ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CAO VIỆT CƢỞNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
(Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI - 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
CAO VIỆT CƢỜNG
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
(Trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số
: 60 38 40
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Mạnh Hùng
HÀ NỘI - 2013
2
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC THỰC HÀNH
7
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.
Khái niệm quyền công tố và thực hành quyền công tố trong
giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
7
1.1.1. Khái niệm quyền công tố
7
1.1.2. Thực hành quyền công tố
14
Khái niệm, đối tượng, phạm vi kiểm sát tuân theo pháp luật
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
19
1.2.1. Khái niệm kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự
19
1.2.2. Đối tượng, phạm vi kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự
21
1.3.
Các quy định pháp luật tố tụng hình sự về thực hành quyền
công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm
sát nhân dân trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự 2003
23
1.4.
Các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực
hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai
đoạn điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
27
1.4.1. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi thực hành
27
1.2.
3
quyền công tố trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
1.4.2. Về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát khi kiểm sát tuân
48
theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
1.5.
Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân
theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
55
Chương 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
57
TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRONG NHỮNG
NĂM GẦN ĐÂY (2007 - 2011)
2.1.
Những kết quả đạt được trong công tác thực hành quyền công
tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát
nhân dân thành phố Hà Nội từ năm 2007- 2011
57
2.1.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội thành phố Hà Nội
57
2.1.2. Tình hình tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
59
thành phố Hà Nội
2.1.3. Đánh giá chung về những kết quả đạt được trong công tác
thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình
sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội từ năm
2007-2011
61
Một số tồn tại, hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn
71
2.2.
chế trong công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều
tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố
Hà Nội từ năm 2007- 2011
2.2.1. Một số tồn tại, hạn chế
71
2.2.2. Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế
76
Chương 3:
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP
NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT ĐIỀU TRA
CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
4
82
3.1.
Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự
82
3.2.
Các giải pháp khác
87
3.2.1. Đổi mới công tác cán bộ, tăng cường bồi dưỡng phẩm chất
đạo đức, nâng cao trình độ về chính trị, nghiệp vụ và trách
nhiệm của cán bộ, kiểm sát viên
87
3.2.2. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành của lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân hai cấp
92
3.2.3. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, phương tiện làm việc cho
Viện kiểm sát và hoàn thiện chế độ chính sách đối với cán bộ,
kiểm sát viên
95
3.2.4. Tăng cường quan hệ phối hợp trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ
giữa Viện kiểm sát và Cơ quan điều tra, Tòa án
95
KẾT LUẬN
97
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
99
PHỤ LỤC
104
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS
: Bộ luật Hình sự
BLTTHS
: Bộ luật Tố tụng hình sự
CQĐT
: Cơ quan điều tra
KSV
: Kiểm sát viên
THQCT
: Thực hành quyền công tố
TNHS
: Trách nhiệm hình sự
TTHS
: Tố tụng hình sự
VKS
: Viện kiểm sát
VKSND
: Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC : Viện kiểm sát nhân dân tối cao
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp ở
Việt Nam hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là một cơ quan giữ vị
trí rất quan trọng và là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện chức
năng thực hành quyền công tố (THQCT) và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
2010, định hướng đến năm 2020 chỉ rõ: "Hoàn thiện pháp luật về tổ chức và
hoạt động của Viện kiểm sát theo hướng đảm bảo thực hiện tốt chức năng
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp" [6]. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02
tháng 6 năm 2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020 xác định: "Nghiên cứu chuyển Viện kiểm sát thành Viện công tố, tăng
cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra" [7].
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI trong việc đẩy mạnh xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp tục khẳng định:
...Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo
vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính
sách, pháp luật về hình sự, dân sự, thủ tục tố tụng tư pháp. Đổi mới
hệ thống tổ chức Tòa án theo thẩm quyền xét xử, mở rộng thẩm
quyền xét xử đối với các khiếu kiện hành chính; Viện kiểm sát được
tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức Tòa án, bảo đảm các điều
kiện để thực hiện có hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp… [10].
Việc nghiên cứu để hoàn thiện các cơ chế bảo vệ pháp luật, trong đó
có vấn đề THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp là một trong những
7
nhiệm vụ cấp thiết vì nó không chỉ liên quan đến tổ chức và hoạt động của
VKSND mà còn liên quan đến tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói
chung, trước hết và đặc biệt là các cơ quan tư pháp.
Quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật
của Nhà nước, trong những năm qua ngành Kiểm sát nhân dân đã có nhiều cố
gắng thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ được giao và đã đạt được nhiều thành
tích đáng khích lệ trong hoạt động THQCT và kiểm sát các hoạt động tư
pháp, góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an
toàn xã hội, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân.
