Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tích những bất cập của pháp luật về bao thanh toán ở việt nam, nêu giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.82 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Trong giao dịch mua bán hàng hóa, đặc biệt là mua bán hàng hóa quốc
tế, một trong những mối quan tâm của bên bán là làm sao có thể nhận được
tiền nhanh chóng để tiếp tục quay vòng vốn kinh doanh. Ngoài các phương
thức thanh toán truyền thống, được coi là an toàn như thư tín dụng ( Letter
of Credit – L/C) hay nhờ thu kèm chứng từ (Documentary Collection – D/C)
với đòi hỏi bên mua (với sự hỗ trợ của ngân hàng phục vụ bên mua) phải sẵn
sàng một khoản tiền để thanh toán, thì có một phương thức khác, mà theo đó,
bên bán sau khi giao hàng có thể chuyển nhượng quyền đòi nợ của mình cho
tổ chức tín dụng gọi là nghiệp vụ bao thanh toán. Lợi ích của hoạt động bao
thanh toán rất đa dạng, đặc biệt đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, giúp
nhà sản xuất có vốn để tiếp tục hoạt động, duy trì được mức nhân công và
quy mô sản xuất; giúp cho các doanh nghiệp sản xuất hàng thời vụ tiến hành
hoạt động sản xuất quanh năm, tránh hiện tượng sa thải công nhân khi hết
thời vụ; giúp doanh nghiệp phát triển với tốc độ nhanh hơn,… từ đó, thúc đẩy
nền kinh tế quốc gia phát triển.
Từ lâu, bao thanh toán đã là một khái niệm quen thuộc trong giới tài
chính thế giới và là công cụ tài chính hữu hiệu trong hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp. Trên thế giới hiện có hơn 1.768 đơn vị bao thanh toán
đang hoạt động. Tuy nhiên, đối với Việt Nam, khái niệm này vẫn còn khá mới
mẻ và chưa được phổ biến rộng rãi. Để nghiệp vụ bao thanh toán thực sự
phát triển ở Việt Nam, trước hết, đòi hỏi phải xây dựng một hành lang pháp
lý hoàn thiện, vững chắc, tạo tâm lý yên tâm cho các doanh nghiệp cũng như
các ngân hàng khi thực hiện hoạt động này. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
cũng đã ban hành Quy chế cho hoạt động bao thanh toán cùng các văn bản
hướng dẫn. Song, trong quá trình áp dụng, bộc lộ một số những hạn chế nhất
định cần khắc phục. Để tìm hiểu sâu hơn về vấn đề này, tác giả lựa chọn đề
1


tài: “Phân tích những bất cập của pháp luật về bao thanh toán ở Việt Nam,


nêu giải pháp để hoàn thiện”.
Trong quá trình làm bài, khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định.
Kính mong thầy, cô đóng góp ý kiến để bài viết được hoàn thiện. Em xin chân
thành cảm ơn!

2


3


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ BAO THANH TOÁN
1. Lịch sử hình thành và phát triển nghiệp vụ bao thanh toán

Nghiệp vụ bao thanh toán có lịch sử phát triển lâu dài, xuất phát từ
hoạt động đại lý hưởng hoa hồng, những người thực hiện việc mua bán và
luân chuyển hàng hoá khoảng 2000 năm trước dưới thời đế chế La Mã.
Cùng với sự phát triển toàn cầu của ngành công nghiệp Anh vào thế
kỷ 14 – 15, hình thức đại lý bao thanh toán bắt đầu trở nên phổ biến và lan
rộng khi họ dần tin cậy vào khả năng trả nợ của người mua trong nước
mà họ giao dịch cùng, họ bắt đầu cấp tín dụng cho người ủy nhiệm mình
để được hưởng hoa hồng cao hơn.
Tuy nhiên, đến thế kỷ XX, bao thanh toán mới thực sự phát triển
mạnh mẽ, đặc biệt là ở Mỹ, việc giao cho đại lý bao thanh toán chuyên
trách việc quản lý và thu tiền từ việc bán hàng hay cung ứng dịch vụ cho
các tổ chức tín dụng là nền tảng yên tâm để các nhà sản xuất, phân phối
hàng hóa hay cung ứng dịch vụ chỉ cần tập trung vào hoạt động sản xuất,
bán hàng và cung ứng dịch vụ giúp nâng cao chất lượng hàng hóa cũng
như dịch vụ, đem lại lợi ích đáng kể về kinh tế cho nhà sản xuất. Có thể nói,

việc kết hợp sử dụng bao thanh toán trong hoạt động sản xuất, kinh doanh
ứng dụng ở Mỹ trong thời gian này đã tạo nên sự chuyên nghiệp hóa và
phát triển đột phá cho nền kinh tế Mỹ. Dần dần, hoạt động bao thanh toán
phát triển và là kết hợp của các dịch vụ như tài trợ vốn, đánh giá rủi ro tín
dụng, quản lý sổ sách, thu hộ, tư vấn,…
Từ khi mới ra đời, doanh số nghiệp vụ bao thanh toán rất ít. Nhưng
qua thời gian, doanh số này đã ngày một tăng lên. Số lượng đơn vị tham gia
thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tăng lên nhanh chóng. Tính từ lúc bắt
4


