Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 83 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM TRUNG KẾT

PHÁP LUẬT VỀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TRONG
HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN
DỤNG Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 603805

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ THỊ THU THUỶ

HÀ NỘI - NĂM 2006


MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1

MỞ ĐẦU

2

Chương 1. Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay của tổ chức
tín dụng và bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng



9

1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng
1.2. Khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự

9
11

1.3. Khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng

18

1.4. Vài trò của bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng
1.5. Các loại bảo lãnh

25
28

Chương 2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng
trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng

35

2.1. Chủ thể của quan hệ bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho
vay của cac tổ chức tín dụng.


35

2.2. Hình thức, nội dung của Bảo lãnh gnân hàng trong hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng

39

2.3. Thủ tục xác lập, sửa đổi, bổ sung, thực hiện bảo lãnh ngân
hàng và vấn đề chuyển giao quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo

40

lãnh
2.4. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ bảo lãnh ngân
hàng
2.5. Chấm dứt bảo lãnh ngân hàng và thời hạn bảo lãnh ngân hàng

44


trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng

48

2.6. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ bảo lãnh ngân hàng trong
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng

51

Chương 3. Định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt

Nam về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức
tín dụng

58

3.1. Về khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng

59

3.2. Hình thức, nội dung của bão lãnh ngân hàng trong hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng

62

3.3. Vấn đề nhận bảo lãnh, bên được bảo lãnh là tổ chức cá nhân
nước ngoài
3.4. Thời điểm có hiệu lực, sửa đổi, bổ sung, chấm dứt bảo lãnh
ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
3.5. Giải quyết tranh chấp phát sinh từ bảo lãnh ngân hàng trong
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

64
65
68
72
73



DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT

TCTD:

Tổ chức tín dụng


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
ăn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã ghi “Đường lối kinh tế

V

của Đảng ta là: Đẩy mạnh Công nghiệp hoá hiện đại hoá, xây dựng

nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu
tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù
hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh
thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển
nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn
hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện
tiến bộ và công bằng xã hội”. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm
2001 - 2010 nhằm: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ
rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước Công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn
lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh
tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị thế của nước ta trên trường

quốc tế được nâng cao” [1].
Để thực hiện cho được đường lối, chủ trương và chiến lược kinh tế của
Đảng thì đòi hỏi hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nói
riêng cũng cần được đổi mới và hoàn thiện. Trong đó có hệ thống pháp luật về
bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Vì sao
vậy? Bởi vì:
Từ trước năm 1988 pháp luật về bảo lãnh ngân hàng đã được đề cập ở một
số văn bản quy phạm pháp luật nhưng không nhiều và chưa có hệ thống, còn
rất đơn giản tuy nhiên trong giai đoạn này, do cả nước đang tập trung vào việc
2


hàn gắn vết thương sau chiến tranh, nền kinh tế của Việt Nam giai đoạn này
vận hành theo cơ chế cũ - cơ chế kế hoạch hoá tập trung, việc điều hành nền
kinh tế đất nước theo cơ chế mệnh lệnh hành chính. Ngân hàng ở giai đoạn này
là hệ thống ngân hàng một cấp, bảo lãnh ngân hàng chủ yếu mang tính chất hỗ
trợ của Nhà nước cho doanh nghiệp vay vốn nước ngoài ( bảo lãnh của Nhà
nước để doanh nghiệp vay vốn nước ngoài).
Từ năm 1988 trở lại đây, nền kinh tế của nước ta đã chuyển dần sang nền
kinh tế thị trường. Có thể nói đây là giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế thị
trường, thời kỳ này nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp quốc doanh tại ngân
hàng không được đảm bảo bằng tài sản tăng lên, cả hai bên vận dụng bảo lãnh
của phía thứ ba để khai thông ách tắc trong thể chế tín dụng. Do sự “tự phát”
đó nên tính chất của bảo lãnh lúc bấy giờ bị sai lệch. Bảo lãnh không dựa trên
cơ sở pháp lý về khả năng tài chính mà dựa vào uy tín. Hợp đồng tín dụng có
thể được bảo lãnh bởi cơ quan quản lý các cấp như Uỷ ban nhân dân cấp
huyện, tỉnh, hoặc thậm chí các cơ quan Đảng, tổ chức quần chúng như: Mặt
trận, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ. Kết cục là không ít trường hợp người bảo
lãnh không bao giờ có thể trả thay cho các doanh nghiệp vay nợ và rồi các bên
đưa nhau ra Toà án. Năm 1990 Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước và Pháp lệnh

ngân hàng hợp tác xã tín dụng và Công ty tài chính được ban hành, hệ thống
ngân hàng ở Việt Nam đã trở thành hệ thống ngân hàng hai cấp. Theo đó, các
ngân hàng thương mại đã thực sự chuyển sang hoạt động kinh doanh, giai đoạn
này nhiều nghiệp vụ ngân hàng mới, hiện đại đã được các ngân hàng thương
mại thực hiện. Bảo lãnh ngân hàng với tính chất là một nghiệp vụ ngân hàng
cũng được các ngân hàng thương mại đưa vào sử dụng, và trong cơ chế thị
trường hoạt động gân hàng luôn luôn tiềm ẩn nhiều yếu tố rủi ro. Vì vậy để hạn
chế rủi ro thì cùng với các biện pháp bảo đảm khác, bảo lãnh gân hàng trong
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng cũng được sử dụng phổ biến.
3


