Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.04 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THỊ THÚY HÀ

GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HÀ THỊ THÚY HÀ

GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM
Chuyên ngành : Luật dân sự
Mã số
: 60 38 30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Công Bình

HÀ NỘI - 2014



2


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Hà Thị Thúy Hà

3


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
1

MỞ ĐẦU


Chương 1:

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỐC THẨM

6

TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1.

Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của giám đốc thẩm trong tố
tụng dân sự

6

1.1.1. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự

6

1.1.2. Đặc điểm của giám đốc thẩm

9

1.1.3. Ý nghĩa của giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự

12

1.2.

13


Cơ sở khoa học của các quy định về giám đốc thẩm trong tố
tụng dân sự

1.2.1. Cơ sở lý luận

13

1.2.2. Cơ sở thực tiễn

17

1.3.

19

Sự hình thành và phát triển của các quy định về giám đốc
thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trước năm 1988

19

1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước năm 2003

21

1.3.3. Giai đoạn từ năm 2003 đến nay

21


1.4.

25

Giám đốc thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự
một số nước trên thế giới

1.4.1. Cộng hòa Pháp

25

1.4.2. Cộng hòa nhân dân Trung Hoa

26

1.4.3. Liên bang Nga

26

4


Chương 2:

NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT

29

NAM HIỆN HÀNH VỀ GIÁM ĐỐC THẨM DÂN SỰ


2.1

Các quy định về kháng nghị giám đốc thẩm

29

2.1.1. Các quy định về việc đề nghị xem xét lại bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm

29

2.1.2. Các quy định về người có thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm

33

2.1.3. Các quy định về căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm

34

2.1.4. Các quy định về trình tự, thủ tục kháng nghị giám đốc thẩm
dân sự

41

2.2.

Các quy định về phiên tòa giám đốc thẩm 48

2.2.1. Các quy định về chuẩn bị phiên tòa giám đốc thẩm


48

2.2.2. Các quy định những người tiến hành phiên tòa giám đốc thẩm
và những người tham gia phiên tòa giám đốc thẩm

49

2.2.3. Các quy định về thủ tục phiên tòa giám đốc thẩm

53

2.2.4. Các quy định về phạm vi giám đốc thẩm

54

2.2.5. Các quy định về thẩm quyền của Hội đồng giám đốc thẩm

56

2.2.6. Các quy định về quyết định giám đốc thẩm

60

Chương 3:

THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIÁM

63


ĐỐC THẨM VÀ KIẾN NGHỊ

3.1.

Thực tiễn thực hiện các quy định về giám đốc thẩm

63

3.1.1. Về thành tựu đạt được trong thực tiễn thực hiện các quy định
về giám đốc thẩm

63

3.1.2. Những tồn tại trong việc thực hiện các quy định về giám đốc
thẩm và nguyên nhân

65

3.2.

91

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện chế định giám
đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự

3.2.1. Một số kiến nghị về lập pháp

92

3.2.2. Một số kiến nghị về việc thực hiện chế định giám đốc thẩm


96
98

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

5

100


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự

HĐTP

: Hội đồng thẩm phán

PLTTGQCVADS : Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
TAND

: Tòa án nhân dân

TANDTC

: Tòa án nhân dân tối cao


VKS

: Viện kiểm sát

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam được Quốc hội Khóa XI thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004, có
hiệu lực pháp luật từ ngày 01 tháng 01 năm 2005 đã đánh dấu mốc quan trọng
trong quá trình phát triển của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam. BLTTDS
không chỉ quy định trình tự, thủ tục giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình mà còn giải quyết cả các tranh chấp kinh doanh, thương mại và
tranh chấp lao động với mục tiêu đảm bảo việc giải quyết các vụ việc này một
cách nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng luật. Do vậy, bên cạnh
những thủ tục xét xử thông thường là xét xử sơ thẩm và phúc thẩm thì
BLTTDS còn quy định về thủ tục giám đốc thẩm với mục đích xem xét lại
các bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có
sai lầm nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án.
Trong một vài năm trở lại đây, việc các bản án, quyết định của Tòa án

đã có hiệu lực pháp luật bị đề nghị xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm tăng
ngày càng nhanh về số lượng và mức độ phức tạp. Việc nội dung đề nghị xem
xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm dân sự của đương sự, của cá nhân, cơ quan,
tổ chức được chấp nhận cũng có nghĩa là số lượng bản án, quyết định đã có hiệu
lực bị kháng nghị nhiều hơn. Các vụ việc dân sự được xem xét lại một cách
khách quan hơn nhằm đảm bảo quyền lợi cho đương sự nhưng cũng có những
vụ việc bị xử đi, xử lại nhiều lần dẫn đến tốn kém về cả thời gian, công sức và
tiền bạc của cả Nhà nước và công dân. Tình trạng này còn làm cho người dân
mất lòng tin vào ngành Tòa án nhân dân (TAND) nói riêng và các cơ quan bảo
vệ pháp luật nói chung. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan tư
pháp, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TƯ ngày 02 tháng 6
năm 2005 về "Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020", trong đó xác định

