Tải bản đầy đủ (.doc) (36 trang)

Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giày dép của một số doanh nghiệp Việt Nam sang thị truờng EU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.69 KB, 36 trang )

MỤC LỤC
Lời mở đầu
Chương 1: Cơ sở lí luận về vấn đề thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của
một số doanh nghiệp Việt Nam.
1.1 Khái niệm về xuất khẩu và các hình thức xuất khẩu
1.2. Nôi dung hoạt đông xuất khẩu
1.2.1 Nghiên cứu thị truờng
1.2.2 Xác định nhu cầu của thị truờng xuất khẩu
1.2.3 Kí kết hợp đồng xuất khẩu
1.2.4 Chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu
1.2.5 Tổ chức việc thực hiện xuất khẩu
1.2.6 Kiểm tra giám sát và đánh giá hoạt động xuất khẩu
1.3.Vai trò của hoạt động xuất khẩu
1.3.1 Đôí với nền kinh tế quốc dân
1.3.2 Đối với doanh nghiệp
1.4 Các nhân tố tác dộng đến hoạt động xuất khẩu
1.4.1Nhân tố bên ngoài
1.4.2Nhân tố bên trong
Chương 2: Thực trạng
2.1 Khái quát về hoạt động xuất khẩu giày dép và đặc điểm thị trường EU
2.1.1 Đặc điểm cơ bản
2.1.2 Đặc điểm thị trường EU
2.1.3 Quan hệ Việt Nam – EU.
2.2.Tình hình xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam
2. 3.hoạt động xuất khẩu giày dép
2.3.1 Tình hình hoạt động xuất khẩu giày dép của một số doanh nghiệp Việt Nam
2.3.1.1 Nghiên cứu thị trường
2.3.1.2 Xác định nhu cầu
2.3.1.3 Kí kết hợp đồng
2.3.1.4 Tạo nguồn hàng
2.3.2. Kim ngạch xuất khẩu sang EU


2.3.3 Đánh giá hoạt động xuất khẩu giày dép
2.4. Các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU
1


2.4.1 Định hướng chiến lược sản phẩm giày dép
2.4.2 Đề xuất giải pháp thúc đảy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU
2.4.2.1 Về phía nhà nước
2.4.2.2 Về phía doanh nghiệp
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo

2


LỜI MỞ ĐẦU
Với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá
thiên về xuất khẩu. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, cùng với việc đẩy mạnh
tiến trình vận động của nền kinh tế thế giới là toàn cầu hoá và tự do hóa thương mại, chúng ta
cần mở rộng thị trường xuất khẩu dần thay thế nhập khẩu. Đây là việc làm cần thiết và cấp
bách hiện nay.
Để thực hiện được chiến lược phát triển này chúng ta phải phát triển nhanh mạnh,
vững chắc các ngành công nghiệp, trong đó có xuất khẩu giày dép, có khả năng cạnh tranh
cao, đặc biệt là phát triển các ngành công nghiệp sử dụng ít vốn, thu hút nhiều lao động,
khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu
EU là thị trường da giày hứa hẹn đem lại nhiều vận hội cho các doanh nghiệp nỗ lực tiếp
cận thị trường này. Đây là thị trường lớn, với nhu cầu nhập khẩu cao phần lớn là nguyên liệu,
may mặc, giày da, thuỷ sản...Mọi doanh nghiệp đều muốn thâm nhập vào thị trường đầy tiềm
năng này. Nhưng bên cạnh đó, cạnh tranh trên thị trường này cũng hết sức khốc liệt. Đối với
nước ta, EU luôn được coi là đối tác lâu dài và ổn định. Nước ta đã xuất khẩu nhiều mặt hàng

sang thị trường EU như dệt may, giày dép, thủ công mỹ nghệ...Trong đó hoaatj động xuất khẩu
giày dép đóng vai trò quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của nước ta sang EU. Thị trường
giày dép đã dần khẳng định được vị thế của mình trên thị trường này thể hiện kim ngạch xuất
khẩu trong những năm gần đây liên tục tăng. Với nhu cầu nhập khẩu hang năm là 1,5 tỷ đôi
giày dép các loại, nhưng cũng là thị trường khá phức tạp với 27 quốc gia trong khối.
Bên cạnh đó, cũng có nhiều khó khăn, mặt hàng giày dép của nước ta đã bị kiện bán phá
giá trên thị trường EU- điều này ảnh hưởng nhiều đến kim ngạch xuất khẩu của ngành đồng
thời còn ảnh hưởng nhiều đến đời sống lao động. Do vậy cần có những biện pháp để tránh cho
nước ta có nguy cơ mất thị trường đầy tiềm năng.
Để được hiểu rõ hơn nên em đã chọn để tài: “Thúc đẩy hoạt động xuất khẩu giày dép
của một số doanh nghiệp Việt Nam sang thị truờng EU” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Do còn hạn chế về trình độ lý luận cũng như kiến thức còn hạn hẹp nên bài viết của em
không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong thầy cô góp ý và bổ sung để bài viết của em được
tốt hơn trong những lần sau
Cuối cùng, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các thầy cô trong Trường đặc biệt là cô
giáo Thạc Sĩ: Nguyễn Thị Hồng Thắm, người đã trực tiếp tận tình hướng dẫn em trong suốt
qúa trình nghiên cứu và hoàn thành khoá luận
Em xin chân thành cảm ơn.
Sinh viên: Nguyễn Thị Hồng Nhung
3


Chương 1:Cơ sở lí luận về vấn đề thúc đẩy xuất khẩu giày dép sang thị trường EU của
một số doanh nghiệp Việt Nam
1.1. Khái niệm xuất khẩu và các hình thức xuất khẩu
Xuất khẩu là việc bán hàng ra nước ngoài nhằm phát triển sản xuất, kinh doanh và đời
sống. Song mua bán ở đây có những nét riêng, phức tạp hơn mua bán trong nước như giao
dịch với những người có quốc tịch khác nhau, thị trường rộng lớn và khó kiểm soát, mua bán
trung gian chiếm tỷ trọng lớn, đồng tiền thanh toán là ngoại tệ, hàng hoá phải chuyển qua biên
giới, cửa khẩu các quốc gia khác nhau, phải tuân theo các tập quán, thông lệ quốc tế cũng như

các địa phương.
. Hình thức cơ bản của xuất khẩu hàng hoá chỉ là hình thức trao đổi hàng hoá giữa các
quốc gia, cho đến nay nó đã phát triển rất mạnh và được biểu hiện dưới nhiều hình thức.
-xuất khẩu trực tiếp: Các nhà sản xuất giao hàng trực tiếp cho người tiêu dùng nước
ngoài.Phần lớn hàng hóa trên thế giới qua xuất khẩu trực tiếp chiếm 2/3 kim ngạch.
- Xuất khẩu gián tiếp là xuất khẩu qua khâu trung gian.
- Xuất khẩu tại chỗ: hàng hóa và các hoạt động dịch vụ có thể chưa vượt qua biên giới
quốc gia nhưng ý nghĩa kinh tế của nó tương tự như hoạt động xuất khẩu.
- Gia công quốc tế: thông qua hình thức nhận gia công cho nước ngoài và chu kì gia công
thường rất ngắn.
- Tạm nhập, tái xuất như hàng đưa đi triển lãm, hội trợ, quảng cáo rồi sau đó đưa về. Hình
thức tạm nhập tái xuất được hiểu là việc mua hàng của một nước để sau đó bán cho nước khác
trên cơ sỏ hợp đồng mua bán hàng hóa ngoại thương có làm thư tục nhập khẩu hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam rồi lại làm thủ tục xuất khẩu mà không qua khâu gia công chế biến.
- chuyển khẩu: mua hàng của nước này bán cho nước khác, không làm thủ tục nhập khẩu,
1.2. Nội dung hoạt động xuất khẩu

4


1.2.1 Nghiên cứu thị trường
Là quá trình thu thập và phân tích có hệ thống các dữ liệu về các vấn đề có liên quan
đến các hoạt động Marketing về hàng hóa và dịch vụ
5


• Nghiên cứu về thị trường: Tính chất của chúng ở vùng lãnh thổ của thị trường , tiềm
năng thương mại của thị trường.
• Nghiên cứu về sản phẩm: Sản phẩm của hãng và các sản phẩm của hãng khác .Việc
phát triển sản phẩm hiện tại

