Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 107 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------------

Đặng Mai Hoa

Địa vị pháp lý của thẩm phán
trong tố tụng hình sự
trước yêu cầu cải cách tư pháp

Luận văn thạc sỹ luật học

Hà Nội, năm 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
------------------

Đặng Mai Hoa

Địa vị pháp lý của thẩm phán
trong tố tụng hình sự
trước yêu cầu cải cách tư pháp

Chuyên ngành: Luật hình sự

Luận văn thạc sỹ luật học
Mã số: 60 38 40
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Tất Viễn


Hà Nội, năm 2010


Danh mục từ viết tắt

Từ viết tắt

Tiếng Việt

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

HĐXX

Hội đồng xét xử

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

TAQS

Tòa án quân sự

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

3


Mục lục
Trang
Lời cam đoan

1

Lời cám ơn

2

Danh mục từ viết tắt

3

Mục lục

4

Phần mở đầu

6

Chương 1. Cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của


10

thẩm phán trong tố tụng hình sự
1.1. Đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự và địa vị pháp lý

10

của những người tiến hành tố tụng
1.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong mô hình tố tụng kết hợp

16

xét hỏi và tranh tụng
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán

16

1.2.2. Mối quan hệ pháp luật giữa Thẩm phán với các chức danh tư

20

pháp khác trong hoạt động xét xử
1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự tác động

25

của chúng đến địa vị pháp lý của Thẩm phán
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc xác định địa vị pháp lý của

31


Thẩm phán
1.3.1. Sự ảnh hưởng của phương thức tổ chức quyền lực nhà nước

31

1.3.2. Yếu tố truyền thống pháp lý

34

1.3.3. Yếu tố văn hóa pháp lý

36

Chương 2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về

39

địa vị pháp lý của thẩm phán và thực tiễn áp dụng
2.1. Các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán

39

trong tố tụng hình sự của Việt Nam
2.1.1. Thời kỳ từ năm 1945 đến năm 1980

39

2.1.2. Thời kỳ từ năm 1980 đến năm 1992


42

4


2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của thẩm phán theo quy định của Bộ luật

45

tố tụng hình sự năm 2003
2.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong thực tiễn hoạt động tố

52

tụng hình sự
2.2.1. Thẩm phán với việc thực hiện nguyên tắc cơ bản của tố tụng

52

hình sự
2.2.2. Thẩm phán với việc thực hiện nguyên tắc tranh tụng tại phiên

58

tòa theo tinh thần cải cách tư pháp
2.2.3. Thẩm phán với việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy

62

định của bộ luật tố tụng hình sự

Chương 3. Những yêu cầu của cải cách tư pháp đặt ra đối với

77

việc hoàn thiện địa vị pháp lý của thẩm phán và một số kiến nghị
3.1. Quan niệm và nội dung cải cách tư pháp

77

3.2. Xác định vị trí trung tâm của Tòa án trong hệ thống tư pháp

83

3.3. Yêu cầu cơ bản đối với cải cách Tòa án và Thẩm phán

85

3.4. Một số kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định về địa

94

vị pháp lý của Thẩm phán
Kết luận

102

Danh mục tài liệu tham khảo

104


5


Phần mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam đang thực hiện cải cách tư pháp một cách toàn diện. Điều
này tạo cho ngành Toà án Việt Nam nhiều cơ hội song cũng đặt ra nhiều
thách thức. Thêm vào đó, Việt Nam đã và sẽ tham gia hoặc ký kết các công
ước, điều ước quốc tế song phương và đa phương. Do đó, đòi hỏi hệ thống
pháp luật bao gồm cả luật nội dung và luật tố tụng cần được hoàn thiện. Thực
tiễn trên đây đã đặt ra cho Thẩm phán Việt Nam không những cần phải có
kiến thức sâu rộng trong nhiều lĩnh vực luật nội dung mà còn phải hiểu biết và
áp dụng thành thạo luật tố tụng liên quan để giải quyết các loại tranh chấp.
Ngày 02/6/2005 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TW về
Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020. Nghị quyết xác định Tòa án giữ
vai trò trung tâm trong hệ thống tư pháp, hoạt động của Tòa án là trọng tâm
của hoạt động tư pháp. Đây là bước phát triển mới về nhận thức lý luận trong
lĩnh vực tư pháp nhằm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
IX với mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì
dân. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X tiếp tục khẳng định nhiệm vụ: “Cải
cách tư pháp khẩn trương, đồng bộ, lấy cải cách hoạt động xét xử làm trung
tâm,...”[10, tr 127]
Căn cứ Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Tòa án đã tiến hành xét xử theo
hướng nâng cao vai trò tranh tụng, đảm bảo quyền của bị cáo và những người
tham gia tố tụng. Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị xác
định rõ nhiệm vụ cải cách tư pháp đến năm 2020 là phải nâng cao chất lượng
hoạt động của các cơ quan tư pháp. Trọng tâm là xây dựng hoàn thiện tổ chức
và hoạt động của Toà án nhân dân, đổi mới việc tổ chức phiên toà xét xử, xác
định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng theo

hướng đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh, nâng cao chất lượng

6


tranh tụng tại các phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư
pháp.
Thực hiện Nghị quyết của Đảng, ngành Tòa án Việt Nam đang thực sự
đổi mới về tổ chức và hoạt động, tăng cường quản lý, nâng cao năng lực của
đội ngũ thẩm phán để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Gắn liền với hoạt động của Tòa án là Thẩm phán. Thẩm phán là một
trong số những người tham gia tố tụng giữ vai trò then chốt trong quá trình cải
cách tư pháp nói chung, đặc biệt là việc thực hiện các mục tiêu mà Nghị quyết
đã đề ra.
Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố tụng hình sự là một nội dung rất
quan trọng, một mắt xích không thể thiếu trong công cuộc cải cách tư pháp
hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố
tụng hình sự là một việc làm cần thiết góp phần thực hiện thành công cuộc cải
cách tư pháp ở nước ta trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam XHCN.
Việc xác định địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự có ý
nghĩa quan trọng, xét cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn. Bởi điều đó không
những góp phần vào việc xây dựng một hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp
nói chung và tổ chức, hoạt động của các chức danh tư pháp nói riêng mà còn
góp phần xây dựng các văn bản pháp luật về Tòa án, về Thẩm phán cũng như
việc hướng dẫn, chỉ đạo hoạt động nghiệp vụ của ngành Tòa án. Trong tố tụng
hình sự, chế định địa vị pháp lý của Thẩm phán không chỉ liên quan và ảnh
hưởng đến tổ chức và hoạt động của Tòa án mà còn liên quan đến những chế
định quan trọng khác. Vì thế, có thể nói rằng hiệu quả của thủ tục tố tụng hình
sự phụ thuộc một phần không nhỏ vào việc xác định đúng đắn địa vị pháp lý

của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.
Trong khoa học pháp lý hiện nay, mô hình lý luận về địa vị pháp lý của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự vẫn chưa được xây dựng một cách thống
nhất, còn nhiều bất cập. Nguyên tắc độc lập xét xử chưa được thực hiện đầy