Để điều chỉnh nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy định về vấn đề
này như: Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số 196/ QĐ-NH14
ngày 16.4.1994 về quy chế bảo lãnh của các ngân hàng thương mại; Quyết
định số 23/QĐ-NH14 ngày 21.02.1994 về quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay
vốn nước ngoài; Luật các tổ chức tín dụng được ban hành ngày 12.12.1997 và
sửa đổi bổ sung ngày 15.6.2004; Quyết định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày
25.8.2000 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế bảo
lãnh ngân hàng; Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31.12.2001 của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay
của tổ chức tín dụng đối với khách hàng; Quyết định số 112/2003/QĐ-NHNN
ngày 11.02.2003 của Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi
bổ sung một số điều của quy chế bảo lãnh ngân hàng ban hành kèm theo Quyết
định số 283/2000/QĐ-NHNN14 ngày 25.8.2000...Và gần đây nhất là Quyết
định số 26/2006/QĐ - NHNN ngày 26/6/2006 về việc ban hành Quy chế bảo
lãnh ngân hàng.
Có thể khẳg định, bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng với tính chất là bảo lãnh của các tổ chức kinh tế có uy tín sẽ ngày

càng tạo niềm tin và sự thuận tiện cho các chủ thể khi tham gia vào các giao
dịch kinh doanh tiền tệ. Ngân hàng hoạt động trong lĩnh vực đặc biệt nhậy bén,
hoạt động của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế của mỗi quốc
gia, sự tác động của ngân hàng có tính lan truyền tới mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, nên hoạt động của ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước.
Cùng với các hoạt động nghiệp vụ khác của ngân hàng, bảo lãnh ngân hàng
trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng sẽ chịu sự ảnh hưởng mạnh
mẽ bởi đặc điểm, yêu cầu của pháp luật đối với hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng. Do vậy mà bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các
4


tổ chức tín dụng sẽ có những điểm khác biệt so với bảo lãnh trong lĩnh vực bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Để có cơ sở cho việc nghiên cứu, xây dựng và
hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng ở nước ta, cần thiết phải có các công trình
nghiên cứu nhằm mục đích là: Xây dựng cơ sở lý luận về bảo lãnh ngân hàng
trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng. Đây là lý do chính để chúng
tôi chọn đề tài “Pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam”.
2/ Tình hình nghiên cứu:
Bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, là
một lĩnh vực tuy không mới nhưng chưa có nhiều công trình nghiên cứu nó
một cách hệ thống và đầy đủ, mặc dù các biện pháp bảo lãnh đã được Pháp
lệnh hợp đồng kinh tế năm 1989, Bộ luật dân sự năm 1995 và Bộ luật dân sự
năm 2005 quy định và Luật các tổ chức tín dụng ngày 12.12.1997 sửa đổi bổ
sung ngày 15.6.2004 cũng có quy định về bảo lãnh ngân hàng. Song việc
nghiên cứu bản chất pháp lý của bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay
của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam còn rất hạn chế.
Một số bài viết của các luật gia trên tạp chí ngân hàng có đề cập tới các

biện pháp bảo lãnh như là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và
chỉ xem xét nó dưới góc độ bảo lãnh nói chung hoặc xem xét bảo lãnh dưới góc
độ kinh tế của vấn đề. Có một số luật gia lại đề cập đến biện pháp bảo lãnh,
nhưng chỉ đề cập đến bảo lãnh như là biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng
tín dụng và các chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh trong hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng đều là các tổ chức, cá nhân sử dụng tài sản để bảo lãnh
đảm bảo thực hiện hợp đồng tín dụng. Ngoài ra, có một số tác giả đề cập đến
vấn đề này trong các công trình nghiên cứu như cuốn “Bảo lãnh Ngân hàng và

5


tín dụng dự phòng”- Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội năm 1997 của tác giả Lê
Nguyên đã có trình bày về bảo lãnh Ngân hàng, song đây là bảo lãnh ngân
hàng trên thế giới và theo thông lệ quốc tế; Cuốn “Pháp luật về hợp đồng” cũng
chỉ đề cập tới vấn đề lý luận cơ bản của hợp đồng và khái quát các biện pháp
bảo đảm thực hiện hợp đồng. Một số luận văn Thạc sỹ mới chỉ nghiên cứu có
tính khái quát đi sâu vào lý luận, giải thích, định nghĩa mà chưa đi sâu vào
phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam và chưa có những kiến
nghị giải pháp để hoàn thiện pháp luật bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng. Những tài liệu trên là nguồn tài liệu tham khảo
cần thiết cho chúng tôi thực hiện đề tài này. Trong đề tài, chúng tôi đi sâu vào
nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng, trên cơ sở đó đề ra định hướng, kiến nghị
hoàn thiện các quy định của pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng.
3/ Mục đích nghiên cứu:
Thông qua nghiên cứu một cách hệ thống các vấn đề lý luận về bảo lãnh
ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, thực

tiễn áp dụng bảo lãnh ngân hàng và việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, kết hợp với việc tham khảo pháp
luật của một số nước trên thế giới thuộc lĩnh vực này, chúng tôi mong muốn sẽ
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt
động cho vay của tổ chức tín dụng và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng ở Việt
Nam trong giai đoạn mở cửa và hội nhập của nước ta hiện nay.
Để đạt được mục đích trên đây luận văn có các nhiệm vụ cụ thể như sau:

6


- Làm rõ những vấn đề cơ bản về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng. Các đặc điểm đặc thù của bảo lãnh ngân hàng
trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, các yếu tố ảnh hưởng đến
bản chất, đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng.
- Quan hệ giữa bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng và các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Pháp luật
điều chỉnh quan hệ bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng.
- Nghiên cứu tình hình giải quyết tranh chấp liên quan đến bảo lãnh ngân
hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng của Toà án.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hiện hành về bảo lãnh ngân hàng
trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, từ đó có cơ sở cho việc kiến
nghị đổi mới và hoàn thiện pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động
cho vay của các tổ chức tín dụng.
4/ Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu là pháp luật điều chỉnh quan hệ bảo lãnh ngân
hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.

- Phạm vi nghiên cứu là một số vấn đề cơ bản của pháp luật về bảo lãnh
ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng, thực tiễn áp dụng
pháp luật về bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng, tình hình giải quyết tranh chấp liên quan tới bảo lãnh ngân hàng trong
hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.
- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về bảo lãnh
ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng.

7


5/ Phương pháp nghiên cứu:
Để đạt được mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra chúng tôi sử dụng
một số phương pháp nghiên cứu khoa học như: Logic, biện chứng duy vật, duy
vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó làm rõ các
vấn đề nêu ra trong luận văn.
6/ Đóng góp khoa học:
Luận văn này được nghiên cứu trên cơ sở những vướng mắc trong thực
tiễn áp dụng bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín
dụng, thông qua hoạt động giải quyết các tranh chấp trong lĩnh vực bảo lãnh
của Toà án. Từ đó kiến nghị hướng hoàn thiện pháp luật về vấn đề này, làm
cho các quy định của pháp luật về bảo lãnh là cơ sở pháp lý giúp cho các doanh
nghiệp yên tâm tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế.
7/ Kết cấu và nội dung của luận văn:
Đề tài được bố cục thành ba chương có quan hệ chặt chẽ với nhau, nhằm
đáp ứng mức độ nghiên cứu của đề tài.
Ngoài phần lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng và bảo lãnh Ngân hàng trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.

Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo lãnh Ngân hàng
trong hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng.
Chương 3. Định hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về bảo lãnh Ngân hàng trong hoạt động cho vay của tổ chức tín
dụng.

8


9


Chương 1:
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA TỔ CHỨC
TÍN DỤNG VÀ BẢO LÃNH NGÂN HÀNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG

1.1. Khái niệm, đặc điểm của hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng
Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện khi xã hội loài
người có tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Theo nghĩa chung
nhất, cho vay được hiểu là việc một người thỏa thuận để cho người khác được
sử dụng tài sản (vật cùng loại) của mình trong một thời hạn nhất định với điều
kiện có hoàn trả, dựa trên cơ sở sự tin tưởng hay tín nhiệm của mình đối với
người đó [26]. Hoạt động cho vay được thực hiện bởi rất nhiều chủ thể trong
xã hội, trong đó cần đặc biệt nhấn mạnh tới tổ chức tín dụng – chủ thể cho vay
“chuyên nghiệp„ cho các tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, hoạt động tín dụng của các tổ chức
tín dụng (TCTD) được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, các dịch vụ
ngân hàng cũng được đa dạng hoá nhiều, đem lại những nguồn thu nhất định
cho các ngân hàng, tuy nhiên hoạt động cho vay vẫn được coi là hoạt động

mang tính chất truyền thống không chỉ của các ngân hàng ở Việt Nam mà còn
của ngân hàng ở các nước có hệ thống ngân hàng phát triển mạnh như Mỹ,
Pháp…..Hoạt động này là hoạt động cơ bản của TCTD, đem lại nguồn lợi
nhuận chủ yếu cho các tổ chức này. Theo pháp luật ngân hàng ở Việt nam, cho
vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách
hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả
thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Trong nghiệp vụ cho vay, tổ chức tín dụng giao một khoản tiền nhất định
trong một thời gian nhất định cho bên đi vay để dùng vào mục đích nhất định
10


và bên đi vay phải hoàn trả cả gốc và lãi khi đến hạn. Điều này có nghĩa là đối
với hình thức cho vay thì khoản tiền vay được chuyển giao trực tiếp hoặc nhập
vào tài khoản của bên đi vay.
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng thực chất là giao dịch hợp đồng.
Chủ thể tham gia quan hệ cho vay là bên cho vay (tổ chức tín dụng) và bên đi
vay (khách hàng vay). Hoạt động này tiềm ẩn rủi ro lớn. Theo quan điểm của
một số tác giả thì hoạt động cho vay là hoạt động tiêu biểu nhất của hầu hết các
ngân hàng, hoạt động này đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát
được khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít nhất cũng là dự tính, phán đoán
khả năng này. Tuy nhiên, không phải bao giờ dự tính này cũng chính xác tuyệt
đối và thời gian qua đi thì khả năng phán đoán lại càng trở nên khó khăn hơn.
Do vậy, rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro tín dụng [29]. Có thể
nói, hoạt động cho vay luôn đi liền với rủi ro, kinh doanh tín dụng là chấp nhận
đối đầu với rủi ro.Tính rủi ro này xuất phát từ những đặc thù của đối tượng
hoạt động cho vay, đặc thù của nguồn vốn cho vay của bên cho vay - tổ chức
tín dụng. Nếu trong các hoạt động kinh doanh khác, tiền tệ chỉ được coi là
thước đo giá trị, là phương tiện thanh toán thì trong hoạt động cho vay, tiền tệ
trở thành hàng hoá. Bên cho vay chỉ có thể đòi tiền của bên vay sau một thời

