Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Mô hình tòa án hiến pháp của vài nước trên thế giới và vấn đề xây dựng tòa án hiến pháp ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1001.52 KB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HOÀNG ANH

MÔ HÌNH TÒA ÁN HIẾN PHÁP
CỦA MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI VÀ
VẤN ĐỀ XÂY DỰNG TÒA ÁN HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nƣớc và Pháp luật
Mã số: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ
tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Hoàng Anh


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan


Mục lục
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1: SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ CƠ CHẾ BẢO HIẾN VÀ VỊ
TRÍ, VAI TRÕ CỦA TÕA ÁN HIẾN PHÁP TRONG BỘ MÁY
NHÀ NƢỚC ........................................................................................ 5
1.1.

Sự cần thiết phải có cơ chế bảo hiến ................................................................ 5

1.2.

Vị trí, vai trò của Tòa án Hiến pháp trong bộ máy nhà nước ..........................7

1.2.1 Vị trí, vai trò của tòa án Hiến pháp ..................................................................7
1.2.2 Đặc điểm của tòa án hiến pháp ........................................................................9

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 10
Chƣơng 2: MÔ HÌNH BẢO HIẾN CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH.....11
2.1.

Lịch sử hình thành, phát triển và các mô hình bảo Hiến trên thế giới ...........11

2.2.

Các mô hình bảo hiến điển hình.....................................................................12

2.2.1. Mô hình bảo hiến kiểu phi tập trung .............................................................. 12
2.2.2. Mô hình Bảo hiến tập trung ...........................................................................14
2.2.3. Mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu – Mỹ ......................................................16
2.2.4. Mô hình cơ quan lập hiến có chức năng bảo hiến..........................................16

2.2.5. Các mô hình khác ...........................................................................................17
2.3.

Mô hình Tòa án Hiến pháp ba quốc Mỹ, Đức, Thái Lan ............................... 17

2.3.1. Tòa án của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ ............................................................. 17
2.3.2. Tòa án Hiến pháp nước Đức ..........................................................................23
2.3.3. Tòa án Hiến pháp Thái Lan............................................................................33

KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 40


Chƣơng 3: MÔ HÌNH BẢO HIẾN Ở VIỆT NAM VÀ VIỆC XÂY DỰNG
TÕA ÁN HIẾN PHÁP Ở VIỆT NAM TRONG TƢƠNG LAI ................41
3.1.

Sơ lược về cơ chế Bảo hiến ở Việt Nam qua các bản hiến pháp 1946,
1959, 1980, 1992 và thực trạng bảo hiến ở Việt Nam hiện nay ....................42

3.1.1 Sơ lược về cơ chế bảo hiến ở Việt Nam qua các bản Hiến pháp ...................42
3.1.2. Những tồn tại, khiếm khuyết trong hoạt động bảo hiến ở nước ta hiện nay,
việc đòi hỏi phải có một mô hình bảo hiến độc lập và hoàn thiện ....................49
3.2.

Bảo hiến ở Việt Nam là một nhu cầu tất yếu .................................................54

3.3.

Các tiền đề để xây dựng mô hình bảo hiến độc lập và hoàn thiện ở
Việt Nam .......................................................................................................56


3.4.

Mô hình bảo Hiến ở Việt Nam và việc xây dựng Tòa án Hiến pháp ở
Việt Nam trong tương lai ...............................................................................59

3.4.1. Các phương án thành lập cơ quan bảo hiến ở Việt Nam ............................... 59
3.4.2. Mô hình Tòa án hiến pháp ở việt Nam trong tương lai .................................67

KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................. 76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 79


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiến pháp là nền tảng pháp lý, căn cứ chủ đạo đối với việc ban hành
toàn bộ các văn bản pháp lý khác của Nhà nước, là cơ sở định hướng hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội cũng như
hành vi ý thức pháp luật của mỗi công dân. Chính vì vậy Hiến pháp luôn
được coi là đạo luật của mỗi quốc gia, các văn bản Luật và luật không được
trái với Hiến pháp.
Theo xu hướng phát triển tất yếu của xã hội, có hành vi vi phạm pháp luật
thì cũng sẽ có những điều, hành vi mà chúng ta gọi là vi hiến (vi phạm Hiến
pháp). Vì vậy cũng cần có những quy định, thiết chế để bảo vệ Hiến pháp, mà
một mô hình được coi là truyền thống và hiệu quả nhất vẫn là hệ thống Tòa án.
Việc duy trì và bảo vệ Hiến pháp ở Việt Nam hiện nay còn rất yếu, nguyên nhân
thì có nhiều nhưng tựu chung lại là ở Việt Nam chư có tinh thần thượng tôn Hiến
pháp. Và một trong những biện pháp để kịp thời khắc phục tình trang trên là
thành lập Tòa án Hiến pháp với chức năng xét xử các hành vi vi phạm HIến

pháp. Tuy nhiên, vì Hiến pháp là một thiết chế đặc biệt của Nhà nước nên Tòa
án hiến pháp cũng được coi là một mô hình tòa án đặc biệt.
Các bản Hiến pháp năm 1946,1959,1980 và 1992, sửa đổi bổ sung năm
2011 thì Việt Nam đều không quy định về việc thành lập một cơ quan bảo
hiến chuyên trách mà giao cho Quốc hội. Điều này có nhiều điểm bất lợi hơn
là thuận lợi. Tuy nhiên việc thành lập Tòa án Hiến pháp ở Việt Nam vẫn còn
cả một chặng đường rất khó khăn và phức tạp. Theo xu hướng phát triển
chung của việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
thì việc thành lập một cơ chế bảo hiến là Tòa án hiến pháp được coi là một