• Nghiên cứu về phân phối: Mạng lưới kênh phân phối . Phương thức phân phối
• Nghiên cứu về giá cả: Quan niệm của khách hàng về giá cả. Khả năng chấp nhận, khả
năng chi trả
• Nghiên cứu quảng cáo: Đánh giá hiệu quả của quảng cáo, phương tiện, nội dung quảng
cáo
• Nghiên cứu dự báo: Dự báo thị trường trong ngắn hạn (1 năm), dự báo trung hạn và dài
hạn (2 năm).
Từ phần nghiên cứu thị trường đi sâu nghiên cứu về nhu cầu thị hiếu tiêu dùng
1.2.2 Xác định nhu cầu của thị trường xuất khẩu
Sau khi nghiên cứu thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ xác định cho mình thị trường
mục tiêu của doanh nghiệp. Để cho doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả thì nhất thiết doanh
nghiệp cần phải xác định chính xác nhu câu của thị trường là như thế nào, để từ đó đưa ra
được chiến lược sản xuất kinh doanh phù hợp với doanh nghiệp và có hiệu quả cao.
Nghiên cứu thị trường đã giúp cho doanh nghiệp xác định được phong tục tập quán, thị
hiếu tiêu dùng, thu nhập, và dự đoán được khả năng thanh toán của khách hàng. Từ đó đưa ra
những chiến lược sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
1.2.3 Kí kết hợp đồng xuất khẩu
Sau khi nghiên cứu và lựa chọn được thị trường xuất khẩu, doanh nghiệp sẽ tiến hành giao
dịch và ký kết hợp đồng. Để có thể ký kết hợp đồng mua bán với nhau, hai bên mua bán
thường phải tiến hành giao dịch, thương lượng về các điều kiện giao dịch. Các bước giao dịch
thường diễn ra như sau:
- Hỏi giá (inquiry): Về phương diện pháp luật thì đây là lời thỉnh cầu bước vào giao
dịch, nhưng xét về phương diện thương mại thì đây là việc người mua đề nghị người bán báo
cáo cho mình biết giá cả và các điều kiện để mua hàng.
Người mua có thể hỏi về: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng, địa điểm giao hàng,
phương thức thanh toán...
- Phát giá hay chào hàng ( offer): luật pháp coi đây là lời đề nghị ký hợp đồng và như
vậy phát giá có thể do người bán hoặc người mua đưa ra. Nhưng trong buôn bán thì phát giá
lại là chào hàng, là việc người xuất khẩu thể hiện rõ ý định bán hàng của mình.
6



Trong chào hàng người ta nêu rõ: tên hàng, quy cách, phẩm chất, số lượng...
- Đặt hàng ( order): lời đề nghị ký kết hợp đồng xuất phát từ phía người mua được đưa
ra dưới hình thức đặt hàng.
- Hoàn giá ( couter offer): là việc mặc cả về giá cả hoặc các điều kiện giao dịch.
- Chấp nhận (accpetance): là sự đồng ý hoàn toàn tất cả các điều kiện của chào hàng mà
phía bên kia đưa ra.
- Xác nhận (confirmation): hai bên mua và bán, sau khi đã thống nhất thoả thuận với
nhau về điều kiện giao dịch, có khi cần thận trọng ghi lại mọi điều đã thoả thuận và gửi cho
bên kia- đó gọi là văn kiện xác nhận. Văn kiện đó do bên bán gửi gọi là xác nhận bán hàng, do
bên mua gửi gọi là giấy xác nhận mua hàng.
Sau khi đã giao dịch thì doanh nghiệp sẽ tiến hành ký kết hợp đồng. Một số đặc điểm
của hợp đồng xuất khẩu bao gồm:
Luật điều chỉnh: là luật của nước xuất khẩu, nhập khẩu và điều ước quốc tế mà hai bên
thoả thuận và can kết thực hiện. Ngoài ra còn quy định chủ thể hợp đồng, ngôn ngữ trong hợp
đồng, đồng tiền thanh toán và phương thức thanh toán.
Do vậy các doanh nghiệp trước khi ký kết hợp đồng giao dịch cần hiểu và nắm chắc
các điều kiện cơ bản của hợp đồng kinh doanh xuấtt khẩu gồm các điều kiện: về đơn hàng,
phẩm chất, về số lượng, cơ sở giao hàng, giá cả, giao hàng, thanh toán tiền , khiếu nại và
cách thức giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra…
Hợp đồng xuất khẩu là hợp đồng bán hàng ra nước ngoài nhằm thực hiện việc chuyển
giao hàng hóa ra nước ngoài, đồng thời thực hiện việc di chuyển hàng hóa sang tay người mua.
Nội dung của hợp đồng xuất khẩu
Nội Dung Các Điều Khoản và Điều Kiện Của Hợp Đồng
1. Tên Hàng (Commodity)
2. Chất lượng (Quality)
* FAQ (fair average quality – phẩm chất trung bình khá): theo tiêu chuẩn này người bán từ
một cảng nhất định phải giao hàng theo phẩm chất không thấp hơn phẩm chất bình quân của
cùng loại loại hàng vẫn thường được gởi từ cảng đó trong một thời gian nhất định

* GMQ (good merchantable quality – phẩm chất tiêu thụ tốt): theo tiêu chuẩn này người
bán phải giao hàng có phẩm chất thông thường được mua bán trên thị trường mà một khách
bình thường sau khi xem xét đầy đủ có thể chấp nhận được
3. Số lượng (Quantity)
4. Giao hàng (Shipment or Delivery)
7


5. Giá cả (Price)
6. Thanh toán (Payment)
7. Bao bì và Ký mã hiệu (Packing and Marking)
8. Bảo hành (Waranty)
9. Phạt và bồi thường thiệt hại (Penalty)
10. Bảo hiểm (Insuarance)
11. Bất khả kháng (Force majeure)
12. Khiếu nại (Claim)
13. Trọng tài (Arbitration)
14. Các quy định khác (Other terms and conditions)
1.2.4 Chuẩn bị nguồn hàng xuất khẩu
Đây là công việc cực kỳ quan trọng, tùy vào từng đối tượng mà công việc này được thực
hiện với nội dung khác nhau. Tập trung hàng từ nhiều nguồn gốc khác nhau:
- Tổ chức thu gom
- Tổ chức gia công
- Tổ chức hệ thống đại lý mua hàng
- Liên doanh, liên kết xuất khẩu
Doanh nghiệp tổ chức thu mua hoặc sản xuất hàng hóa và doanh nghiệp sẽ theo dõi sự thu
mua hay sản xuất hàng hóa đó.
- Tổ chức đóng gói bao bì và ký mã hiệu hàng hóa nhằm: bảo vệ hàng hóa không bị hư
hỏng và nhận diện hàng hóa.
- Chuẩn bị kho bãi chứa hàng để chờ giao hàng

- Ký sẵn các hợp đồng nội địa như: vận tải, hợp đồng kho bãi, xếp dỡ hàng…
- Chuẩn bị hoàn thành các chứng từ như: đóng gói, chứng nhận xuất xứ hàng hóa
- Khâu chuẩn bị hàng hóa là khâu quan trọng nó giúp nhà xuất khẩu đảm bảo giao hàng
đúng số lượng, chất lượng, thời gian giao hàng, bao bì, ký mã hiệu…
Kiểm tra hàng hóa xuất khẩu
1.Kiểm nghiệm hàng hóa xuất khẩu
Ở cơ sở việc kiểm nghiệm do KCS kiểm nghiệm
.Ở cửa khẩu do cơ quan giám định hàng hóa xuất khẩu có chức năng tiến hành như:
Vinacontrol, trung tâm giám định…hoặc các tổ chức giám định độc lập khác như:
OMIC(Oversea Merchandise Inspection Company) hoặc SGS (Socierty General Supervision).
2. Kiểm dịch hàng xuất khẩu
8