7


đủ, vẫn còn nhiều vướng mắc trong hoạt động tố tụng của Thẩm phán khi giải
quyết các vụ án hình sự, làm cho hiệu quả xét xử của Tòa án chưa cao.
Vì vậy, em đã chọn đề tài: “Địa vị pháp lý của Thẩm pháp trong tố tụng
hình sự trước yêu cầu cải cách tư pháp” để làm luận văn thạc sỹ. Thông qua
đề tài này, em muốn làm rõ thêm vị trí, vai trò, trách nhiệm, quyền hạn của
Thẩm phán trong tố tụng hình sự, từ đó đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn
thiện các quy định của pháp luật về Thẩm phán trong công cuộc cải cách tư
pháp, nâng cao hiệu quả xét xử của Tòa án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong tố tụng nói chung và trong tố tụng
hình sự nói riêng đã được đề cập đến trong một số công trình nghiên cứu như
luận án tiến sỹ của tác giả Đỗ Gia Thư về cơ sở khoa học của việc xây dựng
đội ngũ thẩm phán ở nước ta hiện nay hay luận văn thạc sỹ của tác giả Bùi
Văn Lương về vai trò của thẩm phán trong hoạt động tố tụng hình sự,… Tuy
nhiên, các công trình đó mới nhằm đến những khía cạnh nhất định của chế
định thẩm phán, chủ yếu dưới góc độ tổ chức và quản lý Thẩm phán trong
hoạt động tố tụng. Hơn nữa, các công trình này chưa phân tích nghiên cứu về
địa vị pháp lý, vai trò của Thẩm phán gắn với quá trình cải cách hệ thống tư
pháp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu đề tài là đề xuất các giải pháp nhằm góp phần
hoàn thiện các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán trong

quá trình xét xử, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn có nhiệm vụ:
- Phân tích các đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự qua đó thấy
rõ được địa vị pháp lý của Thẩm phán tương ứng với từng mô hình tố tụng.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về địa vị pháp lý của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự ở nước ta thời gian vừa qua.

8


- Nêu rõ nội dung, yêu cầu cải cách tư pháp đối với Tòa án nói chung
và Thẩm phán nói riêng để từ đó đóng góp hoàn thiện quy định về địa vị pháp
lý của Thẩm phán trong tố tụng hình sự.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là các quy định của pháp luật về địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong tố tụng hình sự theo pháp luật Việt Nam từ năm 1945
đến nay, hoạt động của Thẩm phán trong thực tiễn xét xử. Luận văn có tham
khảo kinh nghiệm tố tụng hình sự của một số nước.
Luận văn chỉ giới hạn việc nghiên cứu địa vị pháp lý của Thẩm phán ở
giai đoạn xét xử sơ thẩm về hình sự.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phép biện chứng duy vật, các luận điểm của Đảng
Cộng sản Việt Nam về xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp.
Ngoài ra còn sử dụng phương pháp nghiên cứu cụ thể như phương pháp lịch
sử, phân tích, tổng hợp, thống kê.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận về địa vị pháp lý của thẩm phán trong tố tụng hình
sự
Chương 2. Pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về địa vị pháp lý của thẩm

phán và thực tiễn áp dụng
Chương 3. Những yêu cầu của cải cách tư pháp đặt ra đối với việc hoàn
thiện địa vị pháp lý của thẩm phán và một số kiến nghị

9


Chương 1. Cơ sở lý luận về Địa vị pháp lý của
thẩm phán trong tố tụng hình sự
1.1. Đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự và địa vị pháp lý của
những người tiến hành tố tụng
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm hại tới các quyền và tự
do cá nhân, các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của xã hội. Do vậy, công tác
đấu tranh phòng chống tội phạm luôn được quan tâm đặc biệt. Để thực hiện
hiệu quả công tác này, mọi Nhà nước đều thành lập các cơ quan với chức
năng là điều tra, truy tố, xét xử nhằm phát hiện xử lý kịp thời người phạm tội.
Các cơ quan này thường được gọi là Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát (hay
Viện công tố), Toà án. Hoạt động của ba cơ quan trên được pháp luật quy
định rất chặt chẽ, cụ thể và được tiến hành theo một trình tự nhất định gọi là
tố tụng hình sự. Tố tụng hình sự là trình tự các hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng, những người tiến hành tố tụng, những người tham gia tố tụng và
mối quan hệ giữa họ trong quá trình giải quyết một vụ án hình sự. Theo giáo
trình luật tố tụng hình sự của Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội,
tố tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải
quyết vụ án khách quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp
luật.[25, tr 13].
Khoa học luật tố tụng hình sự của một số nước như Việt Nam, các nước
XHCN Đông Âu và Liên Xô trước đây thì quá trình tố tụng hình sự bắt đầu từ
thời điểm có quyết định khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi bản án, quyết

định của Toà án có hiệu lực pháp luật được thi hành. Nếu có dấu hiệu tội
phạm, thì cơ quan có thẩm quyền phải khởi tố vụ án để làm căn cứ tiến hành
điều tra và truy tố trước Toà án. Hàng loạt giai đoạn tố tụng đó được nối tiếp
nhau theo một trình tự chặt chẽ do Luật tố tụng hình sự quy định. Như vậy, có
thể hiểu tố tụng hình sự bao gồm các giai đoạn: khởi tố, điều tra, truy tố, xét