1


nhu cầu tất yếu. Với các lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Mô hình tòa án hiến
pháp của một số nƣớc trên thế giới và vấn đề xây dựng tòa án hiến pháp
ở Việt Nam” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sỹ Luật học của mình
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các bản Hiến pháp năm 1946,1959,1980 và 1992, sửa đổi bổ sung năm
20011 thì Việt Nam đều không quy định về việc thành lập một cơ quan bảo
hiến chuyên trách mà giao cho Quốc hội. Điều này có nhiều điểm bất lợi hơn là
thuận lợi. Việc thành lập một cơ chế bảo hiến phù hợp với điều kiện của Việt
Nam và hoạt động có hiệu quả là cả một vấn đề lớn và đang gây nhiều tranh
cãi. Có ý kiến cho rằng chúng ta vẫn nên thành lập Hội đồng bảo hiến nằm
trong Quốc Hội, ý kiến khác lại cho rằng chúng ta nên cơ cấu lại tổ chức của
Tòa án Nhân dân tối cao, theo đó sẽ trao quyền bảo vệ Hiến pháp cho Tòa án
Tối cao. Lại có ý kiến cho rằng nên thành lập Tòa án Hiến pháp không thuộc
Quốc Hội, hoạt động độc lập. Đây đều là những vấn đề tuy không mới mẻ với
các nước trên thế giới nhưng lại đang còn rất nhiều gây tranh cãi ở Việt Nam.
Việc nghiên cứu đề tài này tôi đã phân tích mô hình Tòa án Hiến pháp của một
số nước điển hình trên thế giới. Từ đó xây dựng một mô hình Tòa án hiến pháp

đối với Việt Nam. Tất cả các vấn đề đó hiện vẫn đang là lý luận nên việc
nghiên cứu đề tài cũng chỉ dừng lại ở vấn đề phác thảo một mô hình tòa án hiến
pháp dựa trên các điều kiện lý luận và thực tiễn hiện nay của Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tìm hiểu sự cần thiết phải có
một cơ chế bảo hiến trong giai đoạn hiện nay và sau này. Dựa trên việc phân
tích một số mô hình Tòa án Hiến pháp của một số quốc gia điển hình, từ đó
có cơ sở lý luận, kinh nghiệp để áp dụng cho việc xây dựng một tòa án Hiến
pháp phù hợp với Việt Nam.

2


Để thực hiện được mục đích nêu trên, việc nghiên cứu đề tài luận văn
có những nhiệm vụ chính sau:
- Nghiên cứu để làm rõ khái niệm cơ chế bảo hiến, sự cần thiết phải có
cơ chế bào hiến
- Nghiên cứu mô hình tòa án Hiến pháp của một số các quốc gia điển
hình là Mỹ, Đức, Thái Lan. Đây là các Quốc gia đã có tòa án hiến pháp đang
hoạt động tương đối hiệu quả. Từ đó rút ra các bài học kinh nghiệm co việc
thành lập Tòa án Hiến pháp ở Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, kinh nghiệm của các quốc gia để
thành lập một mô hình Tòa án hiến pháp của Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về bảo hiến,
cơ chế bảo hiến. Hiến pháp là đạo luật cơ bản nhất của bất kỳ một Quốc gia,
cơ chế bảo vệ hiến pháp vì thế cũng được coi là một sự tất yếu. Luận văn
nghiên cứu mô hình tổ chức và hoạt động của Tòa án hiến pháp của một số
quốc gia điển hình, đánh giá những điểm ưu điểm và nhược điểm của nó. Từ
đó rút ra bài học kinh nghiệm để áp dụng cho Việt Nam. Đồng thời phân tích

những điểm thuận lợi và khó khăn cho tiền đề xây dựng một mô hình tòa án
Hiến pháp ở Việt Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin về nhà nước và pháp luật, quan điểm của Đảng cộng sản
về vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta
Quá trình nghiên cứu đề tài cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu
khoa học chuyên ngành như phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích,
phương pháp so sánh và tổng hợp. Ngoài ra phương pháp thống kê cũng được
sử dụng để hoàn thành việc nghiên cứu.

3


6. Ý nghĩa khoa học của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Luận văn là một công trình nghiên cứu khoa học pháp lý có hệ thống
các vấn đề về cơ chế bảo hiến. ý nghĩa khoa học của việc nghiên cứu đề tài
luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Làm sáng tỏ vấn đề sự cần thiết phải có một cơ chế bảo hiến của bất
kỳ quốc gia nào có Hiến pháp
- Phân tích và đánh giá được những ưu điểm, khuyết điểm đang tồn tại
của các mô hình bảo hiến cơ bản trên thế giới
- Đánh giá các điều kiện về lý luận, những điểm thuận lợi và khó khăn
trong việc thành lập tòa án hiến pháp độc lập ở Việt nam
- Đề xuất một mô hình tòa án hiến pháp cho Việt Nam
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Sự cần thiết phải có cơ chế bảo hiến. Vị trí và vai trò của
Tòa án hiến pháp trong bộ máy nhà nước

Chương 2: Mô hình tòa án hiến pháp của một số quốc gia điển hình
Chương 3: Mô hình bảo hiến ở Việt Nam và việc xây dựng Tòa án
Hiến pháp ở Việt Nam trong tương lai

4


Chƣơng 1
SỰ CẦN THIẾT PHẢI CÓ CƠ CHẾ BẢO HIẾN
VÀ VỊ TRÍ, VAI TRÕ CỦA TÕA ÁN HIẾN PHÁP
TRONG BỘ MÁY NHÀ NƢỚC
1.1. Sự cần thiết phải có cơ chế bảo hiến
Hiến pháp là nền tảng pháp lý, căn cứ chủ đạo đối với việc ban hành
toàn bộ các văn bản pháp lý khác của Nhà nước, là cơ sở định hướng hoạt
động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội cũng như
hành vi ý thức pháp luật của mỗi công dân. Chính vì vậy Hiến pháp luôn
được coi là đạo luật của mỗi quốc gia, các văn bản Luật và luật không được
trái với Hiến pháp.
Bảo hiến hiểu theo nghĩa hẹp: bảo hiến (bảo vệ hiến pháp) về ý nghĩa
cốt lõi được hiểu là kiểm soát tính hợp hiến của các đạo luật, là xem xét
xem những đạo luật được đưa ra có phù hợp với tinh thần và nội dung của
Hiến pháp hay không. Những người dân bình thường không có khả năng vi
phạm Hiến pháp bởi lẽ đối tượng điều chỉnh theo nghĩa hẹp nhất của Hiến
pháp là sự giới hạn quyền lực nhà nước. Theo cách hiểu này, bảo hiến
không nhằm vào các văn bản dưới luật. Sự bảo hiến chỉ nhằm vào những
đạo luật do Quốc hội đưa ra.
Bảo hiến hiểu theo nghĩa rộng: bảo hiến được hiểu là kiểm soát tính
hợp hiến của các hành vi của các định chế chính trị được quy định trong Hiến
pháp. Thực tiễn của chế độ bảo hiến ở các nước cho thấy, các định chế bảo
hiến được sinh ra không chỉ đơn thuần là kiểm soát tính hợp hiến của hành vi

lập pháp. Toà án Hiến pháp ở nhiều quốc gia châu Âu bên cạnh việc kiểm
soát tính hợp hiến của các đạo luật của Nghị viện còn thực hiện nhiều chức

