Tải bản đầy đủ (.doc) (82 trang)

Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (433.34 KB, 82 trang )

MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày
01/01/2005. Có thể nói, BLTTDS được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển của ba
Pháp lệnh trước đó, bao gồm: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989;
Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải
quyết các tranh chấp lao động năm 1996, đồng thời tiếp thu những thành tựu lập pháp
của nhiều nước trên thế giới. Đây là văn bản có tính pháp lý cao nhất quy định về trình
tự, thủ tục giải quyết vụ việc dân sự tại Tòa án, trong đó có các quy định về quyền khởi
kiện và bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của đương sự.
Vấn đề quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện là vấn đề luôn được các
nhà nghiên cứu về tố tụng, cơ quan lập pháp của nhiều nước trên thế giới quan tâm.
Xét ở Việt Nam hiện nay thì các quy định trong pháp luật tố tụng dân sự của chúng ta
về cơ bản đã phần nào thể hiện được vấn đề này. Tuy nhiên, về phương diện lý luận
thì nhiều vấn đề về quyền khởi kiện và bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện cũng chưa
được giải quyết triệt để. Thực tiễn tố tụng tại Tòa án cũng cho thấy, trong nhiều
trường hợp, quyền khởi kiện của đương sự đã không được tôn trọng một cách đúng
mức. Một số quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện được quy định
trong BLTTDS còn chung chung, thiếu tính cụ thể dẫn tới những khó khăn, vướng
mắc trong việc áp dụng hoặc dẫn tới những cách hiểu và vận dụng khác nhau. Đây
chính là một trong những nguyên nhân của việc “tùy tiện chủ quan” trong việc áp
dụng pháp luật, làm cho quyền khởi kiện vụ án dân sự của đương sự không được bảo
đảm thực hiện trên thực tế. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng cho thấy một số quy định
của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của việc
bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự. Do vậy, việc nghiên cứu một cách toàn
diện, sâu sắc về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện cả về phương diện lý
luận, lập pháp và thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả bảo đảm quyền khởi kiện là một việc làm cấp thiết.
Xuất phát từ những lý do trên đây, tôi đã lựa chọn đề tài “Quyền khởi kiện và
1


bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự Việt Nam” làm luận văn cao học luật
của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Sau khi BLTTDS có hiệu lực, cũng đã có một vài công trình nghiên cứu về quyền
khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện nhưng các công trình này cũng chỉ đề cập đến
một nội dung cụ thể nào đó của quyền khởi kiện hoặc nghiên cứu một cách gián tiếp về
quyền khởi kiện của đương sự như luận văn cao học luật với đề tài “Đương sự trong vụ
án dân sự - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Nguyễn Triều Dương (bảo
vệ tại Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2005); luận văn “Thụ lý vụ án dân sự - Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Liễu Thị Hạnh (bảo vệ tại Trường Đại học Luật
Hà Nội năm 2009). Ngoài ra, cũng có một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành về
một nội dung nào đó của quyền khởi kiện hoặc bình luận về các vụ việc cụ thể liên
quan đến quyền khởi kiện. Chẳng hạn như bài viết “Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án
dân sự” của ThS. Lê Thị Bích Lan đăng tải trên Tạp chí Luật học của Trường Đại
học Luật Hà Nội (Số Đặc san về Bộ luật tố tụng dân sự năm 2005); bài viết “Xây dựng
quy định pháp lý đảm bảo quyền khởi kiện hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh tại
toà án” của tác giả Lê Thế Phúc (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 6 năm 2007);
“Bàn về điều kiện khởi kiện của các tổ chức tín dụng có tài sản thế chấp bảo đảm
tiền vay” của tác giả Trịnh Huy Tân (Tạp chí Kiểm sát, Viện kiểm sát nhân dân Tối
cao số 9/2008); “Về việc rút đơn khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự” của
ThS Nguyễn Triều Dương (Tạp chí Tòa án nhân dân số tháng 11/2009); “Về điều
kiện khởi kiện tranh chấp thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án
trong một vụ án cụ thể” của tác giả Ngô Đình Quyến (Tạp chí Tòa án nhân dân số
tháng 3/2008); "Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của tác giả
Trần Anh Tuấn (Tạp chí Tòa án nhân dân, số 23/2008)...
Việc nghiên cứu cho thấy các công trình trên đây cũng mới chỉ dừng lại ở việc
đề cập một cách gián tiếp hoặc nghiên cứu một góc độ hẹp của quyền khởi kiện. Cho
đến nay, chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách tổng thể, toàn diện về
quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự.
Trước tình hình đó, tôi đã chọn đề tài "Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện

2
trong tố tụng dân sự Việt Nam" làm luận văn thạc sỹ của mình. Đây là đề tài đầu
tiên nghiên cứu chuyên sâu, toàn diện và có hệ thống về quyền khởi kiện và đảm bảo
quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự.
3. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
* Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là làm rõ được những vấn đề lý luận cũng như
nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền
khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện, chỉ ra những điểm còn thiếu sót hoặc chưa
hợp lý trong các quy định hiện hành về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
của đương sự. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng nhằm làm sáng rõ việc bảo đảm thực
hiện quyền khởi kiện trên thực tế. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu tổng hợp, luận văn
sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện đồng thời nâng cao hiệu quả
của việc bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện trên thực tế.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục tiêu này, luận văn phải hoàn thành một số nhiệm vụ
nghiên cứu cụ thể sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi
kiện trong tố tụng dân sự;
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam có liên quan
tới quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện và thực tiễn áp dụng chúng tại các
Toà án. Từ đó chỉ ra những điểm bất cập, thiếu hợp lý trong các quy định của pháp
luật về quyền khởi kiện cũng như bảo đảm quyền khởi kiện;
- Đưa ra một số đề xuất nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Với nhiệm vụ nghiên cứu trên, luận văn sẽ không đi sâu nghiên cứu việc bảo
đảm giải quyết theo đúng pháp luật và bản chất sự việc, có nghĩa là không xét tới việc
giải quyết về nội dung của yêu cầu khởi kiện mà chỉ tập trung nghiên cứu việc bảo

đảm quyền khởi kiện dưới góc độ tố tụng dân sự thông qua việc thụ lý, trả đơn hay
3
đình chỉ giải quyết vụ án vì lý do không đủ điều kiện khởi kiện. Nội dung cốt lõi của
luận văn là xoay quanh quyền khởi kiện và việc bảo đảm quyền khởi kiện dưới góc
nhìn lý luận, luật thực định và thực tiễn. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài sẽ được giới
hạn trong phạm vi sau đây:
- Lịch sử hình thành và phát triển các quy đinh pháp luật tố tụng dân sự Việt
Nam về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện;
- Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện hành về quyền khởi
kiện và bảo đảm quyền khởi kiện;
- Tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền
khởi kiện thông qua các hoạt động tố tụng dân sự tại Tòa án.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện được mục tiêu nghiên cứu nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành
dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, chính sách của Đảng, Nhà nước và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và pháp luật. Ngoài ra, để giải quyết vấn đề thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài,
luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên ngành khác như
phương pháp phân tích hệ thống; phương pháp tổng hợp; phương pháp so sánh;
phương pháp thống kê...v.v.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống về quyền
khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
Những đóng góp của luận văn thể hiện trên một số phương diện sau đây:
Thứ nhất: Lần đầu tiên quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện được
nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện cả về lý luận, luật thực định và thực
tiễn thực hiện.
Thứ hai: Sau khi BLTTDS có hiệu lực, chưa có công trình nào nghiên cứu, khảo
sát chuyên sâu về thực tiễn thực hiện các quy định của BLTTDS về quyền khởi kiện
và bảo đảm quyền khởi kiện. Luận văn là công trình đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu

về thực tiễn thực hiện các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền khởi kiện nhằm
chỉ ra thực trạng bảo đảm quyền khởi kiện cũng như những bất cập, vướng mắc trong
4
việc thực hiện pháp luật.
Thứ ba: Trên cơ sở tổng hợp kết quả nghiên cứu, luận văn đề xuất những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi
kiện, nâng cao hiệu quả của việc bảo đảm quyền khởi kiện trên thực tế.
Thứ tư: Luận văn được bảo vệ thành công sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho
giảng viên, sinh viên chuyên ngành luật, các cán bộ làm công tác thực tiễn liên quan
đến việc khởi kiện, bảo đảm quyền khởi kiện. Ngoài ra, luận văn sẽ là tài liệu tham
khảo hữu ích cho các cơ quan lập pháp liên quan tới việc hoàn thiện pháp luật về
quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cầu
bởi 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
trong tố tụng dân sự
Chương 2: Quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện theo pháp luật tố tụng
dân sự Việt Nam hiện hành
Chương 3: Thực tiễn thực hiện pháp luật về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền
khởi kiện trong tố tụng dân sự và kiến nghị
5
CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUYỀN KHỞI KIỆN VÀ BẢO ĐẢM
QUYỀN KHỞI KIỆN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự
Chúng ta thấy rằng trong sự phát triển của xã hội, khi Nhà nước và pháp luật ra đời
thì việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận bằng pháp luật của

Nhà nước và bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế do Nhà nước thiết lập. Theo đó,
quyền khởi kiện của tổ chức, cá nhân đã được pháp luật ghi nhận và chủ thể cho rằng
quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm có quyền khởi kiện yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền do Nhà nước quy định bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của mình.
Trong cổ luật La Mã, đã có những quy định đầu tiên về quyền khởi kiện của
công dân La Mã. Theo đó khi có hành vi xâm phạm quyền tư pháp của cá nhân thì
người có quyền lợi bị xâm phạm bên cạnh việc sử dụng hình thức tự trấn áp, họ còn
có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình. Người bị vi phạm
có thực hiện quyền khởi kiện hay không, điều này pháp luật không bắt buộc mà phụ
thuộc vào ý chí của người đó [48, tr.212].
Trong xã hội hiện đại, quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyền con người
trong tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các công ước quốc tế khác.
Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền con người và
suy cho cùng thì quyền khởi kiện là quyền của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội
được pháp luật ghi nhận nhằm đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp pháp
của mình được thực hiện. Điều này được thể hiện tại Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về
nhân quyền năm 1948. Theo đó “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa
án quốc gia có thẩm quyền với phương tiện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành
vi vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Như vậy,
quyền khởi kiện được ghi nhận trong pháp luật quốc tế và là cơ sở vững chắc cho việc
ghi nhận quyền này trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
6
Theo các nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp thì “tố quyền” là khả năng được
thừa nhận đối với cá nhân được yêu cầu sự can thiệp của công lý để đạt được sự tôn
trọng các quyền và lợi ích chính đáng của mình. Theo từ điển thuật ngữ luật học của
Pháp thì tố quyền trước công lý là khả năng được thừa nhận đối với các chủ thể được
cầu viện tới công lý để đạt được sự tôn trọng các quyền lợi và lợi ích chính đáng.
Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự mới của Pháp thì thuật ngữ “action” – “tố
quyền” được dịch là quyền tham gia tố tụng theo đó “quyền tham gia tố tụng đối với
người có yêu cầu là quyền được trình bày về nội dung yêu cầu của mình để Thẩm

phán quyết định xem xét yêu cầu như vậy là có căn cứ hay không có căn cứ; đối với
bên bị kiện quyền tham gia tố tụng là quyền được tranh luận về căn cứ của yêu cầu
do bên kia đưa ra”[8, tr.23].
Ở Việt Nam, về phương diện lý luận thì nhà nghiên cứu Trần Thúc Linh cho
rằng “tố quyền tức là có quyền đi kiện”[8, tr.23]. TS. Hoàng Ngọc Thỉnh đã khẳng
định trong Giáo trình Luật tố tụng dân của trường Đại học Luật Hà Nội 1994 rằng
“Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp nhân và các tổ
chức xã hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, của
tập thể của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc vi phạm” [19,
tr.109-110]. Khái niệm này dường như không đề cập tới các việc không có tranh chấp
nhưng nghiên cứu về khái niệm vụ án dân sự trong Giáo trình này” [19, tr.6-7], Điều
1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự 1989 và thực tiễn tố tụng tại Toà án
thì có thể khẳng định trong khái niệm trên quyền khởi kiện được thực hiện đối với cả
các việc dân sự không có tranh chấp.
Kết quả nghiên cứu về quyền khởi kiện trong luật thực định Việt Nam cho thấy
quyền khởi kiện được ghi nhận gián tiếp tại Điều 50 Hiến pháp năm 1992 của Nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: “Ở nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
các quyền con người về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện
ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Trên cơ sở quy
định của Hiến pháp, các văn bản khác đã cụ thể hoá và ghi nhận quyền khởi kiện của
đương sự. Cụ thể là quyền khởi kiện được ghi nhận trong các văn bản pháp luật nội
dung và pháp luật tố tụng.
7
Tiếp tục nghiên cứu về lý luận cho thấy, trước khi Bộ luật Tố tụng dân sự
(BLTTDS) năm 2004 ra đời thì quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa rất rộng và
đồng nhất với quyền yêu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự theo BLTTDS hiện nay.
Theo đó, quyền khởi kiện được hiểu là khả năng Nhà nước cho phép công dân được
yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình khi cho rằng
quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc yêu cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp
lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động. Tuy

nhiên, BLTTDS 2004 đã tách thủ tục giải quyết vụ án dân sự trước đây thành hai thủ
tục tố tụng riêng biệt là thủ tục giải quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân
sự nên khái niệm quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa hẹp hơn trước đây. Có nghĩa
là quyền khởi kiện không còn bao hàm cả quyền yêu cầu xem xét về việc công nhận
hay không công nhận một sự kiện pháp lý hoặc các quyền về dân sự, hôn nhân và gia
đình, kinh doanh thương mại, lao động như trước đây nữa mà quyền khởi kiện được
hiểu là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm hay tranh
chấp trong vụ án dân sự.
Theo TS. Hoàng Ngọc Thỉnh thì “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố
tụng quan trọng của các chủ thể…Việc thực hiện quyền này của các chủ thể được gọi
là khởi kiện vụ án dân sự” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân, cơ quan, tố
chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự nộp đơn yêu
cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người
khác”[46, tr.238]. Theo đó, khởi kiện vụ án dân sự là hành vi đầu tiên của cá nhân,
pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở
làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Góc nhìn này tiếp tục được khẳng
định bởi TS. Phan Chí Hiếu trong Giáo trình Luật tố tụng dân sự của Học viện Tư
pháp. Theo đó, “quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp
nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước,
tập thể hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm” [50, tr. 305].
Như vậy, quyền khởi kiện là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong phạm vi
quyền hạn của mình yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
8
của mình hay lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước thuộc lĩnh vực cơ quan, tổ chức của
mình phụ trách khi quyền, lợi ích hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc có tranh chấp. Các
phân tích ở trên cho thấy rằng xét về bản chất thì quyền khởi kiện là quyền yêu cầu
Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm.
Theo những kết quả nghiên cứu trên thì bản chất của quyền khởi kiện là quyền
yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm. Từ góc