10


xử (bao gồm cả xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm hay tái thẩm) và
thi hành án. Tương ứng với mỗi giai đoạn này là quyền và nghĩa vụ của các
cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng.
Mục đích cơ bản của tố tụng hình sự là nhằm tìm ra sự thật khách quan,
trừng trị đúng người đúng tội, không làm oan, sai. Nhưng phương pháp được
sử dụng để đạt được mục đích đó ở từng quốc gia lại rất khác nhau. Sự khác
biệt này thể hiện chủ yếu ở vị trí, vai trò của ba cơ quan tiến hành tố tụng,
trong đó nổi bật là vai trò của Toà án. Tuy nhiên, căn cứ vào một số đặc điểm
chung nhất, có thể phân chia thủ tục tố tụng hình sự của các nước trên thế giới
hiện nay thành hai hệ thống (hay hai mô hình) chủ yếu đó là: Hệ tố tụng thẩm
vấn (hay hệ tố tụng xét hỏi) và hệ tố tụng tranh tụng. Ngoài ra, có quan điểm
cho rằng có ba hệ thống tố tụng, ngoài hai hệ thống trên còn có hệ thống tố
tụng pha trộn. [35, tr 30]
Hệ tố tụng tranh tụng chủ yếu được áp dụng ở các nước theo hệ thống
pháp luật án lệ như: Anh, Mỹ, Canađa, Ôxtrâylia và một số nước là thuộc địa
của Anh trước đây. Hệ tố tụng thẩm vấn chủ yếu được áp dụng ở các nước
theo hệ thống pháp luật lục địa như: Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Italia,...và các
nước XHCN. Sự phân chia các hệ thống tố tụng hình sự thành hệ tranh tụng
và hệ thẩm vấn không có nghĩa là sự tranh tụng chỉ có trong hệ tranh tụng còn
trong hệ thẩm vấn thì không có tranh tụng và ngược lại. Ngày nay, hai hệ
thống tố tụng này đang chịu sự ảnh hưởng và tác động qua lại lẫn nhau, thâm

nhập lẫn nhau và trong mỗi hệ thống đều chứa đựng một số yếu tố của hệ
thống kia.
Mô hình tố tụng thẩm vấn "được phổ biến rộng rãi nhất trong thời đại
chế độ chuyên chế." [26, tr 13]. "Hệ tố tụng thẩm vấn cho rằng sự thật có thể
và phải tìm ra trong quá trình thẩm vấn điều tra. Vì rằng các bên có thể có ý
định che dấu sự thật nên nhà nước phải tham gia sớm và liên tục vào việc
thẩm vấn điều tra".[35, tr122). Đặc điểm của mô hình tố tụng này là quan toà

11


giữ vai trò trung tâm. Người Thẩm phán vừa làm nhiệm vụ điều tra, buộc tội,
xét xử và thi hành án. Theo mô hình tố tụng này, Thẩm phán không có quyền
sáng tạo ra pháp luật. Thẩm phán được nghiên cứu hồ sơ trước khi mở phiên
toà, chúng ta hay gọi những trường hợp này là án tại hồ sơ. Theo TS Nguyễn
Thái Phúc "mô hình tố tụng hình sự thẩm vấn là mô hình tố tụng hình sự mà
trong đó các chức năng cơ bản như chức năng buộc tội, chức năng bào chữa,
chức năng xét xử tập trung vào một cơ quan nhà nước. Mô hình này có các
dấu hiệu đặc trưng như:
- Không có các bên độc lập vì hoạt động tích cực của các bên bị thay
thế bởi hoạt động của cơ quan nhà nước trong tố tụng hình sự, cơ quan tiến
hành tố tụng.
- Bị cáo hoàn toàn phụ thuộc vào cơ quan tiến hành tố tụng và là đối
tượng xem xét của những cơ quan này.
- Không có sự tranh chấp pháp lý của các bên, thay vào đó là ý chí của
Nhà nước, của pháp luật và ý chí của Nhà nước là động lực của tố tụng hình
sự"[21, tr 3]
Những người bị buộc tội và những người tham gia tố tụng khác hoàn
toàn bị động và chỉ được trả lời những câu hỏi do quan toà đặt ra. Trong tất cả
quá trình tố tụng xét hỏi Thẩm phán luôn giữ vai trò chủ động còn luật sư thì

bị động hơn.
Mô hình tố tụng tranh tụng dựa trên luận điểm cho rằng tố tụng là sự
tranh cãi diễn ra ở Toà án giữa Nhà nước và người phạm tội. Trong cuộc
tranh cãi đó, hai bên đều có quyền và nghĩa vụ ngang bằng nhau. Tranh tụng
giữa hai bên bắt đầu ngay từ giai đoạn trước xét xử. Thẩm phán đánh giá
chứng cứ theo nguyên tắc tự do và theo niềm tin nội tâm của mình. Vai trò
tích cực của các bên được đề cao, đặc biệt là vai trò của luật sư. Bên bào
chữa, bên buộc tội có lợi ích đối kháng nhau song bình đẳng về quyền và
nghĩa vụ tố tụng. Trong đó, bên buộc tội có trách nhiệm chứng minh tội
phạm, bên bào chữa có trách nhiệm chứng minh sự vô tội, tình tiết giảm nhẹ

12


trách nhiệm hình sự cho bị cáo. Do đó, trong phiên toà, Thẩm phán chỉ giữ vai
trò là trọng tài đứng giữa hai bên để phân xử. Thay vì giữ quyền độc tôn như
trong mô hình tố tụng thẩm vấn, Thẩm phán, Bồi thẩm đoàn, Công tố viên và
Luật sư có sự chia sẻ quyền hạn. Ví dụ, theo pháp luật của Mỹ “việc quyết
định có tội hay không có tội là trách nhiệm của Bồi thẩm đoàn, còn Thẩm
phán chỉ trên cơ sở kết luận của Bồi thẩm đoàn mà ra phán quyết về mức
hình phạt đối với người tội phạm” [9, tr 80]. Như vậy, trong mô hình tố tụng
tranh tụng, vai trò của Luật sư, của Công tố viên được đề cao. Qua việc tranh
tụng tại phiên toà, sự thật được xác định bằng lý lẽ của bên nào thuyết phục
hơn. Thẩm phán không cần thiết phải nghiên cứu hồ sơ từ trước như trong tố
tụng xét hỏi.
Cả hai mô hình tố tụng thẩm vấn và tranh tụng có những điểm tương
đồng, đó là:
- Về nguyên tắc tố tụng: hai mô hình tố tụng trên đều được xây dựng
dựa trên các nguyên tắc tư pháp dân chủ, công bằng. Mọi người đều bình
đẳng trước pháp luật. Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa

có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Toà án. Đây là những nguyên tắc
chung nhất để từ đó hình thành nên địa vị pháp lý của từng cơ quan cũng như
của những người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng trong cả
hai mô hình.
- Về mục đích chung của cả hai mô hình tố tụng trên là tìm ra sự thật
với nguyên tắc người phạm tội phải bị xử lý.
- Về phương pháp tiến hành: tố tụng thẩm vấn cũng như tố tụng tranh
tụng đều tiến hành từng bước theo các giai đoạn điều tra, truy tố, chuyển sang
Toà án để xét xử. Và xét xử là khâu cuối cùng để đi đến kết luận có tội hay
không có tội. Tất cả các giai đoạn trước nhằm phục vụ cho giai đoạn xét xử.
Đây là một chuỗi giai đoạn tố tụng được tiến hành theo một trình tự luật định
và giữa chúng có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, mật thiết không thể tách rời.
Khi nhận được tin báo tội phạm, việc điều tra sẽ do Điều tra viên thực hiện

13


với sự giám sát của Công tố viên. Khi tìm ra được người phạm tội, xác định
được sự thật của vụ án, hồ sơ được chuyển sang Toà án và Thẩm phán sẽ tiến
hành các hành vi tố tụng để xét xử. Điều tra viên, Công tố viên và Thẩm phán
là những nhân vật trung tâm trong tố tụng hình sự trong đó Thẩm phán giữ vai
trò quan trọng đưa ra phán quyết cuối cùng.
Bên cạnh những điểm tương đồng đó, hai mô hình tố tụng này có
những điểm khác biệt. Và đây cũng là yếu tố hình thành sự khác biệt về địa vị
pháp lý của những người tiến hành tố tụng nói chung, Thẩm phán nói riêng
khi giải quyết vụ án hình sự. Sự khác nhau thể hiện ở cách thức tiến hành, về
vai trò của các chủ thể tham gia hoạt động tố tụng.
Đối với mô hình xét hỏi thì hoạt động tố tụng tập trung vào giai đoạn
điều tra, nên nếu việc điều tra được tiến hành cẩn thận sẽ đảm bảo xác định
chính xác tội phạm. Phiên toà trong tố tụng xét hỏi là sự tiếp tục điều tra để

tìm ra sự thật. Viện công tố là người chỉ đạo và giám sát hoạt động điều tra
của cảnh sát. Kết quả điều tra được phản ánh trong hồ sơ vụ án. Còn trong mô
hình tố tụng tranh tụng giai đoạn xét xử được chú ý nhiều nhất, mọi phán
quyết đều được căn cứ vào quá trình tranh tụng tại phiên toà. Vai trò của Viện
công tố mờ nhạt vì không có trách nhiệm trong hoạt động điều tra. Toàn bộ
hoạt động điều tra do cảnh sát tiến hành. Không có hồ sơ chính thức của vụ án
nên không có hồ sơ chuyển cho Thẩm phán nghiên cứu trước khi mở phiên
toà như đối với mô hình tố tụng thẩm vấn.
Điểm khác biệt nữa là vai trò, vị trí của Thẩm phán. Trong mô hình tố
tụng thẩm vấn, Thẩm phán trực tiếp xét hỏi. Ngược lại, Thẩm phán trong mô
hình tố tụng tranh tụng rất ít khi hoặc không tham gia xét hỏi mà chỉ là người
điều khiển phần thẩm vấn cũng như phần tranh luận tại phiên toà. Do Thẩm
phán không biết trước hồ sơ nên việc tranh tụng giữa các bên là nội dung chủ
yếu của phiên toà và nhiệm vụ của các bên trong quá trình tranh tụng là thuyết
phục Thẩm phán chấp nhận lý lẽ của mình.

14


Ngoài hai hệ tố tụng nêu trên, còn tồn tại một hệ tố tụng pha trộn có
đặc trưng của cả hệ tố tụng thẩm vấn và hệ tố tụng tranh tụng. Như trước khi
xét xử toàn bộ quá trình điều tra không có tính công khai, việc bào chữa của
bị can trong giai đoạn này bị hạn chế, Thẩm phán có quyền nghiên cứu hồ sơ
trước khi vụ án được xét xử. Tại phiên toà, Thẩm phán giữ vị trí trung tâm,
tiến hành xét hỏi bị cáo, nhân chứng và những người có quyền và nghĩa vụ
liên quan đến vụ án để tìm ra sự thật khách quan. Thẩm phán đảm nhiệm từ
việc buộc tội, bào chữa và đưa ra phán quyết cho bị cáo. Vai trò của Kiểm sát
viên và Luật sư bị mờ nhạt. Song mô hình này vẫn chịu ảnh hưởng nhiều của
những đặc điểm mô hình tố tụng tranh tụng. Bên cạnh vị trí chủ đạo của
Thẩm phán trong việc chứng minh tội phạm còn quy định vai trò của những

người tham gia tố tụng khác như luật sư, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị
đơn dân sự,…
Mỗi mô hình tố tụng hình sự đều có những ưu thế và những hạn chế
của nó. Không có mô hình tố tụng hình sự nào là hoàn hảo. Theo bà Elisabeth
Pelsez, thẩm phán Toà án phúc thẩm Rouen (Mỹ):Nhược điểm của tố tụng
tranh tụng là làm nảy sinh sự bất bình đẳng giữa các bên trong vụ án hình
sự, vì bên nào có nhiều tiền thuê luật sư thì sẽ có nhiều khả năng giành thắng
lợi hơn, trong khi đó thủ tục xét hỏi khắc phục được nhược điểm này vì công
tác điều tra do thẩm phán độc lập và khách quan đảm nhiệm. Nhược điểm thứ
hai của tố tụng tranh tụng là nó rất phức tạp vì khi phiên toà diễn ra chưa có
gì khẳng định là chắc chắn cả nên đôi khi dẫn đến hệ quả nguy hiểm. Còn tố
tụng xét hỏi bị chỉ trích là không tôn trọng đầy đủ quyền của các bên đương
sự, vì chứng cứ do thẩm phán điều tra nên tố tụng xét hỏi bị coi là đi ngược
lại nguyên tắc vô tư, khách quan, đôi khi Thẩm phán có sẵn trong đầu quyết
định xét xử trước khi diễn ra giai đoạn xét xử, dưới góc độ đó việc tranh luận
trở nên vô nghĩa.[16, tr 13]