5


năng khác để bảo vệ nội dung và tinh thần của Hiến pháp như giải quyết tranh
chấp giữa lập pháp và hành pháp, giữa liên bang và tiểu bang, giữa trung
ương và địa phương; kiểm soát tính hợp hiến trong hành vi của Tổng thống
cũng như của các quan chức trong bộ máy hành pháp.
Cơ chế bảo hiến hiểu theo nghĩa rộng: cơ chế bảo hiến là toàn bộ những
yếu tố, phương tiện, phương cách và biện pháp nhằm bảo đảm cho Hiến pháp
được tôn trọng, chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra.
Cơ chế bảo hiến hiểu theo nghĩa hẹp: cơ chế bảo hiến là một thiết chế
được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc và quy định của pháp luật
để thực hiện các biện pháp nhằm bảo đảm cho Hiến pháp được tôn trọng,
chống lại mọi sự vi phạm Hiến pháp có thể xảy ra. Theo xu hướng phát triển
tất yếu của xã hội, có hành vi vi phạm pháp luật thì cũng sẽ có những điều,
hành vi mà chúng ta gọi là vi hiến (vi phạm Hiến pháp). Vì vậy cũng cần có
những quy định, thiết chế để bảo vệ Hiến pháp, mà một mô hình được coi là
truyền thống và hiệu quả nhất vẫn là hệ thống Tòa án. Tuy nhiên, vì Hiến
pháp là một thiết chế đặc biệt của Nhà nước nên vấn đề bảo vệ Hiến pháp
cũng phải được coi là một thiết chế đặc biệt như vậy. Và tòa án hiến pháp
cũng được coi là một mô hình tòa án đặc biệt.
Các quốc gia có Tòa án hiến pháp độc lập gồm:
Hiện nay, trên thế giới đã có rất nhiều quốc gia có Tòa án Hiến pháp
độc lập khoảng hơn 60 quốc gia. Mỗi quốc gia đều chọn cho mình một mô
hình phù hợp với điều kiện lịch sử và xã hội của mình. Bản thống kê dưới đây
sẽ minh chứng điều này:


6




Albania



Cộng hòa Séc  Latvia



Armenia



Ecuador





Áo



Ai Cập




Azerbaijan





Belarus





Slovakia

Litva



Slovenia



Cộng hòa Macedonia



Nam Phi

Pháp




Madagascar



Tây Ban Nha



Gruzia



Mali



Tajikistan

Bỉ



Đức



Moldova




Thái Lan



Bosna và Hercegovina



Hy Lạp



Mông Cổ



Thổ Nhĩ Kỳ



Bulgaria



Guatemala




Ba Lan



Turkmenistan



Trung Phi



Hungary



Bồ Đào Nha



Uganda



Chile



Ý




Romania



Ukraina



Colombia



Kazakhstan



Nga



Uzbekistan



Congo




Hàn Quốc



Serbia



Croatia



Kyrgyzstan

Trải qua gần một trăm năm tồn tại và phát triển, mô hình Tòa án Hiến
pháp đã đáp ứng được đòi hỏi của xu hướng phát triển của Luật Hiến pháp
trên thế giới.
1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án Hiến pháp trong bộ máy nhà nƣớc
1.2.1 Vị trí, vai trò của tòa án Hiến pháp
Hiện nay, trên thế giới vẫn tồn tại nhiều quan điểm khác nhau về vị trí
của Tòa án Hiến pháp trong bộ máy nhà nước. Bởi lẽ, xét cho cùng thì Tòa án
hiến pháp cũng là một tòa án có chức năng tư pháp trong hệ thống tư pháp của
các quốc gia. Chính vì thế mà quan điểm này cho rằng không nên tách Tòa án
Hiến pháp ra khỏi nhánh quyền lực tư pháp vì hoạt động của Tòa án hiến
pháp cũng phải tuân theo trình tự thủ tục nhất định và gần giống như các tòa
án có thẩm quyền chung. Trái với quan điềm này là quan điểm cho rằng hoạt
động của tòa án không nên phụ thuộc vào bất cứ nhánh quyền lực nào trong

7



các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp bởi bản thân nó đã hàm chứa sự độc
lập nhất định, là một thiết chế đảm bảo cho quyền lập hiến.
Trước đây, trong nhiều tài liệu pháp lý, hoạt động bảo hiến được hiểu là
sự giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật. Đến nay, khái
niệm này được hiểu rộng hơn, theo đó hoạt động bảo hiến không chỉ là sự
kiểm tra tính hợp hiến của các văn bản quy phạm pháp luật mà còn bao gồm
nhiệm vụ bảo vệ đảm tính tối cao của hiến pháp như là nền tảng của hệ thống
pháp luật quốc gia, bảo đảm các quyền hiến định, mối quan hệ hữu cơ giữa
các cơ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước. Khái niệm cơ chế bảo hiến cũng
có nội hàm rộng hơn, bao gồm toàn bộ các thiết chế, phương tiện, nguyên tắc,
hình thức, phương thức, phương pháp, biện pháp tổ chức và thực hiện các
hoạt động sau:
Giải thích Hiến pháp để bảo đảm cho các nguyên tắc, quy định của
Hiến pháp được nhận thức và thực hiện một cách thống nhất.
Kiểm tra và giám sát hoạt động của cơ quan lập pháp, hành pháp, tư
pháp nhằm bảo đảm sự thống thống, phối hợp và có sự cân bằng quyền lực,
làm cho nhánh quyền lập pháp phải phục tùng quyền lập hiến quyền hành
pháp và quyền tư pháp phải phục tùng quyền lập hiến và quyền lập pháp. Hạn
chế quyền lực của các cơ quan nhà nước, bảo đảm cho các chủ thể quyền lực
hoạt động theo đúng chức năng và thẩm quyền theo quy định của hiến pháp
và pháp luật.
Kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp của các văn bản quy phạm
pháp luật và điều ước quốc tế, bảo đảm sự thống nhất của hệ thống pháp luật
theo nguyên tắc bảo đảm tính ối cao của hiến pháp.
Kiểm tra, giám sát việc thực hiện các quy định của hiến pháp về quyền
con người, quyền công dân, bảo đảm các giá trị nhân bản của Hiến pháp, chủ
quyền nhân dân và giải quyết đúng đắn mới quan hệ giữa nhà nước và các cá


