Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

Phân tích bài thơ Chiều Tối (Mộ) của Hồ Chí Minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (55.05 KB, 4 trang )

Đề bài: Phân tích bài thơ chiều tối (mộ) của Hồ Chí Minh.
Giáo viên Nguyễn Thị Kiều Trang trường THPT Hai Bà Trưng - Hà Nội
Tháng 8.1942 Nguyễn Ái Quốc lấy tên Hồ Chí Minh trở lại Trung Quốc với danh nghĩa là đại biểu của Việt
Minh sang liên lạc với chính quyền Tưởng Giới Thạch để hợp tác chống phát xít, tranh thủ sự viện trợ của
đồng minh. Thế nhưng “ai ngờ đất bằng gây sóng gió” Bác “phải làm khách quý tại nhà giam”.
Suốt mười ba tuần trăng, Bác bị lưu đày qua ba mươi nhà lao của mười ba huyện thuộc tỉnh Quảng Tây. Ấy
vậy mà người tù ấy đã sáng tạc một trăm ba mươi bài thơ bằng chữ Hán trong cuốn “Ngục trung nhật kí”
(Nhật kí trong tù).
Vào một buổi chiều, người tù Hồ Chí Minh bị đọa đày suốt cả ngày trời, giờ đây được dừng chân bên xóm
núi. Bác đã viết trang nhật kí bằng thơ ghi lại cảnh và tình ở thời khắc ngày chuyển sang đêm. Bài thơ “Mộ”
(chiều tối) ra đời trong hoàn cảnh ấy.

“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ”
(Chim mỏi về rừng chìm chốn ngủ)
Câu thơ thứ nhất là một nét vẽ về cảnh vật ở trên mặt đất lúc chiều tối của vùng sơn cước. Cảnh vật mang
tính quy phạm rất cổ điện của thơ ca xưa.
Nguyễn Du từng viết:

“Chim hôm thoi thót về rừng”
Bà Huyện Thanh Quan cũng viết:

“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi”
Tất cả đều nói về buổi chiều tối ở suối rừng. Hình anh cánh chim chiều mỏi mệt, chập choạng trong ánh sáng
hoàn hôn là linh hồn của buổi chiều của xóm núi, của một khung cản núi rừng đang về chiều.
Cánh chim lẻ loi, mỏi mệt bay về rừng trong thơ Bác không chỉ nói về hiện thực. Nó là cánh chim đã được
nhân hóa, mang tâm hồn nhân cách của người ngắm cảnh. Bốn chữ “quyện điệu quy lâm” đã được bản dịch
thơ chuyển tải chính xác. Tuy nhiên, với ba tiếng cuối “tầm túc thụ” thù bản dịch đã không nói đúng ý đồ của
người viết. Ba tiếng ấy có nghĩa là: tìm một cây cao ở giữa rừng để nghĩ ngơi. Rõ ràng “tầm túc thụ” là một
ứng xử có văn hóa. Cánh chim đã quá mỏi mệt sau một ngày dài là một sự cố gắng mang tính chất bản năng
mà thôi. Còn cánh chim chiều của Hồ Chí Minh thì khác. Chim rất có ý thức, nó đã vượt lên chính mình. Nó
đã bay được về rừng rồi nhưng cánh chim ấy vẫn cố nâng dần đôi cánh của mình để hướng tiếp đến một cây


cao, một địa chỉ rõ ràng để nghỉ ngơi, xếp cánh thư giãn hạnh phúc.
Bản dịch với ba chữ “tìm chốn ngủ” đã chuyển một câu thơ nhật kí thành một thông cáo hoàn toàn nhật
không có chút thi vị. Nếu tinh ý ta thấy chữ “túc” không phải là ngủ, vì nghỉ ngơi đâu nhất thiết là phải ngủ.
Đó có thể là một điều kiện để hưởng thụ hạnh phúc.

“Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chòm mây trôi nhẹ giữa từng không)
Nếu câu thơ thứ nhất là một nét vẽ chứa đựng linh hồn buổi chiều ở không gian dưới mặt đất, thì câu thơ
thứ hai cũng mang màu sắc cổ điển. Đường thi, nó là nét vẽ rất thân tình để miêu tả hồn vía của một buổi
chiều tối trên bầu trời. Thơ xưa cũng thường hay dùng những hình tượng chiều tối trên bầu trời. Thơ xưa
cũng thường hay dùng những hình tượng mây. Thứ đoc hai dòng sau đây của Lí Bạch (do Xuân Diệu dịch):

“Bầy chim một loạt bay cao
Trên trời thơ thẩn đám mây một mình”


Một nét vẽ dưới mặt đất, một nét vẽ trên bầu trời; dùng cái động của cánh chim bay quan sát sự chuyển
động rất nhẹ của đám mây… Tất cả những điều ấy là bút pháp của chấm phá, dùng cái động miêu tả cái
tĩnh, dùng cái hữu để thấy cái hoang vắng, cô liêu. Và dưới đôi mắt biện chứng của Hồ Chí Minh đã nối hai
không gian khác biệt ấy lại với nhau một cách rất thi vị. Có lẽ nếu không theo dõi cuộc hành trình thứ hai của
cánh chim “tầm túc thụ” thì đôi mắt của người thi sĩ sẽ không phát hiện được hình tượng đám mây đang
chênh chếch phía bên trời.
Đối chiếu với bản dịch thơ, ta thấy người dịch đã không nói được những điều quan trọng của nguyên tác. Hai
tiếng “cô vân” vẫn mang màu sắc nhân hóa rất chủ quan. Nó là “mây cô đơn”, nó có nỗi niềm, có hoàn cảnh,
có thân phận… Đó hoàn toàn không phải là “chòm mây” – một cái nhìn rất khách quan, rất hiện thực. Hai
chữ “chòm mây” không diễn tả được tâm tình, cảm xúc, không gợi cảm bằng “cô vân”. Còn với cụm từ “mạn
mạn”, thì nó là từ láy có giá trị biểu cảm rất cao. Cho nên khi dịch sang tiếng Việt cần phải tạo nên từ láy,
không nên dùng hai tiếng “trôi nhẹ”. Có thể hiểu “cô vân mạn mạn” là: mây cô đơn lững lờ, lưỡng lự, phân
vân. Đám ây ấy đang chứa đựng nhiều ngầy lực của tình cảm. Nó đang lựa chọn giữa đi và ở. Nếu đi thì sẽ
tìm được hạnh phúc như cánh chim kia được về rừng, còn ở lại thì vẫn cứ mãi ôm nỗi cô đơn, cô độc.

