Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

Tìm hiểu quyết định số 4932005qđ NHNN ban hành quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.32 KB, 25 trang )

§Ị tµi: Tìm hiểu quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về
phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng trong
hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng.

I. Tính cấp thiết:
Trước khi quyết định 493 ra đời thì 2 quyết định 297 và 488 về trích lập dự
phịng rủi ro đã được áp dụng. Nhưng với sự phát triển không ngừng của nền
kinh tế và sự đa dạng của các dịch vụ tài chính, ngân hàng, thì hai quyết định
được ví như hai "chiếc áo" đã trở nên quá chật và lỗi mốt. Vì thế, ko phải 2
quyết định này có nhiều hạn chế nên mới phải thay bằng sự ra đời của quyết
định 493 được mà do điều kiện phát triền của đất nước đã làm cho 2 quyết
định này ko cịn phù hợp nữa mà thơi. Qua nghiên cứu thấy rằng việc ra đời
của quyết định 493 phải dựa trên những tiêu chí của việc sửa đổi Quyết định
297/1999/QĐ-NHNN5 về tỷ lệ đảm bảo an toàn và Quyết định
488/2000/QĐ-NHNN5 về trích lập dự phịng rủi ro như sau:
- Cần có sự sửa đổi tồn diện sâu rộng đối với quy chế về các tỷ lệ bảo đảm
an toàn và trích lập dự phịng rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các
TCTD;
- Đảm bảo một sự thơng thống hơn cho hoạt động của ngân hàng nhưng lại
an toàn hơn và nâng cao được tầm quản lý của NHNN.
- Những sửa đổi cơ bản phải nâng cao tính định tính trong các quy chế
nhưng vẫn xác định những định lượng cụ thể. Việc này tạo ra hai lợi thế.
+ Thứ nhất, các ngân hàng thương mại chủ động hơn trong việc xác lập
các tỷ lệ an toàn;

1


+ Thứ hai thanh tra NHNN đóng vai trị quan trọng hơn trong việc giám
sát việc trích lập dự phịng rủi ro, đồng thời tạo nên mối quan hệ hữu cơ giữa
thanh tra và TCTD.


Quyết định 493 ra đời được áp dụng trong khả năng có thể, phù hợp với tình
hình quản lý và hoạt động của các Ngân hàng Việt Nam, nhằm mục đích
nâng cao tính an tồn trong hoạt động ngân hàng trong thời kỳ mới, thời kỳ
của hội nhập kinh tế quốc tế và sự đa dạng hố các dịch vụ tài chính ngân
hàng.”
Với sự hỗ trợ của Ngân hàng Thế giới, NHNN Việt Nam đã tiến hành thiết
kế những mẫu mới, phù hợp hơn cho các tổ chức tín dụng (TCTD).
Trước đây trong quyết định 488 chúng ta mới chỉ quy định một mức sàn
chung mang tính “định lượng” cho tất cả các TCTD thì trong quyết định 493
này cịn cho phép các tổ chức tín dụng có đủ khả năng và điều kiện được
thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phịng rủi ro theo phương pháp “định
tính”. Đây là một sự thay đổi về chất, chuyển việc phân loại nợ từ định tính
sang định lượng và tiến gần hơn theo chuẩn mực quốc tế. Do đó, quyết định
493 này đã đưa ra mức sàn phù hợp hơn với quy mô của mỗi TCTD. Từ
mức sàn tối thiểu đó mà các ngân hàng sẽ tuỳ thuộc vào thực trạng của mình
mà điều chỉnh. TCTD có quy mơ lớn, phức tạp thì việc thiết kế cũng phức
tạp. Ngược lại, những TCTD nhỏ thì việc làm này đã đơn giản hơn, không
phải anh lớn hay bé đều áp dụng chung 1 mức chung dẫn đến tăng chi phí
khơng cần thiết. Nếu là TCTD càng lớn thì việc phân loại nợ và trích lập dự
phịng càng đa dạng và khó khăn hơn, ngược lại với các TCTD nhỏ việc làm
này sẽ giản đơn hơn, sẽ làm giảm chi phí quản lý. Nhưng về mặt quản lý
Nhà nước, những ngân hàng chất lượng thấp hơn thì thanh tra ngân hàng sẽ
đánh giá xem mức sàn đó đã được chưa, nếu chưa được thì phải nâng lên.