8


nhân. Phát hiện và giải quyết các vấn đề phát sinh về thẩm quyền giữa cơ
quan nhà nước và các cá nhân có thẩm quyền các xung đột pháp luật luật có
biểu hiện vi hiến, các khiếu kiện của công dân đối với cơ quan nhà nước và cá
nhân có thẩm quyền về các quyết định, hành vi có biểu hiện vi hiến.
Có thể nói trong tất cả các hoạt động bảo hiến nêu trên thì hoạt động
quan trọng nhất là kiểm tra, giám sát tính hợp hiến của các văn bản quy phạm
pháp luật và hoạt động của cơ quan nhà nước, các cá nhân có thẩm quyền. Vì
vậy việc thành lập cơ quan bảo hiến là một yêu cầu khách quan và cấp thết
hiện nay nhằm duy rì bảo vệ chế độ chính trị, đảm bảo nhà nước pháp quyền,
bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, chống lại
sự vi phạm thẩm quyền, lạm quyền.
1.2.2 Đặc điểm của tòa án hiến pháp
Hiện nay Tòa án hiến pháp được thành lập ở nhiều nước theo các chế
độ chính trị khác nhau trên thế giới. Do đặc thù, lịch sử phát triển, văn hóa
của các quốc gia là khác nhau nên việc thành lập Tòa án hiến pháp cũng như
hoạt động của Tòa án hiến pháp ở các quốc gia có sự khác nhau. Mô hình cơ
quan bảo hiến ở các quốc gia khác nhau phụ thuộc vào chế độ chính trị của
mỗi quốc gia đó, tuy nhiên đều tựu trung lại một số các đặc điểm sau:
Tòa án Hiến pháp thường được thành lập ở các quốc gia có ba nhánh
quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp được phân chia tương đối rõ rệt và
độc lập. Các quốc gia như vậy thường là các nước theo thể chế độ đại nghị.
Về thẩm quyền, Tòa án Hiến pháp được coi là cơ quan duy nhất có
thẩm quyền giám sát hiến pháp, kiểm tra tính hợp hiến của các đạo luật do
nghị viên ban hành. Đây được coi là điểm khác biệt cơ bản, bởi tòa án hiến
pháp chỉ giải quyết các vụ việc về hiến pháp,hoàn toàn không xét xử các vụ
án hình sự, dân sự...thông thường và cũng không có các chức năng phúc thẩm,
tái thẩm như Tòa án tối cao.


9


KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Hiến pháp là văn bản chính trị - pháp lý quan trọng nhất của bất kỳ
Quóc gia nào bởi nó quy định những vấn đề được coi là cơ bản nhất, quan
trọng nhất của một nhà nước như thể chế chính trị, chế độ kinh tế, văn hóc, tổ
chức Bộ máy nhà nước, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân… Do vậy
việc đòi hỏi Hiến pháp phải được bảo vệ và tôn trọng là một đòi hỏi tất yếu
trong việc chống lại mọi sự xâm phạm từ các chủ thể, đặc biệt là các chủ thể
có quyền lực từ Hiến pháp. Chính vì thế việc bảo vệ Hiến pháp chính là bảo
vệ chế độ chính trị, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân….

10


Chƣơng 2
MÔ HÌNH BẢO HIẾN CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA ĐIỂN HÌNH
Cũng như một mô hình tòa án thông thường, ở một số quốc gia có nền
lập pháp phát triển thì Tòa án Hiến pháp là một trong nhưng tòa án không thể
thiếu trong hệ thống tòa án của quốc gia đó. Tùy theo thể chế chính trị, điều
kiện lịch sử của các Quốc gia mà họ thành lập mô hình bảo hiến phù hợp.
2.1. Lịch sử hình thành, phát triển và các mô hình bảo Hiến trên
thế giới
Trong một số tài liệu pháp lý, người ta cho rằng tư tưởng về giám sát
Hiến pháp xuất hiện lần dầu tiên ở Anh vào đầu thế kỷ 17 và gắn liền với hoạt
động của Hội đồng cơ mật. Hội đồng này có quyền tuyên bố văn bản do cơ
quan có thẩm quyền lập pháp của các nước thuộc địa Anh ban hành trái với
luật của Nghi viện Anh hay pháp luật chung. Vì vậy mà văn bản trái với luật

của Nghị viện đó cần được bãi bỏ và không thể có hiệu lực.
Giám sát Hiến pháp theo nghĩa hiện hành ngày nay thì xuất phát từ Mỹ
trên cơ sở án lệ. Năm 1803, Chánh án tòa án tối cao Mỹ đã phán quyết xác lập
quyền của Tòa án Tối cao được xem xét tính hợp hiến của bất kỳ văn bản
pháp luật nào của Nghị viện hay liên bang hay của cơ quan lập pháp tiểu bang
bằng tuyên bố hiến pháp liên bang là đạo luật cao nhất của đất nước.
Nếu xét về mặt hoạt động thì Tòa án Hiến pháp sẽ hoạt động như một
tòa án thông thường của mỗi quốc gia, do vậy mà nhiều người cho rằng mô
hình tòa án hiến pháp đầu tiên đã xuất hiện từ đầu thế kỷ XVII ở Anh và gắn
liền với hoạt động của Hội đồng cơ mật Hội đồng này có quyền tuyên bố văn
bản do cơ quan lập pháp của các nước thuộc địa của Anh ban hành trái với
luật của Nghị viên Anh hay pháp luật chung, vì vậy văn bản đó không thể có
hiệu lực và cần được bãi bỏ. Điều này cũng xuất phát từ quá trình lịch sử của