đầu hình thành với chỉ một vài đơn vị bao thanh toán thì tính đến cuối năm
2005, trên thế giới đã có hơn 1.003 đơn vị bao thanh toán với doanh số đạt
hơn 1.016 tỷ EUR.
Việc gia tăng số lượng đơn vị bao thanh toán và doanh số bao thanh
toán đã nói lên tính ưu việt của nghiệp vụ này. Lịch sử hình thành nghiệp vụ
bao thanh toán đã có từ lâu đời và được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Tuy
nhiên, đối với Việt Nam, nghiệp vụ này vẫn còn khá mới mẽ trong hoạt động
ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
2. Khái niệm và phân loại bao thanh toán

2.1 Khái niệm bao thanh toán
Do nghiệp vụ bao thanh toán có quá trình lịch sử lâu đời nên định
nghĩa nghiệp vụ này cũng hết sức đa dạng.
- Theo Từ điển kinh tế (Dictionary of Economie - Christopher Pass &

Bryan Lones), “Nghiệp vụ bao thanh toán là một sự dàn xếp tài chính, qua đó
một công ty tài chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ - factor firm) mua lại
các khoản nợ của một công ty với số tiền ít hơn giá trị của khoản nợ đó. Lợi
nhuận phát sinh từ sự chênh lệch giữa tiền thu được của số nợ đã mua và giá

mua thực tế của món nợ đó. Lợi ích của công ty bán nợ là nhận được tiền
ngay thay vì phải chờ đến lúc con nợ trả nợ, hơn nữa lại ữánh được những
phiền toái và các chi phí trong việc theo đuổi các con nợ chậm trả
- Theo Từ điển thuật ngữ Ngân hàng - Hans Klaus thì “Nghiệp vụ bao

thanh toán là một loại hình tài trợ dưới dạng tín dụng chuyển nhượng nợ.
Một công ty chuyển toàn bộ hay một phần khoản nợ cho một công ty tài
chính chuyên nghiệp (công ty mua nợ, thông thường là một công ty trực
thuộc ngân hàng). Công ty này đảm nhận việc thu các khoản nợ và theo dõi
các khoản phải thu để hưởng thủ tục phí và có lúc ứng trước các khoản nợ.
Thông thường, công ty mua nợ phải chịu rủi ro mất khả năng thanh toán của
5


món nợ”.
- Theo Hiệp hội bao thanh toán thế giới FCI (Factors Chain

International) thì định nghĩa nghiệp vụ bao thanh toán là một loại hình dịch
vụ tài chính trọn gói bao gồm sự kết hợp giữa tài trợ vốn hoạt động, bảo
hiểm rủi ro tín dụng, theo dõi các khoản phải thu và dịch vụ thu hộ. Đó là một
sự thỏa thuận giữa người cung cấp dịch vụ bao thanh toán (factor) với
người cung ứng hàng hoá dịch vụ hay còn gọi là người bán hàng trong quan
hệ mua bán hàng hoá (seller). Theo như thoả thuận factor sẽ mua lai các
khoản phải thu của người bán dựa trên khả năng trả nợ của người mua
trong quan hệ mua bán hàng hoá (buyer) hay còn gọi là con nợ trong quan
hệ tín dụng (debtor).
- Theo Công ước về bao thanh toán quốc tế của UNIDROIT 1988

(UNIDROIT Convention on International Factoring 1988), nghiệp vụ bao
thanh toán được định nghĩa như là một dạng tài trợ bằng việc mua bán các

khoản nợ ngắn hạn trong giao dịch thương mại giữa tổ chức tài trợ và bên
cung ứng. Theo đó, tổ chức tài trợ thực hiện tối thiểu hai trong số các chức
năng sau: Tài trợ bên cung ứng (gồm cho vay và ứng trước tiền), quản lý sổ
sách liên quan đến các khoản phải thu, thu nợ các khoản phải thu, bảo đảm
rủi ro không thanh toán của bên mua hàng.
- Theo Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng ban

