Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

CAO ĐĂNG VINH

NHỮNG QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN TỔ CHỨC
TÍN DỤNG

luËn v¨n th¹c sÜ luËt häc

Hµ néi - 2009


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA NHỮNG QUY

8

ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ
SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG



1.1.

Tổng quan về hoạt động của tổ chức tín dụng

8

1.1.1.

Khái niệm và phân loại tổ chức tín dụng

8

1.1.2.

Hoạt động của tổ chức tín dụng

10

1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn

10

1.1.2.2. Hoạt động cấp tín dụng

11

1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ

12


1.1.2.4. Các hoạt động kinh doanh khác

13

1.2.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc áp dụng những quy định
đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng

13

1.2.1.

Xuất phát từ vai trò quan trọng của các tổ chức tín dụng
trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của nền tài chính
quốc gia

14

1.2.2.

Xuất phát từ tính chất rủi ro cao trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng

16

1.2.3.

Xuất phát từ sự ảnh hưởng của việc phá sản tổ chức tín dụng

đối với hệ thống tài chính quốc gia

18

1.2.4.

Xuất phát từ tính chất đặc thù trong nghiệp vụ thanh toán của
các tổ chức tín dụng

20


1.2.5.

Xuất phát từ tính chất đặc thù về chủ nợ và con nợ trong
hoạt động của tổ chức tín dụng

22

1.2.6.

Xuất phát từ sự chi phối lớn của Nhà nước đối với hoạt động
của tổ chức tín dụng

23

1.3.

Tổng quan pháp luật các nước trong việc xử lý tổ chức tín
dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán


24

1.3.1.

Kinh nghiệm của một số nước trong việc xử lý tổ chức tín
dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán

24

1.3.1.1. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tin dụng của Hoa Kỳ

24

1.3.1.2. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tin dụng của Cộng
hòa Liên bang Nga

27

1.3.1.3. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng
hòa Pháp

29

1.3.1.4. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng
hòa Armenia

30

1.3.1.5. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng

hòa Estonia

32

1.3.1.6. Kinh nghiệm giải quyết phá sản tổ chức tín dụng của Cộng
hòa Latvia

33

Một vài nhận định rút ra từ việc nghiên cứu pháp luật các
nước về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất
khả năng thanh toán

34

1.3.2.1. Cơ sở pháp luật điều chỉnh đối với việc giải quyết phá sản tổ
chức tín dụng là không giống nhau

34

1.3.2.2. Tính chất của thủ tục giải quyết phá sản tổ chức tín dụng ở
các quốc gia là khác nhau

35

1.3.2.3. Quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng
được quy định một cách chặt chẽ so với các loại hình kinh
doanh khác, đồng thời thừa nhận quyền của Ngân hàng Trung
ương và tổ chức bảo hiểm tiền gửi trong việc nộp đơn yêu
cầu mở thủ tục phá sản tổ chức tín dụng


36

1.3.2.


1.3.2.4. Vai trò can thiệp, hỗ trợ mạnh mẽ của cơ quan quản lý hoạt
động tổ chức tín dụng và tổ chức bảo hiểm tiền gửi vào quá
trình giải quyết phá sản các tổ chức tín dụng

37

1.3.2.5. Thủ tục phục hồi tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất
khả năng thanh toán được tiến hành sớm; việc Tòa án mở
thủ tục phá sản thường đồng nghĩa với việc mở thủ tục thanh
lý tài sản của tổ chức tín dụng

39

1.3.2.6. Pháp luật các nước chú trọng đến việc bảo vệ quyền lợi của
người gửi tiền khi tổ chức tín dụng bị phá sả

39

1.3.2.7. Việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng ưu tiên thực hiện
với phương thức chuyển giao nguyên trạng tổ chức tín dụng
thông qua các hình thức sáp nhập, hợp nhất với tổ chức tín
dụng khác

40


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TỔ CHỨC

42

TÍN DỤNG LÂM VÀO TÌNH TRẠNG MẤT KHẢ NĂNG
THANH TOÁN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1.

Tổng quan pháp luật về giải quyết tổ chức tín dụng lâm vào
tình trạng mất khả năng thanh toán

42

2.1.1.

Thủ tục kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng có nguy
cơ mất khả năng thanh toán

43

2.1.1.1. Các trường hợp tổ chức tín dụng bị đặt vào trong tình trạng
kiểm soát đặc biệt

44

2.1.1.2. Thẩm quyền quyết định đặt tổ chức tin dụng vào tình trạng
kiểm soát đặc biệt


45

2.1.1.3. Thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của Ban kiểm soát đặc biệt

46

2.1.1.4. Nhiệm vụ của Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám
đốc (Giám đốc) tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt

48

2.1.1.5. Thời hạn kiểm soát đặc biệt đối với tổ chức tín dụng

49

2.1.2.

50

Vai trò của tổ chức bảo hiểm tiền gửi khi tổ chức tín dụng
tham gia bảo hiểm tiền gửi lâm vào tình trạng mất khả năng
thanh toán


2.2.

Nhận định về việc áp dụng pháp luật phá sản hiện hành đối
với tổ chức tín dụng

52


2.2.1.

Vấn đề xác định dấu hiệu lâm vào tình trạng phá sản đối với
các tổ chức tín dụng - một loại hình doanh nghiệp đặc thù
trong nền kinh tế quốc dân

53

2.2.2.

Vấn đề thực hiện nghĩa vụ nộp đơn của con nợ khi lâm vào
tình trạng phá sản

55

2.2.3.

Về việc thực hiện quyền nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản của các chủ nợ

56

2.2.4.

Về việc áp dụng quy định về trách nhiệm thông báo doanh
nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản

58


2.2.5.

Vấn đề áp dụng các loại thủ tục sau khi Toà án ra quyết định
mở thủ tục phá sản đối với tổ chức tín dụng

58

2.2.6.

Về thứ tự phân chia tài sản phá sản của tổ chức tín dụng

61

Chương 3:

62

KIẾN NGHỊ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TỔ CHỨC TÍN DỤNG LÂM
VÀO TÌNH TRẠNG MẤT KHẢ NĂNG THANH TOÁN

3.1.

Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tổ chức tín
dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán

62

3.1.1.


Việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng cần được thực hiện
một cách thận trọng

62

3.1.2.

Hạn chế tối đa ảnh hưởng xấu của việc phá sản tổ chức tín
dụng đến hệ thống tài chính quốc gia

63

3.1.3.

Việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng cần có cơ chế đặc
biệt bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền

63

3.1.4.

Việc xử lý phá sản tổ chức tín dụng cần được tiến hành một
cách hiệu quả và nhanh chóng

64

3.1.5.

Bảo đảm sự đồng bộ, thống nhất trong hệ thống pháp luật
khi xử lý tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng phá sản


64

3.1.6.

Tạo cơ chế khuyến khích và tăng cường tính chủ động của
các chủ nợ và các tổ chức, cá nhân khác trong việc giải
quyết phá sản tổ chức tín dụng

65


3.2.

Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về giải quyết tổ
chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán

65

3.2.1.

Cần làm rõ mối quan hệ giữa quy chế kiểm soát đặc biệt và
thủ tục phá sản cũng như bước chuyển từ tình trạng kiểm
soát đặc biệt sang tình trạng phá sản

66

3.2.2.

Về xác định tình trạng mất khả năng thanh toán làm căn cứ

mở thủ tục phá sản

68

3.2.3.

Về trách nhiệm thông báo tổ chức tín dụng lâm vào tình
trạng phá sản

70

3.2.4.

Về việc nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với tổ chức
tín dụng

72

3.2.5.

Về vai trò đại diện của chủ nợ tham gia thủ tục phá sản

74

3.2.6.

Về việc áp dụng thủ tục phục hồi khi giải quyết phá sản tổ
chức tín dụng

75


3.2.7.

Về hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng sau khi có
quyết định mở thủ tục phá sản

78

3.2.8.

Về quản lý tài sản của tổ chức tín dụng sau khi mở thủ tục
phá sản

80

3.2.9.

Về xử lý các khoản nợ của tổ chức tín dụng lâm vào tình
trạng phá sản

82

3.2.10.

Nghiên cứu xác định thời điểm, tư cách pháp lý của tổ chức
bảo hiểm tiền gửi khi tham gia vào quan hệ phá sản tổ chức
tín dụng

82


3.2.11.

Về việc khai báo nợ của các chủ nợ đối với tổ chức tín dụng

84

3.2.12.

Về thứ tự ưu tiên thanh toán từ tài sản phá sản của tổ chức
tín dụng

84

KẾT LUẬN

86

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

88


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHTG : Bảo hiểm tiền gửi
NHNN : Ngân hàng Nhà nước
NHTƯ : Ngân hàng Trung ương
TCTD : Tổ chức tín dụng
XHCN : Xã hội chủ nghĩa



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp khác nhau thuộc
mọi thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích thành lập và tạo điều kiện
hoạt động một cách bình đẳng và cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. Trong
hoạt động sản xuất kinh doanh, không thể tránh khỏi hiện tượng, bên cạnh những
doanh nghiệp được thành lập và kinh doanh có hiệu quả, tạo ra nhiều sản phẩm
và công ăn việc làm cho người lao động, góp phần cho sự ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội, còn có một bộ phận không nhỏ những doanh nghiệp do nhiều
nguyên nhân khác nhau đã và đang làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả, nợ nần chồng
chất, không thể thanh toán được các nghĩa vụ tài chính của mình. Đối với những
doanh nghiệp mất khả năng thanh toán đó, pháp luật các nước trên thế giới đã có
một hệ thống pháp luật riêng để xử lý, đó là pháp luật về phá sản. Phá sản trong
nền kinh tế thị trường là hiện tượng và xu hướng tất yếu của quá trình cạnh
tranh, chọn lọc tự nhiên để loại bỏ những doanh nghiệp yếu kém, khẳng định
sự tồn tại và phát triển đối với doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả [2].
Luật Phá sản doanh nghiệp đã được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam thông qua ngày 30/12/1993, có hiệu lực thi hành
kể từ ngày 01/7/1994 là văn bản luật đầu tiên điều chỉnh toàn diện vấn đề phá
sản doanh nghiệp. Tiếp đó, Luật Phá sản (sửa đổi, bổ sung) đã được Quốc hội
thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 15/10/2004 thay thế Luật Phá sản
doanh nghiệp năm 1993 đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng cho việc áp dụng thủ
tục phá sản, bảo vệ quyền và lợi ích của chủ nợ, góp phần quan trọng vào việc
hình thành một cơ chế pháp lý đồng bộ cho hoạt động xử lý nợ của các doanh
nghiệp, bảo đảm trật tự, kỷ cương trong lĩnh vực tài chính, làm cho môi trường
kinh doanh trở nên lành mạnh hơn. Tuy nhiên, các doanh nghiệp, hợp tác xã
ra đời, tồn tại và kinh doanh nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau, có vị
thế khác nhau trong nền kinh tế. Nếu doanh nghiệp kinh doanh những lĩnh vực


1


đặc thù, có liên quan mật thiết đến nền kinh tế, phục vụ quốc phòng an ninh...
thì việc doanh nghiệp đó lâm vào tình trạng phá sản cần phải được Nhà nước
quan tâm và quản lý chặt chẽ hơn so với các doanh nghiệp thông thường khác.
Các tổ chức tín dụng (TCTD) là một trong những dạng doanh nghiệp đặc thù đó,
do vậy, khi áp dụng các quy định của Luật Phá sản, cần có những đặc thù riêng.
Chính vì vậy, Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 trước đây và Luật
Phá sản năm 2004 đều quy định giao cho Chính phủ thẩm quyền quy định áp
dụng Luật đối với các loại doanh nghiệp đặc biệt, trong đó có TCTD. Luật
Phá sản năm 2004 có quy định giao:
Chính phủ quy định cụ thể danh mục và việc áp dụng Luật
này đối với doanh nghiệp đặc biệt trực tiếp phục vụ quốc phòng, an
ninh; doanh nghiệp, hợp tác xã hoạt động trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng, bảo hiểm và trong các lĩnh vực khác thường xuyên, trực
tiếp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu [23, Điều 2].
Điều này không chỉ cho thấy sự tiếp cận của Việt Nam đối với kinh
nghiệm và thông lệ quốc tế mà còn chỉ rõ sự nhận thức về tầm quan trọng
cũng như những điểm đặc thù về tổ chức và hoạt động của ngân hàng phải
được tính đến khi đặt vấn đề phá sản loại hình tổ chức kinh doanh này.
Trong thời gian vừa qua, đã có một số lượng nhất định các vụ phá sản
doanh nghiệp được Tòa án giải quyết nhưng trong số đó, Tòa án chưa tiến
hành thụ lý và giải quyết yêu cầu mở thủ tục phá sản đối với ngân hàng,
TCTD nào. Tình trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng
một nguyên nhân quan trọng là chúng ta vẫn chưa đưa ra được một khuôn khổ
pháp lý phù hợp cho việc phá sản loại hình doanh nghiệp đặc thù như TCTD.
Thực hiện nhiệm vụ được giao tại Luật Phá sản năm 2004, Chính phủ đã
ban hành Nghị định số 67/2006/NĐ-CP ngày 11/7/2006 hướng dẫn việc áp dụng
Luật Phá sản đối với doanh nghiệp đặc biệt và tổ chức, hoạt động của tổ quản lý,