11


Anh, lúc đó Anh có rất nhiều thuộc địa ở các Châu lục khác nhau và việc
giám sát thực hiện các chính sách pháp luật của Anh sẽ gặp khó khăn do vị trí
địa lý. Việc xem xét và tuyên bố các văn bản trái pháp luật của Nghị viện hay
pháp luật chung là hết sức cần thiết trong việc thiết lập một hành lang pháp lý
cho việc quản lý chung của nước Anh.
2.2. Các mô hình bảo hiến điển hình
Cũng tổ chức và hoạt động như một Tòa án độc lập – Tòa án Hiến pháp
cũng đòi hỏi được tổ chức và hoạt động theo một số mô cơ bản. Có thể nói
hiện nay trên thế giới tồn tại các mô hình tòa án hiến pháp như: Mô hình bảo
hiến kiểu phi tập trung, mô hình bảo hiến kiểu Pháp, mô hình bảo hiến tập
trung, mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu - Mỹ, mô hình cơ quan lập hiến
có chức năng bảo hiến. Theo đó, các mô hình này đều có những ưu và nhược
điểm sau:

2.2.1. Mô hình bảo hiến kiểu phi tập trung
Điển hình cho mô hình này là nước Mỹ, là mô hình tòa án tối cao và
tòa án các cấp đều có chức năng và thẩm quyền giám sát tính hợp hiến, được
xây dựng trên cơ sở học thuyết phân chia và kiềm chế đối trọng giữa các
nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo đó, hệ thống các cơ
quan tòa án không những có chức năng xét xử các hành vi vi phạm pháp luật
của công dân mà còn có chức năng kiểm soát, hạn chế quyền lực của các cơ
quan lập pháp và hành pháp. Tòa án tư pháp sẽ xem xét tính hợp hiến của các
đạo luật thông qua việc giải quyết các vụ việc cụ thể, dựa vào các đơn kiện
của đương sự, các sự kiện pháp lý cụ thể mà bảo vệ Hiến pháp. Đây cũng
được coi là ưu điểm lớn nhất của mô hình Tòa án Hiến pháp này vì nó bảo
hiến một cách cụ thể vì nó liên quan đến từng sự việc cụ thể.
Mỹ được coi là quốc gia đầu tiên xác lập quyền giám sát Hiến pháp của
Tòa án tư pháp và đã xây dựng nên một mô hình cơ quan bảo hiến riêng. Theo

12


đó, thẩm quyền giám sát hiến pháp được giao cho các tòa án có thẩm quyền
chung thực hiện. Vì thế mà bất kỳ tòa án nào cũng có thể ra phán quyết về
tính hợp hiến của các đạo luật. Hoạt động bảo hiến gắn liền với việc giải
quyết các vụ việc cụ thể tại Tòa án.
Mô hình tòa án hiến pháp kiểu Mỹ có các đặc điểm sau:
- Tất cả các Tòa án đều có thể xem xét tính hợp hiến của các đạo luật.
- Quyền bảo hiến gắn liền với việc giải quyết một việc cụ thể, theo đó việc
kiện tụng chính là tiền đề để tòa án xem xét tính hợp hiến của một đạo luật.
- Quyền hợp hiến chỉ được các tòa án sử dụng trong trường hợp có sự
liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của người đề nghị xem xét
tính hợp hiến của các đạo luật. Đặc điểm này xác định rõ ràng hơn phạm vi
của quyền giám sát, tránh sự trừu tượng và kém hiệu quả.

- Một đạo luật chỉ bị tuyên bố là vi hiến khi tòa án có đủ căn cứ rõ ràng
rằng đạo luật đó mâu thuẫn hoặc không phù hợp với hiến pháp
- Phán quyết của tòa án về tính hợp hiến thường chỉ có hiệu lực bắt
buộc trong phạm vi các bên của vụ việc được giải quyết, trừ những trường
hợp được áp dụng nguyên tắc tiền lệ.
- Khi một đạo luật bị tuyên bố là vi hiến thì đạo luật đó không còn giá
trị để áp dụng. Tuy nhiên tòa án tư pháp lại không có thẩm quyền tuyên bố
đạo luật đó vô hiệu. Phán quyết của tòa án cấp trên có hiệu lực bắt buộc với
tòa án cấp dưới, phán quyết của tòa tối cao có ý nghĩa bắt buộc với cả hệ
thống tư pháp.
Nhưng mô hình này lại có hai nhược điểm lớn: giao quyền bảo hiến cho
tòa án các cấp nên thủ tục dài dòng; phán quyết của tòa án về tính hợp hiến
chỉ có hiệu lực ràng buộc đối với các bên tham gia tố tụng và khi một đạo luật
được tòa án xác định là trái Hiến pháp thì đạo luật đó không còn giá trị áp
dụng và chỉ có hiệu lực bắt buộc đối với các tòa án cấp dưới (nếu là phán

13


quyết của Tòa án tối cao thì có giá trị bắt buộc đối với cả hệ thống tư pháp).
Nghĩa là tòa án không có thẩm quyền hủy bỏ đạo luật bị coi là trái với Hiến
pháp và về hình thức đạo luật đó vẫn còn hiệu lực mặc dù trên thực tế sẽ
không được tòa án áp dụng. Mô hình này cũng được áp dụng ở nhiều nước
khác như Canada, Mexico, Argentina, Australia, Hy Lạp, Nhật Bản, Thụy
Điển, Na Uy, Đan Mạch…
2.2.2. Mô hình Bảo hiến tập trung
Khác với mô hình Mỹ, các nước lục địa châu Âu không trao cho tòa án
tư pháp thực hiện giám sát Hiến pháp mà thành lập một cơ quan đặc biệt để
thực hiện chức năng bảo hiến, có vị trí độc lập với quyền lập pháp, hành pháp,
tư pháp. Cơ quan này được gọi là Tòa án Hiến pháp hoặc Hội đồng bảo hiến,

