Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Nguyên tắc suy đoán vô tội trong luật tố tụng hình sự việt nam luận văn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 102 trang )

ðẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ðẶNG THANH TUẤN

NGUYÊN TẮC BẢO ðẢM QUYỀN ðƯỢC BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ,
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN TRONG LUẬT TỐ
TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ðỀ LÝ
LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành : Luật Hình Sự
Mã số
: 60 38 40

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2011


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM
QUYỀN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ,
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN ......................................................................6

1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ......................... 6
1.1.1. Khái niệm oan, sai trong luật tố tụng hình sự Việt Nam .......... 6
1.1.2. Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan........................ 14
1.1.3. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan .... 19


1.2. Phạm vi, nội dung, cơ chế và cách thức bồi thường thiệt hài
và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ...................................... 23
1.2.1. Phạm vi, nội dung bồi thường thiệt hại .................................. 23
1.2.2. Cơ chế và cách thức bồi thường ............................................. 33
1.3. Cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
trong PLVN. ................................................................................................... 37
1.4. Ý nghĩa, vai trò của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. ........ 39
1.5. Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và
phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình
sự một số nước trên thế giới. ........................................................................ 40
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC
BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ, QUYỀN LỢI
CỦA NGƯỜI BỊ OAN ............................................................................................47

2.1. Quy định pháp luật hiện hành về bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. ........ 47


2.1.1. Quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
của PLVN trước 2003 ............................................................ 47
2.1.2. Quy định về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
của PLVN hiện hành .............................................................. 50
2.2. Thực trạng áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan ......... 52
2.2.1. Tổng kết tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết 388 và
những kết quả đạt được .......................................................... 53

2.2.2. Những tồn tại, vướng mắc cơ bản trong việc thực hiện
Nghị quyết 388 và nguyên nhân ............................................ 56
2.2.3. Nguyên nhân của những tồn tại, vướng mắc .......................... 71
CHƯƠNG 3: CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG
NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ, QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN ...................76

3.1. Một số định hướng nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc
bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền
lợi của người bị oan ....................................................................................... 76
3.1.1. Hoàn thiện các văn bản pháp luật liên quan ........................... 76
3.1.2. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước trong lĩnh vực bồi thường cho
những người bị thiệt hại do cơ quan, người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra .................................. 77
3.1.3. Tổ chức tốt việc rà soát xác định các trường hợp được bồi
thường, thụ lý đơn yêu cầu bồi thường, việc công khai xin
lỗi, việc thương lượng và chi trả tiền cho đương sự. ............. 79
3.1.4. Công khai các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền tố tụng đã có hiệu lực pháp luật .................................. 80


3.2. Một số kiến nghị cụ thể trong việc xây dựng các văn bản
hướng dẫn Luật trách nhiệm bồi thường của nhà nước liên quan tới
lĩnh vực bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của
người bị oan ................................................................................................... 81
3.2.1. Về căn cứ xác định một người bị oan ..................................... 81
3.2.2. Về việc xác định thiệt hại và mức bồi thường ........................ 85
3.2.3. Về việc khôi phục danh dự cho người bị oan ......................... 87
3.2.4. Về thủ tục thương lượng ......................................................... 88

KẾT LUẬN ..............................................................................................................93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................95


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT

- Bộ công an:

BCA

- Bộ luật dân sự:

BLDS

- Bộ luật hình sự:

BLHS

- Bộ luật tố tụng hình sự:

BLTTHS

- Bộ tư pháp:

BTP

- Cơ quan tiến hành tố tụng:

CQTHTT


- Công an nhân dân:

CAND

- Cấu thành tội phạm:

CTTP

- Nghị quyết:

NQ

- Pháp luật Việt Nam:

PLVN

- Tòa án nhân dân:

TAND

- Tòa án nhân dân tối cao:

TANDTC

- Tố tụng dân sự:

TTDS

- Tố tụng hình sự:


TTHS

- Trách nhiệm bồi thường của nhà nước:

TNBTCNN

- Ủy ban thường vụ quốc hội:

UBTVQH

- Viện kiểm sát nhân dân:

VKSND

- Viện kiểm sát nhân dân tối cao:

VKSNDTC

- Xã hội chủ nghĩa:

XHCN


MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài
Có thể nói, “oan” là hiện tượng nảy sinh trong quá trình áp dụng pháp
luật hình sự, tố tụng hình sự của bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, mà hậu quả
của nó là quyền tự do thân thể, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tinh
thần, tài sản của công dân bị xâm phạm, làm cho pháp luật không được thực
hiện nghiêm minh, làm giảm lòng tin của nhân dân vào cơ quan tư pháp, tạo

ra dư luận xấu trong xã hội. Với mục tiêu bảo đảm quyền con người, quyền tự
do thân thể, quyền tự do dân chủ và các quyền cơ bản khác của công dân, Bộ
luật Tố tụng hình sự 2003 Việt Nam đã quy định tại Điều 29 “Người bị oan
do người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra có quyền
được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi. Cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và
phục hồi danh dự, quyền lợi cho người bị oan; người đã gây thiệt hại có trách
nhiệm bồi hoàn cho cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật” tạo
cơ sở pháp lý rõ ràng cho nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt
hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có thẩm quyền
trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra. Nguyên tắc này có ý nghĩa rất lớn về
cả lý luận và thực tiễn, đảm bảo cho việc xác định trách nhiệm của nhà nước
trong mối quan hệ qua lại giữa nhà nước và công dân, một trong những nội
dung quan trọng của Nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công
dân vi phạm pháp luật thì phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, Nhà nước có
quyền truy cứu, xử lý và ngược lại Nhà nước vi phạm mà cụ thể ở đây là
người có thẩm quyền tiến hành tố tụng được nhà nước trao quyền đã vi phạm
pháp luật, xâm hại các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân thì trước hết
nhà nước phải có trách nhiệm bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
do người có thẩm quyền tố tụng gây ra sẽ góp phần nâng cao chất lượng và
1