1.2.5Tổ chức việc thực hiện xuất khẩu
Sau khi doanh nghiệp đã có hàng hoá xuất khẩu theo đúng yêu cầu của đối tác nước
ngoài, doanh nghiệp sẽ tổ chức bán hàng ra nước ngoài. Việc bán hàng dựa trên cơ sở hợp
đồng được ký kết giữa doanh nghiệp và đối tác. Doanh nghiệp phải lựa chọn cho mình phương
thức bán hàng xuất khẩu và chi phí thấp nhất song lại tối ưu và hiệu quả nhất. Việc tổ chức
thực hiện hợp đồng xuất khẩu cần thực hiện các yêu câu sau: Xin giấy phép xuất khẩu, Chuẩn
bị hàng hoá xuất khẩu, Kiểm tra chất lượng hàng hoá, Thuê tàu lưu cước, Mua bảo hiểm, Làm
thủ tục hải quan, Giao nhận hàng với tàu, Giải quyết khiếu nại (nếu có).
1.2.6 Kiểm tra, giám sát và đánh giá hoạt động xuất khẩu.
Trong quá trình thực hiện xuất khẩu doanh nghiệp phải thường xuyên kiểm tra giám sát
các hoạt động để có các biện pháp kịp thời khắc phục những tình huống phát sinh trong quá
trình thực hiện xuất khẩu. Vì hoạt động kinh doanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá ra nước
ngoài là hoạt động rất phức tạp và trải qua nhiều khâu nên không thể tránh khỏi những rủi ro.
Đồng thời doanh nghiệp phải đánh giá các kết quả thu được từ hoạt động kinh doanh xuất
khẩu xem có hiệu quả không để đề ra những biện pháp thích hợp và rút ra kinh nghiệm cho
những lần xuất khẩu sau.

Và một trong những hoạt động quan trọng của hoạt động xuất khẩu là thanh quyết toán
hợp đồng:
Tiền hàng xuất khẩu có thể được thanh toán theo nhiều phương thức: thanh toán bằng
thư tín dụng, thanh toán bằng phương thức nhờ thu, phương thức tiền mặt trao tay, Séc, uỷ
nhiệm chi.
Thanh toán bằng thư tín dụng: Đơn vị kinh doanh xuất khẩu phải đôn đốc người mua ở
nước ngoài mở thư tín dụng (L/C) đúng hạn và sau khi nhận được L/C phải kiểm tra L/C và
khả năng thuận tiện trong việc thu tiền hàng xuất khẩu bằng L/C đó, nếu L/C đó, nếu L/C
không đáp ứng được yêu cầu cần buộc người mua sửa chữa lại rồi mới giao hàng.
Sơ đồ thanh toán theo L/C:
NH mở L/C

Người NK

NH thông báo L/C

Người XK

9


1.3 Vai trò xuất khẩu.
1.3.1. Đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước. Nguồn gốc quan trọng nhất để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá là xuất
khẩu. Nhờ hoạt động xuất khẩu có thể tranh thủ tối đa nguồn vốn kỹ thuật công nghệ tiên tiến
của nước ngoài nhằm thúc đẩy hàng hoá trong nước phát triển, giải quyết việc làm cho người
lao động, từng bước đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Có xuất khẩu mới phục vụ và thúc đẩy sản xuất phát triển, xây dựng nền sản xuất xã hội
chủ nghĩa, cải thiện đời sống của nhân dân. Giữa sản xuất và xuất khẩu có mối liên hệ chặt

chẽ. Quy mô, tốc độ phát triển của xuất khẩu do trình độ phát triển của sản xuất quy định. Việc
xuất khẩu những sản phẩm do trong nước sản xuất ra có ảnh hưởng lớn đến sản xuất, đến công
ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân, tăng thu nhập quốc dân.
Có đẩy mạnh mới tăng thu ngoại tệ và tích luỹ vốn. Công cuộc công nghiệp hoá hiện đại
hoá đất nước và xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội đòi hỏi phải có một số
vốn lớn. Xuất khẩu đóng vai trò khuyến khích và mở rộng sản xuất phát triển, do đó góp phần
đáng kể vào việc tích luỹ vốn phục vụ công nghiệp hoá.
Xuất khẩu góp phần phục vụ tốt đường lối mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài của
Đảng và Nhà nước.
1.3.2. Đối với các doanh nghiệp.
Ngày nay, xuất khẩu là một xu hướng chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp,
việc xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đem lại cho doanh nghiệp các lợi ích sau:
Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ
kinh doanh với các bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh
số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng
cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp.
Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia cạnh
tranh trên thị trường thế giới. Qua đó có điều kiện tiếp thu phát triển các kỹ- nghệ tiên tiến.
1.4 Các nhân tố tác động dến hoạt động xuất khẩu
1.4.1 Nhân tố bên trong( nguồn lực nội bộ của doanh nghiệp)
1.4.1.1 Vốn
Với cơ sở hạ tầng và trang thiết bị, máy móc thiếu hoàn chỉnh và không đầy đủ sẽ gây khó
khăn và trở ngại cho quá trình giao nhận hàng hoá. Tuy nhiên, để có thể xây dựng cơ sở hạ
tầng và sở hữu những trang thiết bị hiện đại, người giao nhận cần một lượng vốn đầu tư rất
10


lớn. Song không phải lúc nào người giao nhận cũng có khả năng tài chính dồi dào. Cho nên
với nguồn tài chính hạn hẹp người giao nhận sẽ phải tính toán chu đáo để xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật một cách hiệu quả bên cạnh việc đi thuê hoặc liên doanh đồng sở hữu với các

doanh nghiệp khác những máy móc và trang thiết bị chuyên dụng.
1.4.1.2 nguyên liệu đầu vào
Nguyên liệu đầu vào là yếu tố quan trọng cấu thành nên sản phẩm, hàng hoá. Nó quyết
định trực tiếp tới chất lượng và giá thành của sản phẩm hàng hoá.
Một doanh nghiệp nếu giải quyết tốt vấn đề nguyên vật liệu đầu vào thì sẽ thuận lợi cho
doanh nghiệp trong việc sản xuất hàng hoá, sản phẩm và thâm nhập thị trường. Chất lượng của
sản phẩm hàng hoá sản xuất chủ yếu phụ thuộc vào nguyên vật liệu và trình độ lao động. Nên
nếu doanh nghiệp giải quyết tốt các yếu tố đầu vào thì sẽ tạo điều kiện cho quá trình sản xuất
của doanh nghiệp được thuận lợi đồng thời sẽ giúp cho doanh nghiệp nâng cao chất lượng sản
phẩm, hàng hoá và khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam thì nguyên vật liệu chủ yếu là nhập khẩu từ nước
ngoài, giá nhập khẩu cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lên. Đồng thời, nguyên vật liệu phụ
thuộc vào nguồn nhập khẩu nên các doanh nghiệp không chủ động được nguyên vật liệu đầu
vào gây khó khăn cho sản xuất.
Do vậy doanh nghiệp cần phải chủ động hơn trong việc cung ứng nguyên vật liệu, phải
tận dụng triệt để nguồn nguyên liệu trong nước: giá rẻ, ổn định...
1.4.1.3. Chất lượng sản phẩm
Người tiêu dùng EU đang tìm kiếm các nhà cung cấp tin cậy có khả năng cung ứng thường
xuyên với chất lượng sản phẩm ổn định. Các thị trường khác nhau có những yêu cầu khác
nhau về chất lượng, nguyên vật liệu, kích cỡ giày, màu sắc…Căn cứ vào đó, những yêu cầu
về chất lượng tối thiểu đã được đặt ra. Nhiều công đoạn kiểm tra được thực hiện để đảm bảo
rằng vật liệu (da, vải dệt…) đáp ứng được tiêu chuẩn mà người tiêu dùng đặt ra như độ vững
chắc. Các phương pháp kiểm tra kỹ thuật được xây dựng dựa trên các tiêu chuẩn châu Âu, các
chuẩn mực quốc gia hoặc tiêu chuẩn ISO.
Một yêu cầu khác cũng được đưa ra, đó là khả năng truy xuất nguồn gốc. Sản phẩm hoàn
chỉnh cần phải có thể truy xuất được nguồn gốc thông qua chuỗi cung cấp. Điều này đòi hỏi
phải có sự ghi chép chi tiết và các thủ tục kiểm tra nghiêm ngặt đối với các chu trình sản xuất
có liên quan.