15


Cho đến nay, các quốc gia đều có sự thay đổi hệ thống tố tụng của
mình cho phù hợp với sự phát triển của xã hội. Tìm mọi cách phát huy những
điểm mạnh, hạn chế những nhược điểm trong mô hình tố tụng mà mình đã lựa
chọn. Có quốc gia thuộc mô hình tố tụng này nhưng lại có xu thế chuyển sang
lựa chọn mô hình tố tụng kia hay lại lựa chọn mô hình tố tụng hỗn hợp. Điều
đáng chú ý là mặc dù các nước cùng thuộc về hệ tố tụng tranh tụng, hệ tố tụng
thẩm vấn hay hệ pha trộn nhưng ở mỗi nước việc áp dụng thủ tục đó được
thực hiện ở những mức độ và phạm vi khác nhau. Thực tế bất kỳ mô hình tố
tụng nào cũng là sự pha trộn với những biến đổi theo một trong hai trường
phái pha trộn thiên về thẩm vấn hoặc pha trộn thiên về tranh tụng.

Việc nghiên cứu đặc điểm của các mô hình tố tụng hình sự là nhằm làm
rõ sự tác động và chi phối của các mô hình tố tụng này đối với địa vị pháp lý
của cơ quan cũng như của người tiến hành tố tụng, đặc biệt là Thẩm phán. Từ
đó, giúp cho việc lựa chọn áp dụng mô hình tố tụng thích hợp với điều kiện
kinh tế, văn hoá và truyền thống pháp lý của từng quốc gia và làm cơ sở cho
việc pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của những người tiến hành tố tụng
nói chung và Thẩm phán nói riêng.
1.2. Địa vị pháp lý của Thẩm phán trong mô hình tố tụng kết hợp xét hỏi
và tranh tụng
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán
Địa vị pháp lý nói chung theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý
thông dụng là “tổng thể các điều kiện pháp lý mà pháp luật đòi hỏi để xác
định cho một chủ thể có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc
lập”.
Theo từ điển Luật học xuất bản năm 2006 thì địa vị pháp lý của chủ thể
pháp luật là vị trí của chủ thể pháp luật trong mối quan hệ với chủ thể pháp
luật khác trên cơ sở các quy định của pháp luật. Là sự thể hiện thành một tổng
thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể, qua đó xác lập cũng như giới
hạn khả năng của chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị

16


pháp lý có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác,
đồng thời có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong
các mối quan hệ pháp luật. [36, tr 244].
Tố tụng hình sự được chia ra nhiều giai đoạn khác nhau. Tương ứng
với mỗi giai đoạn đó có các cơ quan tiến hành tố tụng. Các cơ quan tiến hành
tố tụng gồm có: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Trong mỗi cơ quan
tiến hành tố tụng, pháp luật quy định những người có thẩm quyền thực hiện

các hành vi tố tụng theo quy định của BLTTHS. Và những người đó được gọi
là những người tiến hành tố tụng với địa vị pháp lý rất khác nhau.
Những người tiến hành tố tụng này có chức năng nhiệm vụ và quyền
hạn riêng nhưng đều có trách nhiệm là phát hiện nhanh chóng chính xác và xử
lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm, không
làm oan người vô tội.
Tại Toà án, những người tiến hành tố tụng gồm có: Chánh án, Phó
Chánh án Toà án, Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký toà án. Thẩm phán ở Việt
Nam bao gồm: Thẩm phán TANDTC, Thẩm phán TAND cấp tỉnh, Thẩm
phán TAND cấp huyện và Thẩm phán TAQS các cấp.
Công việc xét xử của Thẩm phán được coi là một nghề, nghề xét xử.
Theo từ điển Tiếng Việt của Nhà xuất bản khoa học xã hội, 1994 đã định
nghĩa: "nghề là công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã
hội". Nghề Thẩm phán là nghề đại diện cho quyền lực tư pháp, quyền lực nhà
nước, là "tượng trưng cho khát vọng của mọi tầng lớp, giai cấp trong xã hội
về chân, thiện, mỹ về một hệ thống tiêu chí đạo đức: sống làm người" [28, tr
37]. Thẩm phán nhân danh nhà nước để đưa ra phán quyết và khi bản án có
hiệu lực pháp luật thì tất cả mọi cơ quan nhà nước, các tổ chức và mọi công
dân đều phải chấp hành.
Thẩm phán còn được hiểu theo nghĩa là một chức danh tư pháp. Cho
đến nay ở nước ta chưa có văn bản pháp luật nào của nhà nước quy định về
khái niệm chức danh tư pháp. Có quan điểm cho rằng những người nào trực

17


tiếp thực hiện quyền lực tư pháp thì mới là chức danh tư pháp. Do vậy chức
danh tư pháp bao gồm Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký toà
án,Hhội thẩm, Thẩm tra viên. GS.TS. Võ Khánh Vinh thì cho rằng "chức
danh tư pháp bao gồm những người thực thi nhiệm vụ trong các cơ quan tư