thanh lý tài sản, tuy nhiên, nghị định này không áp dụng đối với các tổ chức tài
chính, ngân hàng, bảo hiểm. Theo nghị định này thì "việc áp dụng Luật Phá sản

2


đối với các tổ chức tín dụng và các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài
chính thực hiện theo quy định riêng của Chính phủ" [6, Điều 2]. Tuy nhiên, cho
đến nay, Chính phủ mới ban hành được Nghị định số 114/2008/NĐ-CP ngày
03/11/2008 hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Luật Phá sản đối với
doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán và tài
chính khác. Trong khi đó, đối với các TCTD thì Luật Các TCTD năm 1997 (sửa
đổi, bổ sung một số điều năm 2002) có quy định về phá sản TCTD như sau:
Sau khi Ngân hàng Nhà nước đã có văn bản về việc không
áp dụng hoặc chấm dứt áp dụng các biện pháp phục hồi khả năng
thanh toán của tổ chức tín dụng mà tổ chức tín dụng đó vẫn mất khả
năng thanh toán nợ đến hạn, thì có thể bị Tòa án mở thủ tục giải
quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo quy định của pháp luật về phá
sản [19, Điều 98]; ...
Trong trường hợp tổ chức tín dụng bị tuyên bố phá sản, việc
thanh lý của tổ chức tín dụng được thực hiện theo quy định của
pháp luật về phá sản [19, Điều 100].
Như vậy, cho đến nay, chưa có văn bản nào hướng dẫn cụ thể việc áp
dụng thủ tục phá sản đối với các TCTD. Vấn đề hoàn thiện quy định về phá
sản các TCTD lại càng trở nên quan trọng trong bối cảnh các ngân hàng
thương mại được thành lập với số lượng khá lớn thời gian vừa qua và chất
lượng hoạt động cũng còn hạn chế. Chính vì vậy, các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cũng đang khẩn trương nghiên cứu tìm kiếm một mô hình pháp lý
phù hợp cho việc giải quyết phá sản TCTD để có thể áp dụng hiệu quả ở Việt
Nam đáp ứng yêu cầu cấp thiết của thực tiễn.

Trong hoàn cảnh như vậy, việc nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề
đặc thù trong việc áp dụng thủ tục phá sản đối với TCTD là một vấn đề hết
sức cần thiết, có tính thực tiễn. Chính vì vậy, tôi quyết định chọn đề tài
"Những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng"
làm luận văn thạc sĩ Luật học của mình.

3


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề pháp luật phá sản, có thể nói, không còn là vấn đề hoàn toàn
mới mẻ ở Việt Nam. Xung quanh vấn đề này, đã có nhiều công trình nghiên
cứu nghiên cứu do các nhà khoa học pháp lý, người làm công tác thực tiễn
của Việt Nam thực hiện. Trong những năm gần đây, khi việc xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường được thực hiện thì pháp luật phá sản, một
bộ phận không thể thiếu của hệ thống pháp luật kinh doanh cũng được chú
trọng nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về pháp luật phá sản được thực
hiện dưới nhiều hình thức với nhiều cấp độ khác nhau. Trong đó, có công
trình nghiên cứu toàn diện về các vấn đề liên quan đến pháp luật phá sản
nhưng cũng có công trình chỉ nghiên cứu một khía cạnh nhất định liên quan
đến pháp luật phá sản.
Có thể kể đến các công trình nghiên cứu như: Báo cáo phúc trình Đề
tài "Đánh giá thực trạng, thực hiện nghiên cứu, phân tích để khuyến nghị
hoàn thiện Luật Phá sản doanh nghiệp và các quy định pháp luật có liên
quan", Dự án VIE/98-001, 2002; Công trình nghiên cứu "Pháp luật phá sản
của Việt Nam", của PGS.TS Dương Đăng Huệ, Nxb Tư pháp, 2005 v.v...
Ngoài ra, có thể kể đến những bài viết, công trình nghiên cứu đăng trên các
tạp chí có nghiên cứu bàn về nhiều khía cạnh khác nhau của pháp luật phá
sản: Trần Khắc Hoàng: "Một số vấn đề về thực tiễn phá sản doanh nghiệp",
Tạp chí Tòa án nhân dân số 6/2002; TS. Dương Đăng Huệ: "Về thực trạng

pháp luật phá sản Việt Nam hiện nay", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
1/2003; Hà Thị Thanh Bình: "Tài sản phá sản và phân chia tài sản của con
nợ bị phá sản", Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 5/2003; Trương Hồng Hải:
"Đặc điểm của Quy chế xác định tài sản doanh nghiệp phá sản doanh nghiệp
của Việt Nam và những đề xuất sửa đổi", Tạp chí Luật học, số 1/2004; v.v...
Về vấn đề giải quyết phá sản đối với TCTD, có thể kể đến một số
công trình như: Nguyễn Văn Vân: "Định hướng xây dựng pháp luật phá sản
các tổ chức tín dụng", Tạp chí Khoa học pháp lý, số 8/2002; Đặng Thanh
Bình: "Áp dụng pháp luật về phá sản doanh nghiệp đối với tổ chức tín dụng",

