Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

CHUYÊN đề LUYỆN THI đại học tác PHẨM RỪNG xà NU (nguyễn trung thành) NHỮNG đứa CON TRONG GIA ĐÌNH (nguyễn thi)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (340.11 KB, 38 trang )

CHUYÊN ĐỀ LUYỆN THI ĐẠI HỌC
TÁC PHẨM: RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)
NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi)
A. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU
1. Nội dung
- Nắm vững kiến thức cơ bản về các tác giả Nguyễn Trung Thành và Nguyễn Thi.
- Nắm vững và phân tích giá trị nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm
- Nâng cao và so sánh một số khía cạnh, phương diện giữa hai tác phẩm.
2. Kĩ năng
Ơn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề:
- Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm
- Phân tích nhân vật trong tác phẩm
- Phân tích một khía cạnh nội dung hoặc nghệ thuật của tác phẩm
- Kiểu bài so sánh
3. Phương pháp
- Tổ chức ôn luyện cho học sinh
- Hướng dẫn học sinh tìm hiểu đề, phân tích đề, lập dàn ý
- Yêu cầu học sinh thực hành viết bài và giáo viên nhận xét, sửa lỗi và trả bài cho học
sinh.
4. Đối tượng học sinh
- Học sinh lớp 12 học chuyên đề khối C
5. Dự kiến số tiết dạy: 18 tiết
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I. RỪNG XÀ NU (Nguyễn Trung Thành)
1. Dạng câu hỏi 2 điểm:
Câu 1: Nêu những điểm cơ bản về nhà văn Nguyễn Trung Thành và hoàn cảnh ra
đời của truyện ngắn “Rừng xà nu”.
- Những điểm cơ bản về nhà văn Nguyễn Trung Thành
+ Tên khai sinh của Nguyễn Trung Thành (Nguyên Ngọc) là Nguyễn Ngọc Báu. Ơng
sinh năm 1932, q ở Thăng Bình, Quảng Nam.
+ Nguyễn Trung Thành là bút danh đợc nhà văn Nguyên Ngọc dùng trong thời gian


hoạt động ở chiến trường miền Nam thời chống Mĩ.
+ Năm 1950, ông vào bộ đội, sau đó làm phóng viên báo quân đội nhân dân liên khu V.
Năm 1962, ơng tình nguyện trở về chiến trường miền Nam.
+ Tác phẩm: Đất nước đứng lên- giải nhất, giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam năm
1954- 1955; Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc (1969); Đất Quảng (19711974);…
1


+ Năm 2000, ông được tặng giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật.
- Rừng xà nu (1965) ra mắt lần đầu tiên trên Tạp chí văn nghệ quân giải phóng miền
Trung Trung bộ (số 2- 1965), sau đó đợc in trong tập Trên quê hương những anh hùng
Điện Ngọc.
- Hoàn cảnh ra đời của truyện ngắn “Rừng xà nu”.
+ Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ đợc kí kết, đất nước chia làm
hai miền. Kẻ thù phá hoại hiệp định, khủng bố, thảm sát, lê máy chém đi khắp miền Nam.
Cách mạng rơi vào thời kì đen tối.
+ Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền
Bắc. Nguyễn Trung Thành và các nhà văn miền Nam lúc đó muốn viết "hịch thời đánh
Mĩ". Rừng xà nu đợc viết vào đúng thời điểm mà cả nớc ta trong khơng khí sục sơi đánh
Mĩ. Tác phẩm đợc hoàn thành ở khu căn cứ của chiến trờng miền Trung Trung bộ.
+ Mặc dù Rừng xà nu viết về sự kiện nổi dậy của buôn làng Tây Nguyên trong thời kì
đồng khởi trước 1960 nhng chủ đề tư tưởng của tác phẩm vẫn có quan hệ mật thiết với
tình hình thời sự của cuộc kháng chiến lúc tác phẩm ra đời.
Câu 2: Tóm tắt cốt truyện “Rừng xà nu”của Nguyễn Trung Thành và phát biểu
chủ đề tác phẩm.
- Tóm tắt cốt truyện: Truyện kể về một làng ở Tây Nguyên-làng Xô Man- nằm giữa
cánh rừng xà nu bạt ngàn, đang từng ngày hứng chịu những trận đại bác của đồn giặc. Sau
ba năm tham gia lực lượng Giải phóng quân, Tnú trở về thăm làng. Thằng bé Heng dẫn
đường cho Tnú vì đường vào làng nay đã bố phịng nghiêm ngặt: hầm chơng, hố chơng,
dàn thị chằng chịt….Đêm đó, Tnú ăn cơm và ở lại nhà cụ Mết. Cả làng tụ họp, Dít kiểm