pháp (điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án) được đào tạo kỹ năng thực hành
nghề và hành nghề theo một chuyên môn nhất định, có danh xưng, được bổ
nhiệm hoặc thừa nhận theo pháp luật khi đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn và
điều kiện xác định theo quy định của pháp luật." [6, tr 43]. Trong các chức
danh tư pháp thì Thẩm phán được xác định là một chức danh tư pháp quan
trọng và có ý nghĩa quyết định đến việc thực hiện quyền tư pháp.
Như vậy, chúng ta có thể rút ra khái niệm địa vị pháp lý của Thẩm phán
là tổng thể các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, quyền và nghĩa vụ
pháp lý của Thẩm phán khi tiến hành các hành vi tố tụng được pháp luật quy
định.
Từ khái niệm trên, chúng ta có thể nhận thấy, nội hàm địa vị pháp lý
của Thẩm phán trong tố tụng hình sự được phản ánh và thể hiện ở những
phương diện:
- Các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò của Thẩm phán trong tố
tụng hình sự.
- Các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự.
1.2.1.1. Vị trí, vai trò của Thẩm phán trong hoạt động tư pháp hình sự
Kết quả hoạt động của Toà án là sản phẩm của toàn bộ hoạt động tư
pháp. Toà án thực hiện được chức năng xét xử của mình thông qua hoạt động
của những con người cụ thể. Trong Toà án có rất nhiều chức danh như Thẩm
phán, Thư ký tòa án, Thẩm tra viên, cán bộ văn phòng,... Nhưng chỉ có duy
nhất Thẩm phán mới được pháp luật trao cho quyền xét xử. Cho dù bộ máy
của Toà án được tổ chức quy mô đến mấy thì tất cả những yếu tố đó điều chỉ
phục vụ cho hoạt động xét xử. Trước đây, khi chưa có sự tách biệt giữa ba

18


quyền tư pháp, hành pháp và lập pháp, thì nhà vua chính là quan toà, là người

xét xử tối cao. Đến khi cách mạng tư sản ra đời đã tạo ra một cuộc cách mạng
mới về tư tưởng. Chính điều này đã hình thành nên một nhánh quyền lực độc
lập, đó là quyền tư pháp và cũng từ đó hình thành nên một đội ngũ quan chức
mới trong bộ máy nhà nước. Đó là những con người làm công tác tư pháp nói
chung và công tác xét xử nói riêng.
Hoạt động xét xử của Toà án được thực hiện thông qua HĐXX trong
đó Thẩm phán là nhân vật trung tâm. Thẩm phán là những người có vai trò
chủ yếu trong công tác xét xử. Thông qua hoạt động xét xử của mình, Thẩm
phán góp phần vào việc bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
của xã hội, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
người dân. Mỗi một phán quyết của Thẩm phán có thể dẫn tới chỗ công dân,
pháp nhân được hưởng quyền và lợi ích hoặc phải gánh chịu các nghĩa vụ
nhất định. Đặc biệt là trong lĩnh vực hình sự, phán quyết của Thẩm phán dẫn
đến hậu quả pháp l‎ý vô cùng nghiêm trọng đối với người bị kết án. Sai lầm
trong hoạt động xét xử của Thẩm phán sẽ dẫn đến tình trạng xử oan, sai. Điều
này không chỉ ảnh hưởng đến một cá nhân mà có thể làm giảm lòng tin của
quần chúng nhân dân vào sự công bằng của xã hội, vào pháp luật của Nhà
nước ta.
Khác với các công việc khác, để đưa ra được một phán quyết thấu tình
đạt l‎ý, Thẩm phán phải huy động nhiều tố chất trong một con người. Đó là sự
am hiểu về pháp luật, sự hiểu biết về thực tế, tích luỹ kiến thức về xã hội, tâm
sinh lý của từng cá thể, lương tâm của Người thẩm phán. "Cơ sở của các
phán quyết là pháp luật, nhưng kết quả của các phán quyết có công bằng, vô
tư và khách quan hay không đòi hỏi mỗi Thẩm phán phải có cái tâm trong
sáng"[15 tr 38]. Chỉ khi nào có sự kết hợp giữa trình độ chuyên môn nghiệp
vụ và đạo đức nghề nghiệp của người Thẩm phán thì lúc đó mới đảm bảo cho
phán quyết của Thẩm phán thấu tình đạt lý. Khi xét xử người Thẩm phán phải

19



có niềm tin nội tâm, đó là niềm tin vào công l‎ý. Bởi vì, cho dù hệ thống pháp
luật có hoàn hảo, đầy đủ đến đâu chăng nữa thì cũng sẽ không bao giờ dự liệu
hết được mọi tình huống xẩy ra trong thực tế. Thậm chí quy định của pháp
luật còn chống chéo, không đồng bộ. Song khi xét xử Thẩm phán vẫn phải
đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật. Và đặc
biệt là phải đảm bảo công l‎ý. Trong con mắt của người dân, Toà án không chỉ
là bảo vệ pháp luật mà còn là biểu tượng của công lý, sự công bằng xã hội.
Khi phải đối mặt với quan toà, với công đường người dân chờ đợi sự công
minh, sáng suốt. Toà án là người đại diện của công lý và quan toà là cán cân
công lý. [6, tr 23].
Qua phân tích trên, chúng ta nhận thấy vai trò trung tâm của Thẩm
phán trong hoạt động xét xử cũng như trong hoạt động tư pháp hình sự.
1.2.1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán
Nhiệm vụ của Thẩm phán được thể hiện như sau:
- Đây là những yêu cầu cụ thể do Nhà nước đặt ra đối với chức danh
Thẩm phán và được quy định trong Hiến pháp, BLTTHS, Pháp lệnh Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân.
- Nhiệm vụ của Thẩm phán còn được hiểu là trách nhiệm, là nghĩa vụ
pháp lý mà Thẩm phán phải thực hiện trong hoạt động xét xử.
Luôn đi đôi song hành với nhiệm vụ là quyền hạn. Đây là quyền năng
pháp lý mà pháp luật quy định cho Thẩm phán để thực hiện chức năng xét xử
trong tố tụng hình sự.
Về nguyên tắc, nhiệm vụ, quyền hạn của Thẩm phán phải được xác
định đầy đủ trên cơ sở vai trò, vị trí, chức năng nhiệm vụ của Thẩm phán
trong tố tụng hình sự. Mặt khác, chúng phải được pháp luật quy định cụ thể rõ
ràng và chặt chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho Thẩm phán hoàn thành hiệu
quả nhiệm vụ xét xử của mình, tránh tình trạng tuỳ tiện hay lạm dụng quyền
hạn trong thực tiễn xét xử.