4


Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội, 2003; Viên Thế
Giang: "Một số vấn đề về áp dụng Luật phá sản năm 2004 đối với các tổ chức
tín dụng", Tạp chí Ngân hàng, số 2/2005; v.v... Trong số các công trình
nghiên cứu trên, Khóa luận tốt nghiệp năm 2003 của Đặng Thanh Bình là một
công trình nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về vấn đề này, tuy nhiên, kết quả
nghiên cứu này mới chỉ là nghiên cứu bước đầu, được thực hiện trong bối cảnh
của Luật Phá sản doanh nghiệp năm 1993 nên cũng còn hạn chế về nội dung.
Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu những đặc thù trong việc giải quyết phá
sản đối với TCTD vẫn chưa được nhiều nhà khoa học và những người làm công
tác thực tiễn quan tâm nghiên cứu một cách toàn diện, sâu sắc. Nhiều vấn đề
xung quanh việc giải quyết phá sản TCTD còn chưa được làm rõ, và có phương
án xử lý phù hợp. Vì vậy, trong khi pháp luật Việt Nam về vấn đề này còn nhiều
hạn chế, chưa có quy định cụ thể, phù hợp làm ảnh hưởng không nhỏ đến thực
tiễn giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản thì việc tiếp tục nghiên cứu đề
tài là cần thiết nhằm phân tích một cách đầy đủ, toàn diện về những đặc thù của
việc giải quyết phá sản TCTD. Việc nghiên cứu đề tài này lại càng có ý nghĩa
thực tiễn trong bối cảnh Nhà nước ta dự kiến xây dựng Luật Giám sát an toàn

hoạt động ngân hàng, Luật Bảo hiểm tiền gửi (BHTG) và tiến hành sửa đổi
Luật Ngân hàng nhà nước (NHNN), Luật Các tổ chức tín dụng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài sẽ tập trung vào việc nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
đòi hỏi phải có những quy định đặc thù trong việc giải quyết phá sản TCTD; xác
định những đặc thù trong việc giải quyết phá sản TCTD so với thủ tục phá sản
chung. Trên cơ sở đó, luận văn sẽ đưa ra những kiến nghị xây dựng mô hình và
quy định những đặc thù trong thủ tục giải quyết phá sản TCTD ở Việt Nam.
Nội dung luận văn không đi sâu vào việc phân tích lý luận về khái niệm
TCTD và các hoạt động của TCTD cũng như cơ chế giám sát, khắc phục rủi ro
trong hoạt động của TCTD. Đề tài nhận diện, đánh giá rủi ro trong hoạt động của
TCTD là một chủ đề cần được nghiên cứu chuyên sâu ở một công trình khác.

5


4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được tiến hành trên cơ sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lênin, mà cụ thể là phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Các phương pháp cụ thể được vận dụng khi viết luận văn là phương
pháp phân tích, tổng hợp, chứng minh và đặc biệt là phương pháp luật học
so sánh. Bằng cách so sánh các quy định pháp luật phá sản của các hệ thống
pháp luật trên thế giới nhằm tìm ra những mô hình pháp lý điển hình áp
dụng cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản. Luận văn cũng
tiến hành tổng hợp và phân tích các quy định trong các văn bản pháp luật
Việt Nam về phá sản và văn bản pháp luật có liên quan để đánh giá thực
trạng, những vướng mắc, khó khăn cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình
trạng phá sản. Trên cơ sở phân tích, so sánh đó, luận văn sẽ đưa ra những
kiến nghị về việc xây dựng một mô hình trong việc giải quyết TCTD lâm

vào tình trạng phá sản phù hợp với thông lệ quốc tế nhưng cũng đáp ứng
yêu cầu thực tiễn của Việt Nam. Sự vận dụng một cách nhuần nhuyễn các
phương pháp nghiên cứu cụ thể nêu trên sẽ góp phần đưa đến thành công
của luận văn.
5. Những đóng góp mới của luận văn
Trên cơ sở nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ thực trạng pháp luật
hiện hành về phá sản và yêu cầu đặc thù trong hoạt động của các TCTD, luận
văn sẽ làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất cơ chế, quy định đặc thù
nhằm giải quyết một cách có hiệu quả các TCTD lâm vào tình trạng phá sản.
Cụ thể, luận văn sẽ có những đóng góp mới sau đây:
- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc
áp dụng cơ chế riêng cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản;
- Nhận diện và trình bày những mô hình pháp lý áp dụng cho việc giải
quyết TCTD lâm vào tình trạng phá sản trên thế giới;

6


- Xác định những điểm đặc thù của việc giải quyết TCTD lâm vào tình
trạng phá sản so với so với giải quyết phá sản các loại hình doanh nghiệp kinh
doanh thông thường;
- Đánh giá thực trạng pháp luật phá sản và pháp luật có liên quan của
Việt Nam và khả năng áp dụng cho việc giải quyết TCTD lâm vào tình trạng
phá sản. Thông qua đó, xác định những vướng mắc, khó khăn của việc áp
dụng pháp luật phá sản đối với các TCTD trong thời gian vừa qua;
- Kiến nghị phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật giải quyết
TCTD lâm vào tình trạng phá sản và các quy định pháp luật có liên quan nhằm
xây dựng các quy định phù hợp, có hiệu quả cho việc giải quyết phá sản TCTD.
6. ý nghÜa lý luËn vµ thùc tiÔn cña luËn văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc

làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc giải quyết phá sản
TCTD. Những kiến nghị từ kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ góp phần trực
tiếp vào việc hoàn thiện pháp luật phá sản của Việt Nam liên quan đến việc
giải quyết phá sản TCTD.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của những quy định đặc thù
trong việc giải quyết phá sản tổ chức tín dụng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tổ chức tín dụng lâm
vào tình trạng mất khả năng thanh toán ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, giải pháp kiến nghị hoàn thiện pháp luật về giải
quyết tổ chức tín dụng lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán ở Việt Nam.