2


Đó là thay đổi cơ bản giữa việc đưa ra cùng một mức sàn với việc chỉ đưa ra
hướng để tự các ngân hàng áp dụng theo điều kiện của mình.
II. Nội dung chính:

Ngày 22/4/2005, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết
định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành Quy định về phân loại nợ, trích lập
và sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của
tổ chức tín dụng.
Nội dung :
- Đưa ra hai hình thức phân loại nợ là định tính và định lượng, kèm theo là
các tiêu chí phân loại nợ, tương ứng với mỗi hình thức có 5 nhóm nợ với tỷ
lệ lập dự phịng ở cả 2 hình thức phân loại nợ là như nhau.
- Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà tổ
chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị
suy giảm thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết định phân loại các khoản nợ
đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro...
- Việc tổ chức tín dụng sử dụng dự phịng để xử lý rủi ro tín dụng khơng
phải là xố nợ cho khách hàng. Tổ chức tín dụng và cá nhân có liên quan
khơng được phép thơng báo dưới mọi hình thức cho khách hàng biết về việc
xử lý rủi ro tín dụng...
- Trường hợp số tiền dự phịng khơng đủ để xử lý tồn bộ rủi ro tín dụng
của các khoản nợ phải xử lý, tổ chức tín dụng hạch toán trực tiếp phần chênh
lệch thiếu của số tiền dự phịng vào chi phí hoạt động. Trường hợp số tiền
3


dự phịng đã trích cịn lại lớn hơn số tiền dự phịng phải trích, tổ chức tín
dụng phải hồn nhập phần chênh lệch thừa theo quy định của pháp luật về
chế độ tài chính đối với tổ chức tín dụng...
Quyết định này có hiệu lực sau 15 ngày, kể từ ngày đăng Công báo.
III. Chi tiết:
1. Đối tượng áp dụng
Tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam, trừ ngân hàng Chính sách Xã hội,

phải thực hiện việc phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phịng để xử lí rủi
ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng theo quy định này.
2. Các khái niệm cần chú ý
- Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng : là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do
khách hàng khơng thực hiện hoặc khơng có khả năng thực hiện nghỉa vụ của
mình theo cam kết.
- Dự phịng rủi ro : là khoản tiền được trích lập để dự phịng cho những tổn
thất có thể xảy ra do khách hàng của tổ chức tín dụng khơng thực hiện nghĩa
vụ theo cam kết. Và dự phòng rủi ro này được tính theo dư nợ gốc và hạch
tốn vào chi phí hoạt động của tổ chức tín dụng. Bao gồm :
+ Dự phòng cụ thể : là khoản tiền được trích lập trên cơ sở phân loại cụ
thể các khoản nợ để dự phịng cho những tổn thẩt có thể xảy ra.
+ Dự phòng chung : là khoản tiền được trích lập để dự phịng cho những
tổn thất chưa xác định được trong q trình phân loại nợ và trích lập dự
4


phịng cụ thể và trong các trường hợp khó khăn về tài chính của các tổ chức
tín dụng khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
- Sử dụng dự phòng : là việc tổ chức tín dụng sử dụng dự phòng rủi ro để bù
đắp tổn thất đối với các khoản nợ.
- Nợ : 4 nhóm
+ Các khoản cho vay, ứng trước, thấu chi và cho thuê tài chính;
+ Các khoản chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá
khác;
+ Các khoản bao thanh tốn;
+ Các hình thức tín dụng khác.
- Nợ quá hạn : là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc và/hoặc lãi đã
quá hạn.

- Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ : là khoản nợ mà tổ chức tín dụng chấp nhận
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ hoặc gia hạn nợ cho khách hàng do tổ chức tín dụng
đánh giá khách hàng suy giảm khả năng trả nợ gốc hoặc lãi đúng thời hạn
ghi trong hợp đồng tín dụng nhưng tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá
khách hàng có đủ khả năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi theo thời hạn trả nợ đã
cơ cấu lại.
3. Phân loại nợ
Gồm 2 phương pháp : Định tính và định lượng.
a. Định lượng
- Nhóm 1 ( Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm :

5


+ Các khoản nợ mà tổ chức tín dụng đánh giá là có đủ khả năng thu hồi
đầy đủ cả gốc lẫn lãi đúng hạn;
+ Các khoản nợ đã được cơ cấu lại mà khách hàng trả đủ cả lãi lẫn gốc
( tối thiểu trong vòng 1 năm đối với các khoản nợ trung và dài hạn, 03 tháng
đối với khoản nợ ngắn hạn ) và được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả
năng trả đầy đủ nợ gốc và lãi đúng thời hạn được cơ cấu.
- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời gian đã cơ
cấu lại;
+ Các khoản nợ khác theo quy định .
- Nhóm 3 ( Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo
thời hạn đã được cơ cấu lại;
+ Các khoản nợ khác theo quy định .