20


Trong mỗi một giai đoạn lịch sử phát triển đất nước, nhiệm vụ quyền
hạn của Thẩm phán cũng có những thay đổi song vẫn dựa trên những nguyên
tắc chung của tố tụng hình sự và nhằm mục đích phục vụ chức năng xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
1.2.2. Mối quan hệ giữa Thẩm phán với các chức danh tư pháp khác trong
hoạt động xét xử
Vị trí vai trò của Thẩm phán được thể hiện trong mối quan hệ nội bộ
của Toà án (mối quan hệ bên trong) và mối quan hệ với các chức danh tư
pháp khác (mối quan hệ bên ngoài).
- Xét về mối quan hệ bên trong: trong nội bộ cơ quan Toà án, Thẩm
phán có rất nhiều mối quan hệ như quan hệ với lãnh đạo, quan hệ với Thẩm
phán khác, quan hệ với Thư ký và các cán bộ khác của Toà án. Tất cả các mối
quan hệ này đều thể hiện vị trí trung tâm của Thẩm phán.
+ Quan hệ giữa lãnh đạo Toà án với Thẩm phán: xét về bản chất
đây là quan hệ quản lý hành chính. Một cơ quan đoàn thể nào cũng cần có tổ
chức và hoạt động theo một quy chế nhất định. Chánh án, Phó Chánh án là
những người lãnh đạo, quản l‎ý toàn bộ mọi mặt của cơ quan Toà án sao cho
đảm bảo hoạt động của Toà án với vai trò là một cơ quan nhà nước. Trong
mối quan hệ này, Thẩm phán chỉ với tư cách là nhân viên, cán bộ trong cơ
quan. Thẩm phán phải chịu sự phân công của lãnh đạo. Chánh án, Phó Chánh
án chỉ có thể quản lý về mặt con người còn về lĩnh vực nghiệp vụ thì không
thể can thiệp vào công việc xét xử của Thẩm phán.
+ Quan hệ giữa Thẩm phán với nhau: mối quan hệ này phát sinh
trong hoạt động xét xử của Thẩm phán. Và do đó, đây là quan hệ mang tính
chất tố tụng.‎ Thẩm phán được hoàn toàn độc lập không bị phụ thuộc vào bất
cứ ai cho dù là lãnh đạo Toà án. Bản thân Chánh án, Phó Chánh án cũng là
Thẩm phán. Khi tham gia hoạt động tố tụng thì các Thẩm phán đều có những

quyền và nghĩa vụ giống nhau theo quy định của tố tụng. Nếu HĐXX có năm
thành viên, trong đó có hai Thẩm phán thì một Thẩm phán là lãnh đạo Toà án

21


thì khi biểu quyết quyết định hình phạt, ý kiến của Thẩm phán lãnh đạo Toà
án cũng chỉ là một lá phiếu và ‎chỉ được biểu quyết với tư cách là Thẩm phán.
+ Mối quan hệ với Hội thẩm: Hội thẩm là những người đại diện
cho nhân dân tham gia vào hoạt động xét xử với mục đích đảm bảo tính dân
chủ. Hội thẩm là những người được bầu và chịu sự phân công của Chánh án.
Họ không phải cán bộ Toà án. Công tác Hội thẩm là công tác kiêm nhiệm.
Hội thẩm cũng có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ, tham gia xét xử. Khi xét xử
vụ án, mọi vấn đề phải được Thẩm phán và Hội thẩm thảo luận và thông qua
tại phòng nghị án. Khi giải quyết các vấn đề phát sinh trong quá trình xét xử
cũng như khi quyết định bản án, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán, để
cùng với Thẩm phán đưa ra một bản án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán và Hội thẩm là mối quan hệ độc lập. Tính độc
lập ở đây thể hiện trên hai phương diện: độc lập với các cá nhân khác và độc
lập với chính những thành viên trong HĐXX. Mặc dù vậy, trong hoạt động
xét xử vị trí của Thẩm phán vẫn là trung tâm. Điều này thể hiện trong toàn bộ
quá trình xét xử. Thẩm phán luôn giữ vai trò chủ đạo điều khiển phiên toà từ
phần thủ tục đến phần tuyên án.
+ Quan hệ giữa Thẩm phán và Thư ký Tòa án: theo quy định của
BLTTHS thì Thư ký là người tiến hành tố tụng bao gồm những người được
xếp vào ngạch công chức "Thư ký Toà án" và những người được xếp ngạch
công chức "chuyên viên pháp lý", "thẩm tra viên" được Chánh án phân công
tiến hành tố tụng. Thư ký Toà án có các chức năng: giúp Thẩm phán trong
công tác chuẩn bị phiên toà khi cần thiết, trước khi bắt đầu phiên toà, phổ
biến nội quy phiên toà (điều 171 BLTTHS 2003), báo cáo danh sách những

người được triện tập hợp lệ, ghi biên bản phiên toà. Tất cả các công việc trên
của Thư ký đều nhằm mục đích phục vụ cho công tác xét xử của Thẩm phán.
Mặc dù là người giúp việc cho Thẩm phán để phục vụ phiên toà nhưng Thư
ký tiến hành các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật và theo sự

22


phân công của Chánh án, chịu trách nhiệm trước pháp luật và Chánh án về
những hành vi của mình.
- Xét về mối quan hệ bên ngoài: hoạt động xét xử của Thẩm phán
không chỉ bó hẹp trong mối quan hệ nội bộ cơ quan Tòa án mà cần phải duy
trì mối quan hệ với các chức danh tư pháp khác.
+ Quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên: Kiểm sát viên
tham gia tố tụng với hai chức năng chính là thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất. Kiểm sát viên tham gia tố tụng theo sự phân
công và chỉ đạo trực tiếp của Viện trưởng Viện kiểm sát. Hiệu quả xét xử của
Toà án phụ thuộc không ít vào hoạt động của Kiểm sát viên. "Phán quyết của
Toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở
xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, người bào
chữa,.." (Nghị quyết 08-NQ/TW). Căn cứ vào kết quả điều tra, Kiểm sát viên
có quyền lập bản cáo trạng, có quyền xét hỏi, tranh luận, rút toàn bộ hay một
phần quyết định truy tố tại phiên toà. Tại phiên toà, Kiểm sát viên có trách
nhiệm chứng minh tính có căn cứ của nội dung truy tố bằng cách đưa ra
những chứng cứ, căn cứ pháp lý, lập luận để buộc tội bị cáo, đồng thời bác bỏ
các chứng cứ, quan điểm lập luận của bị cáo, người bào chữa. Trên cơ sở đó,
Kiểm sát viên đưa ra kết luận, đề nghị và yêu cầu cụ thể đối với HĐXX. Kiểm
sát viên không có quyền thay đổi nội dung buộc tội theo hướng tăng nặng đối
với bị cáo. Việc thay đổi nội dung buộc tội của Kiểm sát viên chỉ được phép

nếu điều đó không làm xấu hơn tình trạng của bị cáo và không vi phạm quyền
bào chữa của bị cáo. Ngoài ra, Kiểm sát viên còn kiểm sát việc tuân theo pháp
luật tại phiên toà. Đây là hai chức năng gắn bó chặt chẽ với nhau, trong đó,
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử hỗ trợ cho chức năng
thực hành quyền công tố. Các chức năng này của Viện kiểm sát được kiểm sát
viên thực hiện thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên toà. Ngay cả sau khi
phiên toà kết thúc, Kiểm sát viên vẫn còn phải tiếp tục thực hiện nhiệm vụ