hành kèm theo Quyết định số 1096/2004/QĐ-NHNN ban hành ngày
06/09/2004 của Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước Việt Nam, nghiệp vụ bao
thanh toán là “một hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên bán
hàng thông qua việc mua bán các khoản phải thu phát sinh từ việc mua bán
hàng hoá đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp
đồng mua, bán hàng”.
Như vậy, định nghĩa về bao thanh toán theo pháp luật Việt Nam khá
hẹp, chỉ nhấn mạnh đến bản chất tín dụng thông qua việc tài trợ cho bên bán
6


từ việc nhượng chuyển nhượng khoản phải thu, còn không chú ý đến các
hoạt động khác cũng được coi là thuộc về nghiệp vụ bao thanh toán như cho
vay, thu hộ, quản lý các khoản phải thu và bảo hiểm rủi ro khi bên trả tiền
không thanh toán. Như vậy, bản chất của bao thanh toán theo pháp luật Việt
Nam là chuyển nhượng quyền đòi nợ theo hợp đồng mua bán hàng hóa. Dịch
vụ từ bên bán hàng (hoặc bên xuất khẩu) cho tổ chức tín dụng. Tổ chức tín
dụng sẽ có quyền đòi nợ từ bên mua hàng (hoặc nhà nhập khẩu) theo thỏa
thuận trong hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ.
2.2.

Phân loại bao thanh toán


Dựa vào những tiêu chí phân loại khác nhau mà ta có những cách phân
loại bao thanh toán khác nhau, ta có thể phân loại bao thanh toán theo phạm
vi thực hiện, theo tính chất hoàn trả của khoản tài trợ hoặc theo tính chất tài
trợ...
a.

Phân loại theo phạm vi thực hiện

Theo phạm vi thực hiện, nghiệp vụ bao thanh toán được chia là: bao
thanh trong nước và bao thanh toán quốc tế
b.

Phân loại theo tính chất có hoàn trả của các khoản tài trợ

Theo khả năng đảm bảo quyền lợi của tổ chức tín dụng, bao thanh toán
được chia làm 2 laoi là bao thanh toán có truy đòi và bao thanh toán miễn
truy đòi.
-

Nghiệp vụ bao thanh toán có truy đòi là hình thức bao thanh toán mà

đơn vị bao thanh toán có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước cho bến bán
hàng, khi bến mua hàng không có khả năng hoàn thành nghĩa vụ thanh toán
các khoản phải thu. Đây là nghiệp vụ bao thanh toán cung cấp vay các chức
năng của nghiệp vụ bao thanh toán, trừ chức năng bảo hiểm rủi ro tín dụng.
Nghiệp vụ bao thanh toán miễn truy đòi là nghiệp vụ bao thanh toán
cung cấp chức năng bảo hiểm rủi ro tín dụng. Đơn vị bao thanh toán phải
7



chịu hoàn toàn trách nhiệm đối với rủi ro không thu được tiền thanh toán,
với điều kiện không có ữanh chấp giữa người bán và người mua. Đơn vị bao
thanh toán không có quyền đòi lại số tiền đã ứng trước hay đã thanh toán
cho người bán hàng và phải thanh toán vay đủ 100% giá trị hóa đơn. Nghiệp
vụ bao thanh toán vay đủ và bao thanh toán đến hạn chính là bao thanh toán
miễn truy đòi.
c. Phân loại theo tính chất tài trợ
Theo tính chất tài trợ, bao thanh toán được chia là: bao thanh toán
chiết khấu và bao thanh toán đến khi đáo hạn
Bao thanh toán chiết khấu là hình thức bao thanh toán mà đơn vị bao

-

thanh toán sẽ chiết khấu các khoản phải thu trước ngày đáo hạn.
Bao thanh toán cho đến khỉ đáo hạn là hình thức bao thanh toán mà
đơn vị bao thanh toán trả cho khách hàng của đơn vị bao thanh toán giá mua
các khoản bao thanh toán khi đáo hạn.
d. Phân loại theo phương thức
Phân loại theo phương thức bao thanh toán thì bao thanh toán gồm
bao thanh toán từng lần, bao thanh toán theo hạn mức và đồng bao thanh
toán.
3.