- Nhóm 4 ( Nợ nghi ngờ) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày;
+ Các khoản nợ cơ cấu lại thời gian trả nợ quá hạn từ 90 đến 180 ngày
theo thời hạn đã cơ cấu lại .
+ Các khoản nợ khác theo quy định .
- Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm :
+ Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày;
6


+ Các khoản nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý;
+ Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo
thời hạn đã được cơ cấu lại;
+ Các khoản nợ khác theo quy định .
* Quy định :
+ Khi khách hàng có nhiều hơn 1 khoản nợ đối với tổ chức tín dụng mà
có bất kì khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì tổ chức tín
dụng bắt buộc phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào
các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ rủi ro.
+ Khi tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để đánh giá là khả năng trả nợ của
khách hàng bị suy giảm thì tổ chức tín dụng chủ động tự quyết định phân
loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ
rủi ro.
b. Định tính
- Phân loại
+ Nhóm 1 ( Nợ đủ tiêu chuẩn ) : các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.
+ Nhóm 2 ( Nợ cần chú y ) : các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh
giá là có khả năng thu hồi cả nợ gốc lẫn lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng
suy giảm khả năng trả nợ.

+ Nhóm 3 ( Nợ dưới tiêu chuẩn ) : các khoản nợ được tổ chức tín dụng
đánh giá là khơng có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản
7


nợ này được tổ chức tín dụng đánh giá là có khả năng tổn thất một phần nợ
gốc và lãi.
+ Nhóm 4 ( Nợ nghi ngờ ) : các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là khả năng tổn thất cao.
+ Nhóm 5 ( Nợ nghi ngờ ) : các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá
là khơng cịnkhả năng thu hồi , mất vốn.
- Tiêu chí đánh giá : căn cứ theo hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ , tối
thiểu phải bao gồm :
+ Các cơ sở pháp lý liên quan đến thành lập và ngành nghề kinh doanh
của khách hàng;
+ Các chỉ tiêu tổng hợp liên quan đến tình hình kinh doanh, tài chính, tài
sản, khả năng thực hiện nghĩa vụ pháp lý theo cam kết;
+ Uy tín với tổ chức tín dụng đã giao dịch trước đây;
+ Các tiêu chí đánh giá khách hàng chi tiết, cụ thể, có hệ thống ( đánh
giá yếu tố ngành nghề và địa phương ) trên cơ sở đó xếp hạng cụ thể đối với
khách hàng.
è Căn cứ trên Hệ thống tín dụng nội bộ, tổ chức tín dụng trình Ngân hàng
nhà nước chính sách dự phòng rủi ro và chỉ thực hiện sau khi Ngân hàng
Nhà nước chấp thuận bằng văn bản.
- Điều kiện để Ngân hàng Nhà nước chấp thuận chính sách dự phịng rủi ro :
+ Hệ thống xếp hạng tín dụng đã được áp dụng thử nghiệm tối thiểu một
năm;
+ Kết quả xếp hạng tín dụng được Hội đồng quản trị phê duyệt;
+ Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với hoạt động kinh doanh,
đối tượng khách hàng, tính chất rủi ro của khoản nợ của tổ chức tín dụng;