hạn nhất định. Nếu thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc
càng lớn, khả năng thu hồi nợ của TCTD có thể khó thực hiện. Ngoài ra, việc
cho vay của tổ chức tín dụng chủ yếu dựa vào nguồn vốn huy động từ các tổ
chức, cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy, do chức năng trung gian này của các
tổ chức tín dụng mà các rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng
(người đi vay) sẽ ảnh hưởng ngay đến tổ chức tín dụng và qua đó ảnh hưởng
đến quyền lợi của người gửi tiền. Và như vậy, so với hoạt động cho vay tài sản
thông thường thì trong hoạt động này, người cho vay dùng tài sản của chính

11


mình để cho vay nên khi người đi vay không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì chỉ
người cho vay phải gánh chịu hậu quả [31].
Chính vì xuất phát từ rủi ro trong hoạt động cho vay mà cần thiết phải
nghiên cứu các biện pháp nhằm hạn chế tối đa những tác hại của rủi ro tín
dụng, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định. Một trong các biện pháp này
là bảo đảm tiền vay bằng bảo lãnh ngân hàng.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự.
Trong giao dịch dân sự, khi hợp đồng dân sự được xác lập, vấn đề mà các
bên quan tâm đó là việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
đã được xác lập. Để bảo đảm thực hiện đúng các nghĩa vụ theo thoả thuận
trong hợp đồng và để tránh các thiệt hại do sự vi phạm nghĩa vụ gây ra, thông
thường các bên tham gia giao dịch thường đặt ra các yêu cầu có sự bảo đảm
cho việc thực hiện các nghĩa vụ. Bộ luật dân sự nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2005 đã quy định các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự bao gồm: Cầm cố tài sản; thế chấp tài sản; đặt cọc; ký cược; ký quĩ;
bảo lãnh; tín chấp.
Mỗi biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ nêu trên đều có nội dung và
yêu cầu khác nhau, do vậy các bên tham gia giao dịch dân sự tuỳ theo từng loại

hình giao dịch các bên có thể lựa chọn các biện pháp thực hiện nghĩa vụ sao
cho phù hợp để cho hợp đồng được thực hiện một cách nghiêm chỉnh.
Bảo lãnh là một trong các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự,
khái niệm bảo lãnh dưới góc độ kinh tế, xã hội nó khác với khái niệm bảo lãnh
dưới góc độ pháp lý. ở mỗi quốc gia, khái niệm bảo lãnh cũng có những nét
riêng, nét đặc thù phù hợp với trình độ phát triển kinh tế, xã hội, chính trị của
mỗi quốc gia ấy.

12


Theo từ điển tiếng Việt thì bảo lãnh được hiểu là bảo đảm cho người khác
thực hiện một nghĩa vụ và chịu trách nhiệm nếu người đó không thực hiện, và
bảo đảm là làm cho chắc chắn thực hiện được [25]. Như vậy dưới góc độ ngôn
ngữ theo thực tiễn cuộc sống thì khi mà một người đã cam kết bảo lãnh cho
một người khác về công việc được thực hiện thì có nghĩa là người đó sẽ bảo
đảm cho công việc mà người kia phải thực hiện thì chắc chắn sẽ được thực hiện
và nếu trong trường hợp không thực hiện được như thoả thuận thì người bảo
lãnh sẽ chịu trách nhiệm trước người nhận bảo lãnh.
Theo từ điển thuật ngữ pháp lý phổ thông: “Bảo lãnh là một trong những
phương thức bảo đảm thực hiện trái vụ. Bảo lãnh là hợp đồng trong đó người
bảo lãnh phải chịu trách nhiệm trước chủ nợ của người khác về việc người này
thực hiện toàn bộ hay một phần trái vụ của mình” [30].
Theo từ điển pháp luật của Mỹ quốc thì bảo lãnh được hiểu là thoả thuận
trong đó người bảo lãnh đồng ý sẽ thực hiện nghĩa vụ nợ của bên nợ chỉ khi
bên nợ không trả nợ; bảo lãnh là việc bên bảo lãnh bảo đảm hoặc hứa thực hiện
nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực
hiện được [37].
Theo Bộ luật dân sự Sài Gòn: “Khế ước bảo chứng là những khế ước có
mục đích bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ trong trường hợp trái hộ lâm vào tình

trạng vô tư lực không trả được nợ” “Người nào nhận bảo lãnh một nghĩa vụ tức
là cam kết với trái chủ sẽ thi hành nghĩa vụ ấy, nếu chính trái hộ không thi
hành” [24].
Theo quy định tại Điều 361 Bộ luật dân sự Việt Nam năm 2005 thì:
“Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên có quyền ( sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay
cho bên có nghĩa vụ ( sau đây gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn
13


mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ.
Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa
vụ khi bên được bảo lãnh không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình”. Về
phạm vi bảo lãnh, Bộ luật dân sự Việt Nam quy định “Bên bảo lãnh có thể cam
kết bảo lãnh một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ cho bên được bảo lãnh. Nghĩa vụ
bảo lãnh gồm cả tiền lãi trên nợ gốc, tiền bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp
có thoả thuận khác“ [3].
Bảo lãnh là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự áp dụng
tương đối phổ biến trong cuộc sống hàng ngày như áp dụng để bảo đảm việc
thực hiện nghĩa vụ trong các quan hệ giao dịch như: Mua bán, vay mượn, đại
lý, thuê... đặc biệt, bảo lãnh là một biện pháp được áp dụng rất phổ biến trong
lĩnh vực tín dụng ngân hàng.
Tóm lại: Từ các định nghĩa trên về bảo lãnh trong Bộ Luật Dân sự ta thấy
nó có các đặc điểm sau: Cam kết của bên thứ ba (bên bảo lãnh) với bên có
quyền (bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (bên
được bảo lãnh ); Sự vi phạm nghĩa vụ của bên được bảo lãnh là điều kiện cho
việc thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Như vậy bảo lãnh là sự cam kết trách nhiệm
của bên thứ ba với bên nhận bảo lãnh khi có sự vi phạm nghĩa vụ của bên được
bảo lãnh. Nhưng trong thực tế thì cũng có những trường hợp có sự tham dự của
bên thứ ba vào việc thực hiện nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ đối với bên có

quyền, song về bản chất lại không phải là bảo lãnh như:
* Việc thực hiện nghĩa vụ thông qua bên thứ ba: Trong một giao dịch nào
đó bên có nghĩa vụ có thể uỷ quyền cho bên thứ ba thực hiện nghĩa vụ đối với
bên có quyền và sự uỷ quyền đó được bên có quyền chấp nhận thì bên có
quyền có thể trực tiếp yêu cầu bên thứ ba đó thực hiện nghĩa vụ đối với bên có

14


quyền khi nghĩa vụ đến hạn mà không cần đợi có sự vi phạm nghĩa vụ của bên
có nghĩa vụ ( bên uỷ quyền).
Như vậy, điều này khác với bảo lãnh vì trong bảo lãnh thì bên có quyền
có thể yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh nhưng đồng thời vẫn
có quyền yêu cầu bên được bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, và trong bảo lãnh thì
chỉ khi bên được bảo lãnh có sự vi phạm về nghĩa vụ thì bên có quyền mới có
quyền yêu cầu bên bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh.
* Trong việc thực hiện nghĩa vụ liên đới: Bên thứ ba có nghĩa vụ theo
phần với bên có quyền nhưng liên đới chịu trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ
cùng với bên có nghĩa vụ, thì bên thứ ba sẽ cùng với bên có nghĩa vụ thực hiện
nghĩa vụ đối với bên có quyền. Trong trường hợp này, khi đến hạn, bên có
quyền có thể yêu cầu bên thứ ba trực tiếp thực hiện toàn bộ nghĩa vụ đối với
mình mà không nhất thiết phải yêu cầu từng bên thực hiện phần nghĩa vụ của
họ. Như vậy ở đây khác với bảo lãnh đó là không có sự cam kết trả thay cho
bên được bảo lãnh.
Do vậy, sự cam kết của bên thứ ba vào việc thực hiện nghĩa vụ thay cho
người khác là một trong những đặc trưng cơ bản để xác định bản chất đích thực
của bảo lãnh và để phân biệt bảo lãnh với thực hiện nghĩa vụ liên đới, thực hiện
nghĩa vụ thông qua bên thứ ba. Và bảo lãnh chỉ phát sinh khi mà có sự vi phạm
nghĩa vụ của bên được bảo lãnh đây là yếu tố để xác định một cam kết có phải
là bảo lãnh hay không.

Từ những phân tích trên đây, có thể rút ra khái niệm chung về bảo lãnh
như sau: Bảo lãnh là việc người thứ ba (gọi là bên bảo lãnh) cam kết với bên có
quyền (gọi là bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm thay
cho bên có nghĩa vụ (gọi là bên được bảo lãnh), nếu khi đến thời hạn mà bên
được bảo lãnh vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm.
15


Bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự khác với các biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự khác như cầm cố, thế chấp. Những điểm khác này tạo nên
những đặc điểm của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân sự, những đặc điểm đó là:

* Nghĩa vụ theo bảo lãnh là nghĩa vụ lệ thuộc, phái sinh theo nghĩa vụ
của bên được bảo lãnh: Với đặc điểm này thì bên nhận bảo lãnh có quyền trực
tiếp yêu cầu bên được bảo lãnh trong việc thực hiện nghĩa vụ và trong phạm vi
nghĩa vụ được bảo lãnh còn tồn tại không được thực hiện. Có nghĩa là nghĩa vụ
bảo lãnh sẽ không tồn tại nếu nghĩa vụ được bảo lãnh đã chấm dứt hoặc không
tồn tại. Mặt khác, nghĩa vụ của bên bảo lãnh là ngang bằng và tương đương với
nghĩa vụ của bên được bảo lãnh. Nghĩa là nghĩa vụ của bên bảo lãnh trong mọi
trường hợp, tối đa bằng nghĩa vụ được bảo lãnh. Khi có sự miễn, giảm đối với
bên được bảo lãnh thì nghĩa vụ của bên bảo lãnh cũng sẽ được miễn, giảm
tương ứng.