7


việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động TAND là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm; tổ chức lại hệ thống Tòa án theo thẩm quyền xét xử, không
phụ thuộc vào đơn vị hành chính, Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) có nhiệm
vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, phát
triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm. Mặt khác, hoàn thiện chính sách
pháp luật về tố tụng dân sự cũng là một trong những nhiệm vụ của chiến lược cải
cách tư pháp. Theo đó từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo
hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm
của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật v.v... Trên cơ sở định hướng của Nghị quyết số 49-NQ/TƯ ngày
02 tháng 6 năm 2005, tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS vào ngày 29 tháng 3 năm 2011
(Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS), trong đó việc sửa đổi đáng quan tâm nhất là
những quy định về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu

lực pháp luật. Việc sửa đổi, bổ sung những quy định có liên quan đến trình tự,
thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật của
BLTTDS là hết sức cần thiết. Tuy nhiên, sau một thời gian thực hiện các quy
định của Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS cho thấy đã phát sinh những bất cập
nhất định. Vì vậy, vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý
luận và thực tiễn của giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam để từ đó có
những đề xuất thiết thực, cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật
về giám đốc thẩm và nâng cao hiệu quả công tác giám đốc thẩm của Tòa án.
Vì lý do trên, học viên đã chọn đề tài "Giám đốc thẩm trong tố tụng
dân sự Việt Nam" làm đề tài luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thời gian qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về thủ tục xét lại bản
án, quyết định có hiệu lực pháp luật được công bố. Về luận văn, luận án, có
luận văn thạc sĩ luật học: "Thủ tục xét lại bản án, quyết định dân sự đã có

8


hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam", của Ngô Anh
Dũng, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội, 1997; luận án tiến sĩ luật học:
"Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn", của Mai Ngọc Dương, bảo vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội,
2008; luận án tiến sĩ luật học: "Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án
đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam", của Đào
Xuân Tiến, bảo vệ tại Viện Nhà nước và Pháp luật, 2009. Về đề tài khoa học,
có đề tài khoa học cấp Bộ năm 2012 "Thực trạng giải quyết đơn đề nghị giám
đốc thẩm, tái thẩm tại Tòa án nhân dân tối cao" của TANDTC, do tiến sĩ
Nguyễn Huy Du làm chủ nhiệm đề tài v.v...
Ngoài ra, còn có một số chuyên đề, bài viết của các tác giả đăng trong
các sách, báo, tạp chí chuyên ngành như: "Chế định giám đốc thẩm, tái thẩm

và những vấn đề đặt ra trong việc thi hành", của Trần Anh Tuấn, Tạp chí
Luật học, số Đặc san về tố tụng dân sự năm 2005; "Một số vấn đề liên quan
đến việc sửa đổi, bổ sung Điều 285, Điều 288 Bộ luật tố tụng dân sự", của Hà
Tĩnh, Tạp chí TAND, Kỳ 1 tháng 9, 2010; "Một số ý kiến đối với Dự thảo Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004", của Nguyễn
Như Bích, Tạp chí TAND, kỳ 1 tháng 9, 2010; "Một số vấn đề về thủ tục giám
đốc thẩm", của Nguyễn Quang Hiền, Tạp chí TAND, kỳ 1 tháng 4, 2009; "Bàn
về Dự thảo Thông tư liên tịch hướng dẫn Điều 284B Bộ luật tố tụng dân sự
sửa đổi, bổ sung năm 2011", của Nguyễn Hồng Nam, Tạp chí TAND, tháng 5,
2012 (kỳ 2) và tháng 6, 2012 (kỳ 1); chuyên đề "Thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm dân sự và thủ tục xem xét lại các quyết định của Hội đồng thẩm phán
Tòa án nhân dân tối cao", của Trần Anh Tuấn, trong cuốn Bình luận khoa học
BLTTDS sửa đổi năm 2011 v.v... Tuy nhiên, những bài viết của các tác giả
chỉ nghiên cứu, đề cập đến một hoặc một số vấn đề của thủ tục giám đốc
thẩm. Cho đến nay, nhất là từ sau khi có Luật sửa đổi, bổ sung BLTTDS chưa
có công trình khoa học nào nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện các vấn đề
về lý luận và thực tiễn vấn đề giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam.