Tuy nhiên, so với yêu cầu cải cách tư pháp, công tác THQCT và kiểm
sát hoạt động tư pháp của VKSND vẫn còn những tồn tại, thiếu sót. Trong đó,
công tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật ở giai đoạn điều tra còn yếu
kém, một số kiểm sát viên (KSV) được phân công nhiệm vụ THQCT ở giai
đoạn điều tra chưa nắm vững các quy định của pháp luật, chưa bám sát được
tiến độ điều tra, có khi còn ỷ lại cho điều tra viên, năng lực trình độ tổng hợp,
phân tích, đánh giá chứng cứ còn hạn chế, thiếu toàn diện dẫn đến nhiều vụ
gặp không ít khó khăn cho cơ quan và người tiến hành tố tụng ở các giai đoạn
sau, làm ảnh hưởng đến công tác đấu tranh, phòng chống tội phạm.
Những yếu kém, tồn tại trên có nhiều nguyên nhân, cả nguyên nhân
chủ quan và khách quan. Trong đó chủ yếu là do năng lực trình độ chuyên
môn, bản lĩnh nghề nghiệp, vận dụng và áp dụng pháp luật trong hoạt động
điều tra, THQCT của điều tra viên, KSV còn nhiều bất cập, yếu kém, dẫn đến
những sai sót trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Thực tế nêu trên cho thấy, công tác THQCT và kiểm sát tuân theo
pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự là một trong những vấn đề
cần được tiếp tục nghiên cứu để có những giải pháp khắc phục những tồn tại,
yếu kém, nâng cao hơn nữa chất lượng trong công tác THQCT và kiểm sát
8
điều tra các vụ án hình sự, đáp ứng các yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế trong giai đoạn hiện nay. Chính vì vậy, học viên đã lựa chọn đề tài
"Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân (Trên cơ sở các số liệu
thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội)" làm đề tài luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sau khi Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị
về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới" và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược cải
cách tư pháp đến năm 2020", Kết luận 79/KL-TW về "Đề án đổi mới tổ chức
và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm sát, Cơ quan điều tra" được ban hành, đã
có một số công trình nghiên cứu khoa học ở các cấp độ khác nhau về vấn đề
đổi mới tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát (VKS) theo yêu cầu cải cách
tư pháp trong đó có đề tài khoa học cấp Bộ: "Những vấn đề lý luận về quyền
công tố và thực tiễn hoạt động công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay" - Viện
Khoa học kiểm sát - Viện kiểm sát nhân dân tối cao (VKSNDTC); đề tài khoa
học cấp Bộ: "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp", Viện Khoa học kiểm sát - VKSNDTC; đề
tài khoa học cấp Bộ: "Vai trò của Viện kiểm sát trong việc thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08NQ/TW của Bộ Chính trị", Viện Khoa học kiểm sát - VKSNDT; đề tài:"Chức
năng của Viện kiểm sát thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự", của Phạm Đức Minh, Luận văn thạc sĩ Luật
học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài: "Nguyên tắc thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự", của
Vũ Đức Hạnh, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà
Nội. Cùng với đó, còn có nhiều bài viết về chủ đề này được đăng tải trên các
tạp chí chuyên ngành luật. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu một
9
cách đầy đủ về chức năng THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của
VKSND trên địa bàn thành phố Hà Nội gắn với yêu cầu cải cách tư pháp,
đồng thời nghiên cứu thực tiễn công tác THQCT trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự để thấy được những bất cập, vướng mắc còn chưa được tháo gỡ.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận về quyền công tố, THQCT
và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của
VKSND, từ đó làm căn cứ đánh giá thực trạng công tác THQCT và kiểm sát
tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND hai
cấp thành phố Hà Nội từ năm 2007 đến năm 2011 và đưa ra những giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự của VKSND thành phố Hà Nội trong thời gian tới, góp phần cùng với
các cơ quan tư pháp của thành phố bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của tổ chức và công dân, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích cơ sở lý luận về quyền công tố, THQCT và kiểm sát tuân
theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND.
- Phân tích đánh giá thực trạng công tác THQCT và kiểm sát tuân theo
pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của VKSND hai cấp
thành phố Hà Nội và rút ra nguyên nhân khách quan, chủ quan của một số tồn
tại, hạn chế trong công tác THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của
VKSND hai cấp thành phố Hà Nội.
- Đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hơn chất lượng, hiệu quả công
tác THQCT và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án
hình sự của VKSND hai cấp thành phố Hà Nội trong thời gian tới, đáp ứng
yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay.
10
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn
về chức năng, nhiệm vụ của VKSND khi THQCT và kiểm sát điều tra các vụ
án hình sự.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là một số vấn đề về THQCT và kiểm
sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND trên cơ sở các số liệu thực tiễn địa
bàn thành phố Hà Nội từ năm 2007 - 2011 (đề tài không nghiên cứu số liệu
của VKS quân sự Thủ đô).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm và đường lối của Đảng,
Nhà nước về cải cách tư pháp. Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ
thể như phân tích, so sánh, tổng hợp, khảo sát thực tiễn… để đạt được mục
đích nghiên cứu đã đặt ra.