tra giấy phép xong, cụ Mết tự hào kể lại cho mọi người nghe trang sử đấu tranh của làng,
trang sử đó gắn bó với cuộc đời Tnú. Hồi ấy, Mỹ Diệm khủng bố dữ dội, nhưng làng vẫn
bí mật ni giấu cán bộ (anh Quyết). Tnú và Mai được giao làm liên lạc cho anh Quyết,
rồi được anh Quyết dạy chữ. Một lần, trong chuyến đưa thư của anh Quyết lên huyện,
Tnú bị địch phục bắt, bị tra tấn nhưng anh không khai. Ở tù ba năm, Tnú vượt ngục, trở
về làng thay anh Quyết lãnh đạo bn làng tích cực chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa và kết
hôn cùng Mai. Tin làng Xô Man chuẩn bị vũ khí chờ thời cơ nổi dậy đến tai giặc. Thằng
Dục đưa lính đến lùng sục vây ráp. Cụ Mết, Tnú cùng thanh niên lánh vào rừng. Không
bắt được Tnú, bọn giặc bắt Mai cùng với đứa con nhỏ chưa đầy tháng đánh đập dã man.
Từ vị trí ẩn nấp, Tnú chứng kiến cảnh vợ con bị giặc hành hạ. Sôi sục căm thù, Tnú nhảy
xổ vào cứu vợ nhưng rồi Mai và đứa con đã chết, anh cũng bị bắt. Bọn giặc tẩm nhựa Xà
nu đốt mười đầu ngón tay anh trước mặt dân làng. Hình ảnh cây xà nu có sự tiếp nối
mạnh mẽ. Tnú kiên cường chịu đựng quyết khơng kêu la. Có tiếng động chung quanh,
Tnú thét lên một tiếng, dân làng đồng thanh, nhất tề nổi dậy, thằng Dục và tiểu đội ác ôn
đã bị cụ Mết và thanh niên diệt gọn. Làng Xơ Man đồng khởi thắng lợi. Tnú gia nhập Giải
phóng quân. Anh dũng cảm lập chiến công, được cấp chỉ huy cho về phép thăm làng một
đêm. Sáng hôm sau, Cụ Mết, Dít tiễn anh lên đường . Họ chia tay nhau ở đồi xà nu, cạnh
con nước lớn.
2


- Chủ đề: Ngợi ca tinh thần bất khuất, sức mạnh quật khởi của đồng bào các dân tộc Tây
Nguyên nói riêng, đất nước và con người Việt Nam nói chung trong cuộc đấu tranh giải
phóng dân tộc và khẳng định chân lí của thời đại: để giữ gìn sự sống của đất nước và nhân
dân, khơng có cách nào khác là phải cùng nhau đứng lên cầm vũ khí chống lại kẻ thù
Câu 3: Ý nghĩa nhan đề của tác phẩm?
1. Vai trò và ý nghĩa của nhan đề: cách đặt nhan đề là vấn đề hết sức quan trọng đối với
nhà văn. Nhan đề ghi dấu linh hồn của tác phẩm và tư tưởng của tác giả. Với bạn đọc
nhan đề được ví như chiếc chìa khóa để dẫn người đọc bước vào khám phá lâu đài nghệ
thuật văn chương