8


+ Chính sách quản lý rủi ro tín dụng, mơ hình giám sát rủi ro tín dụng,
phương pháp xác định và đo lường rủi ro tín dụng có hiệu quả, trong đó bao
gồm cách thức đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng, hợp đồng tín
dụng, các tài sản bảo đảm, khả năng thu hồi nợ và quản lý nợ của tổ chức tín
dụng;
+ Phân định rõ ràng trách nhiệm, quyền hạn của Hội đồng quản trị, Tổng
giám đốc trong việc phê duyệt, thực hiện và kiểm tra thực hiện Hệ thống xếp
hạng tín dụng và chính sách dự phịng của tổ chức tín dụng và tính độc lập
của các bộ phận quản lý rủi ro;
+ Hệ thống thơng tin có hiệu quả để đưa ra các quyết định, điều hành và
quản lý đối với hoạt động kinh doanh của tổ chức tín dụng và thích hợp với
Hệ thống xếp hạng tín dụng và phân loại nợ.
4. Trích lập dự phịng cụ thể
a. Tỷ lệ trích lập dự phịng cụ thể
Nhóm 1 : 0 %
Nhóm 2 : 5%
Nhóm 3 : 20 %
Nhóm 4 : 50 %
Nhóm 5 : 100 %.
b. Số tiền dự phịng cụ thể
Cơng thức
R= max { 0, (A – C ) } × r

9


Trong đó :


R : số tiền dự phịng cụ thể phải trích
A : giá trị của khoản nợ
C : giá trị tài sản đảm bảo
r : tỷ lệ trích lập dự phòng đảm bảo

c. Tỷ lệ tối đa áp dụng xác định giá trị của tài sản đảm bảo
Loại tài sản bảo đảm
Tỷ lệ tối đa ( % )
Số dư trên tài khoản tiền gửi, sổ tiết kiệm bằng Đồng 100
Việt Nam tại tổ chức tín dụng
Tín phiếu kho bạc, vàng, số dư trên tài khoản tiền gửi, 95
số tiền tiết kiệm bằng ngoại tệ tại tổ chức tín dụng
Trái phiếu Chính phủ
- Có thời hạn cịn lại từ 1 năm trở xuống

95

- Có thời hạn cịn lại từ 1 năm đến 5 năm

85

- Có thời hạn cịn lại trên 5 năm
80
Thương phiếu, giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng 75
khác
Chứng khốn của các tổ chức tín dụng khác
70
Chứng khoán của doanh nghiệp
65

Bất động sản ( gồm : nhà ở của dân cư có giấy tờ hợp 50
pháp và/hoặc bất động sản gắn liền với quyền sử dụng
đất hợp pháp)
Tài sản bảo đảm khác

30

5. Những nội dung cơ bản của hiệp ước Basel I
Sau hàng loạt vụ sụp đổ của các ngân hàng vào thập kỷ 80, một nhóm các
Ngân hàng Trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước phát triển bao g ồm
Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Canada… đã tập hợp tại thành phố Basel, Thụy Sĩ vào

10


năm 1987 tìm cách ngăn chặn xu hướng này. Sau khi nhóm họp, các cơ quan
này đã quyết định hình thành Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng (Basel
Committee on Banking supervision), đưa ra các nguyên tắc chung để quản lý
hoạt

động

của

các

ngân

hàng.


Năm 1988, Uỷ ban này đã phê duyệt một văn bản đầu tiên lấy tên là Hiệp
ước về vốn của Basel (Basel I), yêu cầu các ngân hàng hoạt động phải nắm
giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra.
Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của
ngân hàng, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo
trọng số rủi ro của ngân hàng đó. Mục đích của Basel I nhằm:
-

Củng

cố

sự

ổn

định

của

tồn

bộ

hệ

thống

ngân


hàng.

- Thiết lập một hệ thống ngân hàng quốc tế thống nhất, bình đẳng nhằm
giảm

cạnh

tranh

khơng

lành

mạnh

giữa

các

ngân

hàng.

Theo quy định của Basel I, các ngân hàng cần xác định được tỷ lệ vốn tối
thiểu cần có để bù đắp cho rủi ro. Thời đó, các nhà hoạch định chính sách
của ngân hàng trung ương và cơ quan giám sát của 10 nước mới chỉ nhìn
nhận ra các nguy cơ từ rủi ro tín dụng, và vì vậy, mức rủi ro tín dụng mà
ngân hàng đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của ngân
hàng. Theo Basel I, tổng vốn của một ngân hàng cần ít nhất bằng 8% rủi ro
tín


dụng

của

ngân

hàng

đó.