Khung pháp lý điều chỉnh về bao thanh toán ở Việt Nam hiện
nay
3.1

Hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động
bao thanh toán tại Việt Nam


Hiện nay, ở Việt Nam, các ngân hàng thương mại và công ty tài chính có
thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán chịu sự chi phối chủ yếu của các hệ thống
văn bản sau:
- Luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12 tháng 12
năm
8


1997.
- Luật sửa đổi, bổ sung một số điều luật của Luật các tổ chức tín
dụng số 20/2004/QH11 ngày 15 tháng 6 năm 2004.
- Quyết định của Thông đốc Ngân hàng nhà nước về việc ban hành

Quy chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng số
1096/2004/QĐ- NHNN ngày 6 tháng 9 năm 2004.
- Công văn số 676/NHNN-CSTT ngày 26 tháng 6 năm 2005 về việc

cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nợ quá hạn đối với hoạt động bao
thanh toán của các tổ chức tín dụng.
- Quyết định số 30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy
chế hoạt động bao thanh toán của các tổ chức tín dụng số
1096/2004/QĐ- NHNN ngày 6 tháng 9 năm 2004 của Thống đốc ngân
hàng Nhà nước.
- Văn bản số 991/NHNN-TTGSNH ngày 19/02/2013 của Ngân

hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn các tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài thực hiện hoạt động bao thanh toán quy định tại
Quy chế hoạt động bao thanh toán ban hành kèm theo Quyết định số

1096/2004/QĐ-NHNN ngày 06/9/2004 của Thống đốc NHNN.
Tuy nhiên, ngoài quy chế hoạt động bao thanh toán thì các hệ thống văn
bản khác chỉ quy định phạm vi, đối tượng, cách thức hoạt động chung cho các
tổ chức tín dụng mà không đề cập cụ thể đến một loại hình nghiệp vụ cụ thể
nào cả, đặc biệt là đối với nghiệp vụ bao thanh toán.
3.2

Quy định cụ thể về hoạt động bao thanh toán theo
pháp luật Việt Nam

Theo Quyết định số 1096/2004/QĐ- NHNN

và Quyết định số

30/2008/QĐ-NHNN ngày 16/10/2008 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
9


việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế hoạt động bao thanh toán của
các tổ chức tín dụng số 1096/2004/QĐ- NHNN ngày 6 tháng 9 năm 2004 của
Thống đốc ngân hàng Nhà nước thì:
- Các hình thức bao thanh toán được phép: Bao thanh toán nội địa và

bao thanh toán quốc tế.
- Các loại hình bao thanh toán được phép: Bao thanh toán có truy đòi

và bao thanh toán miễn truy đòi.
- Phương thức bao thanh toán: Bao thanh toán từng lần; Bao thanh

toán theo hạn mức và Đồng bao thanh toán (hai hay nhiều đơn vị bao thanh

toán cùng thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán cho một hợp đồng mua bán
hàng, trong đó, một đơn vị bao thanh toán làm đầu mối thực hiện việc tổ
chức đồng bao thanh toán).
- Các tổ chức tín dụng được thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán gồm:

Ngân hàng thương mại nhà nước; Ngân hàng thương mại cổ phần; Ngân
hàng liên doanh; Ngân hàng 100% vốn nước ngoài; Chi nhánh ngân hàng
nước ngoài; Công ty tài chính.
- Các khoản phải thu không được bao thanh toán: (i) Phát sinh từ hợp

đồng mua, bán hàng hoá có thời hạn thanh toán còn lại dài hơn 180 ngày;
(ii) Phát sinh từ hợp đồng mua, bán hàng hoá bị pháp luật cấm; (iii) Phát
sinh từ các giao dịch, thỏa thuận bất hợp pháp; (iv) Phát sinh từ các giao
dịch, thỏa thuận có ữanh chấp; (v) Phát sinh từ các hợp đồng bán hàng dưới
hình thức ký gửi; (vi) Các khoản phải thu đã được gán nỢ hoặc cầm cô", thế
chấp; (vii) Các khoản phải thu đã quá hạn thanh toán theo hợp đồng mua,
bán hàng.
- Bảo đảm cho nghiệp vụ bao thanh toán: Đơn vị bao thanh toán và bến

bán hàng thỏa thuận áp dụng hoặc không áp dụng các biện pháp bảo đảm
cho nghiệp vụ bao thanh toán. Các hình thức bảo đảm bao gồm: ký quỹ, cầm
cố, thế chấp tài sản, bảo lãnh và các biện pháp bảo đảm khác theo quy định
10


của pháp luật.

CHƯƠNG II
TÌNH HÌNH THỰC HIỆN NGHIỆP VỤ BAO THANH TOÁN Ở VIỆT NAM VÀ
NHỮNG BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT.