9


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và
thực tiễn về thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam. Qua đó,
đánh giá đúng thực trạng các quy định pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về giám đốc thẩm và thực tiễn thực hiện chúng, nhận diện được những
hạn chế, bất cập và tìm ra các giải pháp khắc phục nhằm góp phần nâng cao
hiệu quả giám đốc thẩm.
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, việc nghiên cứu đề tài có
nhiệm vụ nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện các vấn đề lý luận về thủ

tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự, phân tích cụ thể các quy định của
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về giám đốc thẩm và khảo sát
việc thực hiện chúng tại các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự, chế định giám đốc thẩm trong pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam và thực tiễn thực hiện tại các cơ quan tiến hành tố tụng dân sự Việt
Nam. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài cũng được thực hiện đối với các quy
định của pháp luật tố tụng dân sự một số nước trên thế giới về giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự để so sánh, tham khảo.
Tuy nhiên, trong khuôn khổ phạm vi luận văn thạc sĩ việc nghiên cứu
đề tài chỉ giới hạn trong phạm vi tố tụng dân sự theo nghĩa hẹp, không bao
gồm cả lĩnh vực kinh tế và lao động. Mặt khác, việc khảo sát thực tiễn thực
hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về giám đốc thẩm
trong tố tụng dân sự cũng chủ yếu thực hiện tại TANDTC, các TAND cấp
tỉnh và trong những năm gần đây.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài luận văn "Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự Việt Nam" được
thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng

10


Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về Nhà nước và pháp
luật, về cải cách tư pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xét xử nói chung
và xét xử các vụ án dân sự nói riêng.
Quá trình nghiên cứu học viên cũng đã sử dụng các phương pháp khoa
học truyền thống như phương pháp thống kê, tổng hợp, phân tích, khảo sát,
diễn giải, so sánh v.v... Để chứng minh cho các luận điểm của mình học viên
cũng đã sử dụng các số liệu thống kê của ngành TAND và lựa chọn một số vụ

án đã được Tòa dân sự TANDTC xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm làm
ví dụ minh họa.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
Việc nghiên cứu đề tài, đã có những đóng góp mới cho khoa học luật
dân sự ở những điểm sau:
- Làm rõ thêm những vấn đề lý luận về giám đốc thẩm dân sự;
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành về giám đốc thẩm và thực tiễn thực hiện chúng tại các
Tòa án trong những năm gần đây;
- Đề xuất một số kiến nghị xây dựng và thực hiện pháp luật tố tụng
dân sự về giám đốc thẩm nhằm nâng cao chất lượng trong công tác giám đốc
thẩm của TAND.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành
về giám đốc thẩm dân sự
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật tố tụng dân
sự Việt Nam về giám đốc thẩm và kiến nghị.

11


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM VÀ Ý NGHĨA CỦA GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ


1.1.1. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự
Bản án, quyết định dân sự của Tòa án là sự phản ánh kết quả giải quyết
vụ, việc dân sự cụ thể. Bản án, quyết định của Tòa án được ban hành với hình
thức theo quy định tại BLTTDS. Đối với bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ
thẩm sau khi được ban hành thì có một thời hạn nhất định để đương sự thực
hiện quyền kháng cáo, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thực hiện quyền
kháng nghị. Trong trường hợp hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy
định của pháp luật mà đương sự không kháng cáo, VKSND kháng nghị thì
bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm mới có hiệu lực pháp luật. Do đó,
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án là những bản án, quyết
định không có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Đối với
những bản án, quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị
thì vụ án phải được xét xử theo thủ tục phúc thẩm. Bản án, quyết định của
Tòa án cấp phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án. Như vậy,
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật bao gồm: Bản án, quyết định của Tòa
án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị trong thời hạn pháp luật quy
định; Bản án, quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; Quyết định giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Về nguyên tắc bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án
phải được thi hành. Tuy nhiên, trong thực tế có những bản án, quyết định của
Tòa án có hiệu lực nhưng có những sai phạm về nội dung, về áp dụng pháp
luật hoặc về tố tụng. Vì vậy, để khắc phục tình trạng đó trong lĩnh vực giải

12


quyết án dân sự, kinh tế, lao động, pháp luật tố tụng dân sự đã quy định một
thủ tục đặc biệt để kiểm soát, xem xét lại những bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật đó. Thủ tục xét lại bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật trong

trường hợp này gọi là giám đốc thẩm dân sự. Căn cứ vào mục đích của việc
xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm khi nghiên cứu đề tài
luận án tiến sĩ "Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt Nam", tác giả Đào Xuân Tiến
cho rằng:
Thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật là thủ tục đặc biệt nhằm kiểm tra, xem xét, xác định bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được xét xử đúng
pháp luật và xét lại đối với bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng hoặc có tình tiết mới
làm thay đổi nội dung hoặc kết quả giải quyết vụ án [28, tr. 20].
Tác giả cũng cho rằng, việc đưa ra khái niệm này còn nhằm phân biệt
với thủ tục xét lại bản án, quyết định của Tòa án chưa có hiệu lực pháp luật là
thủ tục phúc thẩm. Trong các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đã được
công bố các tác giả của các công trình khoa học này đã đưa ra các khái niệm
về việc xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nói
chung và khái niệm về giám đốc thẩm nói riêng dựa trên nhiều góc độ tiếp
cận, nhìn nhận khác nhau. Căn cứ vào đối tượng, căn cứ của việc xét lại bản
án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt
Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm như sau: "Giám
đốc thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của
Tòa án bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm, vi phạm pháp luật trong giải
quyết vụ án" [43, tr. 325]. Tương tự, Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học
viện Tư pháp cũng đưa ra khái niệm: "Giám đốc thẩm là xét lại bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có
vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án" [13, tr. 417].