7


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
CỦA NHỮNG QUY ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG VIỆC
GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1. TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1.1. Khái niệm và phân loại tổ chức tín dụng
Khi nền sản xuất hàng hóa hình thành và phát triển thì tiền tệ xuất hiện
và nghề kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Sự phát triển của nghề kinh doanh tiền tệ
đã dẫn đến sự xuất hiện của những tổ chức chuyên thực hiện các hoạt động thu
nhận các nguồn vốn nhà rỗi trong xã hội và sử dụng nguồn vốn này để cấp tín
dụng, làm các dịch vụ tiền tệ khác và các tổ chức này gọi là tổ chức tín dụng.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì TCTD là doanh nghiệp
được thành lập theo quy định của pháp luật để hoạt động ngân hàng (gồm
hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng) với nội dung thường
xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các
dịch vụ thanh toán [19, Điều 20]. Như vậy, TCTD cũng là một loại hình doanh
nghiệp nhưng TCTD có những đặc điểm riêng mà dựa vào đó, có thể nhận
biết và phân biệt chúng với các doanh nghiệp kinh doanh trong các lĩnh vực,
ngành, nghề khác trong nền kinh tế. Cụ thể:
- TCTD là một loại doanh nghiệp có đối tượng kinh doanh trực tiếp là
tiền tệ, một loại hàng hóa đặc biệt trong nền kinh tế.
- TCTD là doanh nghiệp có hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu,
thường xuyên và mang tính nghề nghiệp là hoạt động ngân hàng. Nội dung
kinh doanh chủ yếu của TCTD là nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, TCTD còn có thể thực
hiện các nghiệp vụ khác như cho kinh doanh chứng khoán, bảo hiểm...

8


- TCTD là loại hình doanh nghiệp chịu sự quản lý nhà nước của Ngân
hàng Nhà nước (NHNN).
Các TCTD được thành lập và tồn tại theo các hình thức pháp lý do
pháp luật quy định. Mỗi loại hình TCTD được tổ chức theo từng phương thức
có đặc điểm riêng và thực hiện hoạt động kinh doanh trong phạm vi được
pháp luật quy định.
- Căn cứ vào tính chất sở hữu vốn điều lệ, các TCTD có thể được chia
thành: tổ chức tín dụng nhà nước; tổ chức tín dụng cổ phần; tổ chức tín dụng
hợp tác; tổ chức tín dụng có vốn đầu tư nước ngoài.
- Căn cứ vào phạm vi thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, TCTD có thể
được phân chia thành hai loại: tổ chức tín dụng là ngân hàng và tổ chức tín

dụng phi ngân hàng. Trong đó:
+ Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Theo tính
chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm ngân hàng thương
mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng
hợp tác và các loại hình ngân hàng khác.
+ Tổ chức tín dụng phi ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được
thực hiện một số hoạt động ngân hàng như là nội dung kinh doanh thường
xuyên, nhưng không được nhận tiền gửi không kỳ hạn, không làm dịch vụ
thanh toán. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng gồm công ty tài chính, công ty
cho thuê tài chính và các tổ chức tín dụng phi ngân hàng khác.
Như vậy, dấu hiệu quan trọng nhất để phân biệt TCTD là ngân hàng
với TCTD phi ngân hàng là hoạt động nhận tiền gửi không kỳ hạn và hoạt
động dịch vụ thanh toán. TCTD là ngân hàng được quyền huy động vốn dưới
hình thức tiền gửi không kỳ hạn và thực hiện dịch vụ thanh toán, còn TCTD
phi ngân hàng không được thực hiện các hoạt động này.

9


1.1.2. Hoạt động của tổ chức tín dụng
Theo quy định của pháp luật hiện hành thì hoạt động của các TCTD
bao gồm các hoạt động chủ yếu sau đây [19].
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn
Vốn kinh doanh của các TCTD chủ yếu là tư nguồn vốn huy động. Vì
vậy, hoạt động huy động vốn là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các
nghiệp vụ kinh doanh của các TCTD. Các TCTD có thể huy động vốn thông
qua các hình thức sau đây:
- Nhận tiền gửi: Tiền gửi là số tiền của tổ chức, cá nhân gửi tại TCTD
hoặc các tổ chức khác có hoạt động ngân hàng dưới hình thức tiền gửi không

kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các hình thức khác. Tiền gửi
được hưởng lãi hoặc không hưởng lãi và phải được hoàn trả cho người gửi
tiền. Ngân hàng được nhận tiền gửi của tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín
dụng khác. Tổ chức tín dụng phi ngân hàng được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ
một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo quy định của NHNN.
- Huy động vốn bằng phát hành các giấy tờ có giá: Các giấy tờ có giá
do TCTD phát hành là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường
vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi trong đó, TCTD
cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời hạn nhất định. TCTD được
phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động
vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước theo quy định của NHNN.
- Huy động bằng vay vốn giữa các TCTD: Ngoài việc huy động vốn
của dân cư và của các tổ chức kinh tế - xã hội, pháp luật còn cho phép TCTD
được vay vốn của các TCTD trong nước và các TCTD nước ngoài. Các
TCTD cho nhau vay chủ yếu được thực hiện trên thị trường liên ngân hàng
thông qua hợp đồng tín dụng. Việc vay vốn giữa các TCTD nhằm điều hòa,
phân phối vốn để tăng cường khả năng thanh toán, bảo đảm an toàn, hiệu quả
cho hoạt động của từng TCTD.

10


- Vay vốn của NHNN: TCTD là ngân hàng được vay vốn ngắn hạn của
NHNN dưới hình thức tái cấp vốn thông qua các hình thức: Cho vay lại theo
hồ sơ tín dụng; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá
ngắn hạn khác; cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ
có giá ngắn hạn khác. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính
phủ chấp thuận, NHNN cho vay đối với TCTD tạm thời mất khả năng chi trả,
có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống các TCTD.
1.1.2.2. Hoạt động cấp tín dụng