2. Đọc Rừng xà nu ta thấy nhà văn có thể đặt tên cho tác phẩm là “Làng Xơ-man” hay
“Tnú”- nhân vật chính của truyện. Đó là cách làm thường thấy như Nam Cao đặt tên tác
phẩm là Chí Phèo, Lão Hạc. Nhưng nếu như vậy truyện sẽ mất đi tính khái quát và gợi
mở, điều cốt yếu đối với một tác phẩm văn học. Vì thế nhà văn đặt tên cho tác phẩm là
RXN với ý nghĩa sâu xa
3. Ý nghĩa nhan đề RXN
- Nhà văn đặt cho tác phẩm là RXN trước hết là hình ảnh gắn bó mật thiết với những kỷ
niệm sâu sắc trong đời viết văn đời lính của NTT, cây xà nu để lại trong lịng nhà văn tình
u mãnh liệt
- “Rừng xà nu” gợi khí vị khó qn của núi rừng Tây Nguyên, sức sống bất diệt của cây
xà nu và tinh thần bất khuất của con người.
Như vậy, nhan đề “Rừng xà nu” vừa mang ý nghĩa thực (những đặc điểm và sức sống bất
diệt của loài cây xà nu) vừa mang ý nghĩa tượng trưng (con người làng Xô Man kiên
cường, bất khuất). Hai ý nghĩa này hòa quyện vừa làm nổi bật hình tượng sinh động của
cây xà nu vừa đưa lại khơng khí Tây ngun đậm đà cho tác phẩm.
- Nhan đề Rừng xà nu còn gợi lên chủ đề tác phẩm cũng như cảm hứng sử thị, bi tráng
của thiên truyện ngắn đặc sắc này.
Đặt tên cho tác phẩm là Rừng xà nu dường như đã chứa đựng được cảm xúc của nhà văn
và linh hồn , tư tưởng chủ đề tác phẩm.
Hơn nữa, Rừng xà nu cịn ẩn chứa cái khí vị khó qn của đất rừng Tây Nguyên, gợi lên
vẻ đẹp hùng tráng, man dại- một sức sống bất diệt của cây xà nu và tinh thần bất khuất
của con người Tây Nguyên.Bởi vậy, Rừng xà nu mang nhiều tầng nghĩa bao gồm cả ý
nghĩa tả thực lẫn ý nghĩa tượng trưng.
Câu 4: Tính sử thi trong truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyễn Trung Thành
được thể hiện ở những khía cạnh nào?
- Khuynh hướng sử thi thể hiện đậm nét ở tất cả các phương diện: đề tài, chủ đề, hình tượng, hệ thống nhân vật, giọng điệu,…
+ Đề tài – chủ đề : Rừng xà nu không chỉ kể về số phận, con đường giải phóng của dân
làng Xơ man, khơng chỉ là vấn đề sinh tử của 1 ngôi làng ở Tây Nguyên mà còn là của cả
dân tộc VN.
3



+ Hình tượng nhân vật : những nhân vật trong tác phẩm : cụ Mết, Tnu, Mai, Dít đều là
những cá nhân anh hùng kết tinh cao độ vẻ đẹp và phẩm chất của cả cộng đồng các dân
tộc Tây Nguyên, thậm chí của con người Việt Nam trong chiến đấu : yêu nước, yêu đồng
bào, căm thù giặc sâu sắc, gan dạ, dũng cảm, kiên cường, căm thù giặc sâu sắc
+ Cách thức trần thuật: kể Tnú theo hồi tưởng qua lời kể của cụ Mết (già làng), kể bên
bếp lửa gợi nhớ lối kể " khan" sử thi của các dân tộc Tây Nguyên, những bài "khan" được
kể như những bài hát dài hát suốt đêm.
+ Giọng điệu : trang trọng, hùng hồn, uy nghiêm như muốn truyền lại cho con cháu mai
sau những trang sử vẻ vang của cộng đồng
+ Bức tranh thiên nhiên : Hình ảnh rừng xà nu
+ Ngôn ngữ : mang sắc thái trang trọng, ngợi ca.
Câu 5: Ý nghĩa biểu tượng hình ảnh những ngọn đồi, cánh rừng xà nu trải hút tầm
mắt, chạy tít tắp đến tận chân trời ln trở đi trở lại trong tác phẩm ?
- RXN với kết cấu đầu cuối tương ứng bắt đầu và kết thúc bằng hình ảnh những đồi xà nu,
RXN nối tiếp tít tắp đến tận chân trời thể hiện niềm tin vào sức sống của con người Xô
man con người VN như 1 dòng chảy bất diệt. Kết thúc và mở đầu này tạo nên 1 dư âm
không dứt mở ra 1 tương lai tự do và chiến thắng.
- Kết cấu này mở ra một không gian rộng lớn gợi lên ý nghĩa : sức mạnh quật cường của
con người khơng chỉ bó hẹp ở làng Xơ man mà cịn mở ra cả thiên nhiên, cả dân tộc Việt
Nam
- Gợi cho người đọc suy nghĩ câu chuyện chưa kết thúc. Đây chỉ là 1 chương, 1 bản bản
anh hùng ca bất tận của thiên nhiên. Kỳ tích anh hùng của Tnu là sự tiếp tục của những gì
Đăm Săn, Xinh Nhã đã làm thuở xưa và hứa hẹn sẽ được viết tiếp bởi những người anh
hùng của thế hệ mới
Câu 6. Ý nghĩa câu nói của cụ già Mết:
“Nghe rõ chưa, các con, rõ chưa. Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay cịn
sống phải nói lại cho con cháu: chúng nó đã cầm súng mình phải cầm giáo !”
Ý nghĩa của câu nói:

Phải cầm vũ khí của mình khi kẻ thù đã cầm vũ khí
Phải sử dụng bạo lực của chính nghĩa để đáp lại bạo lực phi nghĩa của qn thù.
- Câu nói nêu lên một chân lí: có áp bức thì có đấu tranh muốn chống lại bạo lực phản
cách mạng phải dùng bạo lực cách mạng, vũ trang nhân dân là con đường tất yếu để đấu
tranh giải phóng
- Lời cụ Mết đã trở thành di huấn của thế hệ trước đối với thế hệ sau. Câu nói bộc lộ lịng
u nước, tinh thần cách mạng ý chí quyết chiến quyết thắng kẻ thù.
Câu 7: Theo anh (chị), hình ảnh cánh rừng xà nu và hình tượng nhân vật Tnú gắn
kết hữu cơ, khăng khít với nhau như thế nào ?
4


- Hai hình tượng ấy khơng tách rời mà gắn bó khăng khít với nhau, bổ sung cho nhau để
cùng trở nên hồn chỉnh. RXN khơng thể trải mãi tới chân trời trong màu xanh bất diệt,
khi con người còn chưa thấm thía bài học: chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo rút ra
từ cuộc đời Tnú
- Mặt khác, nếu con người có phải như Tnú, cầm vũ khí đứng lên, thì mục đích sau cùng
của việc làm đó cũng không phải là hủy diệt, mà để giữ cho sự sống như cánh rừng kia
mãi mãi sinh sơi
- Nói cách khác sự sống của TQ của nhân dân, đó là mục đích; cịn cầm vũ khí đứng lên
đó là con đường duy nhất vào lúc bấy giờ có thể giúp chúng ta đạt được mục đích cao đẹp
ấy.
Câu 8 : Chi tiết đơi bàn tay Tnú.
- Hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh – Bàn tay ấy cũng có một
cuộc đời:
+Khi cịn lành: Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cẩm phấn viết chữ
anh Quyết dạy cho, từng cầm đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà
nói “Cộng sản ở đây này”, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thoát ngục
trở về ....
+ Bàn tay khi bị đốt cháy: Đó cịn là bàn tay của đau thương và thù hận, bàn tay

trừng phạt : Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay thành chứng tích của tơi ác và lòng
hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay quả báo (mười ngọn đuốc từ ngón
tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân làng Xơ Man; bàn tay chỉ cịn hai
đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng lên đường trả hận. Đến cuối truyện, hình ảnh bàn
tay Tnú đã bóp chết tên chỉ huy đồn giặc ngay trong hầm ngầm cố thủ của nó.
- Qua hình ảnh bàn tay Tnú,nhà văn bày tỏ niềm thương cảm xót xa với nỗi mất mát đau
thương của nhân dân miền Nam,ngợi ca sức sống kiên cường bất khuất của dân tộc.Từ đó
nhà văn khẳng định chân lý về con đường giải phóng dân tộc.
- Xây dựng nhân vật Tnú, tác giả tập trung miêu tả hình ảnh đơi bàn tay. Bàn tay như
một chi tiết nghệ thuật thể hiện tính cách, qua bàn tay có thể thấy được cuộc đời, số
phận và tính cách nhân vật.
2. Dạng câu hỏi 5 điểm:
Câu 1. Hình tượng cây xà nu trong truyện ngắn “Rừng xà nu”.
I. Mở bài
- Giới thiệu về tác giả - tác phẩm.
- Giới thiệu hình tượng cây xà nu.
II. Thân bài
1. Vị trí, vai trò của cây xà nu trong tác phẩm
- RXN được dùng để đặt tên cho tác phẩm xuất hiện ngay từ những dòng đầu trở đi trở lại
theo diễn biến của câu chuyện và kết thúc bằng hình ảnh đầy dư ba : cả ba người đứng ở
5


đấy nhìn ra xa. Đến hút tầm mắt cũng khơng thấy gì ngồi những rừng xà nu nối tiếp nhau
chạy đến chân trời
- RXN xuất hiện xuyên suốt tác phẩm được nhắc đến ngót 20 lần. Xà nu trở thành một
nhân vật tham dự vào cuộc sống sinh hoạt chứng kiến mọi tâm tình bước đường trưởng
thành của cách mạng Xô man. Xà nu bao trùm thiên truyện như một ám ảnh khơng dứt
được miêu tả dưới nhiều góc độ : cây xà nu, đồi xà nu, rừng xà nu, nhựa xà nu, khói xà
nu, lửa xà nu xơng bảng để Mai và Tnú học chữ, lũ trẻ mặt lem luốc khói xà nu....