11



1.4.1.4 Khoa học công nghệ
Trình độ công nghệ của ngành da giày Việt Nam đang ở mức trung bình và trung bình
khá, song khá lệ thuộc vào nước ngoài về trang bị máy móc. Khả năng đầu tư và chuyển giao
công nghệ mới phụ thuộc vào nguồn tài chính hạn hẹp, đội ngũ chuyên gia hiểu biết sâu và cập
nhật công nghệ còn quá ít và chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của doanh nghiệp, kinh
nghiệm và khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng về công nghệ còn hạn chế...Đây là một trong
những nguyên nhân làm hạn chế năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh của
ngành trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài. Điều này còn dẫn đến việc ngành có nguy
cơ mất khả năng cạnh tranh trên thị trường, đặc biệt là thị trường quốc tế
1.4.1.5 Nguồn nhân lực
Ngành da giày là ngành sử dụng nhiều lao động xã hội. Tính đến hết năm 2007, toàn
ngành đã thu hút 600.000 lao động (chưa kể số lao động sản xuất trong lĩnh vực nguyên phụ
liệu và lao động tại các cơ sở nhỏ, các hộ gia đình và các làng nghề có thể lên tới hơn 1 triệu
lao động) chiếm 9% lực lượng lao động công nghiệp. Đây có thể được coi là lợi thế so sánh
với mức chi phí nhân công thấp.
1.4.1.6 bán hàng và marketing
Trong những năm gần đây công tác xúc tiến thương mại đã bắt đầu được chú trọng. Một
số doanh nghiệp đã có những hoạt động tích cực nhằm tăng cường tuyên truyền và quảng bá
hình ảnh của ngành da giày Việt Nam như một quốc gia sản xuất và xuất khẩu da giày tiềm
năng, nâng cao năng lực hiểu biết về kiến thức pháp luật, thị trường, phòng ngừa các vụ kiện
bán phá giá và vận dụng luật để đấu tranh trong các vụ tranh chấp thương mại. Phương thức
bán hàng tại các doanh nghiệp đã có nhiều đổi mới, hình thành nhiều mạng lưới bán buôn, bán
lẻ, tham gia vào các kênh phân phối của các tập đoàn xuyên quốc gia, phát triển hình thức
thương mại điện tử.
1.4.2 nhân tố bên ngoài
1.4.2.1 Công cụ chính sách thương mại thuộc thuế quan
Về phía EU: Từ năm 1971, EU đã có các quy tắc đảm bảo hàng hóa xuất khẩu từ các nước
đang phát triển chỉ phải chịu mức thuế thấp hơn trên một số hoặc tất cả những gì họ bán cho

EU, được gọi là " Hệ thống Ưu đãi Thuế quan (GSP)". Hệ thống này bao gồm ba chế độ ưu đãi
khác biệt, đó là: • Ưu đãi chung (GSP) hiện đang cấp cho 176 nước đang phát triển và vùng
lãnh thổ.
• Ưu đãi đặc biệt (GSP+) dành cho các nước đang phát triển dễ bị tổn thương và thực
hiện các công ước quốc tế trong các lĩnh vực phát triển bền vững và quản trị tốt.
12


• Ưu đãi đặc biệt dành cho các nước kém phát triển nhất- Tất cả mọi thứ trừ vũ khí
(EBA
Mặc dù hàng xuất khẩu của việt Nam vào thị trường EU được hưởng ưu đãi thuế quan phổ
cập (GSP) từ 1/7/1996 cho đến nay, thế nhưng chúng ta gần như không được hưởng các ưu đãi
mà EU dành cho các nước đang phát triển vì EU xếp Việt Nam vào danh sách những nước
thực hiện chế độ độc quyền ngoại thương ngoài GATT
OPT (hạn ngạch công nghiệp). Từ năm 1997, EU bắt đầu dành OPT cho Việt Nam, OPT
tăng rất nhanh 100% trong vòng 3 năm. Hiện nay, OPT chiếm 30% tổng hạn ngạch EU dành
cho Việt Nam.
Chính sách bảo hộ mậu dịch của EU được thực hiện thông qua một loạt các hoạt động và
công cụ cụ thể: thuế chống xuất khẩu bán phá giá, thuế chống tài trợ và các điều kiện bảo hộ
khác, các quy định về “giải quyết các trở ngại thương mại” cho phép chống lại trong khuôn
khổ WTO và các biện pháp mà các nước thứ ba áp dụng trái với luật lệ cân bằng thương mại,
các biện pháp chống hàng giả nhằm ngăn chặn không cho phép nhập khẩu những hàng hoá
đánh cắp bản quyền.
- Ngày 22/3/2006, ủy ban Châu Âu(EC) đã chính thức phê chuẩn đề xuất áp dụng thuế
chống bán phá giá đối với mặt hàng da giày nhập khẩu từ Việt Nam
1.4.2.2 Các công cụ chính sách thương mại phi thuế quan
• Dán nhãn hàng da giày. Nếu doanh nghiệp sản xuất, nhập khẩu hoặc bán da giày, doanh
nghiệp cần phải đảm bảo rằng các sản phẩm của mình được dán nhãn ghi rõ thành phần
nguyên vật liệu cấu thành sản phẩm, như mũi giày, lót và đế giày. Các vật liệu cần phải được
dán nhãn theo một trong bốn cách sau: da, da thuộc, vật liệu dệt hoặc các nguyên liệu khác.

• Những vấn đề môi trường trong hoạt động sản xuất da giày. Hướng dẫn (2002/61/EC)
của EU hạn chế sử dụng các chất và chế phẩm nguy hiểm (thuốc nhuộm azo) dùng trong các
sản phẩm da hoặc vải dệt, gồm có da giày.
• Công ước CITES về kinh doanh các loài động vật có nguy cơ tuyệt chủng (CITES), trong
đó bao gồm những quy định (EC 338/97) về các sản phẩm da có chứa nguyên liệu lấy từ các
loài vật có nguy cơ tuyệt chủng.
• Đóng gói. Toàn bộ quy trình đóng gói hàng nhập khẩu cần phải tuân thủ các tiêu chuẩn
châu Âu (có thể sử dụng lại, tái chế, có thể phục hồi về năng lượng hoặc có thể làm thành phân
trộn; có khối lượng hoặc trọng lượng tối thiểu để duy trì các mức an toàn, vệ sinh cần thiết và
được người tiêu dùng chấp nhận; chứa hàm lượng kim loại nặng và chất độc hại khác

13


không vượt quá mức tối thiểu. EU cũng quy định về khối lượng tối đa đối với hàng đóng gói
và đưa ra những quy định cụ thể về đóng gói hàng bằng bao bì gỗ.
• Chống phá giá. Đây đã và đang là vấn đề nổi cộm trong ngành da giày giữa EU và các
nước xuất khẩu trong những năm gần đây. EU đã tăng cường các biện pháp hạn chế nhập khẩu
da giày từ một số nước nhằm bảo vệ ngành da của mình và ngăn chặn hoạt động bán phá giá
sản phẩm quy mô lớn có thể gây ảnh hưởng bóp méo sự vận hành thông thường của thị trường
khối này.
Rào cản kỹ thuật chính là qui chế nhập khẩu chung và các biện pháp bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng của EU, được cụ thể hoá ở 4 tiêu chuẩn của sản phẩm: chất lượng, vệ sinh
thực phẩm, an toàn cho người sử dụng và bảo vệ môi trường.
“rào cản kỹ thuật” mới chính là rào cản thực sự và khó vượt qua đối với hàng của ta khi
vào thị trường EU. Để vượt được qua rào cản này, các doanh nghiệp Việt Nam phải trang bị
cho hàng hoá đủ sức cạnh tranh, hay nói cách khác là đáp ứng tốt tiêu chuẩn nêu trên. Phương
pháp tối ưu nhất giúp các doanh nghiệp đạt được mục đích là áp dụng các tiêu chuẩn: ISO
9000, ISO 14000 và HACCP.