23


của mình, kiểm sát tính hợp pháp và có căn cứ của bản án mà HĐXX đã
tuyên và biên bản phiên toà. Nếu phát hiện có vi phạm pháp luật, Kiểm sát
viên có quyền yêu cầu toà án khắc phục những vi phạm đó hoặc báo cáo Viện
trưởng Viện kiểm sát kháng nghị theo trình tự phúc thẩm.
Qua phân tích nhiệm vụ quyền hạn của Kiểm sát viên, có thể nhận thấy
mối quan hệ giữa Thẩm phán và Kiểm sát viên là mối quan hệ phối hợp
nhưng có sự kiểm tra, giám sát lẫn nhau. Mặc dù BLTTHS không quy định cụ
thể sự phối hợp này tuy nhiên đây là hai chức danh tư pháp chủ yếu trong tố
tụng hình sự để tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Mỗi một khâu làm tốt sẽ
tạo tiền đề, điều kiện để khâu sau đạt hiệu quả cao. Công tác xét xử của Toà
án đạt hiệu quả phải phụ thuộc vào yếu tố con người. Cho dù pháp luật có
hoàn hảo mà trình độ, ‎ý thức của những người tiến hành tố tụng không có thì
cũng không đạt được hiệu quả mong muốn. Sự phối hợp ở đây không có
nghĩa là thông đồng để đưa ra phán quyết sai lầm, bỏ lọt tội phạm. Sự phối
hợp ở đây là tạo điều kiện cho cả Thẩm phán và Kiểm sát viên hoàn thành
nhiệm vụ của mình. Phối hợp được thể hiện cả về hình thức lẫn nội dung.
+ Quan hệ giữa Thẩm phán và các chức danh bổ trợ tư pháp khác
trong hoạt động tố tụng: diễn biến phiên toà được tiến hành theo ba chức năng
cơ bản của tố tụng hình sự là buộc tội (do Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát

thực hiện), gỡ tội (do luật sư, người bào chữa đảm nhiệm) và chức năng xét
xử (do HĐXX thực hiện). Trong nhiều vụ án, để đánh giá chính xác, đúng
đắn, khách quan các tình tiết, sự kiện phức tạp, các cơ quan điều tra, công tố,
xét xử phải huy động sự hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức chuyên môn có thể
cung cấp, xác minh các tài liệu có giá trị chứng cứ (ví dụ như cơ quan công
chứng) hoặc có thể cung cấp các kết luận giám định khoa học, chuyên môn
sâu trong các lĩnh vực khác nhau (ví dụ như giám định tư pháp). Hoạt động bổ
trợ tư pháp là hoạt động hỗ trợ cho cơ quan tư pháp thực hiện tốt chức năng,
quyền hạn của mình. Các chức danh bổ trợ tư pháp bao gồm có Giám định
viên, Luật sư, Công chứng viên. Mỗi một chức danh này đều có vai trò, quyền

24


và nghĩa vụ đặc trưng riêng nhưng có điểm chung là hoạt động của các chức
danh này là cần thiết, tạo điều kiện thể hiện sự dân chủ, khách quan trong
phán quyết của Thẩm phán. Luật sư là người bào chữa hoặc người bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia tố tụng theo quy định của
pháp luật. Việc tham gia tố tụng của luật sư là yếu tố ảnh hưởng nâng cao
hiệu quả xét xử của Toà án. Luật sư giữ vai trò rất quan trọng trong tranh
tụng, đại diện cho bên gỡ tội đối đáp với Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại
phiên toà để làm sáng rõ nội dung vụ án. Đối với công tác giám định, các
giám định viên sử dụng kiến thức chuyên môn của mình để đưa ra kết luận
trong lĩnh vực nào đó. Từ những kết luận đó, HĐXX xem xét để áp dụng
pháp luật cho đúng và đảm bảo tính khách quan của bản án. Nếu công tác
giám định không chính xác sẽ làm sai lệch hồ sơ dẫn đến phán quyết của Toà
án không có chất lượng cao, nhiều khi gây ra oan, sai. Người giám định, Luật
sư là người tham gia tố tụng. Chính với tư cách tố tụng như vậy nên giữa
Thẩm phán và Luật sư, Giám định viên có sự độc lập trong hoạt động tố tụng.
Mối quan hệ giữa Thẩm phán với Kiểm sát viên, Điều tra viên khác với mối

quan hệ giữa Thẩm phán và Luật sư, Giám định viên. Sự khác biệt này xuất
phát từ vị trí tố tụng của các chức danh này. Đây là sự khác biệt về bản chất.
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên là những người tiến hành tố tụng có
trách nhiệm chứng minh tội phạm, tìm ra sự thật khách quan của vụ án. Trong
khi đó thì Luật sư, Giám định viên không có nghĩa vụ này. Họ tham gia tố
tụng với quyền là làm sáng rõ vụ án để bảo vệ lợi ích cho thân chủ của mình.
Đây là quyền chứ không phải là nghĩa vụ. Quan hệ giữa Thẩm phán với Luật
sư, Giám định viên chỉ phát sinh trong những vụ án cụ thể. Nếu vụ án đó
không đòi hỏi phải có kết quả giám định hoặc không có luật sư tham gia thì
mối quan hệ này không xuất hiện.
1.2.3. Những nguyên tắc cơ bản của hoạt động xét xử và sự chi phối, tác
động đến địa vị pháp lý của Thẩm phán

25


×