hiệu quả của công tác khởi tố điều tra, xét xử và thi hành án hình sự. Việc cụ
thể hóa nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh
dự, quyền lợi của người bị oan trong hệ thống pháp luật nước ta sẽ tăng cường
dân chủ hóa trong hoạt động tố tụng hình sự, góp phần bảo vệ quyền con
người và bảo đảm nguyên tắc mọi chủ thể đều bình đẳng trước pháp luật về
quyền và nghĩa vụ, thực hiện dân chủ và công bằng xã hội, góp phần xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Do đó việc nghiên

cứu riêng về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi
danh dự, quyền lợi của người bị oan là một việc làm rất cần thiết cả về
phương diện lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay khi
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XII, tại kỳ họp thứ
5 đã thông qua Luật TNBTCNN ngày 18 tháng 6 năm 2009 nhằm cụ thể hóa
nguyên tắc này. Vì vậy, tác giả thực hiện luận văn thạc sĩ với đề tài “Nguyên
tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền
lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý
luận và thực tiễn” để góp phần vào việc nghiên cứu đó.
2. Tình hình nghiên cứu
Oan, sai và bồi thường cho người bị oan trong tố tụng hình sự là một
vấn đề pháp lý được nhiều nhà luật học quan tâm và nghiên cứu. Tính tới thời
điểm hiện nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này được công
bố dưới các hình thức khác nhau, như: đề tài khoa học cấp bộ, bài viết trên
các tạp chí. Về đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ có đề tài “Những tồn tại,
vướng mắc trong việc thực hiện Nghị Quyết 388/NQ – UBTVQH 11 ngày
17/3/2003 của UBTVQH về bồi thường cho người bị oan do người có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, thực trạng và giải pháp” của
Viện khoa học Kiểm sát, Viện Kiểm sát NDTC, năm 2006. Về các bài viết
trên các báo, tạp chí khoa học chuyên ngành, phải kể đến một loạt bài của hai
2


tác giả TS. Nguyễn Ngọc Chí và CN. Đào Thị Hà, cụ thể: (I) TS Nguyễn
Ngọc Chí, Đào Thị Hà, Bàn về minh oan, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5
năm 2003; (II) TS Nguyễn Ngọc Chí, Đào Thị Hà, Bàn về oan, sai trong tố
tụng hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 2 năm 2003; (III) TS. Nguyễn
Ngọc Chí, Đào Thị Hà, Cơ chế minh oan trong tố tụng hình sự, Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, Kinh tế - Luật. Tập 21, Số 3, 2005
3. Mục đích của đề tài

Khi nghiên cứu đề tài: “Nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng
hình sự Việt Nam – Những vấn đề lý luận và thực tiễn”, tác giả tập trung
vào việc giải quyết các vấn đề sau:
- Phân tích nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi
thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và chỉ ra các cơ sở pháp lý
của nguyên tắc này trên cơ sở những quy định của pháp luật hiện hành.
- Phân tích và đánh giá thực trạng của nguyên tắc bảo đảm quyền được
bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra, trên cơ sở nghiên cứu
các quy định pháp luật trong NQ 388 và Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước và một số tình huống điển hình.
- Chỉ ra những hạn chế, thiếu sót và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu
quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi
danh dự, quyền lợi của người bị oan
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu nội dung, ý nghĩa và
cơ sở pháp lý của nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và
3


phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra và tình hình thực hiện nguyên tắc này trong
thời gian qua trên cơ sở các quy định của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, Nghị quyết 388 và các văn bản hướng dẫn thi hành hai văn bản nêu trên.
5. Phương pháp nghiên cứu
Là một đề tài thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, cho nên trong luận văn
này, tác giả vận dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau. Bên cạnh
những phương pháp nghiên cứu truyền thống như phương pháp duy vật biện

chứng, phương pháp duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, tác giả vận
dụng các phương pháp đặc thù, như: Phương pháp phân tích, phương pháp so
sánh, phương pháp tổng hợp….
- Phương pháp phân tích: Được thể hiện qua việc tác giả tập trung phân
tích những quy định cụ thể trong Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
2010, Nghị quyết 388 và các văn bản hướng dẫn
- Phương pháp so sánh: Được tác giả vận dụng để so sánh các quy định
của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2010 và các quy định trong
NQ 388 và văn bản hướng dẫn.
- Phương pháp nghiên cứu tình huống (Case Study): tác giả sử dụng
phương pháp này để phân tích một số tình huống có thật trong thực tiễn giải
quyết bồi thường cho người bị oan do người có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự gây ra
- Phương pháp tổng hợp: Được tác giả vận dụng để đưa ra những kết
luận mang tính chất tổng hợp và có chọn lọc về nguyên tắc bảo đảm quyền
được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan do
người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự gây ra và đưa ra giải
pháp hoàn thiện trên cơ sở những kết quả có được từ việc phân tích và so sánh
những quy định pháp luật.
4