14


Chương 2: Thực trạng về hoạt động xuất khẩu giày dép ở một số doanh nghiệp Việt
Nam
2.1 Khái quát về hoạt động xuất khẩu giày dép và đặc điểm thị trường EU
2.1.1 đặc điểm cơ bản
Giày dép là mặt hàng tiêu dùng có nhiều mẫu mã và chủng loại khác nhau. Vì vậy, mỗi
loại giày dép có quy trình sản xuất, công nghệ và giá thành khác nhau. Có thể chia các loại
giày dép như sau : giày da, giày đế cao su, đế nhựa, giày thể thao, giày vải, giày sadal, và các
loại dép đi trong nhà, đi dạo biển
- Các quy trình cơ bản để sản xuất giày: tạo mẫu, sản xuất đế, khâu mũ giày, hoàn chỉnh mũ
giày, lắp ráp hoàn chỉnh
- Sản xuất đế giày có các công nghệ: ép đúc, ép phun, lưu hoá và ép dán.
- Về mũ giày có các loại: mũ vải, mũ da, mũ giày thể thao, mũ giày saldal.
- Giày dép là sản phẩm mang tính thời trang, tuỳ từng mùa khác nhau khách hàng sẽ có sở
thích từng loại giày dép khác nhau và tuỳ từng vùng khác nhau khách hàng cũng sẽ có những
thị hiếu khác nhau. Ngoài ra, tính thời trang có yếu tố rất quyết định trong việc nâng cao giá trị
gia tăng cho sản phẩm, sản phẩm có kiểu dáng lạ, đẹp, sẽ tăng thêm tính cạnh tranh cho mặt
hàng.
Ngày nay, việc ứng dụng công nghệ trong việc sản xuất giày dép rất được xem trọng, vì các
doanh nghiệp ngày càng muốn thoã mãn những yêu cầu về sở thích giày dép của khách hàng
và khách hàng cũng ngày càng có những yêu cầu khắt khe hơn cho từng sản phẩm.
- Sản xuất giày dép đa số xuất phát từ các nước có giá nhân công và chi phí sản xuất rẻ như:
Indonesia, Philipin, Trung Quốc, Việt Nam. Xuất khẩu giày dép chủ yếu là thông qua đường
biển.
2.1.2 Đặc điểm thị trường EU
Tập quán và thị hiếu tiêu dùng
EU gồm 27 thị trường quốc gia, mỗi thị trường lại có đặc điểm tiêu dùng riêng. Do vậy,
có thể thấy rằng thị trường EU có nhu cầu rất đa dạng và phong phú về hàng hoáTuy có những

khác biệt nhất định về tập quán và thị hiếu tiêu dùng giữa các thị trường quốc gia trong khối
EU, nhưng 27 nước thành viên đều là những quốc gia nằm ở khu vực Tây và Bắc Âu nên có
những điểm tương đồng về kinh tế và văn hoá
Khách hàng EU đặc biệt quan tâm tới chất lượng và thời trang của hai loại sản phẩm này.
Nhiều khi yếu tố thời trang lại có tính quyết định cao hơn nhiều so với giá cả
15


Người tiêu dùng EU có sở thích và thói quen sử dụng các sản phẩm có nhãn hiệu nổi
tiếng trên thế giới
Qua đó ta nhận thấy rằng EU là thị trường khó tính và khắt khe nhất trên thế giới hiện
nay. Chất lượng sản phẩm là yếu tố quan trọng hàng đầu và là chìa khoá để mở cánh cửa đi
vào thị trường EU.
Kênh phân phối
Hệ thống phân phối EU về cơ bản cũng giống như hệ thống phân phối của một quốc gia,
gồm mạng lưới bán buôn và mạng lưới bán lẻ. Tham gia vào hệ thống phân phối này là các
Công ty xuyên quốc gia, hệ thống các cửa hàng, siêu thị, các công ty bán lẻ độc lập, v.v...
Việc duy trì vừa đủ sản xuất trong nước cho phép họ có khả năng phản ứng nhanh với
những thay đổi trong nhu cầu tiêu dùng. Đồng thời việc đưa sản xuất ra nước ngoài giúp họ
có thể tận dụng được lao động rẻ ở nước ngoài để cung cấp sản phẩm với giá cạnh tranh.
Chính vì vậy mà EU nhập rất nhiều hàng may mặc, da giày, v.v... từ các nước, những năm
gần đây nhập rất nhiều từ Châu Á.
Hệ thống phân phối của EU đã hình thành lên một tổ hợp rất chặt chẽ và có nguồn gốc lâu
đời. Tiếp cận được hệ thống phân phối này không phải là việc dễ đối với các nhà xuất khẩu
Việt Nam hiện nay.
Các doanh nghiệp xuất khẩu của ta muốn tiếp cận các kênh phân phối chủ đạo trên thị
trường EU thì phải tiếp cận được với các nhà nhập khẩu EU. Có thể tiếp cận với các nhà nhập
khẩu EU bằng hai cách: thứ nhất, tìm các nhà nhập khẩu EU để xuất khẩu trực tiếp ; thứ hai,
những doanh nghiệp Việt Nam có tiềm lực kinh tế nên thành lập liên doanh với các Công ty
xuyên quốc gia EU để trở thành công ty con.

Các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng của EU
Một đặc điểm nổi bật trên thị trường EU là quyền lợi của người tiêu dùng rất được bảo
vệ, khác hẳn với thị trường của các nước đang phát triển. Để đảm bảo an toàn cho người tiêu
dùng, EU tiến hành kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có các hệ thống báo động
giữa các nước thành viên, đồng thời bãi bỏ việc kiểm tra các sản phẩm ở biên giới. EU đã
thông qua những quy định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng về độ an toàn chung của các
sản phẩm được bán ra, các hợp đồng quảng cáo, bán hàng tận nhà, nhãn hiệu,v.v... Các tổ chức
chuyên nghiên cứu đại diện cho giới tiêu dùng sẽ đưa ra các quy chế định chuẩn Quốc gia
hoặc Châu Âu. Hiện nay ở EU có 3 tổ chức định chuẩn: Uỷ Ban Châu Âu về Định chuẩn, Uỷ
Ban Châu Âu về Định chuẩn điện tử, Viện Định chuẩn Viễn thông Châu Âu. Tất cả các sản
phẩm chỉ có thể bán được ở thị trường EU với điều kiện phải bảo đảm tiêu chuẩn an toàn
16


chung của EU, các luật và định chuẩn quốc gia được sử dụng chủ yếu để cấm buôn bán sản
phẩm được sản xuất ra từ các nước có những điều kiện sản xuất chưa đạt được mức an toàn
ngang với tiêu chuẩn của EU. Quy chế bảo đảm an toàn của EU đối với sản phẩm tiêu dung
có liên quan tới sản xuất giày dép như sau:
- Đối với các loại vải lụa, EU lập ra một hệ thống thống nhất về mã hiệu cho biết các
loại sợi cấu thành nên loại vải hay luạ được bán ra trên thị trường EU. Bất cứ loại vải hay lụa
nào được sản xuất ra trên cơ sở hai hay nhiều loại sợi mà một trong các loại ấy chiếm tối thiểu
85% tổng trọng lượng thì trên mã hiệu có thể đề tên loại sợi đó kèm theo tỷ lệ về trọng lượng,
hoặc đề tên của loại sợi đó kèm tỷ lệ tối thiểu 85%, hoặc ghi cấu thành chi tiết của sản phẩm.
Nếu sản phẩm gồm hai hoặc nhiều loại sợi mà không loại sợi nào đạt tỷ lệ 85% tổng trọng
lượng thì trên mã hiệu ít nhất cũng phải ghi tỷ lệ của hai loại sợi quan trọng nhất, kèm theo tên
các loại sợi khác đã được sử dụng.
Để bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng, EU tích cực tham gia chống nạn hàng giả
bằng cách không cho nhập khẩu những sản phẩm đánh cắp bản quyền.
Ngoài việc ban hành và thực hiện quy chế trên, EU đưa ra các Chỉ thị kiểm soát từng
nhóm hàng cụ thể về chất lượng và an toàn đối với người tiêu dùng