13



Khác với các cách tiếp cận trên, trong luận án "Giám đốc thẩm trong
tố tụng dân sự Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn", tác giả Mai
Ngọc Dương lại có các cách tiếp cận, nhìn nhận ở khía cạnh khác về giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự. Trong đó, với cách tiếp cận là một chế định pháp
luật thì giám đốc thẩm là một chế định pháp luật điều chỉnh những quan hệ
phát sinh trong quá trình xét lại những bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật khi có vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Với
cách tiếp cận là một quan hệ pháp luật dân sự, thành phần quan hệ pháp luật
trong giám đốc thẩm dân sự bao gồm: Chủ thể, khách thể và nội dung của
quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm dân sự, nội dung của quan hệ trong
giám đốc thẩm dân sự. Trong đó chủ thể của quan hệ pháp luật trong giám
đốc thẩm dân sự là những cá nhân, tổ chức tham gia vào quan hệ pháp luật
trong giám đốc thẩm dân sự, thực hiện các quyền và nghĩa vụ pháp lý nhất
định và được đảm bảo thực hiện bằng biện pháp cưỡng chế nhà nước. Khách
thể của quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm dân sự là việc giải quyết để
làm sáng tỏ tính hợp pháp và tính có căn cứ của những bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Nội dung của quan hệ pháp luật trong giám
đốc thẩm dân sự bao gồm quyền chủ quan và nghĩa vụ pháp lý của các chủ
thể tham gia quan hệ pháp luật trong giám đốc thẩm dân sự [5, tr. 18].
Từ nội dung phân tích trên có thể đưa ra kết luận như sau: Giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt của tố tụng dân sự, theo
đó Hội đồng giám đốc thẩm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật trên cơ sở kháng nghị của người có thẩm quyền nhằm xác định những sai
lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, từ nhiều góc độ tiếp cận có nhiều quan điểm khác nhau về
giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, để nhận diện đầy đủ bản chất
của giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự cần làm rõ về đặc điểm của giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự.


14


1.1.2. Đặc điểm của giám đốc thẩm
Đặc điểm thứ nhất: Đối tượng của giám đốc thẩm là những bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật cần
phải được thi hành để đảm bảo được quyền lợi của đương sự và đảm bảo cho
việc thực thi công lý. Tuy nhiên, trong một số trường hợp thì bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng không đúng với bản chất sự
việc hoặc nếu có thi hành thì gây tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của
đương sự. Do vậy, một trong những thủ tục để xem xét lại bản án, quyết định
của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đó là giám đốc thẩm.
Đối tượng của giám đốc thẩm dân sự là những bản án, quyết định giải
quyết vụ án dân sự đã có hiệu lực pháp luật bị phát hiện có sai lầm, vi phạm
pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự. Các bản án, quyết định có hiệu
lực pháp luật đó có thể là:
- Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự;
- Bản án, quyết định của Tòa án các cấp;
- Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án.
Nói chung các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc dân sự đã có
hiệu lực pháp luật đều có thể là đối tượng để xem xét lại theo thủ tục giám
đốc thẩm dân sự. Đây là điểm hoàn toàn khác với việc giải quyết vụ án ở cấp
phúc thẩm, đối tượng cần xem xét của Tòa án cấp phúc thẩm là các bản án,
quyết định chưa có hiệu lực pháp luật và có kháng cáo, kháng nghị. Đối với
thủ tục xét xử phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm xét xử trên cơ sở kháng cáo
của đương sự hoặc kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị, Tòa án
cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án về mặt nội dung vụ, việc dân sự, đồng thời
xem xét cả về thủ tục tố tụng thông qua hoạt động xét xử. Mặc dù cùng đối
tượng xem xét cùng là bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực nhưng