- Có thể nói người Xơ man sinh ra dưới tán xà nu và lớn lên bên ánh lửa xà nu, xà nu trở
thành 1 phần đời thân thiết nhất của họ. Dưới góc nhìn của NTT hình tượng RXN khơng
chỉ có ý nghĩa tả thực về bức tranh thiên nhiên mà còn mang ý nghĩa biểu tượng để nói về
con người Xơ man Tây Ngun bất khuất, kiên cường
- Cây xà nu đã khơi nguồn cảm xúc để nhà văn sáng tạo như tác giả đã tâm sự: tơi chưa
hình dung câu truyện, cốt truyện nhưng tôi đã thấy rõ truyện ngắn này sẽ bắt đầu bằng
một khu rừng xà nu và kết thúc bằng một cánh rừng xà nu như 1 vĩ thanh cứ xa mờ dần
và bất tận
2. Ý nghĩa tả thực của cây xà nu:
a. Nguồn gốc : Cây xà nu hiện lên trong tác phẩm trước hết như một loài cây đặc thù, tiêu
biểu của miền đất Tây Nguyên : là một cây họ thơng nhựa và gỗ rất thơm, có sức sống
dẻo dai mạnh mẽ, thường mọc nhiều ở vùng rừng núi Tây Nguyên : ấy là một loại cây
hùng vĩ và cao thượng, mỗi cây cao vút vạm vỡ tán lá vừa thanh nhã vừa rắn rỏi
b. Đặc tính :
- Ham ánh sáng mặt trời : cả rừng xà nu hàng vạn cây phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh
nắng trong rừng từ trên cao rọi xuống từng luồng thẳng tắp. Vì ham ánh nắng mặt trời
ln vươn thẳng lên bầu trời đầy ánh nắng mà mỗi cây xà nu được gia tăng sức sống, nở
cành, xòe lá rồi tung ra những hạt bụi vàng từ nhựa cây lóng lánh thơm mỡ màng. Thật là
1 loại cây kì diệu cuốn hút lịng người
- Khả năng sinh sơi nảy nở mãnh liệt
+ RXN nằm trong tầm đại bác của giặc nên hàng vạn cây khơng có cây nào là khơng bị
thương. Có những cây bị đạn đại bác chặt ngang mình đổ ào ào như một trận bão nhưng
trong rừng ít có loại cây sinh sơi nảy nở khỏe như vậy. Cạnh một cây mới ngã gục có 4, 5
cây con mọc lên ngọn xanh rờn hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời.
- Cây xà nu gắn bó thân thiết với cuộc sống người dân Tây Nguyên trong sinh hoạt hàng
ngày, trong kí ức của người Xơ man, trong đấu tranh chống giặc; là lá chắn bảo vệ làng
Xô man trước đạn pháo giặc.
+ RXN tiềm tàng một khả năng sinh sôi mãnh liệt, dưới bom đạn của kẻ thù chúng vẫn
lớn lên hùng vĩ điệp điệp trùng trùng như 1 đội quân hùng mạnh trở thành tường đồng
vách sắt : cứ như thế 2, 3 năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra che chở cho

làng. Đây là lực lượng mạnh mẽ, vững vàng trực tiếp tham gia công cuộc kháng chiến :
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
- Sự tồn tại kì diệu
6