Chính sách ngoại thương của EU
Tất cả các nước thành viên EU cùng áp dụng một chính sách ngoại thương chung đối với
các nước ngoài khối và Uỷ ban châu Âu là người đại diện duy nhất cho Liên minh trong việc
đàm phán, ký kết các Hiệp định thương mại và dàn xếp các tranh chấp trong lĩnh vực này.
EU đang thực hiện chương trình mở rộng hàng hoá: đẩy mạnh tự do hoá thương mại (giảm
dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu và tiến tới xoá bỏ hạn ngạch, GSP). Hiện
nay, 15 nước thành viên EU cùng áp dụng một biểu thuế quan chung đối với hàng hoá xuất
nhập khẩu. Đối với hàng nhập khẩu vào khối, mức thuế trung bình đánh vào hàng nông sản là
18%, còn hàng công nghiệp chỉ là 2%.
Các chính sách phát triển ngoại thương của EU từ 1951 đến nay bao gồm những cụm
chính sách chủ yếu sau: chính sách khuyến khích xuất khẩu, chính sách thay thế nhập khẩu,
chính sách tự do hoá thương mại và chính sách hạn chế xuất khẩu tự nguyện. Việc ban hành và
thực hiện các chính sách này có liên quan chặt chẽ đến tình hình phát triển kinh tế, tiến trình
nhất thể hoá châu Âu và khả năng cạnh tranh trong từng thời kỳ các sản phẩm của Liên minh
trên thị trường thế giới.
Trong giai đoạn hiện nay, chính sách tự do hoá thương mại của EU hướng vào thực hiện
chương trình mở rộng hàng hoá nhằm đẩy mạnh tự do hoá thương mại quốc tế thông qua lịch
17


trình cắt giảm dần thuế quan đánh vào hàng hoá xuất nhập khẩu, tiến tới xoá bỏ hạn ngạch và
hỗ trợ các nước đang phát triển thông qua việc dành cho họ Chương trình ưu đãi thuế quan
phổ cập GSP trong quan hệ thương mại song phương.
Uỷ ban châu Âu cũng đã thương thuyết những hiệp định về hạn chế nhập khẩu một số mặt
hàng có thể ảnh hưởng tới sự phát triển của các ngành kinh tế của EU
2.1.3 Quan hệ Việt Nam – EU.
Quan hệ thương mại Việt nam - EU được đánh dấu từ khi bình thường hoá ngoại giao
(11/1996) đã có những kết quả to lớn từ hai phía.
Lợi thế trong triển vọng hợp tác thương mại giữa Việt Nam - EU.
- Về phía EU.

Việt Nam không chỉ là một đối tác rất quan trọng với họ trong buôn bán và làm ăn, mà
còn là một cửa ngõ giúp họ mở rông quan hệ với các nước ở Đông Dương, Đông Nam á,
châu á cũng như tại các diễn đàn, khu vực và thế giới.
Nằm trong khu vực được đánh giá có mức tăng trưởng kinh tế nhanh nhất thế giới, nhiều
nước láng giềng tiến nhanh hơn Việt Nam nhưng chính điều này lại tạo điều kiện cho Việt
Nam hội nhập dễ dàng hơn.
EU cũng thấy có nhu cầu muốn Việt Nam mở rộng quan hệ cũng như điều kiện thu hút các
khu vực khác của thế giới, làm cho quan hệ quốc tế của EU được đa dạng và nhiều chiều hơn.
Liên minh châu Âu dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc (MFN) và đặc biệt là quy
chế ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) thường được dành cho các nước đang phát triển nên Việt
Nam có điều kiện thuận lợi mở rộng buôn bán sang thị trường châu Âu với diều kiện duy nhất
là đảm bảo chất lượng hàng hoá..
Việt Nam là thành viên của ASEAN, APEC, các khối kinh tế này có mối quan hệ rộng và
từ lâu với EU, và thông qua hợp tác hữu nghị á - Âu (ASEM) mà Việt Nam với tư cách là
thành viên sáng lập sẽ có những mối quan hệ hợp tác chặt chẽ hơn giữa ASEAN và EU với
mục tiêu hàng đầu là tăng cường thương mại và đầu tư giữa hai khu vực. Điều đó có nghĩa là
Việt Nam sẽ có thêm điều kiện mở rộng hợp tác nhiều mặt trong nhiều lĩnh vực với EU.
EU cũng muốn tăng cường sự có mặt để cũng cố quan hệ cạnh tranh ba phía với Mỹ Châu Âu - Nhật Bản ở khu vực đầy năng động này. trong buôn bán thế giới, các nước trong
khối ASEAN cũng muốn có EU như một đối trọng với Mỹ ở một số lĩnh vực.
- Phía Việt Nam: Việt Nam coi trọng thúc đẩy quan hệ hợp tác về kinh tế thương mại
với EU.
18


Đặc biệt, Liên minh châu Âu ngày càng mở rộng hơn ra bên ngoài sẽ là một thị trường có
số dân 545 triệu dân, sản xuất hơn 20% lượng hàng hoá và dịch vụ thế giới và trở thành thị
trường lớn trên thế giới..
Đồng thời EU cũng là đối tác luôn ủng hộ Việt Nam gia nhập vào các tổ chức thương mại
thế giới WTO. Do đó EU sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hoá Việt Nam như tăng khả
năng cạnh tranh so với các đối thủ khác.

Quan hệ hợp tác về kinh tế thương mại gữa Việt Nam - EU trong tương lai sẽ tạo ra cân
bằng trong quan hệ buôn bán với các cường quốc lớn như Mỹ, Nhật Bản và các nước trong
khu vực như: Trung Quốc, NICs, ASEAN.
Trong tương lai với sự trợ giúp tích cực từ phía EU và bản thân từng thành viên của EU
sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam tiếp xúc với khoa học công nghệ đứng thứ hai sau Mỹ..
Vì là một thị trường khó tính, yêu cầu chất lượng cao đảm bảo một số tiêu chuẩn quốc tế
như mã vạch, bao bì, an toàn.. Đương nhiên khi hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam đảm bảo
tốt tiêu chuẩn này có nghiã là sẽ đứng vững trên thị trường cạnh tranh khốc liệt này. Do vậy
tương lai hàng hoá Việt Nam sẽ có khả năng xuất khẩu đựơc nhiều thị trường hơn.
. Những thách thức trong hợp tác thương mại giữa Việt Nam - EU.
Luật pháp chính sách quản lý kinh tế - thương mại của Việt Nam chưa hoàn chỉnh.
Luật pháp chính sách là công cụ quan trọng để đảm bảo hội nhập thành công, kinh tế phát
triển.
Các hoạt động hợp tác kinh tế đang diễn ra theo thể chế kinh tế thị trường, theo xu thế tích
cực tự do hoá, theo "luật chơi" của các thể chế kinh tế quốc tế và khu vực. Nhưng hệ thống
đồng bộ gây khó khăn cho chúng ta khi đáp các cam kết của các tổ chức kinh tế quốc tế.
Việc hoàn chỉnh luật pháp chính sách của ta phù hợp với thông lệ quốc tế và những
nguyên tắc và các tổ chức mà nước mình tham gia, vừa phù hợp với đặc thù của nước ta, đặc
biệt là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu. Các doanh nghiệp còn yếu
cả về sản xuất và quản lý. Doanh nghiệp nước ta hầu hết là quy mô nhỏ yếu kém cả về hai mặt
quản lý và công nghệ, lại hình thành và hoạt động quá lâu trong cơ chế bao cấp..
Khả năng tiếp thị và trình độ Marketing của các doanh nghiệp trên trường quốc tế còn
yếu. Cụ thể là khi thực hiện một dự án hợp tác thì phía các doanh nghiệp không muốn tham
gia tích cực vào phần hàng hoá và làm nhiệm vụ Marketing quốc tế.
Một hạn chế nữa mà các doanh nghiệp Việt Nam thường gặp phải đó là vấn đề vốn tài
chính, nguồn nguyên liệu và nguồn nhân lực có trình độ khoa học công nghệ cao ( tuy nhiên
19



đây không phải là vấn đề làm giảm tính hấp dẫn của các doanh nghiệp Việt Nam

2.2. Tình hình xuất nhập khẩu hàng hóa của các doanh nghiêp Việt Nam
2.2.1 Tình hình chung
Theo số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy tổng kim ngạch xuất nhập
khẩu hàng hoá của cả nước trong tháng 9/2011 đạt 17,39 tỷ USD, giảm 7,9% so với một tháng
trước đó và tăng tới 30,7% so với tháng 9/2010. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 7,94 tỷ
USD, giảm 14,1 % so với tháng 9/2011; nhập khẩu là 9,45 tỷ USD, tăng 2,1%. Nhập siêu
trong tháng là 1,5 tỷ USD, bằng 18,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước.
Biểu đồ 1: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu và cán cân thương mại
9 tháng 2011