* Bảo lãnh là biện pháp bảo đảm mang tính đối nhân. Bản chất của các
biện pháp bảo đảm nghĩa vụ là nâng cao trách nhiệm của bên chủ thể có nghĩa
vụ trong việc thực hiện nghĩa vụ của mình bằng cách dùng người thứ ba đứng
ra bảo lãnh ( bảo chứng đối nhân) hoặc dùng tài sản của chính con nợ để bảo
đảm nghĩa vụ (bảo chứng đối vật). Theo Bộ luật dân sự Sài Gòn thì “Bảo
chứng đối vật tạo cho chủ nợ một vật quyền trên tài sản đã sung dụng để trả nợ:
đó là sự điển áp hay thế chấp và sự để đương” [24]. Bảo đảm đối nhân trao bên

nhận bảo đảm quyền yêu cầu đối với chính bên đưa ra cam kết bảo đảm, không
đưa ra quyền ưu tiên thu nợ đối với tài sản cụ thể nào của bên đưa ra cam kết
bảo đảm. Bộ luật dân sự Sài Gòn quy định “Bảo chứng đối nhân tức là sự bảo
lãnh” [24]. Bộ luật dân sự Việt Nam không quy định riêng biệt thành các biện
16


pháp bảo đảm đối vật và bảo đảm đối nhân. Nhưng qua nghiên cứu các quy
định của Bộ luật dân sự Việt Nam chúng ta cũng có thể rút ra được các đặc
điểm của biện pháp bảo đảm đối vật và biện pháp bảo đảm đối nhân:
- Bảo đảm đối vật: Bên có nghĩa vụ (chủ thể nghĩa vụ) cam kết bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ bằng một hoặc một số tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
thông qua các biện pháp cầm cố tài sản, thế chấp tài sản, ký cược, ký quỹ, đặt
cọc.
- Bảo đảm đối nhân: Việc thực hiện nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bằng
uy tín hoặc tài sản của người thứ ba (ngoài hai bên chủ thể trong hợp đồng
chính) người thứ ba cam kết với bên có quyền (trong hợp đồng chính) thực
hiện nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ nếu đến thời hạn mà bên có nghĩa vụ
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ của mình thông qua biện
pháp bảo lãnh.
Thông qua việc bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng bảo lãnh, quyền và lợi
ích hợp pháp của bên có quyền được đảm bảo không chỉ bằng khối tài sản của
người có nghĩa vụ (người được bảo lãnh) mà còn được bảo đảm bằng khối tài
sản của người thứ ba (người bảo lãnh). Như vậy có thể nói quyền và lợi ích hợp
pháp của bên có quyền được bảo đảm bằng hai khối tài sản ( khối tài sản của
người bảo lãnh và người được bảo lãnh) thay vì chỉ một khối tài sản của người
có nghĩa vụ ( người được bảo lãnh).
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, theo Quy chế thế chấp, cầm cố tài sản và
bảo lãnh vay vốn ngân hàng: “Bên bảo lãnh thực hiện bảo lãnh bằng tài sản
hoặc các bên có thể thoả thuận bên bảo lãnh thế chấp, cầm cố tài sản cho bên

nhận bảo lãnh” . Khi người thứ ba đem tài sản của mình để thế chấp, cầm cố
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ cho người khác thì theo Bộ Luật Dân sự đây là
trường hợp cầm cố, thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba.
17


* Các biện pháp bảo đảm mang tính chất phụ thuộc vào nghĩa vụ chính.
Khi nghĩa vụ chính chấm dứt tồn tại do đã được hoàn thành theo đúng cam kết
thoả thuận hoặc được chuyển giao thì các biện pháp này cũng chấm dứt, hết
hiệu lực. Tính chất nghĩa vụ phụ của các biện pháp bảo đảm là đặt nó trong
mối quan hệ với nghĩa vụ chính mà nó bảo đảm chứ không đồng nghĩa với
“Nghĩa vụ bổ sung”. Với tính chất là nghĩa vụ phụ thì các biện pháp bảo đảm
được thiết lập nhằm mục đích bảo đảm cho nghĩa vụ khác được thực hiện, hoặc
bảo đảm cho nghĩa vụ sẽ được hình thành. Trong trường hợp khi vi phạm nghĩa
vụ chưa xẩy ra thì các biện pháp bảo đảm có chức năng dự phòng, chức năng
tác động. Với tính chất là nghĩa vụ phụ bên cạnh nghĩa vụ chính thì nghĩa vụ
được bảo đảm là các quy định biện pháp bảo đảm. Chính vì vậy mà các vấn đề
về thời hạn, phạm vi bảo đảm... phải phù hợp với những quy định về nghĩa vụ
được bảo đảm, Bộ luật dân sự Việt Nam quy định “Nghĩa vụ dân sự có thể
được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận hoặc theo quy định của
pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo
đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi
thường thiệt hại” [3]. Việc quy định phạm vi bảo đảm thuộc phạm vi của nghĩa
vụ chính nhằm chỉ rõ trách nhiệm tối đa theo luật của bên chủ thể có nghĩa vụ
trong biện pháp bảo đảm được áp dụng đối với chủ thể có quyền ở quan hệ
nghĩa vụ chính. Không vì áp dụng biện pháp bảo đảm mà bên có nghĩa vụ phải
chịu trách nhiệm lớn hơn nghĩa vụ vốn xác định của họ, bởi vì xét cho cùng
mục đích của việc áp dụng các biện pháp bảo đảm là nhằm thực hiện nghĩa vụ
chính, chứ không nhằm đưa lại cho bên bị vi phạm lợi ích lớn hơn cái họ có thể
có khi nghĩa vụ được thực hiện đúng. Chính vì vậy đặc điểm cơ bản của các