nhìn này cần phát triển khái niệm về quyền khởi kiện theo hai góc độ, theo nghĩa hẹp
quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn và theo
nghĩa rộng thì quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của nguyên
đơn, quyền phản tố (kiện ngược lại) của bị đơn và quyền yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền lợi của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền
yêu cầu của mình trước khi nguyên đơn khởi kiện vụ án.
- Xét theo nghĩa hẹp thì quyền khởi kiện là quyền của nguyên đơn trong việc yêu
cầu Toà án bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp hay bị vi phạm:
Quyền khởi kiện của nguyên đơn là quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của
chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực hiện quyền
này sẽ làm phát sinh vụ án dân sự tại Toà án. Xét về thực chất thì đây là quyền của
chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm trong việc bắt đầu việc kiện để bảo vệ quyền lợi
của mình, thông qua việc đệ đơn yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết vụ án dân sự. Đó
là quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình hoặc lợi ích công cộng thuộc lĩnh vực mình phụ trách. Chính
việc khởi kiện của của nguyên đơn là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố
tụng dân sự, không có hành vi khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết vụ án dân sự thì
không có quá trình tố tụng tiếp theo. Như vậy, việc xác định quyền khởi kiện của
nguyên đơn có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định tư cách của các đương sự khi
họ tham gia tố tụng tại Tòa án.
- Xét theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện bao hàm cả quyền yêu cầu Toà án bảo
vệ quyền lợi của nguyên đơn, quyền phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu của người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:
Nguyên đơn có quyền khởi kiện và bị đơn có quyền phản bác việc khởi kiện của
9
nguyên đơn. Bên cạnh đó, quyền phản tố của bị đơn cũng cần được pháp luật ghi nhận.
Điều này xuất phát từ sự bình đẳng giữa các đương sự trong việc bảo vệ quyền lợi của
mình. Trong những vụ án có nhiều quan hệ pháp luật tranh chấp có mối liên quan đến
nhau thì bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn và yêu cầu này có
thể được Toà án xem xét giải quyết trong cùng vụ án với yêu cầu của nguyên đơn khi

thoả mãn những điều kiện nhất định. Thực chất của phản tố là một việc kiện ngược lại
của bị đơn đối với nguyên đơn nhưng được xét cùng với yêu cầu khởi kiện của nguyên
đơn vì việc giải quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau. Như vậy, xét
theo nghĩa rộng về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện thì có thể xem quyền
phản tố cũng là quyền khởi kiện nhưng là quyền khởi kiện ngược lại của bị đơn đối với
nguyên đơn do các yêu cầu này có mối liên hệ nhất định.
Cũng theo góc nhìn về sự bình đẳng giữa các đương sự trong việc bảo vệ quyền
lợi của mình thì người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập cũng có
quyền đưa ra yêu cầu độc lập của mình trong vụ án đã được thiết lập giữa nguyên đơn
và bị đơn. Yêu cầu tố tụng này có thể chống nguyên đơn, bị đơn hoặc chống cả
nguyên đơn và bị đơn. Bản chất của yêu cầu độc lập này là một yêu cầu tố tụng của
người thứ ba nhằm bảo vệ quyền lợi của mình đang bị tranh chấp hay vi phạm trong
một vụ án đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn. Khi nghiên cứu về vấn đề này TS.
Nguyễn Công Bình cho rằng: “Trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của người có
quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý
của nguyên đơn và bị đơn. Thông thường người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham
gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự nhưng do vụ án
dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tố tụng để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình nếu không việc bảo vệ quyền và lợi ích của họ
sau đó sẽ gặp khó khăn” [46, tr.108].
Như vậy xét về bản chất thì quyền phản tố của bị đơn có thể hiểu là quyền khởi
kiện ngược lại của bị đơn, quyền yêu cầu của người có quyền nghĩa vụ liên quan có
yêu cầu độc lập là quyền khởi kiện chống lại cả nguyên đơn và bị đơn hoặc chỉ chống
lại nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án dân sự.
Tóm lại, theo nghĩa hẹp thì quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá
10
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, cơ quan, tố chức xã hội yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi ích Nhà nước. Việc thực hiện
quyền khởi kiện của các chủ thể này sẽ làm phát sinh vụ án dân sự tại Tòa án. Nếu hiểu
theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện còn bao gồm cả quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khác sau khi vụ án đã phát sinh tại Tòa án. Theo
nghĩa này thì quyền khởi kiện còn thuộc về bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên
quan dưới hình thức là quyền phản tố hoặc quyền đưa ra yêu cầu độc lập.
Theo góc nhìn này, bản luận văn sẽ đề cập tới việc bảo đảm quyền khởi theo
nghĩa rộng bao hàm cả quyền khởi kiện của nguyên đơn theo nghĩa đích thực của từ
“khởi kiện” và quyền phản tố hay quyền khởi kiện ngược lại của bị đơn, quyền có yêu
cầu độc lập hay quyền khởi kiện chống lại nguyên đơn, bị đơn hay chống cả nguyên
đơn, bị đơn của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập để bảo vệ
quyền lợi của mình khi mà vụ án giữa nguyên đơn và bị đơn đã được thiết lập.
1.1.2. Khái niệm về bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự
Theo từ điển Tiếng Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 1998 thì “bảo đảm” nghĩa
là “ làm cho chắc chắn thực hiện được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần
thiết” [11, tr.36]. Như vậy “bảo đảm” nghĩa là làm cho một vấn đề nào đó có thể thực
thi trên thực tế. Để làm được cho một vấn đề nào đó có tính khả thi thì đòi hỏi phải có
một cơ chế phù hợp với từng vấn đề cần thực hiện.
Bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự nghĩa là tổng thể các biện pháp,
các cơ chế hỗ trợ hoặc tạo điều kiện cần thiết cho đương sự có thể thực hiện quyền
khởi kiện như hoạt động trợ giúp pháp lý cho đương sự, đơn giản và minh bạch hóa
về thủ tục khởi kiện, miễn, giảm án phí…đồng thời việc bảo đảm này còn được thực
hiện thông qua chính các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng như Tòa án,
Viện kiểm sát. Chính các biện pháp và cơ chế này là cơ sở bảo đảm tính khả thi của
quyền khởi kiện, là cơ sở để quyền khởi kiện được thực hiện một cách có hiệu quả
trên thực tế nhằm bảo vệ các quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, thương mại, lao
động đã được pháp luật ghi nhận và bảo hộ.
Qua những phân tích trên chúng ta có thể kết luận là bảo đảm quyền khởi kiện
trong tố tụng dân sự nghĩa là làm cho các chủ thể có quyền khởi kiện có đủ những
11
điều kiện cần thiết, chắc chắn để thực hiện được trên thực tế quyền khởi kiện nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án thông qua các biện pháp được
xác định.