Tỷ lệ vốn tối thiểu = (Tổng vốn/tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro) >
8%
Tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro
11


Tùy theo mỗi loại tài sản sẽ được gắn cho một trọng số rủi ro. Theo Basel I
(hiện Việt Nam đang áp dụng) trọng số rủi ro của tài sản được chia thành 4
mức là 0%, 20%, 50% và 100% theo mức độ rủi ro của từng loại tài sản.
Basel 1 đưa ra 4 loại trọng số rủi ro (0%, 20%, 50% và 100%).
Trọng số rủi ro theo loại tài sản

Trọng số rủi ro

Phân loại tài sản
Tiền mặt và vàng nằm trong ngân hàng.

0%


Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài
chính.
Các khoản trả nợ của ngân hàng có quy mơ lớn

20%

Chứng khốn phát hành bởi các cơ quan Nhà
nước

50%

Các khoản vay thế chấp nhà ở,…
Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của

100%

doanh nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém
phát triển, các khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất
động sản,…

Theo bảng trên, nếu một khoản vay không được bảo đảm trị giá 1.000 USD
của một tổ chức khơng phải ngân hàng sẽ có trọng số rủi ro là 100%. Tài sản
được điều chỉnh theo trọng số rủi ro lúc đó sẽ được tính bằng
1.000USDx100% = 1.000USD.
Ví dụ tiền mặt tại quỹ hay trái phiếu chính phủ có trọng số rủi ro là 0%, các
khoản vay cho khu vực tư nhân là 100%. Nhược điểm lớn nhất của quy định
này là không phân biệt các loại rủi ro đặc thù. Ví dụ tất cả các khoản vay của
khu vực tư nhân đều được gắn trọng số 100%, cho dù đó là khoản vay của
12



một công ty nổi tiếng như IBM hoặc của một doanh nghiệp địa phương
khơng có tên tuổi.
Basel II đã khắc phục nhược điểm này. Việc xếp trọng số bao nhiêu tùy
thuộc mức độ tín nhiệm (xếp hạng tín dụng) của chủ nợ. Điểm khác biệt nữa
trong Basel II là nợ được chia thành 5 nhóm có trọng số lần lượt là 0%,
20%,

50%,

100%



150%.

Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ cho
ra những yêu cầu về vốn khác nhau như bảng sau:

Tài

sản

điều
Loại tài sản

Trọng số
rủi ro

Tỷ lệ vốn Số tiền


Yêu

chỉnh

về vốn tối

theo
trọng

cầu

số

thiểu

rủi ro
Trái

phiếu

Chính phủ

0%

Trái phiếu đô thị 20%

8%

Thế chấp nhà ở


50%

8%

100%

8%

Vay không bảo
đảm

1.000

8%

USD
1.000
USD
1.000
USD

0 USD

0 USD

200 USD 16 USD
500 USD 40 USD

1.000


1.000

USD

USD

80 USD

Theo biến đổi của thị trường, năm 1996, Hiệp ước Basel I được sửa đổi có
tính đến rủi ro thị trường. Theo đó, rủi ro thị trường bao gồm cả rủi ro thị
trường chung và rủi ro thị trường cụ thể. Rủi ro thị trường chung đề cập đến
13


những thay đổi về giá trị thị trường do có sự biến động lớn trên thị trường.
Rủi ro thị trường cụ thể là những thay đổi về giá trị của một loại tài sản nhất
định. Có 4 loại biến số kinh tế làm phát sinh rủi ro thị trường, đó là tỷ giá lãi
suất, ngoại hối, chứng khoán và hàng hóa. Rủi ro thị trường có thể được tính
theo 2 phương thức hoặc là bằng mơ hình Basel tiêu chuẩn hoặc là bằng các
mơ hình giá trị chịu rủi ro nội bộ của các ngân hàng. Những mơ hình nội bộ
này chỉ có thể được sử dụng nếu ngân hàng thoả mãn các tiêu chuẩn định
tính



định

lượng


được

quy

định

trong

Basel.

Mặc dù có rất nhiều điểm mới nhưng Hiệp ước Basel I với bản sửa đổi năm
1996 vẫn có khá nhiều điểm hạn chế. Một trong những điểm hạn chế đó là
Basel I đã khơng đề cập đến một loại rủi ro đang ngày càng trở nên phức tạp
và với mức độ ngày càng tăng lên, đó là rủi ro tác nghiệp.
Chính vì vậy, từ năm 1999, Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước
mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn
của Basel (Basel II) đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa
trên 3 cột trụ chính, Basel II đã buộc các ngân hàng quốc tế phải tuân thủ
theo

3

nguyên

tắc



bản:


Nguyên tắc thứ nhất: Các ngân hàng cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn
để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm rủi ro tín
dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp (Cột trụ 1). Theo đó, cách tính chi
phí vốn đối với rủi ro tín dụng có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị
trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp.
Nguyên tắc thứ hai: Các ngân hàng cần phải đánh giá một cách đúng đắn
14


về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám
sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá
này (Cột trụ 2). Với cột trụ này, Basel II nhấn mạnh 4 ngun tắc của cơng
tác



sốt

giám

sát:

+ Các ngân hàng cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ
vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn
nhằm

duy

trì


mức

vốn

đó.