6. Những đóng góp khoa học của đề tài
Đề tài đã nghiên cứu một cách cơ bản những qui định của pháp luật về
chức năng THQCT và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự của VKSND, đồng
thời nghiên cứu những tồn tại trong thực tiễn áp dụng Bộ luật TTHS 2003 và
các văn bản hướng dẫn thi hành mà nay pháp luật hiện hành vẫn chưa thể tháo
gỡ, những vướng mắc trong việc thực hiện các qui định của Bộ luật Tố tụng
hình sự (BLTTHS) năm 2003 đối với những vấn đề liên quan đến việc thực
hiện chức năng công tố trong hoạt động điều tra của VKS từ đó đưa ra những
kiến giải khoa học về việc tổ chức thực hiện và bổ sung, ban hành mới các
văn bản pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả THQCT và kiểm sát điều tra các
vụ án hình sự, góp phần hoàn thiện hơn nữa tổ chức và hoạt động của VKS
theo yêu cầu cải cách tư pháp.
11
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề chung về công tác thực hành quyền công tố
và kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân.
Chương 2: Thực trạng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát
điều tra các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong những năm gần đây (2007 - 2011).
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và những giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân trên địa bàn thành phố Hà Nội.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM QUYỀN CÔNG TỐ VÀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG
TỐ TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.1.1. Khái niệm quyền công tố
Trong khoa học luật tố tụng hình sự (TTHS), việc xác định khái niệm
quyền công tố và theo đó là THQCT có ý nghĩa lí luận và thực tiễn rất quan
trọng. Giải quyết tốt vấn đề này giúp cho việc xác định chính xác vai trò, vị
trí, chức năng, nhiệm vụ của VKS trong hệ thống cơ quan nhà nước.
Có thể tóm tắt các quan điểm khác nhau đó thành 4 nhóm chính như sau:
- Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng, quyền công tố gắn liền với sự
phát triển của khoa học pháp lý, khi mà các khái niệm dân chủ và quyền con
người được đề cao, đòi hỏi phải có một cơ quan thay mặt Nhà nước đứng ra
bảo vệ quyền bị xét xử bởi các cơ quan tư pháp.
- Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là một quyền độc
lập, chỉ có trong xã hội dân chủ, nhằm bảo vệ quyền của các chủ thể quan hệ
pháp luật khi tham gia tố tụng tại phiên tòa và thực hiện các quyền theo quy
định của pháp luật. Cơ quan công tố là mối dây liên lạc giữa các cơ quan công
quyền với quần chúng, giữa các cơ quan công quyền với nhau nhằm phục vụ
lợi ích hợp pháp của các bên theo quy định của pháp luật. Những người theo
quan điểm này nhấn mạnh quyền công tố là một loại quyền năng mà khi có sự
phân chia triệt để ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì cần phải có
một loại cơ quan đặc biệt để thực hiện quyền tư pháp nhưng "chống" lại
13
quyền xét xử nhằm bảo vệ các đạo luật, bảo vệ Chính phủ và các thể nhân bị
Tòa án xét xử, đó là quyền công tố.
- Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện
cho Nhà nước, đại diện công quyền để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp
luật thống trị ra cơ quan xét xử, do đó quyền công tố không thể xuất hiện
cùng với Nhà nước mà chỉ xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Tòa án với tư
cách là cơ quan xét xử chuyên nghiệp và độc lập [25].
- Nhóm quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là một khái niệm
pháp lý, gắn liền với bản chất của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời
của Nhà nước và pháp luật. Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà
nước, từ Nhà nước chủ nô đến các Nhà nước đại diện [42].
Qua nghiên cứu lịch sử nhà nước và pháp luật thế giới cho thấy các cơ
quan chuyên trách thực hiện quyền công tố xuất hiện khá muộn, gắn liền với
cuộc đấu tranh chống lại chế độ chuyên chế, phi dân chủ, thực hiện sự phân
chia quyền lực trong bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, việc ra đời của các cơ quan
chuyên trách thực hiện quyền công tố không đồng nhất với quyền công tố.
Quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, nó luôn gắn liền
với bản chất của Nhà nước và là một một bộ phận không thể tách rời của công
quyền và xuất hiện cùng với Nhà nước. Nhà nước xuất hiện và tồn tại khi xuất
hiện và tồn tại giai cấp (xuất hiện và tồn tại những đối kháng mang tính giai
cấp). Để quản lý xã hội, Nhà nước phải ban hành pháp luật để điều chỉnh các
quan hệ xã hội, giữ cho các quan hệ xã hội được thực hiện theo ý chí của giai
cấp thống trị nhằm bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Trong bất kỳ một xã
hội nào, cũng tồn tại những mâu thuẫn mang tính giai cấp và có những hành
vi đấu tranh giai cấp dưới các hình thức khác nhau, biểu hiện cụ thể là những
hành vi vi phạm pháp luật chống lại ý chí của giai cấp thống trị, đe dọa đến
quyền thống trị của Nhà nước mà cần phải trừng trị. Để trừng trị người vi
phạm pháp luật thì Nhà nước phải buộc được tội họ thông qua một cơ quan
14
của Nhà nước, đại diện cho Nhà nước. Quyền buộc tội của Nhà nước chính là
quyền công tố, quyền này có thể do một cá nhân, một cơ quan được Nhà nước
giao để thực hiện nó tùy thuộc vào sự phát triển của tổ chức bộ máy nhà nước
qua các thời kỳ lịch sử và phụ thuộc vào bản chất của các kiểu Nhà nước.