1.1.3. Ý nghĩa của quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng
dân sự
Trước hết, quyền khởi kiện là một trong những phương thức để đảm bảo quyền
con người, cụ thể là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân khi xuất
hiện hành vi xâm phạm của chủ thể khác. Cá nhân, cơ quan tổ chức được giả thiết bị
xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp bởi chủ thể khác có quyền lựa chọn các phương
thức giải quyết tranh chấp và một trong những phương thức đó là khởi kiện yêu cầu
Tòa án bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Việc quy định quyền khởi kiện tạo điều
kiện để các cá nhân, cơ quan tổ chức có quyền và lợi ích bị xâm phạm lựa chọn cho
mình phương thức giải quyết tranh chấp phù hợp nhất.
Thứ hai, quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp vừa
là tiền đề vừa là cơ sở pháp lý để Tòa án tiến hành các hoạt động tố tụng nhằm khôi
phục những quyền lợi hợp pháp của chủ thể bị xâm phạm. Việc cá nhân, cơ quan, tổ
chức khởi kiện là cơ sở pháp lý quan trọng để Tòa án thụ lý và giải quyết vụ án dân
sự, là tiền đề để cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện các giai đoạn tố tụng tiếp theo.
Thứ ba, việc ghi nhận quyền khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của các chủ thể và sự bảo đảm của Nhà nước trong việc thực hiện quyền này
cũng góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người dân. Qua đó hạn chế tình trạng
xâm phạm quyền lợi hợp pháp của chủ thể khác khi tham gia các quan hệ. Quy định
về quyền khởi kiện sẽ góp phần nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể
khi tham gia quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động
đồng thời có ý nghĩa răn đe, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền lợi của các chủ
thể, tránh được việc tranh chấp, kiện tụng gây phiền hà, tồn kém thời gian và tiền bạc
cho các chủ thể khi tham gia vào các quan hệ dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh,
thương mại, lao động.
Thứ tư, việc bảo đảm quyền khởi kiện có ý nghĩa thiết thực và rất quan trọng đối
với quyền lợi của công dân mà trực tiếp là những chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp
12
bị xâm phạm, đảm bảo tính khả thi trong quá trình thực thi quyền này của công dân.
Chính thông qua cơ chế bảo đảm quyền khởi kiện như quy định hợp lý các điều kiện

khởi kiện, thiết lập cơ chế hỗ trợ hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các đương sự thực
hiện quyền khởi kiện, bảo đảm thông qua các quy định về thể chế và thủ tục liên quan
tới hoạt động tố tụng dân sự của các cơ quan Toà án, Viện kiểm sát mà quyền khởi
kiện của các cá nhân, cơ quan, tổ chức sẽ được thực thi trên thực tế.
1.2. Cơ sở của quyền khởi kiện
Quyền khởi kiện được nghiên cứu trong mối liên hệ giữa quyền lợi và việc bảo
vệ quyền lợi. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Đẩu thì quyền khởi kiện có thể được
phân tích như một quyền lợi trong thể động, khi quyền lợi còn được tôn trọng, không
bị phủ nhận, chưa phải đem ra Toà thì quyền lợi còn ở trong thể tĩnh. Quyền lợi chỉ có
thể là căn nguyên của tố quyền chứ không thể sáp nhập với tố quyền [12, tr. 36, 40].
Theo góc nhìn này thì pháp luật nội dung ghi nhận và bảo hộ các quyền về dân sự,
hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của các chủ thể. Để các
quyền lợi hợp pháp trên được bảo đảm thực hiện trên thực tế thì pháp luật cần phải
trao cho những chủ thể có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp này một phương tiện
để bảo vệ quyền lợi của mình nhằm thiết lập lại trật tự của các quan hệ pháp luật nội
dung đang bị xáo trộn.
Vậy tại sao cần phải ghi nhận cho các chủ thể nói trên có quyền khởi kiện mà
không trao quyền này cho các cơ quan công quyền như Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát. Điều này có thể lý giải từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân sự, hôn
nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động được thiết lập. Các quan hệ pháp
luật nội dung này được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam kết,
thỏa thuận và tự định đoạt của các chủ thể và chính bản thân họ là những chủ thể có
lợi ích tài sản hoặc nhân thân trong các quan hệ này. Quan hệ pháp luật nội dung là cơ
sở để xác định có sự vi phạm thỏa thuận hay vi phạm các quy định của pháp luật, là
căn cứ để xem xét chủ thể có hành vi vi phạm và chủ thể có quyền, lợi ích hợp pháp
bị xâm phạm. Do vậy, việc ghi nhận quyền khởi kiện thuộc về các chủ thể của quan
hệ pháp luật nội dung có tranh chấp, vi phạm là hoàn toàn cần thiết và hợp lý.
13
Cũng xuất phát từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân
gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động nên trong tố tụng dân sự thì các đương sự

có quyền tự định đoạt về việc bảo vệ quyền lợi của mình. Các đương sự được tự do
trong việc quyết định lựa chọn các phương thức để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của mình như trung gian hoà giải, trọng tài hoặc yêu cầu sự can thiệp của Toà án. Do
vậy, pháp luật đã ghi nhận việc khởi kiện yêu cầu Toà án bảo vệ quyền lợi của mình
là một quyền mà đương sự được tự do thực hiện. Theo đó, cá nhân, cơ quan, tổ chức
và các chủ thể khác có quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền khởi kiện vụ án
dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người có hành vi xâm phạm quyền dân
sự phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường thiệt hại hoặc phải chịu các chế tài theo
quy định của pháp luật hoặc theo thoả thuận của các bên.
Xuất phát từ việc coi khởi kiện là một quyền của đương sự nên việc có sử dụng
quyền này hay không là do chính đương sự tự mình quyết định. Mặt khác, Nhà nước
có nghĩa vụ phải bảo đảm cho những quyền này có thể được thực hiện trên thực tế
theo những thủ tục mà pháp luật quy định.
Việc ghi nhận quyền khởi kiện trước Toà án của đương sự và bảo đảm thực hiện
quyền này theo quy định của pháp luật là một phương thức văn minh thay thế cho việc
tự do hành xử của cá nhân trong việc giải quyết tranh chấp đã tồn tại trong lịch sử. Do
các bên trong quan hệ pháp luật nội dung bình đẳng về địa vị pháp lý nên một bên
không thể tự mình cưỡng chế bên kia phải thực hiện nghĩa vụ của mình. Vì vậy, họ cần
phải tìm đến một chủ thể có địa vị pháp lý cao hơn, có quyền năng đặc biệt để can thiệp
giúp họ khôi phục lại quyền và lợi ích bị xâm hại – đó là Nhà nước, thông qua hệ thống
các cơ quan tư pháp của mình. Quyền khởi kiện chính là quyền mà pháp luật trao cho
các bên trong quan hệ pháp luật nội dung sử dụng để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của mình trước sự xâm hại của chủ thể khác.
Việc xác định quyền khởi kiện được thực hiện đối với ai và khởi kiện về vấn đề
gì được xác định dựa trên cơ sở quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp cần phải
giải quyết. Việc giải quyết vụ án dân sự là nhằm giải quyết quan hệ pháp luật nội
dung có tranh chấp, vi phạm. Nên chủ thể có quyền khởi kiện được xác định là chủ
thể của quan hệ pháp luật nội dung có tranh chấp có quyền lợi cần được bảo vệ và chủ
14
thể này có quyền thực hiện việc khởi kiện đối với chủ thể khác của quan hệ pháp luật