6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Luận văn là công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về
nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi của người bị oan trong luật tố tụng hình Việt Nam. Do đó, luận văn
sẽ là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, giảng viên, học viên, sinh viên.
Luận văn đưa ra một số giải pháp ở cả hai mức độ, thứ nhất là các giải
pháp mang tính chất định hướng và thứ hai là các giải pháp mang tính cụ thể
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường

thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan. Do đó, luận văn sẽ là
tài liệu tham khảo cho các nhà lập pháp trong việc xây dựng và ban hành các
văn bản hướng dân thi hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước 2010.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về nguyên tắc bảo đảm quyền được
bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
Chương 2: Thực trạng nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt
hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan.
Chương 3: Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng nguyên tắc bảo
đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của
người bị oan

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC BẢO ĐẢM QUYỀN
ĐƯỢC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI VÀ PHỤC HỒI DANH DỰ,
QUYỀN LỢI CỦA NGƯỜI BỊ OAN
1.1. Khái quát về nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt
hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
1.1.1. Khái niệm oan, sai trong luật tố tụng hình sự Việt Nam
Theo Đại từ điển Tiếng việt (Nguyễn Như Ý (chủ biên), NXB Văn hoá
thông tin, Hà Nội, năm 1998, trang 1269.) oan có nghĩa là “bị quy tội không
đúng, phải chịu sự trừng phạt một cách sai trái, vô lý”. Trên cơ sở này, khái
niệm “oan” trong tố tụng hình sự (TTHS) gồm những nội dung sau: Thứ nhất,
công dân bị khởi tố, tạm giam, tạm giữ nhưng sau đó cơ quan tiến hành tố
tụng (CQTHTT) ra quyết định đình chỉ điều tra vụ án, trả tự do vì hết thời hạn
tạm giam, tạm giữ mà không chứng minh được người đó đã thực hiện hành vi

phạm tội, hoặc người đó chưa đến tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc chứng
minh được hành vi của người đó không cấu thành tội phạm (CTTP). Thứ hai,
công dân đã bị truy tố ra Toà án để xét xử nhưng Toà án tuyên bố bị cáo
không có tội hoặc bản án kết tội của Toà án cấp dưới bị Toà án cấp trên huỷ,
tuyên bị cáo không có tội. Thứ ba, công dân bị truy tố, xét xử, kết án theo một
tội danh nặng hơn so với tội danh trên thực tế đã phạm và bản án đã được Toà
án cấp trên sửa theo hướng nhẹ hơn.
Theo từ điển tiếng Việt thì từ “sai’’ được hiểu là “không phù hợp với
cái hoặc điều có thật, mà có khác đi”. Theo đó trong TTHS, việc giải quyết vụ
án sai là trường hợp các CQTHTT giải quyết vụ án được giao một cách không
khách quan, trái với những quy định của pháp luật.

6


Oan và sai trong TTHS là hai hiện tượng hoàn toàn khác nhau, nhưng
có mối quan hệ với nhau: việc làm oan người vô tội luôn luôn là hệ quả của
hành vi trái (sai) pháp luật, còn sai được hiểu là tính chất của hoạt động hoặc
chất lượng giải quyết vụ án hình sự của CQTHTT. Tuy nhiên, cũng có nhiều
trường hợp hành vi sai pháp luật của CQTHTT không dẫn đến việc làm oan
người vô tội. Chẳng hạn: Trong quá trình điều tra, điều tra viên đã hỏi cung bị
can không đúng quy định của luật TTHS (hỏi cung ban đêm...) hoặc do thiếu
trách nhiệm trong việc đánh giá chứng cứ của vụ án, Thẩm phán đã áp dụng
điều luật quy định tội phạm của Bộ luật hình sự không phù hợp với tính chất,
mức độ phạm tội của bị cáo. Những trường hợp sai này không thuộc nội hàm
khái niệm oan. Do đó, một số nhà nghiên cứu cho rằng không được đồng nhất
“oan” và “sai” với nhau và không nên dùng cụm từ “oan sai” mà chỉ sử dụng
cụm từ “oan, sai” hoặc oan, sai độc lập trong những tình huống thích hợp. Sự
nhầm lẫn trên mặc dù chỉ là về mặt ngôn ngữ, nhưng trong khoa học pháp lý
thì ngôn ngữ pháp lý phải được sử dụng một cách chính xác. Đặc biệt,

CQTHTT và người tiến hành tố tụng không được phép đồng nhất hai khái
niệm này với nhau, vì họ là những chủ thể tiêu biểu mang trong mình yếu tố
văn hoá pháp lý của một quốc gia [29].
Pháp luật các quốc gia trên thế giới đều tiếp cận và ở một chừng mực
nhất định quy định các nội dung “oan” trong TTHS. Tại Trung Quốc, các
trường hợp sau được coi là oan: (I) Người bị tình nghi phạm tội bị bắt giữ
nhưng chưa có dấu hiệu thực tế hoặc chưa có những chứng cứ thực tế là phạm
tội; (II) Người chưa thực sự phạm tội nhưng đã bị giam giữ; (III) Người đã
chấp hành hình phạt mà Toà án đã tuyên nhưng sau đó được xét xử lại theo
trình tự kiểm tra, giám sát xét xử là vô tội. Theo Bộ luật Hình sự Cộng hoà
Liên bang Nga, thì các trường hợp sau được coi là oan: (I) Một người rõ ràng
là không có tội nhưng đã bị người có thẩm quyền truy cứu trách nhiệm hình
7