Mặt khác, qua nghiên cứu so sánh lịch sử tư pháp hình sự trên thế giới
cho thấy, về cơ bản khái niệm quyền công tố đã được biết đến ngay từ những
thời đại xa xưa của xã hội loài người. Chẳng hạn, ở Nhà nước chiếm hữu nô
lệ Hy Lạp cổ đại vào thế kỷ V trước Công nguyên đã tồn tại hai hình thức tố
tụng - công tố (hoạt động tố tụng đối với các vụ án mà trong đó động chạm
trực tiếp hay gián tiếp đến các lợi ích của Nhà nước khi mà người đại diện của
nó bị thiệt hại do sự vi phạm pháp luật) và tư tố (hoạt động tố tụng đối với các
vụ án xảy ra do sự vi phạm đến các lợi ích riêng của ai đó); còn ở La Mã cổ
đại trong thời kỳ tan rã của nền dân chủ quân sự và hình thành Nhà nước
chiếm hữu nô lệ, thì công tố đã được tiến hành đối với cả các vụ án quan
trọng nhất trực tiếp xâm hại (hoặc đe dọa nghiêm trọng) đến trật tự xã hội các lợi ích công cộng (delicta publica), khác với các vụ án động chạm đến các
lợi ích cá nhân (delicta privata).
Từ những lí do trên, chúng tôi có cùng quan điểm với nhóm quan
điểm thứ tư là: Quyền công tố là một khái niệm pháp lý, gắn liền với bản chất
của Nhà nước và xuất hiện cùng với sự ra đời của Nhà nước và pháp luật.
Quyền công tố tồn tại trong tất cả các kiểu Nhà nước, từ Nhà nước chủ nô
đến các Nhà nước đại diện.
Ở nước ta hiện nay thì khái niệm về quyền công tố còn có nhiều quan
điểm khác nhau và khái quát lại thì có một số quan điểm sau:
- Quan điểm thứ nhất đồng nhất khái niệm quyền công tố với khái
niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS. Có thể thấy rõ quan điểm
này xuất phát từ chức năng của VKS để xem xét quyền công tố. Quan điểm
này cho rằng tất cả các hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật đều là
15
THQCT. Theo quan điểm này, công tố không phải là một chức năng độc lập
của VKS mà chỉ là một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật [26].
Theo chúng tôi, quan điểm trên là chưa chính xác, đã đánh đồng quyền
công tố với quyền kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS, phủ nhận tính
độc lập của hai quyền năng trên mặc dù chúng có nội dung và phạm vi tác
động khác nhau.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, quyền công tố là quyền Nhà nước giao
cho VKS truy tố kẻ phạm tội ra Tòa án, thực hiện sự buộc tội tại phiên tòa.
Quan điểm này nhấn mạnh vai trò duy nhất của VKS trong việc thực hiện
quyền công tố chỉ ở một lĩnh vực TTHS và ở một giai đoạn duy nhất của tố
tụng hình sự là giai đoạn xét xử sơ thẩm [39].
Theo chúng tôi, quan điểm này đã thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm
vi của quyền công tố, không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này.
Bản chất của công tố là buộc tội của Nhà nước đối với người thực hiện hành
vi phạm tội. Hoạt động buộc tội không chỉ trong việc truy tố người phạm tội
ra trước Tòa án mà được thực hiện xuyên suốt trong quá trình điều tra.
- Quan điểm thứ ba cho rằng, quyền công tố là quyền đại diện cho
Nhà nước để đưa các vụ việc vi phạm trật tự pháp luật ra cơ quan xét xử để
bảo vệ lợi ích Nhà nước, bảo vệ trật tự pháp luật [41]. Người theo quan điểm
này cho rằng, quyền công tố xuất hiện từ khi có Nhà nước và pháp luật, được
thể hiện đầu tiên trong lĩnh vực hình sự, TTHS, cùng với sự phát triển của xã
hội, của các ngành luật, quyền công tố được mở rộng sang lĩnh vực dân sự, tố
tụng dân sự và tiếp tục mở rộng sang các lĩnh vực tố tụng tư pháp khác.
Theo chúng tôi, quan điểm trên đã quá mở rộng khái niệm, nội dung
và phạm vi quyền công tố, xóa nhòa ranh giới giữa TTHS và các lĩnh vực tố
tụng khác. Bởi bản chất của quyền công tố là quyền buộc tội của Nhà nước
đối với người thực hiện hành vi phạm tội, nên quyền công tố chỉ có trong lĩnh
16
vực TTHS. Các lĩnh vực tố tụng khác như tố tụng dân sự, tố tụng hành chính
VKS chỉ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các chủ thể tham gia vào các
hoạt động tố tụng đó.