nội dung đã vi phạm quyền lợi hoặc có tranh chấp với mình.
Thông thường để xác định quyền khởi kiện được thực hiện đối với ai thì phải
dựa trên việc xác định quan hệ pháp luật có tranh chấp là quan hệ sở hữu, quan hệ hợp
đồng, quan hệ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hay quan hệ thừa kế...v.v. Riêng
đối với những tranh chấp về quyền sử dụng đất thì cần phải xác định được bản chất
của quan hệ pháp luật tranh chấp là tranh chấp về việc ai là người có quyền sử dụng
đất (thực chất là tranh chấp quyền sử dụng đất hay cụ thể hơn là kiện đòi đất đang bị
người khác chiếm giữ, tranh chấp mốc giới) hay tranh chấp về các hợp đồng chuyển
đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp hoặc bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử
dụng đất; tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất để xác định cụ thể việc khởi kiện có
thể thực hiện được đối với chủ thể nào. Có thể nhận thấy đối với các loại tranh chấp
này, người có hành vi xâm phạm đến quyền của chủ sử dụng đất như lấn chiếm đất
trái phép, vi phạm nghĩa vụ cam kết trong hợp đồng về quyền sử dụng đất như không
thực hiện đúng các quy định pháp luật về hình thức, không thanh toán tiền đúng hạn,
không chuyển giao tài sản… đều có thể trở thành chủ thể bị kiện nếu người sử dụng
đất hợp pháp thực hiện quyền khởi kiện của họ.
1.3. Các bảo đảm quyền khởi kiện trong tố tụng dân sự
1.3.1. Tính hợp lý của các điều kiện khởi kiện – Bảo đảm cần thiết để đương
sự không bị hạn chế hoặc mất quyền khởi kiện
* Điều kiện về chủ thể và vấn đề bảo đảm quyền khởi kiện
Chủ thể muốn thực hiện việc khởi kiện thì phải có năng lực pháp luật tố tụng
dân sự và năng lực hành vi tố tụng dân sự. Năng lực hành vi tố tụng dân sự là một
phạm trù có liên quan đến yếu tố chủ quan như khả năng nhận thức, khả năng hành
động, ý chí và lý trí, là khả năng của đương sự trong việc tự mình thực hiện quyền,
nghĩa vụ tố tụng dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng.
Đối với cá nhân thì năng lực hành vi tố tụng của họ được xác định trên cơ sở khả
năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của cá nhân trong việc tham gia vào
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc quy định điều kiện về năng lực hành vi của cá
15
nhân để họ có thể tự mình thực hiện việc khởi kiện là nhằm bảo đảm cho người có

quyền lợi có thể thể hiện ý chí đích thực của mình trong việc bảo vệ quyền lợi trước
Toà án. Tuy nhiên, đối với những đương sự có đủ năng lực hành vi để thực hiện
quyền khởi kiện nếu vì những ly do khác nhau mà họ không thể thực hiện được quyền
khởi kiện thì pháp luật cũng có thể bảo đảm điều kiện thuận lợi cho họ thực hiện
quyền này thông qua cơ chế uỷ quyền cho người khác đại diện thay mặt mình khởi
kiện trước Toà án. Việc cho phép đương sự thực hiện quyền khởi kiện thông qua đại
diện theo ủy quyền là phương tiện pháp lý cần thiết tạo điều kiện cho đương sự bằng
nhiều hình thức khác nhau có thể thực hiện quyền khởi kiện một cách thuận lợi nhất
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Ngoài ra, đối với những chủ thể có quyền lợi tranh chấp hoặc vi phạm nhưng
không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì pháp luật cũng ghi nhận những cơ chế để
bảo đảm thực hiện quyền khởi kiện của họ. Đó là cơ chế về đại diện để khởi kiện bởi
một số những chủ thể mà pháp luật xác định hay còn gọi là khởi kiện thông qua người
đại diện theo pháp luật.
* Tính hợp lý của các điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền khởi kiện – Điều
kiện cần thiết để bảo đảm quyền khởi kiện
Quyền khởi kiện là một quyền quan trọng của đương sự cần được bảo đảm thực
hiện. Tuy nhiên, vì những lý do khác nhau pháp luật quốc gia cũng có thể đặt ra những
điều kiện bắt buộc chủ thể có quyền phải đưa sự việc tranh chấp ra giải quyết bằng con
đường hoà giải tiền tố tụng trước khi thực hiện việc khởi kiện ra Toà án hoặc phải tuân
thủ những điều kiện nhất định trước khi thực hiện việc khởi kiện. Để bảo đảm quyền
khởi kiện của đương sự thì pháp luật cần phải hạn chế một cách tối đa những trường hợp
được coi là điều kiện tiên quyết này. Do vậy, chỉ có thể coi là quyền khởi kiện không bị
hạn chế nếu những điều kiện tiên quyết này là giải pháp cuối cùng để đảm bảo cho sự
hoạt động bình thường của bộ máy tư pháp hoặc đáp ứng yêu cầu về tính nhân đạo của
pháp luật hoặc yêu cầu về tôn trọng cam kết của các bên.
Việc các đương sự thỏa thuận, thương lượng để giải quyết tranh chấp luôn được
Nhà nước khuyến khích. Bởi vì, khi các đương sự thoả thuận với nhau về giải quyết
tranh chấp thì tranh chấp, mâu thuẫn giữa các đương sự cũng được giải quyết một
16

cách triệt để, tiết kiệm, nhanh chóng nhất và thông thường Nhà nước không phải sử
dụng sức mạnh cưỡng chế để thi hành thoả thuận đó. Xét về mặt kinh tế, hòa giải
thành trước khi khởi kiện có ý nghĩa rất lớn, các bên sẽ tránh được việc kiện tụng kéo
dài, gây hao tiền, tốn của và Toà án cũng không mất thời gian, sức lực cho việc giải
quyết vụ kiện. Tuy nhiên, theo góc nhìn đã phân tích ở trên thì việc coi hoà giải tiền tố
tụng là một điều kiện bắt buộc trước khi khởi kiện ra Toà án cũng là điều cần phải cân
nhắc thận trọng. Cần phải đảm bảo hài hoà giữa quyền khởi kiện và lợi ích của việc
hoà giải tiền tố tụng.
* Điều kiện về sự việc chưa được Tòa án giải quyết bằng bản án, quyết định và
việc ghi nhận quyền khởi kiện lại của đương sự
Về lý luận thì một vụ án đã được Tòa án giải quyết bằng một bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật thì đương sự không có quyền khởi kiện lại đối với vụ án đó nữa.
Cách quy định này hoàn toàn phù hợp, xuất phát từ việc đảm bảo hiệu lực của các bản án,
quyết định của Tòa án, đảm bảo sự ổn định của các quan hệ xã hội, tránh tình trạng
chồng chéo, cùng một sự việc mà có nhiều cơ quan cùng giải quyết và quyết định.
Tuy nhiên, nếu quy định trên là một quy định cứng nhắc, thiếu tính mềm dẻo thì
quyền khởi kiện của đương sự đã không được tôn trọng và bảo đảm đúng mức. Do vậy,
pháp luật cũng cần có những quy định về các trường hợp ngoại lệ mà người có quyền
lợi bị vi phạm vẫn có thể có quyền khởi kiện lại. Chẳng hạn như trường hợp bản án,
quyết định của Tòa án bác đơn xin ly hôn; yêu cầu xin thay đổi nuôi con, thay đổi mức
cấp dưỡng, mức bồi thường thiệt hại...v.v. Chính các ngoại lệ này là đã tạo thêm cơ hội
cho họ thực hiện tốt hơn quyền khởi kiện của mình và qua đó khả năng bảo vệ được
quyền, lợi ích hợp pháp của họ bằng con đường tố tụng được nâng lên. Do đó, việc ghi
nhận quyền khởi kiện lại của đương sự trong những trường hợp nhất định cũng chính là
một trong những phương thức bảo đảm quyền khởi kiện hữu hiệu.
* Sự mềm dẻo trong các quy định về thời hiệu khởi kiện – Một bảo đảm cần thiết
của quyền khởi kiện
Trong các giao dịch dân sự, chủ thể tham gia quan hệ dân sự được hưởng các
quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự. Sự ổn định của các quan hệ dân sự là một
trong những mục đích điều chỉnh của pháp luật dân sự. Ngoài ra, xét về góc độ tố

