởng khá; văn hóa - xã hội có những tiến bộ;
đời sống nhân dân tiếp tục được cải thiện; tình hình chính trị, xã hội cơ bản ổn định; quốc
phòng và an ninh được tăng cường; công tác xây dựng Đảng được chú trọng; hệ thống
chính trị được củng cố; quan hệ đối ngoại không ngừng được mở rộng, hội nhập kinh tế
quốc tế được tiến hành chủ động và đạt nhiều kết quả. Bên cạnh những thành tựu, Đại hội

cũng chỉ rõ những khuyết điểm, yếu kém: Nền kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả
và sức cạnh tranh thấp; một số vấn đề văn hóa, xã hội bức xúc và gay gắt chậm được giải
quyết; cơ chế chính sách không đồng bộ và chưa tạo động lực mạnh để phát triển; tình
trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống ở một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng.
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội xác định động lực chủ yếu để phát triển đất nước là
đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do
Đảng lãnh đạo.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX gồm 150 ủy viên. Ban Chấp
hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí; Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng
chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam họp từ ngày 18-4 đến
ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội. Dự Đại hội có 1176 đại biểu, đại diện cho trên 3,1 triệu
đảng viên.
Đồng chí Trần Đức Lương, Ủy viên Bộ Chính trị đọc Diễn văn khai mạc. Đồng chí Tổng
Bí thư Nông Đức Mạnh đọc Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX “Nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”.
Các Văn kiện trình Đại hội: Báo cáo Chính trị; Báo cáo về phương hướng phát triển kinh
tế-xã hội 5 năm 2006-2010; Báo cáo công tác xây dựng Đảng; Báo cáo về một số vấn đề
bổ sung sửa đổi Điều lệ Đảng và dự thảo Điều lệ Đảng (bổ sung, sửa đổi); Báo cáo về kết
quả thực hiện Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khóa VIII trên lĩnh vực đấu tranh phòng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong nhiệm kỳ Đại hội IX và Báo cáo kiểm điểm
sự lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX.
Đại hội xác định mục tiêu và phương hướng tổng quát của 5 năm 2006- 2010 là: Nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng
cường quốc phòng và an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập
kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
11
phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp
theo hướng hiện đại.
Đại hội X của Đảng nêu cao ý chí sắt đá của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, triệu người
như một, năng động và sáng tạo, nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức, quyết tâm đổi mới
toàn diện và mạnh mẽ theo con đường xã hội chủ nghĩa, nhằm thực hiện bằng được mục
tiêu “ dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khóa X gồm 160 đồng chí ủy viên chính thức
và 21 đồng chí ủy viên dự khuyết. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng
đã bầu Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí; Ban Bí thư gồm 8 đồng chí; đồng chí Nông Đức
Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư của Đảng.
Câu7:Quan điểm về hoàn thiện thể chế kinh tế thi trường,định
hướng cách mạng xã hội chũ nghĩa,kết quả và ý nghĩa:
Trả lời:
Nhận thức đầy đủ,tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế
thị trường,thông lệ quốc tế,phù hợp với điều kiện của Việt Nam,đảm bảo định hướng xã
hội chũ nghĩa của nền kinh tế.
Định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, qui hoạch, kế hoạch và cơ chế, chính sách
trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Đổi mới căn bản công tác qui hoạch, kế
hoạch phù hợp yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế, phát huy tối đa mọi lợi thế so sánh của quốc gia, vùng và địa phương,
thu hút mọi nguồn lực tham gia phát triển kinh tế - xã hội.
Tạo môi trường pháp lý và cơ chế, chính sách thuận lợi để phát huy các nguồn lực của xã
hội cho phát triển, các chủ thể hoạt động kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh,
công khai và minh bạch, có trật tự, kỷ cương.Hỗ trợ phát triển, xây dựng hệ thống kết cấu
hạ tầng kinh tế - xã hội quan trọng.
Bảo đảm tính bền vững và tích cực của các cân đối kinh tế vĩ mô, hạn chế các rủi ro và

tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
Tác động đến thị trường chủ yếu thông qua cơ chế, chính sách và các công cụ kinh tế;
đồng thời sử dụng kịp thời có hiệu quả một số biện pháp cần thiết khi thị trường trong
nước hoạt động không có hiệu quả hoặc thị trường khu vực và thế giới có biến động lớn.
Thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành
chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp. Tách chức năng quản lý hành chính
của Nhà nước khỏi chức năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ “chế độ chủ
quản”; phân biệt rõ ràng hệ thống cơ quan hành chính công và hệ thống cơ quan sự nghiệp
12
dịch vụ công cộng (giáo dục, khoa học và công nghệ, y tế, văn hóa, thể dục thể thao); phát
triển mạnh các dịch vụ công cộng.
Tiếp tục đổi mới chính sách tài chính, tiền tệ, điều tiết thu nhập. Bảo đảm tính ổn định
và sự phát triển bền vững của nền tài chính quốc gia.
Định rõ mối quan hệ giữa Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kinh tế và
xã hội.
Phát triển thị trường hàng hóa và dịch vụ. Thu hẹp những lĩnh vực Nhà nước độc quyền
kinh doanh, xóa bỏ độc quyền doanh nghiệp; tiếp tục đổi mới cơ chế kiểm soát giá cả. Phát
triển mạnh thương mại trong nước ở tất cả các vùng và tăng nhanh xuất khẩu, nhập khẩu.
Đẩy mạnh tự do hóa thương mại phù hợp các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế. Tạo
bước phát triển mới, nhanh và toàn diện thị trường dịch vụ, nhất là những dịch vụ cao cấp,
có hàm lượng trí tuệ cao, giá trị gia tăng lớn. Phấn đấu đưa tốc độ tăng trưởng của khu vực
dịch vụ cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng hoạt
động du lịch, đa dạng hóa các loại hình du lịch. Phát triển nhanh hơn các dịch vụ vận tải,
viễn thông, dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ tư vấn.
Từng bước phát triển vững chắc thị trường tài chính, hoàn thiện thị trường tiền tệ; lành
mạnh hóa các hoạt động giao dịch vốn ngắn hạn và mua bán các giấy tờ có giá trên thị
trường. Phát triển mạnh thị trường vốn, thúc đẩy mạnh hơn hoạt động của thị trường chứng
khoán gắn với tiến trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, phát triển hình thức cổ phần và huy động các nguồn vốn trong xã hội cho đầu

tư phát triển. Củng cố ngân hàng nhà nước, lành mạnh hóa, cơ cấu lại hệ thống ngân hàng
thương mại, các công ty tài chính, công ty mua bán nợ, công ty đầu tư chứng khoán.
Phát triển thị trường bất động sản (bao gồm thị trường quyền sử dụng đất và bất động
sản gắn liền với đất): bảo đảm quyền sử dụng đất chuyển thành hàng hóa một cách thuận
lợi; làm cho đất đai thật sự trở thành nguồn vốn cho phát triển; từng bước làm cho thị
trường bất động sản trong nước có sức cạnh tranh so với thị trường khu vực, có sức hấp
dẫn các nhà đầu tư.
Thực hiện công khai, minh bạch và tăng cường tính pháp lý, kỷ luật, kỷ cương trong
quản lý đất đai. Nhà nước điều tiết giá đất bằng quan hệ cung - cầu về đất đai và thông qua
các chính sách về thuế có liên quan đến đất đai. Nhà nước vừa quản lý tốt thị trường bất
động sản vừa là nhà đầu tư bất động sản lớn nhất. Hoàn thiện hệ thống luật pháp về kinh
doanh bất động sản.
Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở
hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể,
tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các
thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển
lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
13
Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước
định hướng và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần
kinh tế cùng phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền
tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một
trong những động lực của nền kinh tế.
Doanh nghiệp cổ phần ngày càng phát triển, trở thành hình thức tổ chức kinh tế phổ
biến, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất kinh doanh và sở hữu.
Nhà nước chỉ thực hiện sự ưu đãi hoặc hỗ trợ phát triển đối với một số ngành, lĩnh vực,
sản phẩm; một số mục tiêu như xuất khẩu, tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, khắc phục
những rủi ro; một số địa bàn, các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Xây dựng một hệ thống doanh nghiệp VN nhiều về số lượng, có sức cạnh tranh cao, có

thương hiệu uy tín, trong đó chủ lực là một số tập đoàn kinh tế lớn dựa trên hình thức cổ
phần. Nhà nước định hướng, tạo môi trường để phát triển có hiệu quả các doanh nghiệp
theo cơ chế thị trường; bồi dưỡng, đào tạo và biểu dương các doanh nhân có tài, có đức và
thành đạt.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước thật sự hoạt động trong
môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả. Xóa bỏ độc quyền và đặc
quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước. Doanh nghiệp nhà nước có quyền
tài sản, thật sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh, cạnh tranh, chấp nhận rủi ro.
Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết quả hoạt
động của doanh nghiệp. Chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi đáp ứng tốt yêu cầu quản lý
công ty theo chế độ hiện đại.
Tiếp tục đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là cổ phần hóa. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung chủ yếu vào một số
lĩnh vực kết cấu hạ tầng, sản xuất tư liệu sản xuất và dịch vụ quan trọng của nền kinh tế,
vào một số lĩnh vực công ích. Đẩy mạnh và mở rộng diện cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, kể cả các tổng công ty nhà nước; đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực
trong quá trình cổ phần hóa. Giá trị doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hóa, kể cả giá trị
quyền sử dụng đất, phải theo cơ chế thị trường.
Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham
gia cổ phần của Nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quĩ
đầu tư..., trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
Tổng kết thực tiễn để sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh
hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh, trước hết là các hợp tác xã kiểu mới, các hợp tác xã mà thành viên tham gia
gồm cả thể nhân và pháp nhân.
Khuyến khích huy động cổ phần và các nguồn vốn, không ngừng tăng thêm vốn đầu tư
phát triển, tăng tài sản và quĩ không chia. Các hợp tác xã cổ phần từng bước trở thành thực
thể chủ yếu của kinh tế tập thể.
14

×