- Quan điểm thứ tư cho rằng, quyền công tố là quyền Nhà nước giao
cho các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc truy cứu trách nhiệm hình sự
(TNHS) và áp dụng các chế tài hình sự đối với người phạm tội. Nói cách
khác, quyền công tố do các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trong quá
trình điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự và thi hành án hình sự. Đó là
hoạt động của Điều tra viên, KSV và những người khác được pháp luật quy
định có trách nhiệm xác định kẻ phạm tội cũng như các căn cứ để kết tội và
áp dụng các hình phạt đối với người phạm tội [40]. Quan điểm nêu trên cho
rằng không chỉ Cơ quan điều tra (CQĐT) và Cơ quan công tố mà cả Cơ quan
xét xử và Cơ quan thi hành án đều là chủ thể thực hiện quyền công tố.
Theo chúng tôi, quan điểm trên đã nhầm lẫn chủ thể của quyền công
tố, mỗi một giai đoạn TTHS đều do một chủ thể nhất định trong quá trình
TTHS tiến hành với chức năng, nhiệm vụ được pháp luật quy định cho mỗi
chủ thể. Hiểu khái niệm quyền công tố theo quan điểm trên đã nhầm lẫn giữa
các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử.
- Quan điểm thứ năm cho rằng, quyền công tố bao gồm quyền khởi tố,
điều tra vụ án, quyền truy tố và buộc tội bị cáo trước Tòa án. Đại diện cho
quan điểm này là các luật gia theo truyền thống pháp luật của Pháp. Quyền
công tố luôn gắn liền với hoạt động buộc tội nhân danh, do vậy quyền công tố
chỉ được thực hiện trong một lĩnh vực duy nhất, đó là lĩnh vực TTHS. Chủ thể
tham gia vào hoạt động THQCT chỉ bao gồm CQĐT (Điều tra viên) và Viện
Công tố (Công tố viên). Quyền công tố được sử dụng để bảo vệ không chỉ các
lợi ích công mà cả lợi ích của cá nhân khi bị hành vi phạm tội xâm hại.
- Quan điểm thứ sáu cho rằng, quyền công tố là sự cáo buộc của Nhà
nước đối với các cá nhân, tổ chức đã vi phạm pháp luật, bao gồm vi phạm
17
hành chính, vi phạm luật dân sự, luật kinh tế và luật hình sự. Và quyền công
tố là quyền của Nhà nước thực hiện sự cáo buộc đó [14]. Theo quan điểm này,
quyền công tố chỉ thuộc về Nhà nước, Nhà nước không thể không thực hiện
quyền công tố khi chính Nhà nước là người ban hành pháp luật, người có
nhiệm vụ bảo vệ pháp luật và đồng thời, Nhà nước là chủ thể tham gia vào
nhiều loại quan hệ pháp luật khác nhau.
- Quan điểm thứ bảy cho rằng, quyền công tố là quyền của Nhà nước
đưa các việc làm phạm pháp liên quan đến lợi ích chung ra Tòa án để xét xử,
vì Nhà nước nhân danh xã hội duy trì trật tự chung bằng pháp luật. Sự can
thiệp của Nhà nước vào các việc phạm pháp nói trên là do nhu cầu duy trì mọi
xung đột xã hội gắn với trật tự công cộng mà trách nhiệm của Nhà nước phải
đứng ra điều hòa - đó là bản chất của quyền lực công. Quyền lực công được
Nhà nước giao cho cơ quan nào phụ thuộc vào từng kiểu Nhà nước. Theo
quan điểm này, quyền công tố là quyền lực công, quyền đó thuộc về Nhà
nước được bắt nguồn từ nhu cầu phải duy trì trật tự xã hội bằng pháp luật để
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và những lợi ích chung có liên quan mà
bất kỳ Nhà nước nào cũng đều cần phải can thiệp duy trì vì đó là môi trường
tồn tại của Nhà nước, là trách nhiệm xã hội của Nhà nước vì Nhà nước nhân
danh xã hội để duy trì các xung đột trong vòng trật tự. Quyền công tố là
quyền lực công, đòi hỏi phải xử lý các vụ việc xâm phạm đến lợi ích chung
một cách công khai bằng con đường Tòa án. Vì thế, quyền công tố thường
gắn với quyền tài phán của Tòa án [12], [43].
Theo chúng tôi thì quan điểm như vậy là không đủ cơ sở, bởi lẽ trong
thực tiễn tố tụng thì ngoài lĩnh vực TTHS, người thực hiện hành vi phạm tội
ngoài khách thể trực tiếp (quan hệ xã hội trực tiếp bị tội phạm xâm hại) thì
đều xâm hại đến trật tự xã hội chung. Còn trong các lĩnh vực tố tụng khác,
hoạt động xét xử của Tòa án đều nhằm bảo vệ, xác định quyền lợi hợp pháp
của các bên tham gia tranh chấp mà các quan hệ pháp lý trong các vụ việc
tranh chấp không phải lúc nào cũng phát sinh từ hành vi vi phạm pháp luật.