20


Như vậy, trong 9 tháng đầu năm 2011 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước đạt
147,05 tỷ USD, tăng 31% so với cùng kỳ năm trước. Trị giá hàng hoá xuất khẩu đạt 69,73 tỷ
USD, tăng 34,9% và nhập khẩu là 77,32 tỷ USD, tăng 27,7%. Cán cân thương mại hàng hóa
trong 9 tháng đầu năm thâm hụt 7,59 tỷ USD, bằng 10,9% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả
nước.
Tính đến hết tháng 9/ 2011, tổng trị giá xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài (FDI) là 67,03 tỷ USD, tăng 33,2% so với kết quả thực hiện của cùng kỳ năm
trước. Xuất khẩu của khối doanh nghiệp này là 32,78 tỷ USD, tăng 36,4% so với cùng kỳ năm
2010 và chiếm 47,0% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; ở chiều ngược lại tổng trị giá
nhập khẩu của các doanh nghiệp này là 34,24 tỷ USD, tăng 30,3% và chiếm 44,3% tổng kim
ngạch nhập khẩu của cả nước 9 tháng 2011.
Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của các doanh nghiệp FDI là nhóm hàng công nghiệp chế
biến, trong khi xuất khẩu của doanh nghiệp trong nước tập trung vào nhóm hàng nông sản và
khoáng sản. Đây cũng là ưu thế của các doanh nghiệp FDI. Kim ngạch xuất khẩu hàng công
nghiệp chế biến của các doanh nghiệp này ngày càng gia tăng và chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều

so với các doanh nghiệp trong nước.
2.2.2 Tình hình xuất khẩu giày dép Việt Nam
Việt Nam được xếp hạng là một trong 10 nước xuất khẩu hàng đầu trên thị trường quốc tế
hiện nay về da giày, riêng ở thị trường EU, Việt Nam xếp thứ hai sau Trung Quốc. Kim ngạch
xuất khẩu của ngành da giày Việt Nam có mức tăng trưởng trung bình hàng năm 16%, đạt mức
3,96 tỉ USD năm 2007, đứng thứ 3 sau ngành dệt may và dầu khí. Kim ngạch xuất khẩu giày
dép các loại trong tháng 4/2008 ước đạt 330 triệu USD, tăng 5,4% so với tháng trước và tăng
17% so với cùng kỳ năm 2007. Tổng kim ngạch xuất khẩu da giày các loại trong 4 tháng năm
2008 ước đạt 1,356 tỉ USD, tăng 15,7% so với cùng kỳ năm 2007. Dự báo đến năm 2010, kim
ngạch xuất khẩu các sản phẩm ngành da giày Việt Nam sẽ đạt 6,2 tỉ USD.
2.3. Hoạt dông xuất khẩu giày dép sang thị trường EU thời gian gần đây
2.3.1 Tình hình hoạt động xuất khẩu giay dép của một số doanh nghiệp Việt Nam
2.3.1.1 Nghiên cứu thị trường
Môi trường Kinh tế
Thị trường Liên minh Châu Âu (EU) có 27 thành viên với 4 triệu km2 và 456 triệu dân
có thu nhập cao GDP gần 11.000 tỷ USD chiếm 27% GDP thế giới. Tổng ngạch ngoại thương
gần 1.400 tỷ USD chiếm gần 20% thương mại toàn cầu. Nếu tính cả mậu dịch nội khối thì
21


tổng ngạch mậu dịch là 3.092 tỷ chiếm 41.4% thị phần thế giới. EU đứng đầu thế giới về xuất
khẩu dịch vụ chiếm 43,8% thị phầm thế giới gấp 2,5 lần Mỹ và chiếm 42,7 nhập khẩu dịch vụ
thế giới. Đầu tư ra nước ngoài chiếm 47% FDI toàn cầu và nhận 20% đàu tư từ bên ngoài.
EU là hình thức hội nhập khu vực ở trình độ cao với nhiều triển vọng tốt đẹp cho các nư ớc
thành viên và cho toàn Châu Âu, đang phát triển sâu rộng trên tất cả các lĩnh vực phấn đấu trở
thành khu vực phát triển nhất hành tinh, đủ sức đối phó với các thách thức toàn cầu trong thế
kỷ 21, có lợi cho xu thế hoà bình và hợp tác phát triển toàn cầu....
Môi trường chính trị
Vị thế chính trị, tiềm lực kinh tế, thương mại, tài chính, khả năng phòng thủ của EU
không ngừng tăng sau mỗi lần mở rộng, đặc biệt mở rộng lần thứ năm thêm 10 thành viên và

lần thứ 6 thêm 2 thành viên mới ở Đông và Nam Âu. Việc này đặt ra cho tất cả các thành viên
EU, châu Âu và thế giới rất nhiều vấn đề cần được nghiên cứu xử lý, không chỉ kinh tế thương
mại.
Hiến pháp mới của EU được soạn thảo theo hướng minh bạch hơn, dân chủ hơn và hiệu
quả hơn đang đứng trước nguy cơ sụp đổ do các bất đồng về quyền lực giữa nước lớn và nhỏ,
giữa chính phủ quốc gia thành viên và bộ máy hành pháp của khối, giữa thành viên cũ và mới
về khoảng cách phát triển, về nhập cư, lao động, an sinh xã hội, thâm hụt ngân sách, chính
sách đối ngoại, an ninh phòng thủ chung...
Đồng tiền chung châu Âu (Euro) sau 21 năm chuẩn bị đã được lưu hành tại 12 nước
thành viên từ 1/ 1/ 2002, kết thúc quá trình nhất thể hoá về tiền tệ, một sự kiện quan trọng thứ
2 sau việc Mỹ quyết định chấm dứt đổi USD ra vàng, làm cho vị thế của USD bị hạ thấp.
Thị trường giày dép
EU không phải là một thị trường đồng đều.mặc dù giữa một số các nước thành viên có
những nét tương đồng, song trong một số trường hợp những khác biệt sẽ vượt trội những điểm
tương đồng.Bởi thế doanh nghiệp nên chú trọng vào một nước, cần phải nắm rõ những điểm
khác biệt quan trọng giữa các nước. Ví dụ, miền Bắc Italia rất khác biệt so với miền Nam, và ở
Đức vẫn có sự khác biệt giữa Đông Đức và Tây Đức. Khí hậu miền Bắc và miền Nam EU
hoàn toàn trái ngược. Yếu tố này có tác động quan trọng đến các kiểu mẫu giày dép mà doanh
nghiệp dự định sẽ xuất sang các thị trường này.
Mặc dù nhiều người cho rằng EU sẽ không phát triển nhanh như các nền kinh tế mới nổi,
nhưng trong những năm tới đây thị trường EU vẫn là thị trường hứa hẹn cho các loại giầy dép
có giá trị cao. Cụ thể như sau:

22


+ Thuận tiện là yêu cầu chủ yếu của nhóm người tiêu dùng có tuổi. Đối với các loại sử
dụng hàng ngày, đó có thể là sử dụng da mềm, vừa chân, ấm, vải chống ẩm, không bị hấp hơi,
đế giầy bằng cao su... Đối với các loại giầy dép đi vào buổi tối, các nhà thiết kế nên chú trọng
hơn vào sự thuận tiện bằng việc đưa ra những loại gót giầy cao nhưng vẫn giúp người sử dụng