Hoạt động cấp tín dụng là hoạt động chủ yếu của TCTD, được hiểu là
việc TCTD thỏa thuận để khách hàng sử dụng một khoản tiền với nguyên tắc
có hoàn trả bằng các nghiệp vụ cho vay, chiết khấu, cho thuê tài chính, bảo
lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ khác.
- Cho vay: là một hình thức cấp tín dụng của TCTD cho khách hàng.
TCTD được quyền cho các tổ chức, cá nhân vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn
thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh
doanh, dịch vụ và đời sống tùy thuộc vào tính chất và khả năng nguồn vốn
của TCTD.
- Chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác: là
một hình thức cấp tín dụng của TCTD thông qua việc mua thương phiếu, giấy
tờ có giá khác của người thụ hưởng trước khi đến hạn thanh toán. Các TCTD
được tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác cho nhau. TCTD
là ngân hàng có thể được NHNN tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có
giá khác đã được chiết khấu.
- Cho thuê tài chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn trên cơ sở
hợp đồng cho thuê tài chính giữa bên cho thuê là tổ chức tín dụng với khách hàng
thuê. Cho thuê tài chính được hiểu là việc cho thuê máy móc, thiết bị, phương
tiện vận chuyển và các động sản khác trên cơ sở hợp đồng cho thuê giữa bên cho
thuê với bên thuê. Theo đó, bên cho thuê cam kết mua máy móc, thiết bị, phương

11


tiện vận chuyển và các động sản khác theo yêu cầu của bên thuê và nắm giữ
quyền sở hữu đối với các tài sản cho thuê; bên thuê sử dụng tài sản thuê và
thanh toán tiền thuê trong suốt thời hạn thuê đã được hai bên thỏa thuận. Khi
kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua lại tài sản thuê hoặc
tiếp tục thuê theo các điều kiện đã thỏa thuận trong hợp đồng cho thuê tài chính.
Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng cho thuê tài chính, ít

nhất phải tương đương với giá trị của tài sản đó tại thời điểm ký hợp đồng.
- Bảo lãnh ngân hàng: là một hình thức cấp tín dụng của TCTD, theo
đó, TCTD cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho khách
hàng được bảo lãnh nếu đến hạn mà khách hàng được bảo lãnh không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của. TCTD được bảo lãnh vay, bảo
lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh dự thầu và các hình
thức bảo lãnh ngân hàng khác cho các tổ chức, cá nhân.
1.1.2.3. Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ
Hoạt động dịch vụ thanh toán và ngân quỹ là hoạt động ngân hàng gắn
liền với các hoạt động huy động vốn, hoạt động tín dụng. TCTD được mở tài
khoản tiền gửi tại NHNN, tại các tổ chức tín dụng khác. Riêng TCTD có nhận
tiền gửi phải mở tài khoản tiền gửi tại NHNN và duy trì tại đó số dư bình
quân không thấp hơn mức dự trữ bắt buộc do NHNN quy định. TCTD là ngân
hàng còn được mở tài khoản cho khách hàng trong nước và ngoài nước, được
thực hiện các dịch vụ thanh toán: Cung ứng các phương tiện thanh toán; Thực
hiện dịch vụ thanh toán trong nước cho khách hàng; Thực hiện dịch vụ thanh
toán quốc tế khi được NHNN cho phép; Thực hiện các dịch vụ thu hộ và chi
hộ; Thực hiện các dịch vụ thanh toán khác do NHNN quy định.
TCTD được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng.
Các TCTD là ngân hàng được tổ chức hệ thống thanh toán nội bộ và tham gia
hệ thống thanh toán liên ngân hàng trong nước. Việc tham gia các hệ thống
thanh toán quốc tế phải được NHNN cho phép.

12


1.1.2.4. Các hoạt động kinh doanh khác
Theo quy định của pháp luật hiện hành, TCTD có thể thực hiện một số
hoạt động kinh doanh khác như:
- Được dùng vốn điều lệ và quỹ dự trữ để góp vốn, mua cổ phần của

doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác theo quy định của pháp luật;
- Được tham gia thị trường tiền tệ do NHNN tổ chức, bao gồm thị
trường đấu giá tín phiếu kho bạc, thị trường nội tệ và ngoại tệ liên ngân hàng,
thị trường giấy tờ có giá ngắn hạn khác theo quy định của NHNN.
- Được kinh doanh ngoại hối và vàng trên thị trường trong nước và thị
trường quốc tế khi được NHNN cho phép.
- Được quyền ủy thác, nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên
quan đến hoạt động ngân hàng, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của tổ
chức, cá nhân theo hợp đồng.
- Được lập công ty độc lập để kinh doanh bảo hiểm theo quy định của
pháp luật. Riêng ngân hàng được cung ứng các dịch vụ bảo hiểm theo quy
định của pháp luật. TCTD không được trực tiếp kinh doanh bất động sản.
- Được cung ứng các dịch vụ tư vấn tài chính, tiền tệ cho khách hàng.
- Được cung ứng dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho
thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật.
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ÁP DỤNG NHỮNG QUY
ĐỊNH ĐẶC THÙ TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT PHÁ SẢN TỔ CHỨC TÍN DỤNG

Pháp luật phá sản có vị trí quan trọng trong lĩnh vực pháp luật kinh tế,
là bộ phận quan trọng không thể thiếu trong cơ chế kinh tế thị trường, do đó,
hoàn thiện pháp kinh tế không thể không hoàn thiện pháp luật phá sản. TCTD
với tư cách là một loại doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực nhạy cảm,
hoạt động của các TCTD chịu sự kiểm soát chặt chẽ của các cơ quan nhà

13


nước có thẩm quyền. TCTD với tư cách là một chủ thể kinh doanh, trong quá
trình hoạt động của mình cũng có thể bị thua lỗ, lâm vào tình trạng mất khả
năng thanh toán thì cũng phải thuộc đối tượng bị áp dụng thủ tục phá sản

nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của TCTD cũng như của các chủ nợ,
con nợ của TCTD. Tuy nhiên, theo khuyến cáo của Ngân hàng Thế giới (WB)
thì "đối với các ngành khác, nếu một Công ty hoạt động không hiệu quả thì
phải phá sản, nhưng với ngành ngân hàng thì việc phá sản là điều khó có thể
chấp nhận được, vì nó tạo ra hiệu ứng hệ thống, gây ra những tác động khó
lường" [43]. Nghiên cứu pháp luật phá sản các nước đều cho thấy một thông
lệ chung là có những quy định đặc thù về giải quyết phá sản áp dụng đối với
TCTD, trong đó có ngân hàng, cho dù đó có thể là những quy định về phá sản
TCTD tách biệt hẳn so với pháp luật phá sản các doanh nghiệp thông thường
khác hoặc trên nền tảng pháp luật phá sản chung, người ta thiết lập cơ chế đặc
thù áp dụng cho TCTD.
Theo hướng dẫn của UNCITRAL thì việc phá sản TCTD lâm vào tình
trạng mất khả năng thanh toán cũng cần được quy định đặc biệt so với việc
phá sản các loại hình doanh nghiệp thông thường. Việc cần thiết có quy định
xử lý đặc thù đối với TCTD lâm vào tình trạng phá sản có thể được lý giải bởi
chính những yếu tố đặc thù trong hoạt động của các TCTD sau đây.
1.2.1. Xuất phát từ vai trò quan trọng của các tổ chức tín dụng
trong việc duy trì sự ổn định và phát triển của nền tài chính quốc gia
Thị trường tài chính, trong đó có thị trường tín dụng là "mạch máu"
cho sự sống của nền kinh tế của bất kỳ quốc gia nào. Một quốc gia muốn phát
triển thì không thể không phát triển thị trường tín dụng, một kênh huy động
vốn nhanh chóng và có hiệu quả. Trong cơ cấu thị trường tài chính, thị trường
tín dụng giữ một vai trò đặc biệt quan trọng. Thị trường tín dụng có ý nghĩa
quyết định đối với việc huy động và phân bổ các nguồn vốn nhàn rỗi một
cách tiết kiệm và hiệu quả. Thị trường tín dụng phát triển và lành mạnh là một

14


nhân tố cần thiết đảm bảo sự an toàn của các định chế tài chính, cũng như sự

ổn định và phát triển của nền kinh tế. Nền kinh tế càng phát triển, càng cần có
một thị trường thị trường tín dụng hoàn chỉnh, hiện đại và an toàn. "Nền kinh
tế sẽ không thể hoạt động một cách bình thường nếu không có một hệ thống
ngân hàng hiệu quả, đóng vai trò cầu nối giữa nguồn dự trữ của xã hội với
hoạt động đầu tư và cung cấp những dịch vụ tài chính thiết yếu khác cho Nhà
nước và xã hội" [43]. Điều này có thể thấy rõ thông qua hàng loạt các hoạt
động quan trọng của ngân hàng và các TCTD như hoạt động cấp tín dụng,
dịch vụ thanh toán, dịch vụ chuyển tiền...
Tính chất đặc thù của các TCTD so với các loại hình kinh doanh khác,
đó là việc các TCTD thực hiện việc kinh doanh tiền tệ, mà tiền tệ là một loại
hàng hóa đặc biệt. Do có thể tác động đến nhiều biến số kinh tế có ý nghĩa đối
với sự lành mạnh, ổn định và phát triển của một quốc gia như lãi suất, lạm
phát và các chỉ số kinh tế khác, nên tiền tệ trở nên đặc biệt quan trọng. Tiền tệ
là một khâu của quá trình tái sản xuất, nó có tác động tích cực đến quá trình
tái sản xuất. Tuy nhiên, sự biến động bất thường của nó có thể làm khuynh
đảo các hoạt động đời sống kinh tế, xã hội... và vì thế nó có thể làm ảnh
hưởng tới sự phồn thịnh hoặc suy vong của chính quốc gia đó. Sự đặc thù này
có thể cho ta khẳng định rằng: tuyên bố phá sản đối với doanh nghiệp đã là
việc khó thì với một TCTD, việc này khó gấp nhiều lần [12].
Hệ thống TCTD cũng là nơi tập trung, tích tụ nguồn vốn của các quốc
gia, vì vậy, hệ thống TCTD bị sụp đổ cũng có nghĩa là nền kinh tế của quốc
gia đó bị sụp đổ theo, đó là điều mà không quốc gia nào mong muốn. "Ở hầu
hết các quốc gia, xu hướng tập trung hóa trong lĩnh vực ngân hàng vẫn tiếp
tục gia tăng. Theo như phản hồi của 34 quốc gia, 5 quốc gia có tỷ lệ tài sản
tập trung trong 5 ngân hàng lớn nhất là 93%, trong khi tỷ lệ này tại 25 quốc
gia khác là hơn 30%" [10]. Chính vì vậy, khi TCTD, đặc biệt là các ngân
hàng lớn, lâm vào tình trạng phá sản thì yêu cầu đặt ra là phải cứu vãn với nỗ

15



lực tối đa có thể, không để sự sụp đổ của một TCTD kéo theo sự sụp đổ của
hệ thống TCTD đang hoạt động, ảnh hưởng đến nền tài chính quốc gia.
1.2.2. Xuất phát từ tính chất rủi ro cao trong hoạt động của các tổ
chức tín dụng
Kinh doanh ngân hàng là một hoạt động kinh tế có nhiều rủi ro hơn
các hoạt động kinh tế khác, bản chất của nghiệp vụ ngân hàng là trung gian
tín dụng, tức là đi vay để cho vay. TCTD hoạt động với tư cách là một tổ chức
trung gian tài chính trong nền kinh tế, chủ yếu dựa vào uy tín của mình để huy
động vốn từ khu vực thừa vốn để cấp tín dụng cho khu vực có nhu cầu về vốn
(sử dụng nguồn vốn đi vay để cho vay). Khác với các doanh nghiệp sáng tạo
ra hàng hóa hữu hình như lúa, gạo, xe máy, ôtô,..., sản phẩm của một TCTD
là những dịch vụ, hoạt động theo phương châm "đi vay để cho vay" với loại
hàng hóa tiền tệ, hoạt động TCTD được định nghĩa là hoạt động kinh doanh
tiền tệ. Trong quá trình hoạt động kinh doanh, mục tiêu lớn nhất của các
TCTD là lợi nhuận. Để đạt được lợi nhuận cao, các TCTD thường lấy vốn
huy động (Tài sản Nợ) ngắn hạn để đầu tư vào Tài sản Có dài hạn hơn nhằm
lợi dụng chênh lệch lãi suất trong khung lãi suất lũy tiến theo thời gian.
TCTD đóng vai trò là trung gian, cầu nối giữa một bên có vốn tạm
thời dư thừa và một bên cần vốn cho nhu cầu hoạt động sản xuất, kinh doanh
hoặc tiêu dùng. Bất kỳ lúc nào thì TCTD cũng chỉ dự trữ một một lượng tiền
rất nhỏ so với tổng số tiền mà khách hàng đã gửi. Đặc thù của tiền gửi là
không có kỳ hạn (cho dù đấy là tiền gửi 12 tháng, 2 năm... nhưng khách hàng
vẫn có đủ cơ hội để rút tiền trước so với thời hạn gửi tiền), nhưng ngược lại,
bất kỳ một khoản vay nào cũng có kỳ hạn. Điều đó có nghĩa là người gửi tiền
thì bất kỳ lúc nào cũng có thể rút tiền gửi từ TCTD, song tiền của họ đang
được người khác sử dụng và TCTD lại không thể muốn thu hồi về bất kỳ lúc
nào cũng được. Mâu thuẫn giữa một bên là nhu cầu rút tiền, một bên là lượng
dự trữ nhỏ bé tại TCTD luôn có khả năng tạo ra trận cuồng phong, nếu TCTD
thiếu những biện pháp phòng thủ.