1.
Tình hình thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam
Thực sự thì không phải đến thời điểm ban hành quy chế bao thanh
toán chúng ta mới thực hiện nghiệp vụ này. Ở Việt Nam, hoạt động bao thanh
toán đã từng được các tổ chức tín dụng (TCTD) thực hiện nhưng chủ yếu
dưới hình thức của một hợp đồng tín dụng do pháp luật ngân hàng chưa có
quy định cụ thể về hoạt động bao thanh toán. Thực tế, năm 2001, ngân hàng
Techcombank đã thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán. Tuy nhiên, lúc đó,
Techcombank chỉ thực hiện bao thanh toán cho duy nhất một doanh nghiệp
đó là nhà sản xuất và xuất khẩu Foocosa và cũng chỉ giới hạn một mặt hàng
duy nhất là mì tôm. Foocosa là doanh nghiệp xuất khẩu thường xuyến vào thị
trường Nga. Đây có thể là một điều kiện tốt để Techcombank thực hiên thí
điểm nghiệp vụ bao thanh toán. Vì Nga là nước có quan hệ thương mại với
Việt Nam lâu dài. Các doanh nghiệp nhập khẩu Nga có uy tín lớn trong giới
11


doanh nghiệp thế giới, và đặc biệt là có rất nhiều doanh nghiệp của người
Việt Nam hoạt động trên đất Nga.
Tuy nhiên, lúc đó, Techombank đã thực hiện nghiệp vụ này rất hạn chế.
Techcombank chỉ thực hiện hình thức tài trợ truy đòi, hợp đồng tài trợ phải
được tiến hành ba bên trên cơ sở hợp đồng ngoại thương. Ngoài ra,
Techcombank chỉ mới áp dụng bao thanh toán trả ngay, thời hạn tài trợ giới
hạn từ 30-45 ngày, bằng khoảng thời gian vận chuyển từ cảng Việt Nam
sang Nga. Trong khi đó, lẽ ra, bao thanh toán phải là phương thức cho thanh
toán trả chậm. Hơn nữa, phí bao thanh toán lại quá cao, khoảng 6-10% /
năm. Tất cả những điều này đã làm cho doanh nghiệp không mấy mặn mà
với nghiệp vụ bao thanh toán. Mặt khác, khung pháp lý quy định về lĩnh vực
này vẫn còn quá chung chung, hạn chế, gây tâm lý e ngại, sợ rủi ro đối với cả
ngân hàng và doanh nghiệp.

Sau một thời gian thực hiện thì nghiệp vụ bao thanh toán đã khiến
không ít các doanh nghiệp chán nản, mất lòng tin. May thay, nhờ xu thế hội
nhập nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính tín dụng nói riêng, đã khơi
ngòi cho nghiệp vụ bao thanh toán phát triển và khung pháp lý cũng được
quan tâm, xây dựng cụ thể hơn, tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi tồn tại một
số hạn chế nhất định.
Cho đến thời điểm hiện nay, đã có rất nhiều ngân hàng thương mại
trong nước được Ngân hàng Nhà nước cho phép thực hiện cung cấp nghiệp
vụ bao thanh toán, điển hình như các ngân hàng Ngoại Thương (VCB), Á
Châu (ACB), Kỹ thương Việt Nam (Techcombank), Sài Gòn Thương Tín
(Sacombank), Xuất nhập khẩu Việt Nam (EXIM Bank), Phương Đông (OCB),
Nam Á, Việt Á... và Công ty tài chính dầu khí (PVFC). Ngoài ra, các chi nhánh
ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam cũng đã lần lượt được cấp giấy phép

12


thực hiện nghiệp vụ này như như Citi Bank, Deusche Bank, HSBC, ANZ, FENB,
UFJ Bank...
Tuy đã được cấp giấy phép thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán, thế
nhưng, đa số các ngân hàng vẫn chưa chính thức triển khai nghiệp vụ này,
hoặc nếu có cũng chỉ là những hoạt động cầm chừng và nặng về hình thức
hơn là chất lượng dịch vụ. Cho đến nay, chỉ có một số tổ chức tín dụng trong
nước tham gia vào mạng lưới bao thanh toán quốc tế. Còn doanh số giao
dịch thì vẫn còn rất khiêm tốn, đối tượng khách hàng thì hạn chế trong phạm
vi một số khách hàng quen thuộc.
Thực trạng này là do còn tồn tại nhiều khó khăn và bất cập đã hạn chế
sự phát triển của nghiệp vụ bao thanh toán trên thị trường tài chính Việt
Nam. Trong đó, bất cập về khung pháp lý điều chỉnh là một trong những rào
cản lớn khiến bao thanh toán vẫn chưa thực sự phát triển ở Việt Nam.

2.