Viện Bảo hiến. Thẩm phán là những người có chuyên môn nghiệp vụ cao,
được bổ nhiệm hay bầu cử theo một chế độ đặc biệt. Đây là mô hình giám sát
tập trung. Tòa án Hiến pháp được thành lập ở Áo năm 1920, Italia năm 1947,
Đức năm 1949, miền Nam Việt Nam năm 1956, Thổ Nhĩ Kỳ năm 1961, Nam
Tư năm 1963, Bồ Đào Nha năm 1976, Tây Ban Nha năm 1978, Hy Lạp năm
1979, Ba Lan năm 1982, Hungari năm 1983, Liên Xô cũ năm 1988, Nga năm
1993, Campuchia năm 1993, Belarus năm 1994, Ukcraina năm 1996, Thái
Lan năm 1997, Cộng hòa Czech năm 1997.
Có thể gọi đây là mô hình của Áo vì Áo là nơi thành lập sớm nhất,
nhưng thường được gọi là mô hình lục địa châu Âu vì khu vực này là phổ
biến nhất. Giám sát Hiến pháp ở châu Âu kết hợp việc giải quyết các vụ việc
cụ thể và những việc có tác dụng chung cho cả xã hội thông qua đề nghị của
cá nhân hoặc các cơ quan có thẩm quyền trong bộ máy nhà nước. Quyết định
của Tòa án Hiến pháp hay Hội đồng bảo hiến có giá trị bắt buộc.
Mô hình bảo hiến kiểu Châu Âu có một số đặc điểm nổi bật như sau:
- Hoạt động bảo hiến được thực hiện chủ yếu thông qua cơ quan bảo

14


hiến chuyên trách (tòa án hiến pháp, hội đồng bảo hiến). Có quan này có vị trí
tương đối độc lập với cơ quan thuộc nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và
tư pháp. Thẩm phán là những người có trình độ cao được bổ nhiệm hoặc bầu
theo thủ tục đặc biệt.
Giám sát hiến pháp theo mô hình này vừa là giám sát cụ thể vừa là
giám sát trừu tượng, thực hiện cả giám sát trước và giám sát sau. Việc xem
xét tính hợp hiến của một đạo luật có thể gắn liền với việc giải quyết một
vụ việc cụ thể nào đó, nhưng cũng có thể tiến hành khi có đề nghị của chủ
thể có thẩm quyền.
Thẩm quyền giám sát hiến pháp được thực hiện theo một thủ tục đặc

biệt, khác với thủ tục giải quyết vụ việc thông thường tại tòa tư pháp
Phán quyết của tòa án hiến pháp có giá trị chung thẩm và có hiệu lực
bắt buộc đối với các chủ thể trừ khi có một chế định hoặc một văn bản nào đó
bị tuyên bố là vi hiến.
Theo mô hình này, Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền như sau: xem xét
tính hợp hiến của các văn bản luật, các điều ước quốc tế mà tổng thống hoặc
chính phủ đã hoặc sẽ tham gia ký kết, các sắc lệnh của tổng thống, các nghị
định của chính phủ, có thể tuyên bố một văn bản luật, văn bản dưới luật là vi
hiến và làm vô hiệu hoá văn bản đó; xem xét tính hợp hiến của các cuộc bầu
cử tổng thống, bầu cử nghị viện và trưng cầu ý dân; tư vấn về tổ chức bộ máy
nhà nước, về các vấn đề chính trị đối nội cũng như đối ngoại; giải quyết các
tranh chấp về thẩm quyền giữa các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp và
tư pháp, giữa chính quyền trung ương và địa phương; giám sát Hiến pháp về
quyền con người và quyền công dân.
Ngoài ra, một số Tòa án Hiến pháp như của Italia còn có quyền xét xử
tổng thống khi tổng thống vi phạm pháp luật.

15


2.2.3. Mô hình bảo hiến hỗn hợp kiểu Âu – Mỹ
Đây là mô hình kết hợp những yếu tố của cả hai mô hình kiểu châu Âu
và kiểu Mỹ, được áp dụng ở một số nước như Bồ Đào Nha, Thụy Sỹ,
Columbia, Venezuela, Peru, Brazil… Theo mô hình này, thẩm quyền bảo hiến
được trao cho cả cơ quan bảo hiến chuyên trách như Tòa án hiến pháp lẫn tất
cả các tòa án thuộc hệ thống tư pháp. Trong đó, thẩm quyền của Tòa án Hiến
pháp và Tòa án tối cao đối với những vụ việc cụ thể được quy định ngay trong
Hiến pháp, các tòa án khác khi giải quyết một vụ việc cụ thể có quyền xem
xét tính hợp hiến của các đạo luật và được quyền không áp dụng các đạo luật
được cho là không phù hợp với hiến pháp

2.2.4. Mô hình cơ quan lập hiến có chức năng bảo hiến
Được áp dụng cho các nước khác không có cơ quan bảo hiến chuyên
biệt. Các nước này đều có quan điểm chung là quốc hội (nghị viện) là cơ quan
đại diện cao nhất của nhân dân, do đó Quốc Hội không những là cơ quan lập
hiến, lập pháp duy nhất mà còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Với
tư cách là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội phải tự quyết định
tính hợp hiến của một đạo luật. Nếu quốc hội trao quyền này cho một cơ quan
khác phán quyết thì quốc hội không còn là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất nữa. Quan điểm trên đây có điểm hợp lý của nó, tôn trọng tính tối cao
của cơ quan đại diện của nhân dân. Tuy nhiên, cũng phải thừa nhận rằng nếu
một cơ quan vừa lập pháp vừa tự mình phán quyết đạo luật do mình làm ra có
vi hiến hay không thì cũng rất khó, ít nhất là không đảm bảo tính khách quan.
Bởi một lẽ đương nhiên rằng không một cơ quan nào lại đủ “dũng cảm” để
thừa nhận việc mình đã làm là sai...
Các quốc gia hiện đang theo mô hình này là Phần Lan, Ba Lan, Công
gô, Myanma, Việt Nam, Lào, Trung Quốc...