+ Các giám sát viên nên rà sốt và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức
vốn nội bộ cũng như về các chiến lược của ngân hàng. Họ cũng phải có khả
năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát
viên nên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ khơng hài
lịng

với

kết

quả

của

quy

trình

này.

+ Giám sát viên khuyến nghị các ngân hàng duy trì mức vốn cao hơn mức
tối

thiểu


theo

quy

định.

+ Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của ngân
hàng không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi
ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu.
Nguyên tắc thứ ba: Các ngân hàng cần phải cơng khai thơng tin một cách
thích đáng theo nguyên tắc thị trường (Cột trụ 3). Với cột trụ này, Basel II
đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các ngân hàng phải công khai thông
tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông
tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của ngân hàng với rủi ro tín dụng, rủi ro
thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của ngân hàng đối với
từng

loại

rủi

ro

này.

Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức
này đưa ra, các ngân hàng thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt
15



động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi
ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro.
IV. Đánh giá:
1. Tiến bộ:
So với Quyết định 488,sự ra đời của Quyết định 493 đã đạt được những
tiến bộ sau:
- Tạo ra cơ sở pháp lý để các TCTD tiến hành việc xác định thực trạng tài
chính của mình một cách chính xác hơn, phù hợp với năng lực và khả năng
quản lý của các TCTD Việt Nam.
- Yêu cầu các TCTD phải có sự nhìn nhận đúng đắn, khách quan hơn về chất
lượng tín dụng của mình.
- Cung cấp cho các nhà quản lý của TCTD một phương thức phân loại nợ và
trích lập dự phịng rủi ro đang áp dụng phổ biến ở nhiều nước trên thế giới.
- Cho phép các TCTD chủ động hơn trong việc phân loại nợ, trích lập và sử
dụng dự phòng trên cơ sở các quy định có tính chất ngun tắc của Quyết
định 493.
- Quy định trong vòng 3 năm các TCTD phải xây dựng Hệ thống xếp hạng
tín dụng nội bộ về khách hàng và hệ thống này sẽ là công cụ hữu hiệu giúp
cho các TCTD trong việc quản lý rủi ro tín dụng và phân loại nợ để đánh giá
chính xác hơn chất lượng, khả năng tổn thất trong hoạt động tín dụng và là
cơ sở quan trọng cho việc đưa ra các chính sách về tín dụng, khách hàng, lãi
suất, bảo đảm tiền vay…đồng thời đây là bước đi đầu tiên để tiến tới trích
lập dự phịng theo IAS 39 và thực hiện tỷ lệ an toàn vốn theo Balse II.

16


- Đối với NHNN, Quyết định 493 cho phép NHNN có được những thơng
tin, số liệu đúng đắn, chính xác hơn về nợ xấu, chất lượng hoạt động tín