Một số những bất cập trong quy định của pháp luật về bao

thanh toán ở Việt Nam
Mặc dù Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quy chế 1096, nhưng nội
dung của quy chế này còn quá chung chung. Quy chế chỉ đề cập đến những
khái niệm, nguyên tắc, điều kiện thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán... mà
không quy định cụ thể đến những trường hợp phát sinh thực tế. Cho đến nay
vẫn chưa có những văn bản quy định cụ thể hay hướng dẫn thi hành quyết
định này. Điều này đã dẫn đến nhiều hạn chế nhất định cho việc triển khai
nghiêp vụ bao thanh toán ở nước ta. Cụ thể như:
+ Quy chế bao thanh toán không đề cập đến “khoản phải thu trong
tương lai”, tức khoản phải thu sẽ hình thành khi người bán chuyển giao hàng
hoá, dịch vụ cho người mua theo hợp đồng đã giao kết. Ngoài ra, quy trình
hoạt động bao thanh toán theo Điều 13 của Quy chế này cho thấy đơn vị bao
13


thanh toán chỉ có thể chuyển tiền ứng trước cho bên bán hàng sau khi khoản
phải thu theo hợp đồng mua bán hàng hóa đã tồn tại. Điều này sẽ hạn chế
hoạt động bao thanh toán ở Việt Nam bởi vì theo thông lệ, hoạt động bao
thanh toán bao gồm việc mua lại các khoản phải thu đang tồn tại (nhưng
không có sự hiện diện của thương phiếu) hay khoản phải thu trong tương lai
miễn là khoản phải thu này có thể xác định, và đơn vị bao thanh toán có thể
chuyển tiền cho bên bán vào bất cứ lúc nào sau khi hợp đồng bao thanh toán
được giao kết căn cứ vào quy định cụ thể của hợp đồng này.
+ Mặt khác, trong quy định về các khoản phải thu phát sinh từ giao dịch, thỏa
thuận đang có tranh chấp (khoản 3 điều 19 quy định các khoản phải thu được


bao thanh toán “phát sinh từ giao dịch thỏa thuận không có tranh chấp”).
Theo điều khoản quy định này thì điều hiển nhiên là tổ chức bao thanh toán
sẽ không chấp nhận thực hiện nghiệp vụ bao thanh toán cho những khoản
phải thu đang bị tranh chấp. Nhưng quy định lại không nêu rõ trường hợp:
Nếu khoản phải thu này sau khi đã được ngân hàng tài trợ lại phát sinh
tranh chấp khi đó ai sẽ là người chịu trách nhiệm rủi ro này. Đây là một trong
những vấn đề gây khó khăn cho các tổ chức tín dụng khi đưa nghiệp vụ bao
thanh toán vào áp dụng.
+ Thêm vào đó, điều quan trọng nhất khi thực hiện sản phẩm bao thanh
toán là phải xác định được “giá mua khoản phải thu”. Tuy nhiên, quy chế bao
thanh toán hiện tại lại không đề cập vấn đề này. Khi không có văn bản hướng
dẫn cụ thể thì các tổ chức tín dụng thực hiện bao thanh toán sẽ định giá mua
các khoản phải thu hoàn toàn dựa trên tình hình thực tế và mức độ chấp
nhận rủi ro của hệ thống. Nghĩa là các đơn vị bao thanh toán khác nhau sẽ
định “giá mua các khoản phải thu” khác nhau trong cùng một giao dịch. Điều
này sẽ hạn chế khả năng cung cấp vốn cho bên bán hoạt động đồng thời cũng

14


tạo nên sự không nhất quán trong tiến trình thực hiện nghiệp vụ bao thanh
toán.
+ Cuối cùng là, về vấn đề hoạch toán kế toán cho nghiệp vụ này, các đơn
vị bao thanh toán sẽ phải hạch toán kế toán cho nghiệp vụ này như thế nào
khi chưa có văn bản hướng dẫn những chuẩn mực hạch toán kế toán chung
cho nghiệp vụ bao thanh toán, làm cho các tổ chức tín dụng lúng túng trong
cách thức thực hiện. Điều này dẫn đến kết quả là tuy cùng một bản chất sự
việc nhưng cách phản ánh của các đơn vị trên sổ sách kế toán lại khác nhau.
Từ đó, gây khó khăn cho các cơ quan ban ngành hữu quan trong việc kiểm
soát nghiệp vụ bao thanh toán.


CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LÝ VỀ BAO
THANH TOÁN Ở VIỆT NAM
Nghiệp vụ bao thanh toán được vận hành dưới sự điều chỉnh của QĐ
1096/2004/QĐ-NHNN quy định về một số điều liên quan đến nghiệp vụ bao
thanh toán. Quyết định này ra đời được xem như một cơ sở pháp lý quan
trọng cho các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước cung ứng nghiệp vụ bao
thanh toán. Tuy nhiên, như đã đề cập ở Chương 2, quy chế này còn quá chung
chung mà lại chưa có các văn bản cụ thể hướng dẫn việc triển khai nghiệp vụ.
Vì thế, điều đầu tiến Chính phủ cần làm là phải ban hành các thông tư, văn
15