sự; (II) Một người bị tình nghi phạm tội hoặc bị tố cáo là đã thực hiện hành vi
phạm tội bị Kiểm sát viên hoặc người tiến hành điều tra sơ bộ truy cứu trách
nhiệm hình sự trái pháp luật; (III) Một người bị bắt giữ trái pháp luật. Nhìn
chung, pháp luật của hầu hết các quốc gia trên thế giới đều không đưa ra một
khái niệm chung về “oan” trong TTHS, chỉ nêu các trường hợp cụ thể được
coi là oan. Theo tác giả đây là một cách tiếp cận hợp lý, vì việc thừa nhận
trường hợp nào được coi là oan liên quan đến cả vấn đề bồi thường thiệt hại,
nên tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của mỗi nước, ở
mỗi thời kỳ nhất định mà pháp luật quy định cụ thể các trường hợp được coi
là oan, từ đó đưa ra một cơ chế minh oan mang tính khả thi.
Xuất phát từ nhận thức trên, căn cứ vào đặc điểm của từng thời kỳ,
pháp luật Việt Nam có những văn bản quy định khác nhau về các trường hợp
bị oan, cụ thể:
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH11, Điều 1 đưa ra năm trường
hợp được bồi thường thiệt hại, bao gồm: (I) người bị tạm giữ có quyết định

của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định
tạm giữ vì họ không thực hiện bất kỳ hành vi vi phạm pháp luật nào; (II)
người bị tạm giam khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giam vì người đó không thực hiện
hành vi phạm tội; (III) người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình
phạt tù có thời hạn, tù chung thân, đã bị kết án tử hình mà có bản án, quyết
định của Tòa án có thẩm quyền xác định người đó không thực hiện hành vi
phạm tội; (iv) người bị khởi tố, truy tố, xét xử, nếu trong quá trình tiến hành
tố tụng hình sự không bị tạm giữ, không bị tạm giam mà có bản án, quyết
định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định họ
không thực hiện hành vi phạm tội; (v) những người thuộc các trường hợp quy
định tại khoản 1 Điều 1 của Nghị quyết số 388 nếu có tài sản bị thu giữ, tạm
8


giữ, kê biên, tịch thu mà bị thiệt hại”. Như vậy, theo quy định của Nghị quyết
388 thì có bảy đối tượng được bồi thường thiệt hại và được coi là oan bao
gồm: người bị tạm giữ oan do không thực hiện bất kỳ hành vi vi phạm pháp
luật nào và người bị tạm giam, bị chấp hành hình phạt, bị kết án tử hình, bị
khởi tố, truy tố, xét xử, thi hành án mà người đó không thực hiện hành vi
phạm tội.
Ngoài ra, Điều 2 Nghị quyết 388 quy định bốn trường hợp không được
bồi thường thiệt hại, gồm có:
Một là, người được miễn trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp
luật. Điều 25 của Bộ luật hình sự quy định: “Người phạm tội được miễn trách
nhiệm hình sự, nếu khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét xử, do chuyển biến
của tình hình mà hành vi phạm tội hoặc người phạm tội không còn nguy hiểm
cho xã hội nữa. Trong trường hợp trước khi hành vi phạm tội bị phát giác,
người phạm tội đã tự thú, khai rõ sự việc, góp phần có hiệu quả vào việc phát
hiện và điều tra tội phạm, cố gắng hạn chế đến mức thấp nhất hậu quả của tội

phạm, thì cũng có thể được miễn trách nhiệm hình sự. Người phạm tội được
miễn trách nhiệm hình sự khi có quyết định đại xá”. Ngoài quy định này, Bộ
luật hình sự còn có một số quy định khác về miễn trách nhiệm hình sự “người
tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm về tội định
phạm” (Điều 19); “Người chưa thành niên phạm tội có thể được miễn trách
nhiệm hình sự, nếu người đó phạm tội ít nghiêm trọng hoặc tội nghiêm trọng,
gây thiệt hại không lớn, có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ
quan, tổ chức nhận giám sát, giáo dục” (khoản 2 Điều 69).
Hai là, người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng với quy định của BLHS
năm 1985, nhưng nay theo quy định của BLHS năm 1999 thì không phải chịu
trách nhiệm hình sự.

9


Ba là, những người thuộc trường hợp quy định tại Điều 1 của Nghị
quyết 388 mà cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp tài liệu, vật chứng khác
sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để che giấu tội phạm, thì
không được bồi thường thiệt hại.
Bốn là, những người thuộc các trường hợp quy định tại Điều 1 của
Nghị quyết này mà bị tổn hại về sức khoẻ, tính mạng, tài sản do lỗi của chính
mình hoặc do sự kiện bất khả kháng thì không được bồi thường thiệt hại đó.
Để hướng dẫn thi hành Nghị quyết 388, tiểu mục 1 Thông tư 04 đã bổ
sung thêm 3 trường hợp được bồi thường, đó là: (I) Người bị khởi tố, truy tố,
xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã chấp hành hình phạt tù mà sau
đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng
hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của
những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì
được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành
hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải

chấp hành; (II) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một
vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có bản án, quyết
định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định
người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng hợp hình phạt của những
tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được bồi thường thiệt hại tương
ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với mức hình phạt chung của
những tội mà người đó phải chấp hành; (III) Người bị xét xử bằng nhiều bản
án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đó, mà sau đó có bản án,
quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác
định người đó không phạm một hoặc một số tội và hình phạt của những tội
còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi

10


thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt
tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà người đó phải chấp hành.
Bên cạnh đó tiểu mục 2 Thông tư 04 đã bổ sung thêm năm trường hợp
sau thuộc trường hợp không được bồi thường thiệt hại, đó là: (I) Người bị
khởi tố, truy tố trong vụ án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị
hại, nhưng vụ án đã được đình chỉ do người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu
trước ngày mở phiên tòa sơ thẩm, trừ trường hợp hành vi vi phạm pháp luật
của họ chưa cấu thành tội phạm; (II) Người bị khởi tố, truy tố, xét xử là đúng
với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy tố, xét xử,
nhưng nay theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có
hiệu lực sau ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ không phải chịu trách nhiệm
hình sự; (III) Người thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội đã
bị tạm giữ, bị khởi tố, bị tạm giam, bị truy tố, xét xử, thi hành án mà có quyết
định, bản án của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự hủy
bỏ quyết định, bản án đó chỉ vì lý do căn cứ vào kết luận của Hội đồng giám

định pháp y là tại thời điểm thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, hành vi
phạm tội người đó không có năng lực trách nhiệm hình sự; (iv) Người bị khởi
tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, hoặc tòa án quyết định
tổng hợp hình phạt của nhiêu bản án, đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp
hành hình phạt tù, hoặc đã bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành mà sau đó có
bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự xác định người đó bị oan về một hoặc một số tội mà không thuộc trường
hợp quy định tại tiểu mục 1.4; 1.5; 1.6 mục 1 phần này thì không được bồi
thường; (v) Đối với những người bị oan đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các quy định của pháp luật tại thời điểm giải quyết bồi thường
để bồi thường thiệt hại từ trước ngày Nghị quyết 388 có hiệu lực, thì không áp
dụng Nghị quyết này để giải quyết bồi thường lại.
11


Trên cơ sở kế thừa các quy định của Nghị quyết số 388 và các văn bản
hướng dẫn, Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 đã mở rộng
thêm các trường hợp được bồi thường và thu hẹp các trường hợp không được
bồi thường so với các văn bản đó, cụ thể:
Điều 26 đưa ra bảy trường hợp được bồi thường trong hoạt động tố
tụng hình sự, bao gồm: (I) người bị tạm giữ mà có quyết định của cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự huỷ bỏ quyết định tạm giữ vì
người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; (II) người bị tạm giam,
người đã chấp hành xong hoặc đang chấp hành hình phạt tù có thời hạn, tù
chung thân, người đã bị kết án tử hình, người đã thi hành án tử hình mà có
bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình
sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (III) người bị khởi tố,
truy tố, xét xử, thi hành án không bị tạm giữ, tạm giam, thi hành hình phạt tù
có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người đó không thực hiện hành vi phạm tội;

(iv) người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong cùng một vụ án, đã
chấp hành hình phạt tù mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm
quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một
hoặc một số tội và hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời
gian đã bị tạm giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt
của những tội mà người đó phải chấp hành; (v) người bị khởi tố, truy tố, xét
xử về nhiều tội trong cùng một vụ án và bị kết án tử hình nhưng chưa thi hành
mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động
tố tụng hình sự xác định người đó không phạm tội bị kết án tử hình và tổng
hợp hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam thì được
bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm giam vượt quá so với

12


mức hình phạt chung của những tội mà người đó phải chấp hành; (vi) người
bị xét xử bằng nhiều bản án, Toà án đã tổng hợp hình phạt của nhiều bản án
đó, mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt
động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm một hoặc một số tội và
hình phạt của những tội còn lại ít hơn thời gian đã bị tạm giam, chấp hành
hình phạt tù thì được bồi thường thiệt hại tương ứng với thời gian đã bị tạm
giam, chấp hành hình phạt tù vượt quá so với mức hình phạt của những tội mà
người đó phải chấp hành; (vii) tổ chức, cá nhân có tài sản bị thiệt hại do việc
thu giữ, tạm giữ, kê biên, tịch thu, xử lý có liên quan đến các trường hợp quy
định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này thì được bồi thường.
Điều 27 nêu ra năm trường hợp không được bồi thường thiệt hại trong
hoạt động tố tụng hình sự, bao gồm: (I) người được miễn trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật; (II) người cố ý khai báo gian dối hoặc cung cấp
tài liệu, vật chứng khác sai sự thật để nhận tội thay cho người khác hoặc để

che giấu tội phạm; (III) người bị khởi tố, truy tố, xét xử về nhiều tội trong
cùng một vụ án hoặc Toà án quyết định tổng hợp hình phạt của nhiều bản án,
đã bị tạm giữ, bị tạm giam, đã chấp hành hình phạt tù hoặc đã bị kết án tử
hình nhưng chưa thi hành án mà sau đó có bản án, quyết định của cơ quan có
thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không phạm
một hoặc một số tội nhưng không thuộc các trường hợp quy định tại các
khoản 4, 5 và 6 Điều 26 của Luật này; (iv) người bị khởi tố, truy tố trong vụ
án hình sự được khởi tố theo yêu cầu của người bị hại nhưng vụ án đã được
đình chỉ do người bị hại đã rút yêu cầu khởi tố, trừ trường hợp hành vi vi
phạm pháp luật của họ chưa cấu thành tội phạm; (v) người bị khởi tố, truy tố,
xét xử là đúng với các văn bản quy phạm pháp luật tại thời điểm khởi tố, truy
tố, xét xử nhưng tại thời điểm ra bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật mà
theo các văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành và có hiệu lực sau
ngày khởi tố, truy tố, xét xử đó họ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
13