15


giữa thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm có sự khác biệt về căn cứ xét
lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Đặc điểm thứ hai: Hội đồng giám đốc thẩm xác định những sai lầm, vi
phạm pháp luật nghiêm trọng trong bản án, quyết định của Tòa án.
Những sai lầm, vi phạm nghiêm trọng trong bản án, quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực có thể là những sai lầm về nội dung hoặc về thủ tục tố
tụng. Sai lầm, vi phạm nghiêm trọng trong bản án cũng chính là các căn cứ
mà người có thẩm quyền kháng nghị, trong đó bao gồm những sai lầm như:
Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với tình tiết khách quan của
vụ án, hoặc những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng và có sai lầm
nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật.
Kết luận của Tòa án trong bản án, quyết định không phù hợp với tình
tiết khách quan của vụ án cũng có nghĩa là Tòa án giải quyết vụ án không
đúng với bản chất sự việc. Để đảm bảo công bằng, công lý trong xét xử thì
những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đã căn cứ vào
kết luận này để giải quyết vụ án phải được Hội đồng giám đốc thẩm xác định
cụ thế nhằm đảm bảo quyền lợi của các đương sự và cũng là cơ sở cho Tòa án
cấp sơ thẩm và phúc thẩm xem xét lại về nội dung khi giải quyết lại. Thông
thường, sai lầm này thường thể hiện dưới dạng chưa đủ chứng cứ, tài liệu để
giải quyết vụ án nhưng Tòa án vẫn giải quyết vụ án, nên quyết định của Tòa
án thiếu cơ sở, đánh giá sai chứng cứ, tài liệu nên đưa ra quyết định sai.
Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc Tòa án không thực
hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng trong việc giải quyết vụ án.
Những vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng đều có thể dẫn đến việc giải
quyết vụ án không đúng, xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự. Do đó, trên cơ sở nội dung kháng nghị của người có thẩm quyền kháng

nghị Hội đồng giám đốc thẩm sẽ xác định những vi phạm pháp luật nghiêm
trọng của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

16


Sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật thường thể hiện
dưới dạng Tòa án đã áp dụng văn bản pháp luật không đúng, không còn hiệu
lực hoặc áp dụng không đúng điều luật, không đúng nội dung quy định của
điều luật.
Đặc điểm thứ ba: Việc xét lại bản án, quyết định phải dựa trên kháng
nghị của người có thẩm quyền.
Thủ tục giám đốc thẩm dân sự được tiến hành trên cơ sở có kháng nghị
của người có thẩm quyền trong thời hạn pháp luật quy định đối với bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng có sai lầm nghiêm trọng.
Việc phát hiện sai lầm của bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật còn thông qua các hoạt động thanh tra, giám sát, điều tra của các
cơ quan hành pháp và tư pháp, hoạt động chất vấn của cơ quan lập pháp. Tuy
nhiên, nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự là nét đặc thù
trong pháp luật tố tụng dân sự. Vì vậy, đơn đề nghị giám đốc thẩm đối với bản
án đã có hiệu lực pháp luật là cơ sở ưu tiên hàng đầu để Tòa án xem xét, kiểm
tra lại bản án, quyết định. Không phải đơn đề nghị hoặc văn bản thông báo nào
của đương sự, của cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng được kháng nghị và đưa ra
để Hội đồng giám đốc thẩm xem xét mà còn cần dựa trên các căn cứ kháng
nghị theo quy định của pháp luật để người có thẩm quyền ra quyết định kháng
nghị trong thời hạn luật định. Như vậy, quyền đề nghị xem xét lại theo thủ tục
giám đốc thẩm của đương sự chỉ là cơ sở để người có thẩm quyền kháng nghị
xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật chứ không
phải là căn cứ để Hội đồng giám đốc thẩm xác định những sai lầm, vi phạm
nghiêm trọng trong bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Hội

đồng giám đốc thẩm chỉ xem xét lại bản án, quyết định đó tại phiên tòa giám đốc
thẩm trên cơ sở quyết định kháng nghị của người có thẩm quyền kháng nghị.
Qua nội dung phân tích về khái niệm, đặc điểm của giám đốc thẩm, thấy
rằng, giám đốc thẩm có ý nghĩa quan trọng trong hoạt động tố tụng của Tòa án.

17


1.1.3. Ý nghĩa của giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
1.1.3.1. Thủ tục giám đốc thẩm đảm bảo cho vụ, việc dân sự được
giải quyết đúng pháp luật
Nhà nước không chỉ ban hành pháp luật mà còn kiểm tra việc thực
hiện pháp luật, thông qua việc xét xử giám đốc thẩm, Tòa án kiểm tra việc
thực hiện pháp luật trong suốt quá trình tố tụng của vụ án, đồng thời phát hiện
những vi phạm pháp luật trong việc quản lý của các cơ quan, tổ chức…Giám
đốc thẩm cũng là hình thức đặc biệt để Tòa án cấp trên kiểm tra tính hợp pháp
của Tòa án cấp dưới. Thông qua công tác giám đốc kiểm tra của TAND cấp
tỉnh và TANDTC hàng năm đã phát hiện những bản án, quyết định của Tòa
án cấp dưới có sai lầm, vi phạm nghiêm trọng để sửa sai và bảo vệ được
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Mặt khác, thông qua công tác giám đốc thẩm, Tòa án phát hiện những
bất hợp lý của pháp luật nội dung và pháp luật tố tụng dân sự, kiến nghị với
cơ quan lập pháp kịp thời sửa đổi, bổ sung pháp luật thực định cho phù hợp
với yêu cầu của thực tiễn. Giám đốc thẩm là một hoạt động thực tiễn của
ngành Tòa án nhằm kiểm nghiệm những lý luận của khoa học pháp lý và các
văn bản pháp luật, là cơ sở cho việc hoàn thiện, bổ sung và nâng cao hoạt
động lý luận trong khoa học pháp lý và trong hoạt động xây dựng pháp luật.
1.1.3.2. Thông qua hoạt động giám đốc thẩm Tòa án cấp trên còn có
thể tổng kết, rút kinh nghiệm công tác xét xử, hướng dẫn xét xử cho Tòa
án cấp dưới