Đáng lưu ý nhất chính là ba chữ “độ thiên không” chữ “độ” vốn là danh từ, là bến sông. Thế nhưng nó đối
với chữ “tầm” ở câu đầu là động từ, cho nên “độ” là muốn nói về cái đích, về cái bến ở chốn xa xôi, nơi bầu
trời mênh mông bao la, phía bên này là không gian cô đơn, còn phía bên kia là “thiên không”, là cái bến của
bằng hữu, của niềm thân mật yêu thương. Câu thơ có hai không gian: một không gian chứa đựng nỗi cô
đơn, cô độc mà đám mây đang hiên hữu. Một không gian khác là cõi bát ngát không tù túng chật hẹp, đó là
không gian “độ thiên không”. Đến lượt với cái bến ở phía “thiên không” tức mà mây cô đơn sẽ giải tỏa được
nỗi cô đơn.
Đặc điểm của Đường thi tứ tuyệt là dùng cảnh để ngụ tình, hai câu thơ là cảnh chiều tối, nhưng nó đã ẩn
chứa đằng sau hoàn cảnh ước vọng của người tù đang ngắm cảnh. Cảnh vật mà người tù nhìn thấy có một
phần rất giống, rất tương hợp với những gì mà mình đang phải chịu đựng. Sau một ngày bị giải đi từ sáng
sớm, qua bao nhiêu con đường chông chênh, hiểm trở của núi rừng tỉnh Quảng Tây, Bác đã tạm dừng chân
ở một xóm núi vào lúc chiều tối. Con đường đày ải đã vắt kiệt sức lực của người tù. Cho nên cách chim mỏi
mệ, nặng nề cố gắng bay về rừng lúc hoàng hôn đã ngầm nói với chúng ta thể chất của người tù Hồ Chí
Minh cũng hết sức mỏi mệ sau một ngày bị đày ải.
Hình tượng mây cô đơn trên bầu trời cũng phản chiếu tâm trạng rất thực của Bác lúc này. Rõ ràng là Hồ Chí
Minh đã bị bắt ở xứ người, con người đày ải của Hồ Chí Minh là con đường độc hành, Bác không có một
người bạn nào để tâm sự, giao tiếp như những con người bình thường khác. Cho nên Người cũng rất cô đơn
như đám mây kia vậy.
Hai câu thơ mở đầu bài “Mộ” cho ta thấy một phương diện, một nội dung hết sức quan trọng của tập “Nhật
kí trong tù”. Đó là khát vọng tự do hiện lên trong từng con chữ ở những trang nhật kí bằng thơ. Dù hai lần
mỏi mệt chim vẫn bay được về rừng, rồi tiếp tục tìm được một cây cao để nghỉ ngơi. Chính tự do đã cho
cánh chim kia giải thoát được sự giải tỏa cô đơn. Mây có tự do để lựa chọn một không gian khoáng đãng
nhiều bầu bạn… Quả thật là chim kia mây nọ khác hẳn với hoàn cảnh của người tù Hồ Chí Minh. Tạo hóa ban
cho vạn vật tài sản quý giá nhất là sự tự do. Nhưng oái ăm thay con người lại tước đoạt quyền tự do của con
người chân chính.

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc”
(Cô em xóm núi xay ngô tối)
Câu thơ thứ ba quả là một chuyển đề rất đột ngột, từ hình tượng thiên nhiên rất quy phạm, ta tiếp xúc với
hình tượng con người. Tính cố điện đã được thay thế bằng tính hiện đại. Sự kết hợp giữa cổ điện và hiện đại

đã tạo nên phong cách rất độc đáo cho “Nhật kí trong tù”.
Theo bản phiên âm bốn chữ “sơn thôn thiếu nữ” có nghĩa là cô gái xóm núi. Ba chữ “ma bao túc” là xay ngô,
rõ ràng đây là một thông báo mang tính tường thuật. Người viết đã nhìn được gì thì ghi một cách trung
thành sự việc ấy. Đây là một câu thơ mang chất “kí” rất khách quan. Nó không hề có sự trau chuốt, không
kèm theo một thái độ chủ quan nào như trong bản dịch thơ. Càng khó chấp nhận việc thêm chữ “tối” vào
đây, vì nó làm tối sẩm cả bài thơ. Xét về thời gian quả thực khi cô gái xay ngô thì rất dị ứng với bóng tối.
Trong những bài thơ viết trong bóng tối luôn lấp lánh những hình tượng của ánh sáng và hơi ấm. Cho nên
việc thêm chữ “tối” vào là điều khó có thể chấp nhận được.


Ngoài ra giọng điệu ở câu thơ thứ ba này đã thay đổi rất đột ngột. Người đọc không còn quan tâm tới những
hình tượng thiên nhiên nữa mà đã hướng tới nhân vật chính. Bức chân dung quan trọng nhất ở trong “Mộ” là
con người. Thơ xưa cũng có nói tới con người nhưng đó là những mĩ nhân, những quý tộc thượng lưu ở lầu
son gác tía. Họ trở thành những quy phạm, những khuôn mẫu nghệ thuật. Hai dòng thơ sau đây của Lí Bạch
đã thể hiện rõ tính quy phạm ấy.