Như vậy, so với Nghị quyết số 388 và các văn bản hướng dẫn, Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010 đã bổ sung thêm 2 trường
hợp được bồi thường, đó là: (I) Người đã thi hành án tử hình mà có bản án,
quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác
định người đó không thực hiện hành vi phạm tội; (II) Người bị thi hành án
không phải là hình phạt tù có thời hạn mà có bản án, quyết định của cơ quan
có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người đó không thực
hiện hành vi phạm tội
Ngoài ra Luật còn thu hẹp đối tượng không được bồi thường bằng việc
bỏ các quy định không cần thiết, cụ thể là các quy định sau: (I) người bị xử lý
về hình sự theo quy định của Bộ luật hình sự được Quốc hội thông qua ngày
27 tháng 6 năm 1985 đã được sửa đổi, bổ sung theo các luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của Bộ luật Hình sự được Quốc hội thông qua ngày 28 tháng 12

năm 1989, ngày 12 tháng 8 năm 1991, ngày 22 tháng 12 năm 1992 và ngày 10
tháng 5 năm 1997, nhưng nay theo quy định của Bộ luật hình sự năm 1999 thì
không phải chịu trách nhiệm hình sự; (II) người thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật, hành vi phạm tội đã bị tạm giữ, bị khởi tố, bị tạm giam, bị truy tố,
xét xử, thi hành án mà có quyết định, bản án của cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự hủy bỏ quyết định, bản án đó chỉ vì lý do căn cứ
vào kết luận của Hội đồng giám định pháp y là tại thời điểm thực hiện hành vi
vi phạm pháp luật, hành vi phạm tội người đó không có năng lực trách nhiệm
hình sự; (III) đối với những người bị oan đã được cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng các quy định của pháp luật tại thời điểm giải quyết bồi thường
để bồi thường thiệt hại từ trước ngày Nghị quyết 388 có hiệu lực, thì không áp
dụng Nghị quyết này để giải quyết bồi thường lại.
1.1.2. Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan
Căn cứ pháp lý xác định một công dân bị oan trong TTHS là các quyết
14


định mang tính gỡ tội, minh oan cho bị can, bị cáo, người bị kết án. Việc xác
định căn cứ này có ý nghĩa rất to lớn, nó vừa biểu hiện cho kết quả của “hành
trình” minh oan (dù chưa phải là kết quả cuối cùng), vừa là cơ sở pháp lý để
các CQTHTT khôi phục lại những thiệt hại mà người bị oan đã phải gánh chịu.
Nhìn chung, các nước đều quy định căn cứ xác định một công dân bị
oan là một phán quyết của Toà án. Đây có thể là một phán quyết sơ thẩm hoặc
phúc thẩm. Tuy nhiên, một số nước lại chỉ nhấn mạnh việc bồi thường thiệt
hại cho người bị oan khi Toà phúc thẩm tuyên vô tội (hủy bản án kết tội).
Theo quy định của pháp luật Cộng hoà Pháp thì một người được coi là oan
khi có tuyên bố của Toà Phá án rằng người đó vô tội (Phòng hình sự Toà Phá
án xét xử lại bản án và bản án được đưa ra xét xử đã được Toà Phá án ra
quyết định huỷ bỏ và xác định sự vô tội). Tại Trung Quốc, theo quy định của
các Điều 21, Điều 22 Luật Nhà nước bồi thường thiệt hại và Khoản 3 trong

giải thích của Toà án nhân dân tối cao về việc Toà án nhân dân thực hiện Luật
Nhà nước bồi thường thiệt hại thì căn cứ xác định oan chính là phán quyết của
Toà án tuyên bị cáo vô tội. Theo quy định của pháp luật Nhật Bản thì căn cứ
pháp lý xác định một người bị oan là quyết định của Toà án tuyên vô tội theo
thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm hoặc thủ tục kháng án đặc biệt. Tại Thuỵ Điển,
căn cứ pháp lý xác định một người bị oan là quyết định của cơ quan có thẩm
quyền xác định một người bị tạm giữ, tạm giam oan quá 24 giờ hoặc quyết
định của Toà án tuyên vô tội.
Khác với pháp luật của một số nước trên thế giới, pháp luật Việt Nam
thừa nhận một người bị oan trong mọi giai đoạn TTHS. Đây là điểm ưu việt
của pháp luật nước ta, có như vậy thì quyền và lợi ích hợp pháp của người bị
oan mới được bảo vệ một cách triệt để [30, trang 4]. Căn cứ pháp lý để xác
định một người bị oan được quy định cụ thể tại Điều 6 khoản 2 Luật trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2010, đó là: “Có bản án, quyết định của
15


cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định
người bị thiệt hại thuộc các trường hợp được bồi thường quy định tại Điều 26
của Luật này”; Đây là điểm mới của Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước năm 2010 so với Nghị quyết 388 và các văn bản hướng dẫn vì các văn
bản này không quy định trực tiếp căn cứ pháp lý xác định một người bị oan,
theo đó căn cứ pháp lý xác định một người bị oan là một trong các quyết định
sau: Quyết định đình chỉ điều tra của cơ quan điều tra; Quyết định đình chỉ vụ
án của Viện kiểm sát nhân dân; Bản án, Quyết định của Toà án tuyên bị cáo,
người bị kết án không có tội theo trình tự sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm,
tái thẩm hoặc quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt một cách đáng kể
hay áp dụng điều khoản về tội danh nhẹ hơn.
Quyết định đình chỉ điều tra: Đình chỉ điều tra là việc cơ quan điều
tra chấm dứt toàn bộ hoạt động điều tra đối với vụ án cũng như đối với bị can