18
- Quan điểm thứ tám cho rằng, quyền công tố là quyền nhân danh Nhà
nước thực hiện các chức năng do luật TTHS quy định để kiểm sát tính hợp
pháp của việc điều tra tội phạm, truy tố và buộc tội người đã thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án nhằm góp phần ra
được các bản án có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ
các quyền tự do của công dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của xã hội và
của Nhà nước trong hoạt động TPHS. Theo quan điểm này, quyền công tố mà
VKS nhân danh Nhà nước thực hiện có thể được hiểu theo hai nghĩa (trên hai
bình diện) như sau: Theo nghĩa hẹp - khi nó được hiểu là quyền nhân danh
Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS các chức
năng truy tố và buộc tội trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội bị luật hình sự cấm; Theo nghĩa rộng - khi nó được hiểu là quyền
nhân danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật TTHS
các chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra tội phạm,
truy tố và buộc tội trước Tòa án người đã thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị luật hình sự cấm [2].
Nếu như chỉ hiểu theo nghĩa hẹp, thì nội dung của quyền công tố chỉ
được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ sau khi kết thúc việc điều tra tội
phạm và vụ án hình sự được chuyển sang VKS để truy tố người đã thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự cấm trước Tòa án (1) và, chấm
dứt sau khi Tòa án xét xử xong với việc tuyên một bản án (quyết định) có
hiệu lực pháp luật đối với người đó (2), tức là trong hai giai đoạn của hoạt
động TPHS - truy tố bị can (1) và buộc tội bị cáo của VKS tại phiên tòa xét
xử của Tòa án (2). Hai giai đoạn này tương ứng với việc thực hiện hai chức
năng của VKS nhân danh Nhà nước - chức năng truy tố (1) và chức năng
buộc tội (2).
Còn nếu như hiểu theo nghĩa rộng, thì nội dung của quyền công tố
được thể hiện trong phạm vi (giới hạn) từ khi bắt đầu việc điều tra tội phạm
(1) vụ án hình sự được chuyển sang VKS để truy tố người đã thực hiện hành
19
vi nguy hiểm cho xã hội bị luật Hình sự cấm trước Tòa án (2) và, chấm dứt
khi Tòa án xét xử xong với việc tuyên một bản án (quyết định) có hiệu lực
pháp luật đối với người đó (3), tức là trong ba giai đoạn của hoạt động tư pháp
hình sự - điều tra tội phạm (1), truy tố bị can (2) và buộc tội bị cáo của VKS
tại phiên tòa xét xử của Tòa án (3). Ba giai đoạn này tương ứng với việc thực
hiện ba chức năng của VKS nhân danh Nhà nước - chức năng kiểm sát tính
hợp pháp của việc điều tra (1), chức năng truy tố (2) và chức năng buộc tội (3).
Trên đây là một số quan điểm về quyền công tố. Chúng tôi đồng nhất
với cách phân tích, lập luận thể hiện quan điểm cho rằng quyền công tố chỉ có
thể được xem xét trong mối liên hệ với lĩnh vực pháp luật TTHS, nó luôn gắn
liền với việc nhân danh Nhà nước (nhân danh công quyền) chống lại hình
thức vi phạm pháp luật nghiêm trọng (tội phạm). Bản chất của hoạt động
TTHS là hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng để phát hiện và truy cứu
TNHS đối với người phạm tội. Trong hoạt động TTHS luôn tồn tại ba chức
năng tố tụng cơ bản đó là chức năng buộc tội; chức năng gỡ tội; chức năng xét
xử. Buộc tội là một chức năng tố tụng nhằm truy cứu TNHS đối với người
phạm tội. Cơ quan thực hiện chức năng buộc tội có trách nhiệm và có quyền
đưa ra lời cáo buộc cụ thể đối với cá nhân cụ thể và có nhiệm vụ đưa ra những
tài liệu, chứng cứ cụ thể cho sự buộc tội đó. Với những lập luận trên, chúng
tôi đưa ra khái niệm quyền công tố như sau:
Quyền công tố là quyền thuộc về Nhà nước, được Nhà nước giao cho
một cơ quan thực hiện (ở nước ta là VKSND) để phát hiện tội phạm, truy tố bị
can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó trước phiên tòa.
1.1.2. Thực hành quyền công tố
1.1.2.1. Khái niệm, phạm vi thực hành quyền công tố
Cũng như khái niệm về "quyền công tố", khái niệm "thực hành quyền
công tố" cũng như nội dung, đối tượng tác động và phạm vi của nó còn ít
được đề cập đến và chưa rõ ràng. Các công trình nghiên cứu trong và ngoài
20
ngành kiểm sát nhân dân thời gian qua cho thấy, khi đề cập đến THQCT thì
hoặc mới chỉ đưa ra được một số biện pháp pháp lý để nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác kiểm sát hình sự như: kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử
hình sự, kiểm sát thi hành án…; hoặc gắn việc THQCT với việc thực hiện
những nhiệm vụ khác của KSV trong TTHS; hoặc lại mở rộng phạm vi quyền
công tố được thực hiện trong mọi giai đoạn TTHS bao gồm cả điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án. Hoặc chỉ nêu ra một số biện pháp pháp lý như: lập
cáo trạng và luận tội trước phiên tòa sơ thẩm hình sự và coi đó là THQCT,
thậm chí còn cho rằng, THQCT chỉ là sự buộc tội trước phiên tòa sơ thẩm.