16


2.2.5. Các mô hình khác
Ngoài các mô hình Tòa án hiến pháp đã liệt kê ở trên, các nhà nghiên
cứu còn để cập đến trường hợp của quốc đảo Mauritus như là một trường hợp
đặc biệt của mô hình bảo hiến. Cơ chế bảo hiến của Quốc gia này là tập trung
quyền giám sát hiến pháp vào tòa án tối cao, bao gồm cả giám sát trước và
giám sát sau và chức năng thẩm vấn. Phán quyết của tòa án tối cao trong việc
giám sát và bảo vệ hiến pháp là chung thẩm và có hiệu lực bắt buộc đối với
mọi chủ thể trong xã hội.
Trên thế giới hiện nay cũng tồn tại các quốc gia mà hầu như không có
quy định về hoạt động bảo hiến như: Hà Lan, Libi, Nuidilan..Ở các nước này,

xuất phát từ đặc thù của hệ thống pháp luật là không tồn tại hiến pháp thành
văn nên không có các quy định nhằm đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp.Tuy
nhiên ở các nước này cũng tồn tại một số yếu tố quy định đến quyền giám sát
đối với văn bản pháp luật do cơ quan lập pháp ban hành hay hành vi của các
cơ quan công quyền. Ví dụ như ở Hà Lan, Tòa án tối cao có thể có quyền
quyết định các vụ việc liên quan đến các thiết chế của cộng đồng Châu Âu...
2.3. Mô hình tòa án Hiến pháp ba quốc gia điển hình Mỹ, Đức,
Thái Lan
2.3.1. Tòa án của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ
Mỹ được coi là quốc gia đầu tiên xác lập quyền giám sát Hiến pháp
thuộc về ngành tư pháp. Vì vậy mô hình giám sát hiến pháp thuộc về tòa án
được gọi là mô hình giám sát kiểu mỹ, đây là mô hình giám sát phi tập trung.
Mỹ là nước áp dụng triệt để học thuyết tam quyền phân lập. Ngành tư pháp
hoàn toàn độc lập với các ngành lập pháp và hành pháp.
Hiến pháp Hoa Kỳ là bộ luật tối cao của nước Hoa Kỳ. Nó là bản hiến
pháp đầu tiên của thế giới được soạn thảo ngày 17 tháng 9, 1787 dựa trên tư
tưởng tam quyền phân lập giữa ba nhánh lập pháp (Quốc hội), hành pháp

17


(Tổng thống), tư pháp (tòa án) do Montesquieu, một triết gia người Pháp đề
xướng. Nó được phê chuẩn sau các cuộc hội nghị tại 13 tiểu bang đầu tiên.
Cùng với Tuyên ngôn Độc lập viết năm 1776, bản hiến pháp này đã thể hiện
tinh thần khoa học, tiến bộ và nhân bản của người Mỹ trong việc xây dựng
một nhà nước cộng hòa đầu tiên trên thế giới trong lịch sử cận đại. Nó đã tạo
ra một chính quyền thống nhất và tập trung hơn chính quyền dưới những điều
khoản Liên hiệp. Hiến pháp Hoa Kỳ là bản hiến pháp lâu đời nhất và nổi tiếng
nhất với trên 200 năm lịch sử. Từ khi được hiệu lực năm 1789, nó đã được
tham khảo nhiều lần để làm mô hình cho các hiến pháp của những quốc gia

khác. Thủ tướng Vương quốc Anh William Ewart Gladstone (1809 – 1898) đã
miêu tả Hiến pháp này là "tác phẩm tuyệt vời nhất từng được sản sinh ra vào
một thời điểm nhất định bởi trí óc và mục đích của con người. Hoa Kỳ là một
quốc gia áp dụng triệt để nguyên tắc tam quyền phân lập và kìm chế đối
trọng, theo đó không có một cơ quan nhà nước nào được coi là “tối cao” hay
có “quyền lực nhà nước cao nhất” mà đều nằm trong thế cân bằng, đối trọng
nhau. Chính vì thế mà bất kỳ cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp nào có
hành vi xâm phạm đến Hiến pháp đều bị xem xét lại và quyền tài phán Hiến
pháp này được trao cho cơ quan tư pháp
Có thể coi mô hình Tòa án Hiến pháp Hoa kỳ là điển hình cho mô hình
Tòa án Hiến pháp phi tập trung. Mô hình này được dựa trên cơ sở của thuyết
tam quyền phân lập, quyền lực được phân chia và có tính kiềm chế đối trọng
giữa ba nhánh quyền lực là lập pháp, hành pháp, tư pháp. Theo đó, hệ thống
các cơ quan tư pháp không những làm nhiệm vụ xét xử các hành vi vi phạm
pháp luật của công dân mà còn phải kiểm soát được quyền lực của cơ quan
lập pháp và hành pháp. Bất kỳ một cơ quan lập pháp nào, ngay cả Tổng thống
hay nghị viện khi ban hành một văn bản luật mà có tính trái với hiến pháp thì
cơ quan này sẽ tuyên bố vô hiệu hoặc làm nó vô hiệu. Có thể nói Hoa kỳ là

18


quốc gia đầu tiên trao quyền này cho tòa án mặc dù trong Hiến pháp của nước
này không có quy định như vậy.
Quay trở lại lịch sử, việc tòa án có thẩm quyền quyết định tính hợp hiến
của văn bản luật được bắt nguồn từ một sự kiện lịch sử nổi tiếng ở Mỹ hay
còn gọi là vụ án Marbury và Madison năm 1803. Trước khi hết nhiệm kỳ làm
Tổng thống của mình, tổng thống Jonhn Adam đã bổ nhiệm những người của
đảng mình vào các vị trí trong ngành tư pháp. Song sự việc trên lại không
được tổng thống mới là Thomas Jefferson đồng ý và cho rằng đó là hành động

làm quyền. Ông đã cho bộ trưởng Ngoại giao bãi bỏ sự bổ nhiệm đó. Tuy
nhiên ông William Marbury, một trong những người được bổ nhiệm bị bãi bỏ
đã không đồng ý với phán quyết của tổng thống mới nên đã kiện lên tòa án tối
cao liên bang. Vụ án đã làm cho tòa án liên bang lâm vào thế tiến thoái lưỡng
nan. Vụ án này lần đầu tiên khẳng định quyền tài phán hiến pháp của tòa án
thường (trong mô hình tòa án Hoa Kỳ, tất cả cá tòa án của liên bang hay còn
gọi là tòa án thường ở tất cả các cấp đều có quyền tài phán hiến pháp), mà
trước đây điều này rất khó được thực hiện.
Tại Hoa Kỳ, Tòa án Tối cao và tòa án các cấp của liên bang được giao
trách nhiệm tài phán hiến pháp. Ở cấp tiểu bang, quyền của một tòa án tuyên
bố một đạo luật là không hợp hiến chỉ xuất hiện trong những năm đầu mới
thiết lập chế độ cộng hòa. Tư tưởng dân chủ nhấn mạnh tới vai trò của các cơ
quan lập pháp là thể chế đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân; nhưng
người Mỹ đã sớm phát hiện thấy các cơ quan lập pháp của họ cũng có thể sẽ
đe dọa quyền con người và quyền tự do của họ. Vì lẽ đó, cùng với tư tưởng
tam quyền phân lập và nguyên tắc kiểm soát, cân bằng, chế độ bảo hiến đã trở
thành trụ cột bảo đảm tính tối thượng của hiến pháp, bao hàm quyền của các
tòa án được bác bỏ các đạo luật của Quốc hội nếu những đạo luật này bị phát
hiện trái với Hiến pháp. Trong các thập niên đầu thế kỷ XX, Tòa án Tối cao