17
tụng thì một sự việc xảy ra đã quá lâu thì việc xác định sự thật khách quan cũng
không hề đơn giản và việc giải quyết sẽ vô cùng khó khăn phức tạp. Do vậy, pháp luật
các nước đều có các quy định về thời hiệu khởi kiện. Nếu các quy định về thời hiệu
khởi kiện này có tính hợp lý thì quyền khởi kiện cũng đã được bảo đảm.
Tuy nhiên, pháp luật cũng cần ghi nhận những trường hợp ngoại lệ về thời hiệu
khởi kiện nếu người có quyền khởi kiện có những lý do chính đáng có thể được pháp luật
thừa nhận hoặc theo sự thoả thuận của các bên thì thời hiệu khởi kiện có thể được kéo dài
hoặc được bắt đầu lại. Đó là các trường hợp thời hiệu khởi kiện bị gián đoạn khi xảy ra
sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan hoặc các bên có thoả thuận lại. Ngoài ra,
trong một số trường hợp thì việc quy định về thời hiệu khởi kiện sẽ là một sự bất hợp lý,
không bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự. Do vậy, trong những trường hợp này
pháp luật không được hạn chế thời hiệu khởi kiện của đương sự. Đó là các vụ án dân sự
liên quan đến các quyền nhân thân như quyền khởi kiện ly hôn. Điều này là hoàn toàn
phù hợp, bởi các quyền nhân thân luôn tồn tại lâu dài và nhiều khi gắn với cả cuộc đời
của một cá nhân. Việc ghi nhận quyền khởi kiện tuyệt đối của đương sự, không hạn chế
về mặt thời gian là một phương thức bảo đảm quyền khởi kiện một cách hợp lý và chặt
chẽ. Các ngoại lệ nói trên về thời hiệu khởi kiện là hoàn toàn hợp lý và là cơ sở cần thiết
để bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự.
1.3.2. Ghi nhận các cơ chế hỗ trợ hoặc tạo điều kiện cho đương sự có thể
thực hiện được quyền khởi kiện
- Ghi nhận và thực hiện quyền được trợ giúp pháp lý của đương sự
Quyền được trợ giúp pháp lý (TGPL) hay là quyền tiếp cận TGPL là một quyền
cơ bản trong hệ thống quyền con người, là một quyền cụ thể của quyền tiếp cận tư
pháp (hay tiếp cận công lý). Nội hàm của nó là những yêu sách chính đáng của cá
nhân hoặc nhóm người nhất định về việc được tiếp cận hệ thống dịch vụ và tư vấn
pháp lý miễn phí dựa trên quy định của pháp luật. Quyền được tiếp cận tư pháp nói
chung và quyền tiếp cận TGPL nói riêng được quy định trong một số công ước quốc
tế về các quyền dân sự - chính trị năm 1966, Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa. Việt Nam tham gia 2 công ước này vào ngày 24/9/1982.

Thực tiễn tư pháp và bảo đảm quyền con người (trong đó có quyền khởi kiện)
18
trên thế giới chỉ ra rằng, hoạt động TGPL có tầm quan trọng đặc biệt trong việc bảo
đảm và thực hiện các quyền con người. Ở nước ta, theo Chỉ thị số 12 – CT/TƯ ngày
12/7/1992 của Ban Bí thư TW Đảng khóa VII về “vấn đề quyền con người và quan
điểm, chủ trương của Đảng ta”, thì cơ chế bảo đảm quyền con người là tổng thể các
chính sách và biện pháp mà Nhà nước và xã hội thực hiện để các quyền con người
trong mọi điều kiện – hoàn cảnh được thực thi trên thực tế phù hợp với điều kiện
chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước [53, tr. 40].
Ghi nhận quyền được TGPL là sự giúp đỡ, hỗ trợ pháp lý của các cá nhân, tổ
chức khác như luật sư, nhân viên của các Trung tâm TGPL hoặc tổ chức xã hội đối
với việc tham gia tố tụng của các đương sự sẽ giúp đương sự khắc phục được nhận
thức không đầy đủ về pháp luật, xử sự lúng túng khi tham gia tố tụng do thiếu hiểu
biết pháp luật và kinh nghiệm tham gia tố tụng. Ngoài ra, sự hỗ trợ pháp lý của các cá
nhân, tổ chức khác đối với đương sự còn tạo được sự cân bằng trong việc tham gia tố
tụng giữa các bên đương sự nhất là trong những VADS điều kiện tham gia tố tụng của
các đương sự khác nhau như đương sự là cá nhân với đương sự là cơ quan Nhà nước,
tổ chức chính trị - xã hội.
Ghi nhận và thực hiện quyền được TGPL là một sự bảo đầu đảm tiên của nhà
nước trong việc tạo cơ chế hỗ trợ cho đương sự có thể thực hiện quyền khởi kiện
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm hại, duy trì trật tự xã hội, khắc phục
tình trạng thờ ơ, mất niềm tin vào pháp luật.
- Đơn giản hóa và minh bạch hóa các quy định về đơn kiện và chứng cứ, tài liệu
nộp kèm theo đơn kiện
Vụ án dân sự phát sinh chủ yếu là do cá nhân, tổ chức thực hiện quyền khởi kiện
của mình bằng cách nộp đơn. Đơn khởi kiện ở khía cạnh nào đó chính là thể hiện mối
quan hệ thủ tục giữa Tòa án và người dân. Do đó, thực hiện chiến lược cải cách các
loại thủ tục thì quy định về hình thức, nội dung đơn kiện, chứng cứ kèm theo phải rõ
ràng không gây khó khăn hoặc gây phiền hà cho người khởi kiện thực hiện quyền
khởi kiện. Pháp luật cần quy định một cách hợp lý các chứng cứ, tài liệu mà đương sự

phải xuất trình khi nộp đơn khởi kiện theo hướng đủ để quyết định việc thụ lý chứ
không bắt buộc phải nộp toàn bộ các chứng cứ của vụ án.
19
- Miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí nhằm tạo điều kiện cho người nghèo có
thể tiếp cận công lý
Khi một chủ thể khởi kiện để yêu cầu Tòa án can thiệp nhằm bảo vệ quyền và lợi
ích hợp của mình bị xâm hại thì cần phải bỏ ra một khoản chi phí để Tòa án giải quyết
vụ án dân sự. Do vậy, pháp luật quy định đương sự phải chịu một phần kinh phí mà
Nhà nước cấp cho Tòa án thực hiện các hoạt động đó. Để tránh việc kiện không có căn
cứ thì pháp luật thường quy định người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Do đó,
Nhà nước căn cứ vào điều kiện kinh tế xã hội cụ thể (như thu nhập bình quân đầu
người, chi phí tố tụng…) để có thể áp dụng một mức tạm ứng án phí hợp lý để vừa bảo
đảm cho hoạt động của Tòa án vừa không làm hạn chế con đường đến với công lý của
người dân. Ngoài ra, một trong những cơ chế hỗ trợ hiệu quả nhất là cần quy định
những trường hợp miễn, giảm tiền tạm ứng án phí, án phí nhằm tạo điều kiện cho người
thu nhập thấp có thể thực hiện được quyền khởi kiện của mình.
- Vấn đề kế thừa quyền khởi kiện và tạm đình chỉ giải quyết vụ án để xác định
chủ thể tiếp tục thực hiện quyền khởi kiện
Tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là việc tòa án quyết định tạm dừng việc
giải quyết vụ án dân sự khi có những căn cứ do pháp luật quy định. Tạm đình chỉ giải
quyết VADS là tạm thời ngừng việc giải quyết VADS chứ không phải ngừng hẳn việc
giải quyết VADS. Tính chất gián đoạn này sẽ được khắc phục, mọi hoạt động tố tụng
sẽ được khôi phục khi nguyên nhân tạm đình chỉ không còn nữa. Các đương sự có
quyền khởi kiện, phản tố, yêu cầu độc lập nhưng khi tham gia vào quan hệ pháp luật
tố tụng dân sự sẽ có thể xuất hiện những trường hợp làm cho việc thực hiện các quyền
này bị gián đoạn. Đó là trường hợp đương sự là cá nhân chết, cơ quan, tổ chức bị
chia, tách, sáp nhập, giải thể nhưng chưa có chủ thể kế thừa tham gia tố tụng hoặc
đương sự là cá nhân mất năng lực hành vi dân sự nhưng chưa xác định được người
đại diện, chấm dứt đại diện mà chưa có người thay thế. Trong những trường hợp này
thì các quy định về tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự là một giải pháp để xác định