Xuất phát từ quan niệm quyền công tố là quyền nhân danh Nhà nước
để phát hiện tội phạm, truy tố bị can ra trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó
trước phiên tòa, nên "thực hành quyền công tố chính là thực hiện các hành vi
tố tụng cần thiết theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự để truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội, đưa người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và
bảo vệ sự buộc tội đó" [11].
Chúng tôi nhận thấy quan điểm như trên về THQCT là hợp lý. Tuy
nhiên, xuất phát từ những quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
đã được pháp luật quy định, việc sử dụng những quyền năng này để thực hiện
việc truy cứu TNHS đối với người phạm tội chính là THQCT. Do vậy, chúng
tôi đồng tình với quan điểm: "Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều
tra, truy tố và xét xử" [38].
Với ý nghĩa là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý nhằm mục
đích truy cứu TNHS người phạm tội, đối tượng của hoạt động THQCT là cái mà
hoạt động THQCT tác động vào. Trên cơ sở xác định đối tượng của quyền công
tố là tội phạm và người phạm tội thì có thể xác định đối tượng của hoạt động
THQCT cũng là tội phạm và người phạm tội. VKSND THQCT trong giai đoạn
21
này nhằm tập trung xác định có hay không có hành vi phạm tội đã xảy ra; ai là
người thực hiện hành vi phạm tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi phạm tội; hệ thống chứng cứ để chứng minh tội phạm và toàn bộ các tình
tiết có liên quan đến việc phạm tội, đến việc làm rõ tội phạm và người phạm tội.
Để khẳng định chính xác phạm vi THQCT chúng ta phải xem xét đến
phạm vi của quyền công tố. Như đã trình bày ở trên, phạm vi quyền công tố
bắt đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Mục đích là mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh
chóng, công minh theo đúng pháp luật. Do vậy có tội phạm xảy ra đòi hỏi
quyền công tố phải được phát động. Nhưng để có cơ sở phát động quyền công
tố phải có một giai đoạn chuẩn bị xác minh, thu thập tài liệu, tin tức, khám
nghiệm... gọi là giai đoạn tiền khởi tố. Vì thế THQCT chỉ phát sinh khi có
quyết định khởi tố vụ án, nên phạm vi THQCT hẹp hơn phạm vi quyền công
tố. Cần chú ý khi tìm hiểu phạm vi THQCT là không phải mọi trường hợp
quyền công tố đều kéo dài đến tận khi bản án có hiệu lực pháp luật mà có thể
bị triệt tiêu ở giai đoạn điều tra hoặc truy tố. Khi quyền công tố bị triệt tiêu thì
cũng có nghĩa là không còn việc THQCT, đồng nghĩa với việc không phải
mọi vụ án đều được đưa ra xét xử trước Tòa án. Đó là các trường hợp vụ án
được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.
Từ những căn cứ trên chúng tôi đồng tình với quan điểm: "Phạm vi
thực hành quyền công tố bắt đầu từ khi khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi
bản án có hiệu lực pháp luật, không bị kháng cáo, kháng nghị, hoặc vụ án
được đình chỉ theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự" [38].
1.1.2.2. Khái niệm, phạm vi, đặc điểm thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự
Trên cơ sở quan điểm thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng
hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để thực hiện việc
truy cứu TNHS đối với người phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và
22
xét xử, chúng tôi đồng tình với quan điểm cho rằng THQCT trong giai đoạn
điều tra các vụ án hình sự là việc: "Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung thực hành quyền công tố để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người phạm tội trong giai đoạn điều tra, truy tố" [45]. Mục
đích của hoạt động THQCT trong giai đoạn điều tra được xác định là việc
VKS sử dụng tất cả các quyền năng tố tụng nhằm bảo đảm phát hiện kịp thời,
xử lý nghiêm minh mọi hành vi phạm tội, không bỏ lọt tội phạm và người
phạm tội, không làm oan người vô tội.
Phạm vi THQCT ở giai đoạn điều tra của VKS được thực hiện từ khi
khởi tố vụ án hình sự và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra trước
Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật
TTHS. Quan điểm khác cho rằng, phạm vi THQCT ở giai đoạn điều tra bắt
đầu từ khi có tội phạm xảy ra và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra
trước Tòa án để xét xử hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp
luật TTHS. Quan điểm này lại quá mở rộng phạm vi THQCT ở giai đoạn điều
tra bao trùm cả nội dung của quyền công tố, bởi lẽ: Công tố là hoạt động buộc
tội nên nó phải được bắt đầu khi có tội phạm xảy ra trong thực tế khách quan
và được bắt đầu bằng các hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ để phát hiện
tội phạm và người phạm tội. Nói đến quyền công tố là nói đến sự buộc tội,
còn nói đến THQCT là tổng hợp các quyền năng pháp lý để thực hiện việc
buộc tội ấy. Và quyền năng pháp lý để thực hiện sự buộc tội đó chỉ được phát
động khi vụ án hình sự được khởi tố, đánh dấu việc Nhà nước chính thức
công khai trước toàn xã hội có tội phạm xảy ra và bắt đầu triển khai các hoạt
động thực hành quyền truy cứu TNHS đối với người đã thực hiện tội phạm đó.