khi có những căn cứ mà Luật TTHS quy định. Khoản 2, Điều 164 của Bộ luật
tố tụng hình sự 2003 quy định: “Cơ quan điều tra ra quyết định đình chỉ điều
tra trong những trường hợp sau đây:
a) Có một trong những căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 105 và Điều
107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và khoản 2 Điều 69 của Bộ
luật hình sự;
b) Đã hết thời hạn điều tra mà không chứng minh được bị can đã thực
hiện tội phạm”. Tuy nhiên, không phải quyết định đình chỉ điều tra trong mọi
trường hợp trên đều được coi là quyết định mang tính minh oan, chỉ coi là
quyết định mang tính minh oan khi cơ quan điều tra ban hành quyết định đó
trong hai trường hợp sau: Thứ nhất, hành vi không cấu thành tội phạm
(Khoản 2, Điều 107): là hành vi không đủ các dấu hiệu trong cấu thành tội
phạm, như: có hành vi nguy hiểm nhưng hành vi đó không được quy định
trong Bộ luật hình sự hoặc hành vi nguy hiểm đó là hành vi không có lỗi,
16


hành vi có những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
(phòng vệ chính đáng, tình thế cấp thiết, do người không có năng lực TNHS
thực hiện...). Thứ hai, đã hết thời hạn điều tra theo luật định mà không chứng
minh được bị can thực hiện tội phạm. Đây là trường hợp không chứng minh
được bị can thực hiện hành vi phạm tội. Quyết định đình chỉ được ban hành
trong các trường hợp khác (đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, tội
phạm đã được đại xá…) không được coi là quyết định mang tính minh oan, vì
trong trường hợp đó hành vi của bị can đã có đủ yếu tố cấu thành tội phạm,
nhưng vì lý do nhân đạo hoặc những lý do khác mà cơ quan điều tra phải ra
quyết định đình chỉ điều tra.
Quyết định đình chỉ vụ án: (vì lý do hành vi của người bị buộc tội
không cấu thành tội phạm hoặc người bị buộc tội không thực hiện hành vi
phạm tội). Đây là quyết định mang tính minh oan do Viện kiểm sát ban hành

ở giai đoạn truy tố. Theo quy định của Điều 169 của BLTTHS thì Viện kiểm
sát ra quyết định đình chỉ vụ án khi có một trong những căn cứ quy định tại
khoản 2 Điều 105 và Điều 107 của Bộ luật này hoặc tại Điều 19, Điều 25 và
khoản 2 Điều 69 của Bộ luật hình sự. Vẫn theo phân tích ở phần trên, thì
quyết định đình chỉ vụ án của Viện kiểm sát được ban hành vì lý do hành vi
không cấu thành tội phạm mới được coi là quyết định mang tính minh oan.
Khoản 1, Điều 107 quy định Viện kiểm sát có quyền ra quyết định đình chỉ vụ
án nếu không có sự việc phạm tội - tức là không có hành vi nguy hiểm cho xã
hội được thực hiện. Trong thực tiễn và khoa học pháp lý thì “không có sự việc
phạm tội” và “người bị buộc tội không thực hiện hành vi phạm tội” là hai khái
niệm hoàn toàn khác nhau, vì có trường hợp kẻ phạm tội đã “được” CQTHTT
bỏ lọt và thay vào đó là người không thực hiện hành vi phạm tội lại bị truy
cứu TNHS. Và như vậy, trong trường hợp này Viện kiểm sát nhân dân sẽ xử
lý như thế nào đối với người không có hành vi phạm tội? Đình chỉ vụ án thì
17


không thể được vì đã có sự việc phạm tội, có lẽ hợp lý nhất là Viện kiểm sát
tự mình hoặc yêu cầu cơ quan điều tra huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn đối với bị
can và coi quyết định huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn là quyết định mang tính
minh oan.
Bản án của Toà án xác định bị cáo, người bị kết án không có tội: Bị
cáo là người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Người bị kết án là người
đã bị xét xử và đã bị Toà án có thẩm quyền tuyên bản án có hiệu lực pháp
luật. Chỉ Toà án mới có quyền phán quyết một người có tội hay không có tội.
Việc xét xử của Toà án có thể phải trải qua nhiều giai đoạn khác nhau. Thông
thường, một vụ án hình sự được đưa ra xét xử sơ thẩm là bắt buộc còn xét xử
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì tuỳ thuộc vào các kháng cáo, kháng
nghị theo thẩm quyền luật định. Theo Khoản 3, Điều 244 của BLTTHS 2003
thì nếu có đủ chứng cứ xác định bị cáo không phạm tội thì Toà án phải ghi rõ