16


Với vai trò truyền thống của mình là cầu nối giữa nhu cầu gửi
tiền ngắn hạn và nhu cầu vay trung và dài hạn, các ngân hàng luôn
dễ bị tổn thương bởi bất kỳ sự mất lòng tin của người gửi tiền vào
khả năng tài chính, gây ra sự tháo chạy khỏi ngân hàng. Nếu một
ngân hàng không thể đáp ứng được nhu cầu rút tiền hoặc đổi tiền,
công chúng cũng sẽ mất lòng tin vào cả các ngân hàng khác [38].
Trong hoạt động của TCTD, rủi ro thanh toán xảy ra có thể do nhiều
nguyên nhân như: do TCTD sử dụng vốn để đầu tư, cho vay nhưng chưa thu
hồi được vì chưa đến kì hạn khách hàng trả nợ, nhưng TCTD phải thanh toán
những khoản nợ đến hạn hoặc do các rủi ro khác như rủi ro lãi suất, rủi ro
ngoại hối…dẫn đến những khoản lỗ lớn phải dùng vốn của TCTD để bù đắp
dẫn đến không đủ vốn để thanh toán các khoản nợ đến hạn; hoặc có nhiều
khoản vay kém chất lượng nên TCTD không thu được nợ làm cho TCTD
không có đủ tiền để thực hiện các cam kết với khách hàng.
Như vậy, có thể nói, trong hoạt động của mình, việc TCTD đi vay
ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn chính là nguồn gốc then chốt của rủi ro
khả năng trả nợ của TCTD. Một ngân hàng dùng vốn vay của những người
chủ nợ của mình (những người gửi tiền vào ngân hàng) đem cho vay mà
không thu hồi được nợ, thì sẽ không có tiền trả cho khách hàng đến rút vốn,
sẽ mất tín nhiệm ngân hàng, họ đến rút vốn hàng loạt và không tiếp tục gửi
tiền nữa thì ngân hàng sẽ thiếu hoặc không còn vốn kinh doanh, dẫn đến nguy
cơ phá sản, nhưng càng cho vay nhiều, rủi ro càng lớn. Thông thường, lý do
thôi thúc những người gửi tiền đổ xô đến rút tiền là việc mất lòng tin vào khả
năng thanh toán của TCTD và lo lắng cho tài sản của mình gửi ở đó.
Do tính chất hoạt động hàng ngày, TCTD luôn đứng trước hiểm họa
về mất khả năng chi trả khi bị mất uy tín với các chủ nợ của mình. Với tính

liên kết này, niềm tin của người gửi tiền vào một TCTD nhất định bị lung lay
có thể dẫn đến sự đổ vỡ niềm tin của công chúng vào hệ thống TCTD. Bất kỳ
một sự biến động bất thường nào từ tổ chức và hoạt động của TCTD cũng rất

17


dễ gây ra cho người gửi tiền tâm lý bất an, từ đó dẫn tới tình trạng sợ hãi và
tháo chạy là nguyên nhân dẫn đến đổ vỡ của TCTD.
Qua phân tích trên cho thấy, tình trạng mất khả năng thanh toán của
một TCTD luôn có thể xảy ra, tuy nhiên, điều này xuất phát từ đặc điểm riêng
có trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của TCTD chứ không phải do TCTD
này hoạt động không tốt dẫn đến mất khả năng thanh toán. Chính đặc điểm
này cho ta thêm một lý do từ chối xếp các TCTD chung với các doanh nghiệp
khác khi xác định điều kiện phá sản.
1.2.3. Xuất phát từ sự ảnh hƣởng của việc phá sản tổ chức tín
dụng đối với hệ thống tài chính quốc gia
Hoạt động của TCTD là hoạt động mang tính hệ thống cũng là một
đặc điểm để cho thấy sự cần thiết phải có cơ chế xử lý đặc thù khi giải quyết
phá sản TCTD. Nếu như hoạt động thanh toán là việc riêng của mỗi doanh
nghiệp thì đối với TCTD nó luôn mang tính hệ thống. Trong hệ thống đó, mỗi
TCTD chỉ là một mắt xích nhỏ bé và sự đổ vỡ của một TCTD nào đó sẽ dễ
kéo theo sự đổ vỡ của các TCTD khác. Vì vậy, việc phá sản TCTD có ảnh
hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế xã hội, tác động trực tiếp đến an ninh
kinh tế và ổn định đời sống xã hội.
Các TCTD, trong đó nòng cốt là các ngân hàng thương mại thực hiện
toàn bộ các hoạt động kinh doanh ngân hàng và các hoạt động kinh doanh
khác có liên quan, bao gồm các hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân
hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp
tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Các quan hệ tín dụng được dựa

trên uy tín của các bên. Khi TCTD lâm vào tình trạng mất khả năng thanh
toán, chi trả các khoản tiền gửi cho người gửi tiền (dù là mất khả năng thanh
toán nội bộ hay mất khả năng thanh toán của toàn bộ ngân hàng) thì uy tín của
cũng như vị thế của TCTD trên thị trường bị giảm sút, và hệ quả là khách
hàng đến rút tiền ồ ạt, làm trầm trọng thêm tình trạng mất khả năng thanh toán

18


×