bản hướng dẫn cụ thể để các ngân hàng thương mại có thể triển khai nghiệp
vụ dễ dàng hơn. Điển hình như:
+ Cần quy định về các khoản phải thu phát sinh từ giao dịch, thỏa
thuận đang có tranh chấp: cần đưa ra những quy định cụ thể rõ ràng về việc
xử lý khi có tranh chấp xảy ra. Điều này sẽ tạo tâm lý an tâm cho tổ chức tín
dụng khi triển khai nghiệp vụ.
+ Về việc chuyển giao quyền đòi nợ: Việc chuyển giao quyền đòi nợ hiện
nay chưa được pháp luật quy định rõ ràng. Một câu hỏi đặt ra là, thực chất
việc chuyển giao quyền đòi nợ hiện nay có được pháp luật Việt Nam thừa
nhận hay không? Trên thực tế, việc thực hiện chuyển giao quyền đòi nợ chủ
yếu dựa vào sự thỏa thuận của các bên liên quan và không dựa trên một quy
định nào của luật pháp về chuyển giao quyền đòi nợ. Điều này đã tạo tâm lý e
ngại cho các tổ chức túi dụng khi đưa nghiệp vụ bao thanh toán vào áp dụng.
Để nghiệp vụ này sớm được phát triển thì đòi hỏi Chính phủ phải tạo hành
lang pháp lý trong việc quy định cụ thể về quyền và trách nhiệm của các bên
liên quan trong việc chuyển giao quyền đòi nợ. cần có những quy định về các

chứng từ liên quan đến chuyển giao quyền đòi nợ.
Một điều mà các cơ quan Ngân hàng Nhà Nước cần làm là thành lập
những bộ phận chuyên trách nghiên cứu về nghiệp vụ tài chính mới này, trên
cơ sở học hỏi kinh nghiệm của các nước đã áp dụng thành công nghiệp vụ
bao thanh toán trên thế giới, đồng thời nghiên cứu kỹ những quy định quốc
tế về nghiệp vụ bao thanh toán, như Công ước UNIDROIT về bao thanh toán
quốc tế, Công ước liên hiệp quốc UNCITRAL về việc chuyển nhượng các khoản
phải thu trong thương mại quốc tế, và luật các Hiệp hội như các quy tắc
chung về bao thanh toán quốc tế GRIF của FCI và các quy tắc chung về bao
thanh toán quốc tế GRIF của IFG. Từ đó, soạn thảo những quy định, hướng
dẫn phù hợp áp dụng vào thực tiễn nghiệp vụ bao thanh toán tại Việt Nam.
16


Bên cạnh đó, cần thiết phải quy định về quản lý rủi ro trong nghiệp vụ
bao thanh toán. Rủi ro chủ yếu trong nghiệp vụ bao thanh toán thường xuất
phát từ phía người mua (nhà nhập khẩu), nghĩa là khi người mua không có
khả năng hoàn trả cho một khoản nợ thương mại mà ngân hàng đã tài trợ
cho người bán. Vì thế, cần có những quy định để hạn chế rủi ro. Một trong
những nghiệp vụ mà ngân hàng có thể sử dụng để hạn chế rủi ro chính là việc
sử dụng các công cụ bảo hiểm. Có thể nói, công ty bảo hiểm là công cụ tốt
nhất cho nghiệp vụ bao thanh toán trong việc phòng ngừa rủi ro. Tuy nhiên,
hiện nay thị trường bảo hiểm Việt Nam vẫn còn yếu so với thị trường bảo
hiểm thế giới, và sản phẩm bảo hiểm cho các khoản tài trợ ngân hàng chưa
đa dạng, các công ty bảo hiểm vẫn chưa thực hiện bảo hiểm cho nghiệp vụ
bao thanh toán.
Vì thế, nhằm làm giảm rủi ro cho tổ chức bao thanh toán khi thực hiện
nghiệp vụ, chính phủ cần ban hành các quy định về việc sử dụng các công cụ
bảo hiểm rủi ro ữong bao thanh toán, cho phép các công ty bảo hiểm thực
hiện các nghiệp vụ bảo hiểm bao thanh toán. Có thể thực hiện các hình thức