Hướng dẫn xét xử và áp dụng thống nhất pháp luật là công tác rất
quan trọng của ngành Tòa án. Các quyết định giám đốc thẩm là nguồn tư liệu
thực tế phong phú để TANDTC làm cơ sở đưa ra những kết luận, tổng kết
kinh nghiệm xét xử cho các Tòa án địa phương hàng năm, nhằm nâng cao
chất lượng xét xử, hạn chế những sai sót của Tòa án cấp dưới. Thông qua
công tác giám đốc thẩm, TANDTC ban hành các văn bản hướng dẫn xét xử

18


cho các Tòa án cấp dưới. Do vậy, giám đốc thẩm có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đối với Tòa án, nhất là TANDTC trong việc thực hiện chức năng quan
trọng là hướng dẫn xét xử đối với các Tòa án cấp dưới. Các quyết định giám
đốc thẩm được công bố công khai cũng là nguồn tư liệu quý giá để các Thẩm
phán tham khảo và rút kinh nghiệm trong quá trình xét xử, tránh lặp lại những
sai lầm tương tự.
Ngoài ra, thông qua công tác giám đốc án TANDTC còn đánh giá
được chất lượng Thẩm phán, để từ đó có kế hoạch cho việc đào tạo, bồi
dưỡng và sử dụng cán bộ ngành TAND cho phù hợp.
1.1.3.3. Giám đốc thẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự
Việc bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của công dân là yêu cầu
quan trọng của nhà nước pháp quyền. Thông qua công tác giám đốc thẩm dân
sự Tòa án bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Khi phát hiện
bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án vi phạm pháp luật nghiêm
trọng ảnh hưởng đến quyền lợi của công dân. Tòa án có thẩm quyền giám đốc
thẩm hủy những bản án, quyết định sai đồng thời tạo cơ sở pháp lý để vụ án
được phục hồi, xét xử lại. Do đó đã khôi phục được quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân bị vi phạm.

1.2. CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIÁM ĐỐC THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

1.2.1. Cơ sở lý luận
Bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật sẽ được đưa ra thi hành nhằm
đảm bảo lợi ích hợp pháp của đương sự. Tuy nhiên, thực tế vẫn có những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật có những sai lầm. Để khắc phục, sửa
chữa những sai lầm, bảo vệ một cách tốt nhất quyền, lợi ích hợp pháp cho các

19


đương sự, pháp luật tố tụng dân sự cần quy định thủ tục tố tụng đặc biệt nhằm
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật này.
Về phương diện lý luận, tùy theo phương diện lý luận của mỗi nước
mà nhà lập pháp xây dựng các thủ tục xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Trong khoa học pháp lý của nhiều nước trên thế giới, trong đó có
Việt Nam đã thiết lập hai thủ tục tố tụng tương ứng để xem xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Đó là: Thủ tục giám đốc thẩm
và thủ tục tái thẩm.
Dựa trên tính chất của các căn cứ xét lại bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luật, nhà lập pháp Việt Nam đã phân hóa các căn cứ này thành
hai loại thủ tục là thủ tục giám đốc thẩm và thủ tục tái thẩm: Trong đó giám
đốc thẩm là việc xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị do phát hiện có sai lầm của Tòa án khi nhận định về
những tình tiết, sự kiện của vụ án, có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng
hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án
(Về các căn cứ để kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm được quy định tại
Điều 283 BLTTDS). Còn tái thẩm dân sự là việc xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị do phát hiện những tình tiết mới có thể

làm thay đổi cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà tòa án, các đương sự
không biết được khi giải quyết vụ việc dân sự (về căn cứ để kháng nghị tái
thẩm được quy định tại Điều 305 BLTTDS). Sự khác biệt căn bản về cơ sở
của việc xét lại bản án đã có hiệu lực pháp luật là nguồn gốc dẫn tới sự khác
biệt trong các quy định của pháp luật về thời hạn kháng nghị, quyền hạn của
Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm.
Trên cơ sở các căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nêu
trên, pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam quy định thời hạn kháng nghị theo thủ
tục giám đốc thẩm phải được tính từ ngày bản án, quyết định của Tòa án có
hiệu lực pháp luật. Trong khi đó thời hạn kháng nghị theo thủ tục tái thẩm lại