dụng của từng TCTD và toàn hệ thống TCTD, đồng thời NHNN đánh giá
chính xác hơn khả năng quản lý, kiểm sốt nội bộ và khả năng chịu đựng rủi
ro của từng TCTD và tồn hệ thống TCTD, qua đó giúp cho NHNN thực
hiện việc quản lý, thanh tra, giám sát các TCTD tốt hơn. Quyết định 493
cũng là một công cụ hỗ trợ thực hiện đánh giá TCTD theo CAMELS
*) Sau quyết định trên, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV)
được chọn là ngân hàng đầu tiên thí điểm việc phân loại nợ theo tiêu chuẩn
cao hơn (theo Điều 7, Quyết định 493).Ngày 31/12/2006, khi BIDV công bố
tỷ lệ nợ xấu ở mức 9,1%, gấp khoảng 3 lần so với các ngân hàng thương mại
(NHTM) Nhà nước khác, khơng chỉ là điều đáng nghi ngờ mà cịn thực sự
gây sốc cho khơng ít người. Vì BIDV là đơn vị "Anh hùng Lao động thời kỳ
đổi mới" với thương hiệu mạnh, được tổ chức xếp hạng tín nhiệm tồn cầu
Moody's Investors Service đánh giá cao… tại sao lại có tỷ lệ nợ xấu cao như
vậy? Ông Lê Ngọc Quỳnh - Giám đốc Ban Quản lý tín dụng BIDV cho biết,
nếu thực hiện theo điều 6, Quyết định 493 thì tỷ lệ nợ xấu của BIDV chỉ là
3,2%. Do quyết định thực hiện phân loại nợ theo điều 7 - gần hơn với thông
lệ quốc tế nên con số này tăng lên 9,1%.
Thực hiện theo điều 7, đồng nghĩa với việc BIDV đang tiến hành một
"cuộc cách mạng" thực sự trong việc nâng cao chất lượng tín dụng. Ban
nghiên cứu thực hiện điều 7 Quyết định 493 được thành lập, tất cả giám đốc
chi nhánh và cán bộ tín dụng làm trực tiếp đều phải tham gia lớp tập huấn
thực hiện Quyết định 493. Xử lý nợ xấu được đặt lên hàng đầu. Ơng Lê
Ngọc Quỳnh cho biết, mục đích của BIDV là nâng cao chất lượng tài sản

17


Có. Vì muốn chơi trong sân của WTO phải có chất lượng tốt. BIDV không
"làm đẹp" bảng cân đối mà là làm sạch thật sự.
Không phải bây giờ, mà từ lâu Ban lãnh đạo của BIDV đã xác định,

trước sau gì cũng phải thực hiện theo thơng lệ quốc tế, nên không ngại việc
công bố công khai, trung thực các chỉ tiêu tài chính. BIDV đã th tư vấn
nước ngồi để phân loại khách hàng và xếp hạng tín dụng theo thơng lệ quốc
tế. Các khách hàng được phân tích qua 14 chỉ tiêu tài chính và 40 chỉ tiêu
phi tài chính. Hơn 28.000 dữ liệu của khách hàng được đưa vào hệ thống xử
lý, chấm điểm dựa trên thang điểm từ 20-100 mà BIDV đã xây dựng, để
phân thành 5 nhóm nợ theo điều 7 Quyết định 493.
Ba năm nay BIDV thực hiện "thắt lưng buộc bụng" để trích dự phịng
rủi ro, tích cực thu hồi nợ xấu, đồng thời kiên quyết ngăn ngừa việc phát
sinh nợ xấu từ các khoản cho vay mới. Từ năm 2006, Tổng giám đốc BIDV
Trần Bắc Hà đã có những chỉ đạo quyết liệt trong việc thu hồi nợ xấu. Tất cả
các chi nhánh đều có Ban chỉ đạo thu hồi nợ xấu.Ban giám đốc của ngân
hàng cũng nhấn mạnh,việc thực hiện theo thơng lệ quốc tế có thể sẽ làm mất
khách hàng, nhưng nâng cao chất lượng tín dụng mới là mục tiêu hàng đầu
của BIDV. Tốc độ tăng trưởng tín dụng dự tính chỉ đạt 10-15%, giảm hơn so
với trước. Hướng đi của BIDV là tập trung phát triển dịch vụ. Theo kế
hoạch, đến năm 2010 BIDV sẽ trở thành một trong những tập đồn tài chính
ngân hàng lớn….
Những con số gần đây cho thấy tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng Việt Nam
đã có mức chuyển biến đàng kể.Ở khối ngân hàng quốc doanh ,nợ xấu xoay
quanh mức 3%.Ở mức NHTM cổ phần ,tỷ lệ này phổ biến 2% nhiều thành
viên chỉ 1%.Như vậy,với quyết định 493 ngày 22/4/2005 của ngân hàng nhà
nước Việt Nam đã giúp cho hoạt động của ngân hàng tiến gần hơn đến các
chuẩn mực quốc tế.
18