trong bản án những chứng cứ xác định bị cáo vô tội và phải giải quyết việc
khôi phục danh dự, quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Khoản 251 của BLTTHS quy
định khi có một trong những căn cứ quy định tại các điểm 1,2 Điều 107
(không có sự việc phạm tội, hành vi không cấu thành tội phạm) Toà án cấp
phúc thẩm huỷ bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo không phạm tội và đình chỉ vụ
án. Như vậy, điều cần bàn ở đây là, cùng với việc huỷ bản án hoặc quyết định
bị kháng nghị và đình chỉ vụ án khi có căn cứ quy định tại điểm 1,2 Điều 107
thì Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm có đồng thời tuyên người bị
kết án vô tội hay không? Vấn đề này pháp luật TTHS chưa quy định rõ ràng.
Điều 286 của BLTTHS quy định: “Hội đồng giám đốc thẩm huỷ bản án hoặc
quyết định đã có hiệu lực pháp luật và đình chỉ vụ án nếu có một trong những
căn cứ quy định tại Điều 107 Bộ luật này” và khoản 3 Điều 298 của BLTTHS
quy định: Hội đồng tái thẩm có quyền “huỷ bản án hoặc quyết định bị kháng
nghị và đình chỉ vụ án”. Theo tác giả, để được coi là quyết định mang tính
18


minh oan thì khi ra quyết định huỷ bản án và đình chỉ vụ án Hội đồng giám
đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm phải đồng thời tuyên bố người bị kết án vô tội
nếu có căn cứ được quy định tại các điểm 1,2 Điều 107 BLTTHS.
Quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt một cách đáng kể hoặc
áp dụng điều khoản về tội danh nhẹ hơn: Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội. Việc xác định khung, loại hình phạt, loại tội danh có ý nghĩa rất lớn trong
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn. Theo quy định của BLTTHS thì việc áp
dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn, áp dụng biện pháp ngăn chặn
nào phụ thuộc trước hết vào loại tội danh và loại hình phạt. Vì thế, việc xác
định sai tội danh, sai khung, loại hình phạt có thể dẫn đến hậu quả là áp dụng
sai biện pháp ngăn chặn và như vậy đã làm oan người vô tội. Vì lẽ đó mà
quyết định của Toà án giảm nhẹ hình phạt hoặc áp dụng điều, khoản về tội

danh nhẹ hơn cũng phải được coi là quyết định mang tính minh oan. Tuy
nhiên, trong thực tiễn để xác định được tội danh nhẹ hơn, nặng hơn thì ta phải
dựa vào năm căn cứ theo thứ tự ưu tiên sau đây: (I) Căn cứ vào loại hình phạt
đối với mỗi tội phạm để xem xét về tội phạm đưa ra phân biệt có cùng hay
khác loại. (II) Nếu các tội có cùng loại hình phạt thì xem xét mức tối đa của
khung hình phạt nặng nhất. (III) Nếu các tội phạm có cùng loại hình phạt, có
mức tối đa bằng nhau thì phải xét mức tối thiểu của khung hình phạt nhẹ nhất.
(iv) Nếu các tội phạm đều có hình phạt chính nặng nhất như nhau thì phải
xem xét hình phạt chính khác nhẹ hơn. (v) Nếu hình phạt chính và mức hình
phạt như nhau, thì phải xem xét quy định về hình phạt bổ sung.
1.1.3. Khái niệm nguyên tắc bảo đảm quyền được bồi thường thiệt
hại và phục hồi danh dự, quyền lợi của người bị oan
Tố tụng hình sự thực chất là mối quan hệ quyền lực, trong đó bên có
quyền lực áp dụng các biện pháp cưỡng chế là Nhà nước mà đại diện là các
19


cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bên còn lại
là người bị tình nghi, người bị giam giữ, bị can, bị cáo. Trong quá trình giải
quyết vụ án, người bị tình nghi, người bị giam giữ, bị can, bị cáo có thể bị áp
dụng các biện pháp ngăn chặn ảnh hưởng tới các quyền công dân, đặc biệt là
các quyền cơ bản được quy định trong Hiến pháp như: quyền tự do thân thể,
quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khoẻ, tài sản, danh dự, nhân phẩm,
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở, an toàn và bí mật thư tín, điện tín, điện
báo và hoàn toàn khó có khả năng bình đẳng với bên buộc tội trong việc
chứng minh, thu thập chứng cứ và trình bày chứng cứ. Họ không dễ dàng gì
trong việc sử dụng quyền tiếp cận công lý như thuê luật sư bào chữa, tìm hiểu
các quy định của pháp luật, thủ tục tố tụng, v.v...; vì những lý do về vật chất
và hiểu biết pháp luật, v.v... Trong mối quan hệ đó, khả năng lạm dụng quyền
lực là hiện thực và đối tượng gánh chịu không ai khác ngoài họ. Đó là một

trong các nguyên nhân làm cho số lượng các vụ án oan, sai, các hành vi tố
tụng trái pháp luật do các cơ quan tố tụng, người tiến hành tố tụng gây ra cho
bị can, bị cáo ngày càng nhiều, vì vậy Điều 29 Bộ Luật TTHS đã đưa ra
nguyên tắc “Bảo đảm quyền được bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi của người bị oan”. Đây là một trong các nguyên tắc cơ bản của
Luật tố tụng hình sự, trong đó đưa ra các phương châm, định hướng chi phối
toàn bộ hay một số giai đoạn quan trọng của tố tụng hình sự trong quá trình
xây dựng và áp dụng pháp luật tố tụng hình sự. Nguyên tắc này thể hiện chính
sách hình sự, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là: (I) Người bị oan do
người có thẩm quyền trong hoạt động TTHS gây ra có quyền được bồi thường
thiệt hại và phục hồi danh dự, quyền lợi; (II) Cơ quan có thẩm quyền trong
hoạt động TTHS đã làm oan phải bồi thường thiệt hại và phục hồi danh dự,
quyền lợi cho người bị oan.

20


×