chủ thể kế thừa quyền khởi kiện và cũng là nhằm bảo đảm quyền khởi kiện sẽ được
tiếp tục thực hiện trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
20
- Quyền thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện; quyền đưa ra yêu cầu phản tố, yêu
cầu liên quan độc lập và tính hợp lý của thời điểm thụ lý vụ án
Vụ án dân sự chỉ phát sinh trên cơ sở có yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Dựa
trên nguyên tắc tự định đoạt của đương sự, nguyên đơn hoàn toàn có quyền thay đổi,
bổ sung yêu cầu khởi kiện của mình. Vì suy cho cùng, VADS do Tòa án thụ lý giải
quyết là nhằm đạt đến mục đích và nguyện vọng của nguyên đơn, giải quyết mối bất
hòa trong quan hệ của các bên. Tuy nhiên, xét trên phương diện lý luận nhà nước và
pháp luật: quyền luôn đi liền với nghĩa vụ. Hay nói khác đi, mặc dù có quyền thay
đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện nhưng nó phải đặt trong lợi ích của các chủ thể khác,
bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của bị đơn và người có quyền và nghĩa vụ
liên.
Nếu chúng ta coi nguyên đơn có quyền khởi kiện để làm phát sinh VADS nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích của mình với vai trò chủ động thì cũng phải ghi nhận quyền
phản tố (kiện ngược lại) của bị đơn. Tuy nhiên, quyền phản tố này phải được thực
hiện trong mối liên hệ với bảo đảm quyền bảo vệ, quyền tranh tụng của nguyên đơn
và để nguyên đơn có thể chủ động chuẩn bị chứng cứ, tài liệu nhằm bảo vệ mình và
phản bác lại yêu cầu bị đơn.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mặc dù không chủ động đi kiện nhưng
việc giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn thì có thể ảnh hưởng tới quyền,
lợi ích của họ. Để giải quyết vụ án toàn diện, triệt để đòi hỏi cần thiết có sự tham gia
của người thứ ba này với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Ghi nhận,
quyền đưa ra yêu cầu độc lập là điều kiện để bảo đảm quyền yêu cầu Toà án bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của họ.
Thời điểm thụ lý vụ án là căn cứ để xác định các thời hạn giải quyết vụ án dân sự.
Các đương sự bình đẳng trước Toà án trong việc bảo vệ quyền lợi của mình, do vậy,
pháp luật phải đảm bảo sự công bằng ngay trong các quy định về thời hạn xem xét giải
quyết các yêu cầu. Do vậy, việc quy định thời điểm thụ lý vụ án không chỉ căn cứ vào

thời điểm có đơn khởi kiện của nguyên đơn mà còn phải căn cứ vào thời điểm có yêu
cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
21
- Cơ chế chuyển hóa từ việc dân sự sang vụ án dân sự - Một đảm bảo cần thiết
của quyền khởi kiện đối với chủ thể giữ nguyên yêu cầu trong việc dân sự
Việc nghiên cứu các loại việc được giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự
cho thấy rằng, đối với các việc mà bản chất là không có tranh chấp về quyền, lợi ích
hợp pháp giữa các bên do tính chất đặc thù của loại việc và chỉ một bên đương sự yêu
cầu Tòa án giải quyết như yêu cầu xác định tình trạng cá nhân do sự vắng mặt của họ
tại nơi cư trú hoặc yêu cầu xác định năng lực hành vi dân sự của một cá nhân, yêu cầu
Tòa án hỗ trợ cho việc bảo vệ quyền và lợi ích của mình trong quá trình Trọng tài
thương mại giải quyết tranh chấp… thì bản chất của những loại việc này không thay
đổi trong suốt quá trình Tòa án giải quyết. Do vậy, đối với những việc này, vấn đề
chuyển hóa giữa việc dân sự và VADS không được đặt ra.
Vấn đề chuyển hóa giữa việc dân sự sang VADS chỉ đặt ra đối với các việc mà
bản chất là không có tranh chấp về quyền, lợi ích hợp pháp giữa các bên do các đương
sự đã thỏa thuận được với nhau về các tình tiết của sự việc cũng như những quyền và
lợi ích giữa các bên và các bên cùng yêu cầu Tòa án công nhận làm cơ sở cho việc thi
hành án sau này như yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly
hôn; yêu cầu công nhận thỏa thuận thay đổi người trực tiếp nuôi con… Bởi lẽ, trong
quá trình Tòa án thụ lý, giải quyết theo thủ tục giải quyết việc dân sự, trên cơ sở
nguyên tắc quyền định đoạt các bên đương sự có thể thay đổi yêu cầu của mình [55,
tr.13-14].
Như vậy, đối với một số việc dân sự do các bên đương sự cùng yêu cầu Toà án
công nhận thoả thuận của mình nhưng sau đó một bên rút lại yêu cầu công nhận thoả
thuận, trong khi đó bên kia vẫn yêu cầu Toà án giải quyết quan hệ pháp luật nội dung
thì pháp luật cũng cần phải bảo đảm quyền khởi kiện của chủ thể giữ nguyên yêu cầu
trong việc dân sự thông qua việc thiết lập cơ chế chuyển hoá giữa việc dân sự và vụ
án dân sự.
- Ghi nhận quyền khiếu nại đối với việc trả lại đơn khởi kiện và quyền kháng