2. Hạn chế :
+ Các TCTD có chính sách tín dụng và dự phịng khác nhau có thể thực hiện
phân loại nợ và trích lập dự phịng với mức độ thận trọng khác nhau. Điều

này làm cho việc so sách tỉ lệ nợ xấu giữa các tổ chức tín dụng với nhau có
thể chưa hồn tồn tuơng đồng trong một số trường hợp.
+ Quyết định 493 phân loại nợ kết hợp giữa định tính và định lượng nên có
thể tạo kẽ hở cho báo cáo chưa chính xác tình trạng nợ xấu hoặc khơng phản
ánh chính xác mức độ rủi ro thực tế của khoản nợ. Điều này đòi hỏi khả
năng kiểm tra trên cơ sở rủi ro của thanh tra ngân hàng nhà nước cần phải
được cải thiện.
+ Quyết định 493 áp dụng chung cho tất cả các loại hình tổ chức tín dụng và
thực tiễn rất đa dạng nên trong một số tình huống quyết định 493 chưa được
giải quyết tốt.
Sự ra đời của quyết định 493 đã góp phần nâng cao chất lượng cơng tác
quản lý hoạt động tín dụng của các ngân hàng cũng như giúp các ngân hàng
chủ động hơn trong việc xử lý kịp thời các rủi ro có thể gặp phải đối với các
khỏan cho vay. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng quyết định 493 vẫn còn
một số hạn chế nhất định:
- Quyết dịnh 493 quy định việc phân loại nợ, lập dự phòng và sử dụng dự
phòng theo một khung chung đối với tất cả các tổ chức tín dụng, nhưng
trong thực tế các tổ chức tín dụng có thể áp dụng chính sách tín dụng và dự
phịng khác nhau dẫn đến việc so sánh tương quan tỉ lệ nợ xấu giữa các tổ
chức tín dụng trong một số trường hợp có thể khơng hiệu quả.
Trường hợp của Ngân hàng BIDV là một ví dụ. BIDV là ngân hàng
thương mại cổ phần thường cho vay theo chỉ định của chính phủ, cho vay
19


các khoản đầu tư có thời gian dài hạn. Khi áp dụng việc phân loại nợ theo
các quy định trước đây thì tỉ lệ nợ xấu của BIDV khơng cao bằng nhiều ngân
hàng, đặc biệt là các ngân hàng thường cho vay ngắn hạn ( bởi thời gian cho
vay ngắn nên rủi ro của các món nợ này ngay lập thức hiển hiện ). Nhưng
đến thời điểm QĐ 493 đi vào áp dụng vào tháng 5 năm 2005 cũng là lúc các

món cho vay dài hạn của BIDV tới hạn và nhiều doanh nghiệp đi vay trong
số đó đã khơng có khả năng chi trả được món vay làm cho tỉ lệ nợ xấu của
BIDV lúc này lại bị cao hơn nhiều so với mặt bằng các ngân hàng khác.
- Quy định 493 quy định việc phân loại nợ theo 2 phương pháp định tính
và định lượng. Tuy nhiên chỉ có các tổ chức tín dụng đủ tiêu chuẩn thì mới
được áp dụng việc phân loại nợ theo phương pháp định tính quy định tai
điều 7 QĐ 493 (như BIDV hay MBI bank), còn hầu hết các ngân hàng Việt
Nam hiện nay thì đều áp dụng việc phân loại nợ theo phương pháp định
lượng. Điều này đã tạo kẽ hở cho các Ngân hàng khai báo khơng chính xác
về tỉ lệ nợ xấu, nhất là thông qua việc gia hạn nhiều lần cho khách hàng. Có
2 lí do chính mà các Ngân hàng khơng muốn khai báo chính xác về tỉ lệ nợ
xấu thực tế đó là:
+ Tỉ lệ nợ xấu cao đồng nghĩa với trích dự phịng lớn, làm cho chi phí
tăng cao và thu nhập giảm. Năm 2007 vừa qua, một trong những lí do dẫn
đến việc Ngân hàng Vietcombank giảm thu nhập chính là việc trích lập dự
phòng tăng đột biến (1100 tỉ VND ) so với mức trích năm 2006 ( 170 tỉ
VND ).
+ Ngân hàng Nhà nước đã lấy tỉ lệ nợ xấu để làm thước đo đánh giá chất
lượng hoạt động tín dụng của các Ngân hàng.
Cuối tháng 12/2006 tỉ lệ nợ xấu khối ngân hàng thương mại ở mức 3-4 %
còn ở khối Ngân hàng thương mại Quốc doanh thì ở mức cao hơn một chút

20



×