đi lại dễ dàng.
+ Thiết kế, ngày càng đóng vai trò quan trọng nhất là đối với người lớn tuổi. Đặc biệt tại
Ý, Pháp và Tây Ban Nha, hình dáng của giầy dép nên có hình tròn, thiết kế tao nhã và nữ tính.
Các loại giầy đế mềm và giầy dép đi bộ nên thiết kế thể thao hoặc trông bề ngoài vững chắc
với hình dáng thanh lịch.
+ Công nghệ: với sự phát triển công nghệ trong sản xuất giầy dép, xu hướng sử dụng pha
trộn các chất liệu khác nhau trở nên khá phổ biến. Chẳng hạn MBT một thương hiệu mới đã
thiết kế những mẫu mã mới khá đẹp mắt nhờ kết hợp các chất liệu như da, vật liệu cao cấp
Gore-Tex, da nubuck và vải bạt (). Với sự hỗ trợ của máy vi tính, các mẫu
thiết kế mới sẽ tiếp tục đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng.
+ Các phân đoạn ngách chẳng hạn các loại để đi vào buổi tối, các loại tái sử dụng, các loại
mang tính đạo đức (ví dụ thương hiệu mới TOMS- ), các loại dành
đi trên đường phố hoặc các loại giầy ngoại cỡ hoặc mẫu mã cực kỳ khác lạ.
+ Phương tiện truyền thông đưa tin về phong cách sống và phong cách thời trang của
những người nổi tiếng ví dụ giầy dép họ sử dụng trong những sự kiện đặc biệt (khi đi làm, đi
chơi, dự tiệc, ngày nghỉ...). TV và Internet (blogs) là hai phương tiện truyền thống thông dụng
nhất khiến người tiêu dùng tìm hiểu những thông tin trên và ăn mặc theo đúng phong cách
thần tượng của họ.
2.3.1.2 Xác định nhu cầu
Sau cuôc khủng hoảng kinh tế, nền kinh tế thế giới đang dần ổn định trở lại và có
xu hướng bị chi phối bởi các nền kinh tế đang nổi lớn cũng như nhu cầu tiêu dùng các mặt
hàng xa xỉ tại các thị trường này. Theo điều tra khảo sát của Bain & Company, tốc độ tiêu
dùng thế giới năm 2011 sẽ tiếp tục tăng 2,4%/năm và đạt 173 triệu euro. Gia tăng về giá trị vẫn
thuộc về ngành giầy dép thời trang trong đó phân đoạn hàng tốt tăng 3% và phân đoạn hàng xa
xỉ tăng 6%. Các quốc gia thuộc châu Á, Trung Đông, Brazil, Nga và Đông Âu sẽ là những khu
vực phát triển nhanh, và thậm chí có thể đuổi kịp tốc độ phát triển của các nước phương Tây.
Năm 2008, doanh thu giầy dép tại EU giảm do người tiêu dùng không còn dư dả để có thể
23



thay đổi hết mẫu này đến mẫu kia kể cả những mẫu giầy dép giá rẻ nhập khẩu từ châu Á như
các nhà kinh doanh bán lẻ mong muốn. Người tiêu dùng tại 15 nước EU giờ chỉ thích mua
những loại giầy dép có chất lượng, thời trang, có giá trị sử dụng lâu và phù hợp với phong
cách cá nhân của họ.
Năm 2009, khi mà tỷ lệ thất nghiệp đang có xu hướng tăng thì triển vọng của thị trường
giầy dép EU cũng trở nên rất "bấp bênh". Thu nhập sau thuế của người tiêu dùng tại hầu hết
các nước giảm khiến cho họ trở nên rất khó tính về giá cả hoặc thậm chí có người mang giầy
cũ đi sửa để dùng tiếp. Người tiêu dùng chỉ sử dụng đồng tiền vào những mặt hàng thiết yếu
nhất và khi thật cần thiết. Đặc biệt là tại Bỉ và Pháp, họ chỉ mua sắm khi đúng vào mùa
"sales".
Sau nhiều năm giảm mạnh, giá giầy dép cũng bắt đầu tăng nhưng với tốc độ chậm. Ủy ban
châu Âu (EC) trong tháng 10 tới sẽ đề xuất gia hạn thuế chống bán giá đối với giầy nhập khẩu
từ Trung Quốc thêm 2 năm, thay vì 5 năm như kế hoạch ban đầu. Ngoài ra, giá tăng cũng một
phần là do tỷ giá hối đoái của đồng đô la Mỹ và đồng bảng Anh giảm so với đồng euro. Điều
này sẽ tác động tới lượng tiêu thụ và gây ra tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các nhà bán lẻ
trong phân đoạn giầy dép giá rẻ và trung bình.
Nhìn về mặt tích cực, tầng lớp trung lưu mới nổi, những người có thu nhập sau thuế cao
tại các nước Đông Âu đang là mục tiêu hứa hẹn nhiều cơ hội cho các nhà kinh doanh giầy dép.
Khá nhiều trung tâm giầy dép mọc lên tại đây. Tuy nhiên, cũng phải nói rằng một số quốc gia
Đông Âu cũng phải chịu những "cú hích" khá mạnh từ cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
nhất là những quốc gia có đồng tiền yếu.
2.3.1.3 Kí kết hợp đồng
Hiệp hội Da giày VN (Lefaso) cho biết hiện các doanh nghiệp đã có đơn hàng ổn định đến
hết quý 3 và đạt được một số thỏa thuận cho hợp đồng trong quý 4. So với năm ngoái, lượng
đơn đặt hàng tăng khoảng 20% do nhu cầu đặt hàng từ các nhà nhập khẩu tăng mạnh, trong đó
giá đơn hàng tăng 7-10%. Tuy nhiên, hiện nay nguồn nhân công liên tục biến động khiến
nhiều doanh nghiệp phải từ chối bớt đơn đặt hàng nhằm giảm thiểu rủi ro.
2.3.1.4 Tạo nguồn hàng
Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải nhìn nhận thực tế rằng năng lực xuất khẩu của ngành da giày
Việt Nam trên thị trường xuất khẩu thế giới còn yếu do thiếu khả năng tự thiết kế mẫu mã, tự

đảm bảo vật tư nguyên liệu trong nước, quy mô sản xuất chưa đủ lớn, điều kiện kinh tế và hạ
tầng dịch vụ của Việt Nam còn nhiều hạn chế, giá thành chi phí sản xuất cao, ưu thế về nhân
24


công lao động tuy vẫn là nhân tố cạnh tranh, nhưng không còn thuận lợi như trước đây. Theo
nhận định của các chuyên gia kinh tế thì dù có đến 90% sản lượng xuất khẩu, nhưng lợi nhuận
thu về từ ngành này chỉ đạt mức 25% giá trị gia tăng, vì ngành này chủ yếu vẫn “bán” sức lao
động là chính.
Năng lực sản xuất của ngành chủ yếu tại các cơ sở ngoài quốc doanh và có yếu tố nước
ngoài, chiếm trên 90% năng lực của cả ngành, chứng tỏ năng lực ngành phụ thuộc hoàn toàn
vào làn sóng đầu tư của tư bản tư nhân trong nước và quốc tế.
Tuy có lợi thế giá nhân công rẻ, nguồn cung ứng lao động dồi dào do dân số trẻ, nhưng
năng suất lao động của người Việt Nam rất thấp, trung bình trên 1 dây chuyền 450 lao động
đạt mức sản lượng 500.000 đôi/năm, chỉ bằng 1/35 năng suất lao động của người Nhật, 1/30
của Thái Lan, 1/20 của Malaysia và 1/10 của Indonesia.
Nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành Da – Giầy
- Tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành giai đoạn 2011-2015 là 28.340 tỷ đồng. Trong đó:
+ Huy động trong nước : 12.340 tỉ đồng, chiếm 44%;
+ Kêu gọi đầu tư nước ngoài: 835 triệu USD, chiếm 56%.
- Tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành giai đoạn 2016-2020 là 31.230 tỷ đồng. Trong đó:
+ Huy động trong nước: 13.124 tỷ đồng, chiếm 42% tổng vốn đầu tư;
+ Kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài: 944 triệu USD, chiếm 58% tổng vốn đầu tư.
- Tổng nhu cầu vốn đầu tư toàn ngành giai đoạn 2011-2020 là 59.570 tỷ đồng. Trong đó:
+ Huy động trong nước: 43%
+ Kêu gọi đầu tư nước ngoài: 57%.
Nguồn : Quyết định số 6209/QD9-BCT của Bộ công thương
2.3.2. Kim ngạch xuất khẩu sang EU
Giày dép các loại: Kim ngạch xuất khẩu trong tháng đạt 437 triệu USD, giảm 24,8% so
với tháng 8/2011, qua đó nâng tổng trị giá xuất khẩu nhóm hàng giày dép trong 9 tháng lên

hơn 4,65 tỷ USD, tăng 27,8% so với cùng kỳ năm 2010.
Các đối tác chính nhập khẩu mặt hàng này của Việt Nam là: EU: 1,83 tỷ USD, tăng 14,6%
và chiếm 39,4% kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng này của cả nước,tiếp theo là Hoa Kỳ đạt
1,39 tỷ USD, tăng 36,6%; Nhật Bản: 187 triệu USD, tăng 43,1%; Trung Quốc đạt 171 triệu
USD, tăng 64% so với cùng kỳ năm 2010
STT
1.
2.

Tên nước
CH Ai Len
Anh

9 tháng đầu năm 2011
49.328.619
364.585.451
25


×