20


được tính từ ngày người có thẩm quyền kháng nghị biết được căn cứ kháng
nghị theo thủ tục tái thẩm theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự được thực hiện trên cơ sở nguyên
tắc cơ bản của pháp luật tố tụng dân sự, đó là nguyên tắc giám đốc việc xét
xử. Theo đó Tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới.
TANDTC giám đốc việc xét xử của Tòa án các cấp để đảm bảo việc áp dụng
pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi dân chủ và tổ chức quyền lực mà trong
đó pháp luật được đề cao. Để đáp ứng được yêu cầu đó phải tạo dựng được ý
thức coi trọng pháp luật, xác định đúng đắn trách nhiệm qua lại giữa Nhà
nước và công dân, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Bằng
việc xét lại các bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng, bảo đảm pháp luật được áp dụng đúng đắn thì giám
đốc thẩm dân sự là nhằm góp phần đáp ứng được yêu cầu trong việc xây dựng
nhà nước pháp quyền. Thông qua công tác giám đốc thẩm nhằm vô hiệu hóa
các bản án, quyết định có sai lầm, vi phạm pháp luật nghiêm trọng, nhằm bảo

đảm việc xét xử đúng đắn và hợp pháp. Do đó, việc đặt ra chế định giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự nhằm góp phần đảm bảo thực hiện nguyên tắc pháp
chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tính ổn định và thống nhất của pháp luật, bảo
đảm tính chặt chẽ, ổn định và nhất quán của bộ máy nhà nước.
Sự cần thiết có một chế định pháp luật nhằm kiểm soát việc xét xử của
Tòa án nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Việc bảo vệ các
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nói chung và trong các tranh chấp
dân sự nói riêng là yêu cầu quan trọng của nhà nước pháp quyền. Do đó, cần
có một chế định pháp luật nhằm kiểm soát việc xét xử của Tòa án, bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân nhưng vẫn đảm bảo được nguyên tắc
hai cấp xét xử, chế định giám đốc thẩm được đặt ra nhằm xem xét lại các bản
án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở các quy định

21


về giám đốc thẩm khi phát hiện bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật bị vi phạm nghiêm trọng ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp
của công dân Tòa án có thẩm quyền hủy bản án, quyết định sai và tạo cơ sở
pháp lý để vụ án được giải quyết lại, trong trường hợp đó Tòa án đã khôi phục
được những quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Việc hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự
nhằm nâng cao chất lượng xét xử của ngành TAND. Trong những năm gần
đây việc xây dựng và hoàn thiện chế định giám đốc thẩm nhằm nâng cao chất
lượng xét xử của Tòa án, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
trong mối quan hệ pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm của cải cách
tư pháp. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 49-NQ/TƯ ngày 2/6/2005
của Bộ Chính trị về “Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020” trong đó có
nội dung đề cập đến việc nhằm từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm theo hướng quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định

rõ trách nhiệm của người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của
Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Trên cơ sở Nghị quyết này của Bộ Chính trị,
năm 2011 Quốc hội nước ta đã có những sửa đổi, bổ sung tương đối lớn đối
với BLTTDS, đặc biệt là những vấn đề liên quan đến giám đốc thẩm, tái thẩm
và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết định của Hội đồng thẩm phán (HĐTP)
TANDTC.
Các quy định về giám đốc thẩm được xây dựng nhằm bảo đảm quyền
khiếu nại của công dân. Việc đảm bảo quyền khiếu nại của công dân cũng là
một trong những cơ sở để xây dựng các quy định về giám đốc thẩm dân sự.
Việc xét xử của Tòa án phải dựa trên cơ sở nguyên tắc thực hiện chế độ hai
cấp xét xử, tuy nhiên có những bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực
pháp luật vẫn không thể đưa ra thi hành được vì đương sự không chấp nhận
nội dung quyết định của Tòa án. Do đó, nhằm đảm bảo quyền khiếu nại của
công dân, cần thiết đặt ra các quy định về giám đốc thẩm, nhằm xem xét lại

22


các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Theo đó, công dân
có quyền khiếu nại theo thủ tục giám đốc thẩm nếu phát hiện vi phạm pháp
luật trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Giám đốc thẩm nhằm kiểm tra, giám sát việc xét xử của Tòa án các
cấp. Việc thụ lý, giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự của Tòa án cấp dưới
chịu sự kiểm tra, giám sát của Tòa án cấp trên, thông qua công tác kiểm tra
giám sát đó Tòa án cấp trên kịp thời phát hiện ra các bản án, quyết định của
Tòa án cấp dưới có vi phạm nghiêm trọng cần thiết phải giải quyết lại để đảm
bảo quyền lợi của cá nhân, tổ chức và của Nhà nước. Trên cơ sở các quy định
về giám đốc thẩm, Tòa án cấp trên mới có căn cứ thực hiện chức năng giám
đốc việc xét xử của Tòa án cấp dưới thông qua việc người có thẩm quyền
kháng nghị ra quyết định kháng nghị bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp

luật của Tòa án.
Giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự là phương tiện để Tòa án tiến
hành sửa chữa những sai lầm nghiêm trọng trong quá trình xét xử, đảm bảo
thống nhất áp dụng pháp luật, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Trong công tác giải quyết án dân sự có nhiều bản án, quyết định dân
sự sơ thẩm, phúc thẩm của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật được TAND cấp
trên kiểm tra, giám đốc phát hiện ra những sai lầm, vi phạm pháp luật hoặc
thông qua việc xem xét đơn đề nghị, yêu cầu của đương sự, cá nhân, cơ quan,
tổ chức đối với các bản án, quyết định đó. Thực tiễn khi xem xét các bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thấy rằng có những dạng sai
lầm chủ yếu sau đây:
Kết luận của bản án, quyết định không phù hợp với các tình tiết khách
quan của vụ án. Dạng sai sót này được thể hiện ở nhiều khía cạnh, có trường
hợp thì Tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm chưa thu thập đầy đủ chứng cứ chứng