bảo hiểm như sau:
+ Bảo hiểm toàn bộ: Đơn vị bao thanh toán có thể tiến hành mua bảo hiểm
toàn bộ cho khoản bao thanh toán. Khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ chịu
toàn bộ rủi ro. Do đó, đơn vị bao thanh toán sẽ hạn chế được rủi ro.
+ Bảo hiểm chia sẽ tổn thất: Đơn vị bao thanh toán thực hiện việc mua bảo
hiểm theo phần trăm. Nghĩa là khi tổn thất xảy ra, công ty bảo hiểm chỉ chịu
một phần tổn thất theo tỷ lệ phần trăm đã thực hiện việc bảo hiểm, phần còn
lại là do tổ chức bao thanh toán gánh chịu.
+ Bảo hiểm vượt tổn thất: Đơn vị bao thanh toán quy định sô" tổn thất có thể
gánh chịu do rủi ro gây ra là bao nhiêu trên giá trị một khoản bao thanh
toán, phần còn lại sẽ mua bảo hiểm. Khi rủi ro xảy ra, đơn vị bao thanh toán
sẽ chịu tổn thất trên mỗi khoản phải thu tối đa trên số tiền đã thỏa thuận và
công ty bảo hiểm sẽ chịu bất kỳ phần tổn thất nào vượt quá thỏa thuận đó.
+ Bảo hiểm vượt quá tổn thất tổng thể: Đơn vị bao thanh toán có thể thực
hiện ký kết hợp đồng bảo hiểm tổn thất tổng thể trong một năm. Loại bảo
hiểm này nhằm bảo vệ đơn vị bao thanh toán trong trường hợp có sự tích tụ
quá lớn các tổn thất trong năm bất kỳ. Đơn vị bao thanh toán sẽ thỏa thuận
với công ty bảo hiểm một giá trị tổn thất trong năm và nếu toàn bộ tổn thất
17


nợ khó đòi vượt quá giá trị đã thỏa thuận thì công ty bảo hiểm sẽ thanh toán
phần vượt đó.
Bân cạnh đó, về vấn đề hạch toán kế toán cho nghiệp vụ bao thanh toán. Cần
thiết phải ban hành văn bản hướng dẫn những chuẩn mực hạch toán kế toán
chung cho nghiệp vụ bao thanh toán để các tổ chức tín dụng không gặp phải
lung túng khi thực hiện. Điều này sẽ giúp cho các đơn vị bao thanh toán có sự
hạch toán đồng nhất trong cùng một khoản mục kế toán, tạo điều kiện cho
các cơ quan ban ngành hữu quan dễ dàng thực hiện công việc kiểm soát
nghiệp vụ bao thanh toán.

Trên đây là một vài giải pháp giúp hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh về
hoạt động bao thanh toán. Việc đưa ra một cơ chế cụ thể trong việc giải quyết
các khâu trong hoạt động bao thanh toán, tạo tâm lý an tâm cho các doanh
nghiệp cũng như ngân hàng tham gia thực hiện hoạt động này.

KẾT LUẬN
Với quá trình lịch sử phát triển lâu đời và những điểm ưu việt nhất định,
nghiệp vụ bao thanh toán đã trở thành một sản phẩm quan trọng trong hoạt
động tài chính ngân hàng. Nghiệp vụ này không chỉ tạo nên lợi thế cạnh
tranh cho các ngân hàng, đơn vị bao thanh toán mà còn nâng cao hình ảnh
của quốc gia có nghiệp vụ này phát triển.

18


Việt Nam gia nhập vào WTO đồng nghĩa với việc phải mở cửa thị trường tài
chính cho các tổ chức tài chính nước ngoài mang các sản phẩm mới, công
nghệ tiên tiến, cách quản lý hiện đại... vào cạnh tranh. Nghiệp vụ bao thanh
toán đã phát triển ở nhiều nước trong khu vực và trên thế giới nhưng vẫn
còn là thị trường mới ở Việt Nam, vì thế có sự chếnh lệch trong cạnh ữanh
giữa ngân hàng thương mại Việt Nam và chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Hiện nay, tuy rằng đã có nhiều ngân hàng thương mại trong nước thấy được
triển vọng của nghiệp vụ bao thanh toán và đã được Ngân hàng Nhà nước cấp
giấy phép hoạt động. Tuy nhiên, để nghiệp vụ bao thanh toán thực sự phát
triển thì đòi hỏi phải có chiến lược cụ thể ữong từng giai đoạn và cần có sự
phối hợp đồng bộ giữa các bộ ngành liên quan.
Thách thức đặt ra cho các ngân hàng thương mại hiện nay là phải tìm ra
hướng đi riêng phù hợp với thị trường tài chính Việt Nam nhằm cung cấp cho
các doanh nghiệp nghiệp vụ bao thanh toán tốt nhất.
Dựa trên những cơ sở lý luận chung về nghiệp vụ bao thanh toán, những bài

học kinh nghiệm trong quá trình thực tiễn, Luận văn đã đề ra các giải phát
nhằm hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ bao thanh toán, tạo cơ sở để nghiệp
vụ này trở thành một nghiệp vụ tài chính chủ lực của các ngân hàng thương
mại Việt Nam trong một tương lai gần.

19



×