“Mĩ nhân nhất tiếu khiên châu bạc
Giao chủ hồng lâu: “Thị thiếu gia”.
(Mĩ nhân nở nụ cười vén bức rèm châu. Rồi chỉ về phía lầu hồng nói với ta: “Ấy là nhà của thiếp”).
Có lẽ lần đầu tiên trong những bài thơ tứ tuyệt nổi tiếng, ta bắt gặp hình tượng người thiếu nữ như trong thơ
Bác. Đó là một cô gái xay ngô. Một con người lao động. Con người ấy không phải ở cung đình hoa lệ mà lại
là ở một xóm núi heo hút, một không gian mà những nhà thơ xưa không bao giờ quan tâm tới con người!.
Bác đã đưa chất liệu cuộc sống, đưa hình tượng nóng hổi trong cuộc đời đặt vào giữa những câu thơ tứ
tuyệt, tạo cho người thiếu nữ ở xóm núi có một vẻ đẹp rất khỏe khoắn và rất có ý nghĩa.

“Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”
(Xay hết, lò than đã rực hồng)
Câu thơ cuối có quan hệ trực tiếp với câu thơ thứ ba. Nếu không có câu thơ thứ ba thì dòng thơ kết thúc này
sẽ rất khó hiểu, sẽ quá bất ngờ, không logic. Hai dòng cuối cùng của bài “Mộ” được viết theo phong cách
ngôn ngữ hiện đại. Các sự kiện phát triển, gắn bó với nhau rất chặt chẽ: cô gái xay ngô, những vòng quay

của chiếc cối xay quay mãi cho đến vòng quay cuối cùng. Ngay khi ngô xay xong, cối xay dừng hẳn thì lò lửa
đã rực hồng.
Sự kiện liêm kết của hai câu thơ này còn thể hiện độc đáo trong việc lặp ba chữ “ma bao túc”. Bài thơ tứ
tuyệt chỉ có hai mươi tám chữ, cho nên người ta rất ít khi lặp. Vậy mà Bác lại dùng sáu chữ để lặp. Biện pháp
tu từ này đã tạo nên hiệu quả nghệ thuật. Cụm từ “ma bao túc” ở cuối câu ba đã gối đầu vào câu thơ thứ tư
theo lối đảo ngược. Nếu đọc liên tục thì ta sẽ có ấn tượng về những vòng quay đều đặn của chiếc cối xay
ngô. Bác đã diễn tả rất đúng hành động xay ngô của cô gái theo chu kì nữa vòng bán nguyệt. Cối xay ngô cứ
như thế, nó chuyển động dường như triền miên không dứ “… ma bao túc … bao túc ma… ma bao túc…”.
Cảm hứng thơ ca không chấp nhận sự đơn điệu. Hồ Chí Minh không quan tâm đến cô gái xay ngô mà quan
tâm tới những vòng quay đơn điệu của chiếc cối xay ngô. Người tù ấy dường như bị thôi miên theo dõi từng
vòng quay đều đặn từ chiếc cối xay… Rõ ràng sự vật không gây cảm hứng. Vậy cái quan tâm thật sự của Bác
cũng chính là sự quan tâm của cô gái xay ngô. Bác đang nhập thân vào cô gái ấy để mong ngóng công việc
sớm hoàn thành, chiếc cối xay ngô được được dừng lại. Lòng nhân đạo của Hồ Chí Minh đã bộc lộ rất tinh tế
và hết sức sâu sắc. Bác không lo đến thân tù của mình đang bị cái đói, cái rét hành hạ. Bác hỉ nghĩ rằng
mình giờ đây đã được nghỉ ngơi, còn cô gái kia thì vẫn còn phải làm việc. Bác mong muốn công việc mau
chóng kết thúc để cô gái kia hoàn toàn là một người tự do. Nhà thơ Tố Hữu đã viết về Bác như sau:

“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm hết non sông cả kiếp người”.
Quả thật lòng nhân đạo đâu phải là nhất thiết phải quan tâm đến những cái gì to lớn, cao xa. Chỉ cần một cái
nhìn, một sự quan tâm rất bình thường đối với cô gái xay ngô ở tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc lòng nhân đạo
của Bác đã được thể hiện một cách sâu sắc, tinh vi. Cô gái xóm núi ấy cũng chính là một trong “mọi kiếp
người” được Bác yêu thương, quan tâm.
Câu thơ cuối cùng có hai sự kiện gợi cho người ta nối kết thành một quá trình, thành một quan hệ nhân quả.
Sự kiện thứ nhất được Bác ghi nhân là vòng quay của chiếc cối xay ngô dừng lại, hoàn tất công việc lao động
nặng nhọc của cô gái bên xóm núi. Cụm từ “bao túc ma hoàn” có nghĩa là ngô xay xong. Với sự kiện thứ hai,
đô mắt thi sĩ của Hồ Chí Minh phát hiện một không gian khác. Đó chính là chiếc lò đỏ lửa của ngôi nhà bên
chân núi này. Trong văn bản gốc, Bác dùng đến hai chữ “hồng”. Một chữ có nghĩa là màu đỏ, còn chữ kia là
hơi ấm. Nếu hiểu theo nghĩa thứ hai thì hình tượng thơ sẽ rất độc đáo. Bác đang ở bên ngoài với sự giá rét
của mùa thu Trung Quốc. Ấy vậy mà Bác vẫn cảm nhận được hơi ấm của bếp lửa kia và dường như Bác



không còn cảm thấy cô liêu nữa mà rất ấm cúng hạnh phúc khi ở trong không gian sinh hoạt của gia đình.
Chính lòng nhân đạo, tình yêu thương con người đã tạo nên hơi ấm nồng nàn này. Nếu hiểu theo nghĩa thứ
nhất thì cũng rất hay. Khi nói lò than dò lửa có nghĩa là phải cảm nhận được không khí ấm cúng quanh chiếc
lò. Cho nên, chúng ta có thể hiểu nghĩa là cả hai từ đều được.
Trong thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngắt nhịp phổ biến nhất là 4/3 Hồ Chí Minh đã viết câu thơ đúng quy luật
này. Vậy mà, nó thật hiển nhien nhưng cũng quá bất ngờ. Chính ngờ ngô xay xong nên “lò than đã rực
hồng”. Như vậy năng lượng ở chiếc lò không phải được cháy lên từ than củi, mà từ thành tựu lao động của
cô gái vùng sơn cước kia. Sự kết thúc quá trình này là động lực mở ra quá trình thứ hai, để nó phát triển
hơn. Ngọn lửa hồng trong lò dường như đang vui lên bởi nó chứng kiến được cô gái xay ngô giờ đây là một
thiếu nữ khỏe khoắn, là biểu tượng của tự do được tắm tong ánh lửa hồng.
Trong mười ba tháng bị lao ải, tù đày, những trang nhật kí bằng thơ của Bác chủ yếu xuất hiện ở bài tháng
đầu tiên. Cảm hứng thơ được gợi ý từ những cảnh vật con người mà bác tiếp xúc trên con đường bị giải lao.
Bài thơ “Mộ” ghi nhận một buổi chiều đang chuyển dần về phía bóng tối. Nhưng tất cả tác phẩm lại là không
gian của ánh sáng. Không nhìn thấy cánh chim mỏi bay về phía rừng xa nữa, Bác hướng mát lên bầu trời. Khi
bầu trời và mặt đất đều tối thì Bác lại hướng về ngôi nhà bên chân núi. Bác nhìn thấy ngọn lửa đỏ rực trong
lò, nhìn thấy vẻ đẹp rạng rỡ của cô gái sơn cước khi ngô đã xay xong. Trong cảm quan ánh sáng ta bắt hặp
cái nhìn trìu mến, một tâm hồn luôn quan tâm đến con người, thiên nhiên tạo vật.



×