biện pháp bảo lãnh là phạm vi bảo lãnh không vượt quá phạm vi nghĩa vụ đã
được xác định trong nội dung của quan hệ chính.

18


* Nghĩa vụ bảo đảm bằng bảo lãnh phải là nghĩa vụ có thể chuyển giao.
Nghĩa vụ cơ bản của bên bảo lãnh là thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo
lãnh, nếu đến hạn trả nợ mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc không thể
thực hiện được nghĩa vụ. Nghĩa là có sự thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được
bảo lãnh, vì vậy mà nguyên tắc chuyển giao nghĩa vụ cần được áp dụng “Trừ
trường hợp nghĩa vụ gắn liền với nhân thân của bên có nghĩa vụ hoặc pháp luật
có quy định không được chuyển giao nghĩa vụ” [3]. Điều này nó phù hợp với
thực tế là các nghĩa vụ liên quan đến nhân thân như nghĩa vụ học tập, lao động,
bảo vệ tổ quốc thì không thể thực hiện thay, tức là không thể bảo lãnh [5]. Do
vậy mà nghĩa vụ được bảo đảm bằng bảo lãnh là những nghĩa vụ được phép
thực hiện thay hoặc nghĩa vụ không gắn liền với nhân thân của người có nghĩa
vụ.
Tóm lại: Những đặc điểm trên đây của bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ dân
sự cho thấy rằng chúng có rất nhiều đặc điểm khác biệt với biện pháp bảo đảm
khác như cầm cố, thế chấp tài sản. Chính những đặc điểm khác biệt này là tiền
đề, cơ sở pháp lý cho việc nghiên cứu loại hình bảo lãnh ngân hàng.

1.3. Khái niệm, đặc điểm của bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của
các tổ chức tín dụng
Vấn đề khái niệm bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng có nhiều quan điểm khác nhau. Quan điểm thứ nhất cho rằng:
“Bảo lãnh ngân hàng chỉ được hiểu như là một hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ, do
ngân hàng ( hay tổ chức tín dụng) cam kết với bên có quyền sẽ thực hiện nghĩa
vụ trả nợ thay cho người được bảo lãnh, nếu người này không thực hiện đúng

nghĩa vụ của họ với bên có quyền”. Ngoài ra, có quan điểm cho rằng: “Bảo
lãnh ngân hàng không chỉ là hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ ( được ký kết giữa tổ
19


chức tín dụng với bên có quyền) mà còn là hợp đồng dịch vụ bảo đảm ( được
ký kết bởi các tổ chức tín dụng với khách hàng là tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ
trong một trái vụ cần được bảo đảm” [26]. Quan điểm khác lại cho rằng bảo
lãnh ngân hàng không phải là hợp đồng mà là cam kết bảo lãnh - một dạng của
cam kết đơn phương của ngân hàng bảo lãnh. Theo quan điểm này thì “Bảo
lãnh là cam kết một bên” [27]. Quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước
ngoài ban hành kèm theo Quyết định số 23/QĐ-NH14 ngày 21.2.1994 của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam: “Bảo lãnh vay vốn nước ngoài là
cam kết của ngân hàng nhận bảo lãnh với bên cho vay về việc trả nợ đầy đủ,
đúng hạn của bên đi vay. Trường hợp bên đi vay không trả hoặc không trả đủ
nợ khi đến hạn, ngân hàng nhận bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay cho
bên đi vay”. Trong Quy chế thế chấp cầm cố tài sản vay và bảo lãnh vay vốn
ngân hàng ban hành theo Quyết định số 217/QĐ-NH1 ngày 17.8.1996 của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước Việt Nam “Bảo lãnh vay vốn ngân hàng là
việc người thứ ba ( pháp nhân hoặc cá nhân - gọi là bên bảo lãnh) cam kết với
bên cho vay ( bên nhận bảo lãnh) sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho bên vay
vốn ( bên được bảo lãnh) nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không trả
được toàn bộ hay một phần nợ vay ( bao gồm nợ gốc, lãi và tiền phạt quá hạn)
cho bên nhận bảo lãnh”. Theo Luật các tổ chức tín dụng năm 1997 ( sửa đổi bổ
sung năm 2004) và Điều 2 Quy chế bảo lãnh ngân hàng thì “bảo lãnh ngân
hàng là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên có quyền về việc
thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng khi khách hàng không thực
hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết; khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ
chức tín dụng số tiền đã được trả thay”.
Khác với các khái niệm về bảo lãnh của luật Việt Nam, các điều luật quốc