cáo, kháng nghị đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án
Quyền khiếu nại là một trong những quyền cơ bản của công dân được quy định
tại Điều 74 Hiến pháp 1992. Ghi nhận quyền khiếu nại của đương sự đối với các
22
quyết định, hành vi tố tụng trái pháp luật nhằm tạo cơ sở pháp lý để bảo đảm quyền
khởi kiện của đương sự trong tố tụng dân sự vì thông qua đó đương sự có thể yêu cầu
cá nhân, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý các quyết định, hành vi tố
tụng trái pháp luật để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Tòa án thực hiện chế độ hai cấp xét xử, cũng như thiết lập cơ chế xem xét lại
bản án quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục đặc biệt là quy
trình tố tụng khoa học và tiến bộ nhằm cho phép các chủ thể có thể kháng cáo, kháng
nghị đối với bản án, quyết định của Tòa án, thể hiện tính dân chủ trong tố tụng, bảo
đảm và tạo cơ hội để quyền khởi kiện của đương sự thực thi có hiệu quả.
Trả lại đơn kiện hay đình chỉ vụ án không đúng sẽ làm cho quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự không được Toà án xem xét đến và quyền khởi kiện sẽ không
được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Do đó, để bảo đảm quyền khởi kiện trong những
trường hợp này thì pháp luật cần phải ghi nhận quyền khiếu nại của đương sự đối với
hành vi trả lại đơn kiện của Tòa án và quyền kháng cáo của đương sự, kháng nghị của
Viện kiểm sát đối với quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của Tòa án. Trên cơ sở các
quyền này người có thẩm quyền, Tòa án cấp trên sẽ xem xét lại tính đúng đắn của
việc trả lại đơn khởi kiện hoặc quyết định đình chỉ giả quyết vụ án.
1.3.3. Bảo đảm quyền khởi kiện thông qua hoạt động của cơ quan tiến hành
tố tụng
- Sự độc lập, khách quan của Tòa án – Bảo đảm cần thiết để thực thi quyền khởi
kiện
Tính độc lập, khách quan của Tòa án là điều không thể thiếu để bảo đảm quyền
khởi kiện. Pháp luật ghi nhận quyền khởi kiện của đương sự nhưng nếu như Toà án -
chủ thể có thẩm quyền xem xét để chấp nhận hay bác bỏ quyền này không độc lập
hoặc người tiến hành tố tụng không vô tư, khách quan thì việc ghi nhận quyền khởi
kiện cũng chỉ là trên giấy tờ mà không được bảo đảm thực hiện trên thực tế. Sự độc

lập của Toà án, sự vô tư, khách quan của người tiến hành tố tụng sẽ là bảo đảm cần
thiết cho quyền khởi kiện được thực thi trên thực tế.
- Hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát – Điều kiện cần thiết để quyền khởi kiện
không bị xâm phạm.
23
Tòa án là một trong các cơ quan tư pháp, được thực hiện quyền lực của Nhà
nước để xét xử các VADS để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Về
mặt nguyên lý, quyền lực mà không bị giám sát, kiềm chế sẽ dẫn tới lạm quyền. Đối
với hoạt động giải quyết các VADS của Tòa án nói riêng càng phải giám sát, kiểm sát
vì hoạt động xét xử của Tòa án dễ bị thiên lệch, xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự. Viện kiểm sát được ví như “cánh tay vươn dài của Quốc hội”,
thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp, theo đó mọi hành vi của cơ quan tiến
hành tố tụng đều phải chịu sự kiểm sát của VKS. Việc ghi nhận quyền tham gia tố
tụng của VKS ngay từ khi Tòa án thụ lý vụ án là điều kiện cần thiết để bảo đảm
quyền khởi kiện không bị xâm phạm. Một mặt sự tham gia này sẽ hạn chế tối đa việc
trả lại đơn khởi kiện hoặc đình chỉ giải quyết vụ án không đúng pháp luật. Ngoài ra,
thông qua hoạt động kiểm sát của mình VKS có thể kịp thời kháng nghị để quyền
khởi kiện được bảo đảm thực hiện.
- Việc thụ lý, trả đơn, chuyển đơn khởi kiện, đình chỉ giải quyết vụ án và trách
nhiệm của Tòa án
Nếu như pháp luật đã có những quy định hợp lý và minh bạch hoá về điều kiện
thụ lý, căn cứ trả đơn, chuyển đơn khởi kiện, đình chỉ giải quyết vụ án nhằm bảo đảm
về mặt pháp lý quyền khởi kiện thì hoạt động tố tụng cụ thể của Toà án trong việc
nhận đơn, xem xét, quyết định việc thụ lý hay không thụ lý yêu cầu của đương sự,
chuyển đơn khởi kiện hay đình chỉ giải quyết vụ án lại có ý nghĩa bảo đảm trên thực
tế quyền khởi kiện của đương sự. Nếu như pháp luật đã quy định rõ ràng những
trường hợp mà Toà án có quyền trả lại đơn khởi kiện thì Toà án chỉ có quyền từ chối
thụ lý trong những trường hợp đã được quy định. Ngoài những trường hợp đó thì Toà
án phải xem xét thụ lý đúng thời hạn luật định. Sự chậm trễ của Toà án trong việc thụ
lý mà không có lý do chính đáng, việc chuyển đơn kiện lòng vòng mà không có cơ sở

pháp lý hay đình chỉ giải quyết vụ án ngoài những trường hợp luật định cũng phải
được coi là đã xâm phạm đến quyền khởi kiện của đương sự. Do vậy, để đánh giá về
quyền khởi kiện có được bảo đảm thực hiện hay không thì ngoài việc căn cứ vào quy
định của pháp luật cần phải xét đến hoạt động tố tụng cụ thể của Toà án trong việc thụ
lý, trả đơn, chuyển đơn khởi kiện hay đình chỉ giải quyết vụ án.
24
Do tính chất nghiêm trọng của vấn đề trả lại đơn kiện hay đình chỉ giải quyết vụ
án không đúng nên pháp luật cần quy định chặt chẽ, rõ ràng về căn cứ của các hoạt
động này. Ngoài ra, để hạn chế và phòng ngừa những trường hợp từ chối thụ lý hay
đình chỉ giải quyết vụ án không đúng thì pháp luật cũng cần ràng buộc trách nhiệm
của Tòa án và người tiến hành tố tụng trong những trường hợp nói trên bằng những
chế tài nhất định. Tòa án, Thẩm phán được phân công giải quyết VADS cần phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Trường
hợp người có thẩm quyền có hành vi vi phạm pháp luật thì tùy theo mức độ vi phạm
mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật,
nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.
1.4. Lược sử các quy định về quyền khởi kiện và bảo đảm quyền khởi kiện
trong pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
1.4.1 Thời kỳ trước cách mạng Tháng 8 năm 1945
Không phải đến pháp luật hiện hành mới có các quy định về quyền khởi kiện và
bảo đảm quyền khởi kiện. Cổ luật Việt Nam đã có những quy định về quyền khởi
kiện cũng như thủ tục thực hiện quyền khởi kiện trong Bộ Luật Hồng Đức và Bộ Luật
Gia Long. Cổ luật Việt Nam không phân biệt các vụ kiện về dân sự hay hình sự, tất cả
các hành vi vi phạm pháp luật đều bị các chế tài về hình sự kể cả những vụ việc mà
ngày nay chúng ta coi chỉ có tính chất dân sự. Cổ luật không có những quy định trực
tiếp về quyền khởi kiện. Tuy nhiên, từ những quy định về luật hình thức và thủ tục
thực hiện đơn kiện và đơn tố cáo có thể cho chúng ta biết Cổ luật Việt Nam đã có
những quy định về quyền khởi kiện.
Căn cứ để khởi kiện là các hành vi phạm tội được ghi nhận trong luật Hồng Đức
và Luật Gia Long. Người đứng đơn khởi kiện được gọi là nguyên cáo, là người có

quyền lợi bị xâm phạm phải chứng minh được quyền khởi kiện của mình bằng việc
đưa ra những bằng chứng và chứng cứ để chứng minh về cơ sở của việc kiện. Chẳng
hạn, khởi kiện về điền thổ phải có văn tự, về tài sản phải có chức thư, về nợ phải có
giấy tờ ghi nhận nợ.
Người bị nguyên cáo kiện được gọi là bị cáo, cũng có quyền phản đối yêu cầu
của nguyên cáo bằng hình thức tương tự, đưa ra bằng chứng chứng minh làm cơ sở
25

×