23


minh cho việc chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của đương sự, cũng có
trường hợp Tòa án đã thu thập đầy đủ chứng cứ nhưng đánh giá, nhận định
của Hội đồng xét xử không phù hợp với các tài liệu đã thu thập được. Từ
những sai lầm này dẫn đến quyết định của Tòa án không phù hợp với tình tiết
khách quan của vụ án. Những sai lầm này có thể được phát hiện trong thời hạn
kháng cáo phúc thẩm, nhưng cũng vì nhiều lý do khác nhau mà đương sự không
kháng cáo phúc thẩm, hoặc bản án, quyết định phúc thẩm, giám đốc thẩm do
có hiệu lực pháp luật ngay nên để xem xét lại những bản án, quyết định có sai
sót này cần phải được thực hiện theo thủ tục đặc biệt là giám đốc thẩm.
Việc vi phạm nghiêm trọng về thủ tục tố tụng trong quá trình giải

quyết vụ án. Mặc dù pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam chưa có các văn bản
pháp luật cụ thể quy định về các vi phạm thủ tục tố tụng nào được coi là vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Song trong thực tế có thể hiểu là vi phạm
nghiêm trọng thủ tục tố tụng là việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản được quy
định tại BLTTDS hoặc những vi phạm về thủ tục tố tụng dẫn đến việc xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, của Nhà nước và của người
thứ ba như: Việc xét xử vắng mặt đương sự không được thực hiện đầy đủ các
quy định của BLTTDS, không đưa đầy đủ người tham gia tố tụng, định giá tài
sản không đúng thành phần, thành phần Hội đồng xét xử không đúng quy
định của pháp luật dẫn đến việc ra bản án, quyết định thiếu khách quan,
không đảm bảo được quyền lợi của các đương sự…
Có sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng pháp luật. Đây là lỗi chủ
quan của Thẩm phán hoặc của Hội đồng xét xử khi giải quyết, xét xử vụ án
dân sự. Sai lầm này có thể do ý chí chủ quan của thẩm phán, nhưng cũng có
thể do xuất phát từ nhận thức sai đối với các văn bản hướng dẫn dưới luật, từ
đó dẫn đến việc giải quyết vụ án dân sự không đúng.
Mặt khác, để đảm bảo việc áp dụng pháp luật nghiêm chỉnh và thống
nhất trong toàn ngành TAND thì việc ban hành các văn bản hướng dẫn phải

24


được rút kinh nghiệm từ công tác kiểm tra, giám đốc án của TAND cấp tỉnh
và TANDTC. Để việc xem xét lại các bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật mang lại hiệu quả cao và đúng pháp luật cần có những quy
định chi tiết, chặt chẽ về thủ tục tố tụng trong công tác giám đốc thẩm. Do đó,
việc xây dựng chế định giám đốc thẩm trong thủ tục tố tụng dân sự là sự cần
thiết, tất yếu.
1.3. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ GIÁM
ĐỐC THẨM TRONG PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM


1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến trƣớc năm 1988
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân
chủ cộng hòa được thành lập. Trong những ngày đầu thành lập, Nhà nước đã
cho xây dựng và ban hành nhiều văn bản pháp luật để điều hành đất nước.
Ngày 9/11/1946 Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã thông qua
Hiến pháp năm 1946, tạo cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của bộ
máy nhà nước, trong đó có ngành TAND. Tuy nhiên, vào thời điểm này chưa
có văn bản nào quy định về chế định giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa thông
qua hiến pháp năm 1959, lần đầu tiên quy định thủ tục xét lại bản án, quyết
định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Điều 103 của Hiến pháp năm 1959
mới quy định: "Tòa án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Tòa án nhân
dân địa phương, Tòa quân sự và Tòa án đặc biệt" [19, tr. 16]. Trên cơ sở quy
định của Hiến pháp, tại Điều 10 Luật tổ chức TAND năm 1960 đã quy định:
Đối với những bản án và quyết định của các Tòa án nhân dân địa phương đã
có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì Tòa án nhân dân tối cao
có quyền xét lại hoặc giao cho Tòa án nhân dân cấp dưới xét lại. Theo quy
định tại Luật tổ chức TAND năm 1960 thì Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan
xét xử cao nhất của nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Tòa án nhân dân tối

25


×