tế đưa ra định nghĩa cụ thể của từng loại hình bảo lãnh mà không có một khái
niệm chung. Chương 5 luật thương mại Mỹ khẳng định nghĩa vụ của người
20


phát hành tín dụng thư hoặc bảo lãnh độc lập là “Sẽ thanh toán chứng từ xuất
trình theo đúng tiêu chuẩn thực hành”. Công ước liên hiệp quốc về bảo lãnh
độc lập và tín dụng thư dự phòng định nghĩa bảo lãnh như sau “Cam kết là lời
hứa độc lập, được biết trong thực tiễn quốc tế như là một bảo lãnh độc lập hoặc
tín dụng thư dự phòng do ngân hàng hoặc tổ chức hay cá nhân ( người bảo
lãnh. Người phát hành) thanh toán cho...” . Phòng thương mại quốc tế định
nghĩa về bảo lãnh độc lập như sau: “Với mục đích của bản quy tắc này, bảo
lãnh độc lập là bất cứ bảo lãnh, cam kết hay cam kết thanh toán, dù được gọi
hay miêu tả như thế nào của ngân hàng, Công ty bảo hiểm hoặc pháp nhân hay
thể nhân bằng văn bản, thanh toán một số tiền khi được xuất trình theo đúng
quy định của cam kết, bản đòi tiền và các chứng từ khác” [32].
Qui tắc thống nhất về bảo lãnh theo yêu cầu bản số 458 - Phòng thương
mại quốc tế Pari có quy định: bảo lãnh được đưa ra bằng văn bản cho việc
thanh toán số tiền xác định khi có sự xuất trình yêu cầu thanh toán phù hợp với
các điều khoản của bảo lãnh cùng với các chứng từ phù hợp với các quy định
của bảo lãnh ( nếu có) [28] . Bảo lãnh theo yêu cầu có một số đặc điểm là: Bên
bảo lãnh phải thanh toán khi nhận được yêu cầu thanh toán bằng văn bản phù
hợp với điều kiện của bảo lãnh cùng với chứng từ phù hợp với quy định của
bảo lãnh ( nếu có), bảo lãnh theo yêu cầu có thời hạn xác định: sự độc lập của
bảo lãnh đã được xác định rõ, nghĩa vụ kiểm tra sự phù hợp của yêu cầu thanh
toán bảo lãnh của bên bảo lãnh khi thực hiện thanh toán theo bảo lãnh được
quy định cụ thể.
Qua xem xét về bảo lãnh ngân hàng nêu trên, quy định hiện hành của Việt
Nam cũng như quy định bảo lãnh ngân hàng theo thông lệ quốc tế thì bảo lãnh
ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng là cam kết của

ngân hàng, được thể hiện bằng thư bảo lãnh và hợp đồng bảo lãnh. Ngân hàng

21


bảo lãnh có nghĩa vụ theo đúng cam kết tại văn bản bảo lãnh đã gửi cho bên
nhận bảo lãnh.
Như vậy việc coi bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ
chức tín dụng là cam kết của ngân hàng mang tính đơn phương là phù hợp các
quy định của pháp luật Việt Nam về bảo lãnh ngân hàng và phù hợp với các
quy định của Bộ luật dân sự. Hơn nữa việc coi bảo lãnh ngân hàng trong hoạt
động cho vay của các tổ chức tín dụng là cam kết có tính chất đơn phương có ý
nghĩa rất lớn trong việc đưa hoạt động bảo lãnh của ngân hàng trở nên linh hoạt
và nâng cao sự bảo đảm an toàn cho bên nhận bảo lãnh, nâng cao vai trò và
tính độc lập của ngân hàng. Trách nhiệm của ngân hàng trong hoạt động cho
vay theo cam kết bảo lãnh được xác định rõ ràng, cụ thể, thủ tục bảo lãnh sẽ
được nhanh chóng. Bên nhận bảo lãnh có quyền yêu cầu ngân hàng bảo lãnh
thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo đúng thoả thuận tại văn bản bảo lãnh.
Bảo lãnh ngân hàng trong hoạt động cho vay của các tổ chức tín dụng
phải có đầy đủ các yếu tố như: Phải có sự cam kết của ngân hàng trong việc trả
nợ thay một khoản tiền nhất định cho bên nhận bảo lãnh; điều kiện để ngân
hàng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh là phải có sự vi phạm nghĩa vụ của bên được
bảo lãnh, được thể hiện bên nhận bảo lãnh yêu cầu thanh toán hoặc thông qua
việc xuất trình bằng chứng, chứng minh cho sự vi phạm nghĩa vụ của bên được
bảo lãnh. Nếu thiếu một trong các yếu tố này thì cam kết của ngân hàng nhận
trả tiền thay chưa hẳn đã là cam kết bảo lãnh bởi vì trong thực tế khi xem xét
bảo lãnh ngân hàng với một loại hình nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại
có trường hợp nhầm lẫn giữa nghiệp vụ bảo lãnh ngân hàng với các nghiệp vụ
có tính chất tương tự như: Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng, nghiệp vụ
mở thư tín dụng trả chậm, hoặc nghiệp vụ cam kết bảo đảm thu nợ. Điều này

hoàn toàn phù hợp với định nghĩa về bảo lãnh vay vốn được qui định tại Điều 5

22


×