Từ sự phân tích trên, THQCT ở giai đoạn điều tra của VKS là việc
VKS sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố
để truy cứu TNHS đối với người phạm tội, được thực hiện từ khi khởi tố vụ
án và kết thúc khi VKS quyết định truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử
hoặc khi vụ án được đình chỉ theo quy định của pháp luật TTHS.
23
Thực hành quyền công tố trong hoạt động điều tra có những đặc điểm
cơ bản sau:
Một là, trong khi hoạt động điều tra có nhiệm vụ chứng minh toàn bộ
sự việc phạm tội một cách khách quan, toàn diện, cả chứng cứ buộc tội và
chứng cứ gỡ tội thì hoạt động công tố nhằm thực thi quyền truy cứu TNHS,
quyết định việc buộc tội, việc gỡ tội; quyết định hạn chế các quyền công dân
như bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn khác; quyết định việc
truy tố hoặc đình chỉ vụ án theo quy định pháp luật.
Hai là, THQCT bao gồm hành vi và các quyết định tố tụng mang tính
công khai theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền tố tụng do pháp luật quy định.
Các quyết định công tố thể hiện dưới dạng văn bản của người có thẩm quyền
như: Quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố vụ án, quyết định không khởi tố vụ
án của CQĐT; Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can; Quyết định phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn quyết định khởi tố bị can. Các quyết định tố tụng của
VKS đều được gửi cho người có liên quan theo quy định của pháp luật.
Ba là, hoạt động công tố là nhân danh quyền buộc tội của Nhà nước,
chịu sự lãnh đạo tập trung thống nhất của Viện trưởng VKSNDTC. VKS cấp
trên có quyền rút, hủy bỏ các quyết định công tố không có căn cứ và trái pháp
luật của VKS cấp dưới và yêu cầu ra quyết định đúng pháp luật. Điều này
khác với tổ chức hoạt động điều tra, CQĐT cấp trên không có quyền rút, hủy
bỏ các quyết định tố tụng của CQĐT cấp dưới.
Bốn là, THQCT có đặc điểm khác với hoạt động kiểm sát điều tra.
Tuy cùng một chủ thể tiến hành là VKS nhưng THQCT nhằm vào việc buộc
tội, gỡ tội; yêu cầu bắt, giam giữ và áp dụng các biện pháp cưỡng chế khác
đối với người phạm tội, còn hoạt động kiểm sát điều tra hướng đến sự tuân
thủ pháp luật trong hoạt động điều tra; nếu phát hiện có hành vi vi phạm pháp
luật, VKS có quyền kiến nghị, yêu cầu các chủ thể chấm dứt vi phạm, khôi
phục lại trật tự pháp luật bị vi phạm.
24
Năm là, mục đích của hoạt động THQCT tuy vẫn phải thực hiện việc
xem xét, đánh giá nhằm gỡ tội đối với người phạm tội nhưng thực hiện quyền
buộc tội vẫn là chủ yếu.
1.2. KHÁI NIỆM, ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI KIỂM SÁT TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA CÁC VỤ ÁN HÌNH SỰ
1.2.1. Khái niệm kiểm sát tuân theo pháp luật trong giai đoạn điều
tra các vụ án hình sự
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn
ngữ - Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn Quốc gia xuất bản năm 2000, thì
"kiểm sát" có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng
Quốc gia chỉ đạo biên soạn, thì "kiểm sát" là hoạt động của VKSND nhằm
kiểm tra, giám sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan nhà nước.
Với cách giải thích khái niệm "kiểm sát" của các cuốn từ điển nêu
trên, chúng tôi cho rằng, kiểm sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản: giám
sát và kiểm tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của
các đối tượng bị giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động
phù hợp để yêu cầu người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật
sửa chữa vi phạm đó. Hoạt động kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá hoạt
động của người, cơ quan bị kiểm tra.
Theo pháp luật TTHS Việt Nam, TTHS là trình tự (quá trình) tiến
hành giải quyết vụ án hình sự theo quy định của pháp luật. TTHS bao gồm
toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng (CQĐT, VKS, Tòa án),
người tiến hành tố tụng (Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
và Thư ký Tòa án), người tham gia tố tụng (bị can, bị cáo, người bào chữa…)
của cá nhân, cơ quan nhà nước khác và tổ chức xã hội góp phần vào việc giải
quyết vụ án theo quy định của luật TTHS [44].
25