19


thường được coi là cơ quan bảo vệ tài sản và các doanh nghiệp trước các đạo
luật cấp tiến. Chẳng hạn, vào năm 1905, Tòa bác bỏ một đạo luật của tiểu
bang New York giới hạn số giờ làm việc của những người làm bánh mì trong
một ngày và tuyên bố những quy định này là “sự can thiệp trắng trợn” vào
quyền của các cá nhân. Cách nhìn nhận như vậy của ngành tư pháp đã khiến
cho Tòa án Tối cao lâm vào thế mâu thuẫn với chương trình phát triển kinh tế
mới của Tổng thống Franklin Roosevelt trong những năm 1930.

Ngày nay, Tòa án Tối cao xem xét một số lượng lớn các vấn đề khác
nhau. Trong thập niên 1960, khi Earl Warren là Chánh án, Tòa án Tối cao
theo đuổi một chương trình nghị sự đầy tham vọng. Tòa đã phán quyết mỗi
người một phiếu bầu (bảo đảm tới mức cao nhất mỗi khu vực cử tri có số dân
bằng nhau) là nguyên tắc trong bầu cử các thành viên của cơ quan lập pháp.
Tòa cũng áp dụng hầu hết thủ tục tố tụng bảo đảm Tuyên ngôn Nhân quyền
tại tất cả các tiểu bang, ủng hộ phong trào dân quyền và mở đường cho việc
thực hiện quyền riêng tư và tự quyết đã quy định trong Hiến pháp. Cho dù
một số thẩm phán do các Tổng thống thuộc Đảng Cộng hòa bổ nhiệm có chủ
trương “hạn chế ngành tư pháp”; song Tòa án Tối cao vẫn tự tin giải quyết
nhiều vấn đề đại sự quốc gia. Tòa án Tối cao thường xuyên được yêu cầu
quyết định xem một đạo luật hay quy định của liên bang có cản trở hoạt động
của tiểu bang hay không. Tương tự như vậy, người ta cũng thường yêu cầu
Tòa phân xử liệu một đạo luật của tiểu bang, nếu không hợp lệ, có ảnh hưởng
tới một số lợi ích quốc gia như tự do thương mại hay không.
Cơ cấu tòa án Hiến pháp Hoa kỳ: Cơ cấu tòa án Hoa kỳ gồm có: 01 Tòa
án tối cao, 13 tòa phúc thẩm (12 tòa phúc thẩm khu vực và 1 tòa phúc thẩm
liên bang), 94 tòa án cấp quận, 02 tòa án xét xử đặc biệt (tòa án thương mại
quốc tế xét xử những vụ án liên quan đến thương mại và thuế quan quốc tế và
tòa án về các yêu sách liên bang xét xử hầu hết các yêu sách về thiệt hại tiền

20


bạc đối với quốc hội, chính quyền liên bang chiếm giữ tài sản riêng không
hợp pháp, những tranh chấp về các hợp đồng Liên bang và nhiều loại yêu
sách khác đối với hợp chủng quốc) Hệ thống toà án liên bang gồm có Toà án
Tối cao, Toà án Phúc thẩm, Toà án khu vực và các toà án đặc biệt. Đứng đầu
hệ thống toà án là Toà án Tối cao Hoa Kỳ. Đây là cơ quan quan trọng trong
cơ cấu các cơ quan nhà nước tối cao bên cạnh Quốc hội và Tổng thống Hoa

Kỳ. Toà án Tối cao Hoa Kỳ là cơ quan tư pháp duy nhất được lập ra theo quy
định của Hiến pháp Hoa Kỳ gồm chín thẩm phán, một trong số đó được Tổng
thống bổ nhiệm làm Chánh án. Các thẩm phán của Toà án Tối cao, kể cả
Chánh án do Tổng thống bổ nhiệm phải được Thượng viện phê chuẩn. Khi
Toà án ra bản án, tối thiểu phải có sáu thẩm phán tham gia bỏ phiếu. Toà án
Tối cao xem xét sơ thẩm các vụ án liên quan đến phân định thẩm quyền giữa
hai hay nhiều bang, các vụ kiện mà một trong các bên là đại sứ nước ngoài và
một số vụ án khác (thực tế thì số vụ án này không nhiều). Chức năng cơ bản
của Toà án Tối cao là xem xét đơn kháng cáo quyết định của Toà án Liên
bang cấp dưới và Toà án các bang nếu như trong các quyết định đó động
chạm tới vấn đề liên bang cũng như các kháng cáo đề nghị huỷ bỏ quyết định
của bất kỳ toà án nào được coi là trái Hiến pháp, huỷ bỏ luật của bất cứ bang
nào hay văn bản nào của Quốc hội Hoa Kỳ được ban hành trái Hiến pháp. Toà
án Tối cao Hoa Kỳ cũng có quyền, theo đề nghị của Toà án cấp phúc thẩm,
giải thích bất cứ vấn đề nào phát sinh từ các vụ án dân sự hay hình sự và đưa
ra sự giải thích mang tính chất bắt buộc đối với các vụ án.
Tòa án tối cao Hoa kỳ là tòa án cấp cao nhất tại nước này, là tòa án duy
nhất được thành lập theo hiến pháp, có thẩm quyền tốt cao trong việc giải thích
hiến pháp, có quyết định cuối cùng về các vụ tranh tụng có liên quan đến hiến
pháp. Cùng với đó, tòa án tối cáo có thẩm quyền tuyên bố các đạo luật của liêng
bang hoặc tiểu bang là vi hiến. Các thẩm phán của tòa án tối cao do tổng thống

21


×