+ Dưới bom đạn của kẻ thù những cây còn non khơng chịu được vết thương trên mình
năm mười hơm sau thì cây chết.
+ Nhưng có những cây đã trưởng thành như những con chim đã đủ lông mao lông vũ
cành lá sum sê thì đạn đại bác khơng thể giết nổi chúng. Chúng vượt lên rất nhanh để thay
thế những cây đã ngã. Rõ ràng xà nu tiềm tàng một sức sống kì diệu mà bom đạn của kẻ
thù khơng thể hủy diệt nổi
c. Sự gắn bó của xà nu với dân làng Xô man
- Xà nu là người che chở, bảo vệ cho dân làng : cứ như thế 3 năm nay rừng xà nu ưỡn tấm
ngực lớn che chở cho làng
- Có mặt trong mọi đời sống sinh hoạt của con người : cây xà nu luôn có mặt trong mọi
cơng việc của dân làng : củi xà nu cháy hồng bếp lửa mỗi nhà, trong đống lửa nhà ưng,
đuốc xà nu cháy sáng soi rõ những con đường trong rừng đêm âm u, khói xà nu xông đen
tấm bảng để anh Quyết dạy chữ cho Tnú và Mai
- Xà nu chứng kiến những sự kiện quan trọng
+ Dưới gốc cây xà nu to Mai đã nắm lấy bàn tay Tnú ngày anh trốn ngục Công Tum trở
về vừa hổ thẹn vừa thương yêu để họ nên vợ nên chồng
+ Xà nu còn chứng kiến ngày Tnú đọc lá thư tuyệt mệnh của anh Quyết để mài sắc lịng
căm thù và ý chí chiến đấu của dân làng : đồng bào xã hội...tơi chết...người cịn sức phải
chuẩn bị giáo mác, rụ, rựa, tên, ná...sẽ có ngày dùng tới
+ Dưới ánh đuốc xà nu đêm đêm trai làng Xô man thức mài giáo chuẩn bị khởi nghĩa. Lửa
xà nu cịn thử thách ý chí của Tnú : khơng có gì đượm bằng nhựa xà nu ...mười đầu ngón
tay đã trở thành 10 ngọn đuốc
+ Cây xà nu còn chứng kiến ý chí quật khởi của dân làng Xơ man với lòng căm thù cao độ

họ đã nổi dậy cả rừng xà nu ào ào rung động lửa cháy khắp rừng, đống lửa xà nu lớn giữa
nhà soi rõ xác 10 tên lính giặc ngổn ngang
3. Ý nghĩa biểu tượng
a. Xà nu là nhân chứng của tội ác chiến tranh hủy diệt mang những đau thương vô
bờ mà nhân dân phải chịu đựng
- Xà nu mở đầu truyện ngắn 1 cách lực lưỡng bi hùng : làng ở trong tầm đại bác của đồn
giặc. Từ câu văn này RXN xuất hiện trong tư thế của sự sống còn, trong cuộc đối đầu với
cái chết với cơn bão táp của chiến tranh
- RXN hàng vạn cây không cây nào là khơng bị thương có những cây bị đạn đại bác chặt
đứt ngang nửa thân mình đổ ào ào như 1 trận bão, có những cây non nhựa cịn trong chất
dầu cịn lỗng đạn đại bác bắn vào khơng lành 5-10 hơm sau thì cây chết ở những chỗ vết
thương của xà nu dần bầm lại đặc quyện thành cục máu lớn
- Hình tượng RXN với những thương tích gợi ta nghĩ đến nỗi đau thương của nhân dân
Xô man cũng phải chịu với bao cảnh đầu rơi máu chảy khắp núi rừng Tây Nguyên đều in
dấu vết tội ác của kẻ thù. Chúng đi trong rừng như cọp beo, lưỡi lê dính máu. Chúng treo
cổ anh Sút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan cột tóc treo đầu súng. Khơng khí khủng
bố trùm lên núi rừng với tiếng cười sằng sặc giần giật của thằng Dục ác ôn, tiếng gậy sắt
nện xuống tấm thân nhỏ bé của mẹ con Mai. Nhựa xà nu đọng lại thành cục máu lớn đó
7


chính là máu của làng Xơ man đã đổ xuống...Từ cánh rừng xà nu đau thương NTT đã cho
người đọc thấy những thương tích của đất nước, quê hương trong chiến tranh nhắc ta nhớ
tới ý thơ xót xa khắc khoải trong Đất nước – NĐT
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
b. Xà nu tượng trưng cho khát vọng tự do, khát vọng hướng về ánh sáng cách mạng
của người Xô man
- Bản chất của xà nu là loài cây ham ánh sáng mặt trời. Cây xà nu với hình nhọn mũi tên
lao thẳng lên bầu trời nó phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong

rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng thẳng tắp. Hình ảnh này khơng chỉ đặc tả sức sống
mà còn đặc tả sức mạnh trỗi dậy vươn tới nắng trời và khao khát tự do của Xô man
- Dân làng Xô man cũng như xà nu với lòng khao khát và tin yêu cách mạng, vì yêu tự do
mà làm cách mạng. Cho nên mặc kẻ thù khủng bố nghe lời cụ Mết dạy : cán bộ là Đảng,
Đảng còn núi nước này còn. Trong những ngày đen tối ấy niềm tin với cách mạng là đuốc
sáng dẫn đường cho nhân dân Xô man đi về phía tự do và họ đã chọn con đường tất yếu
và tất thắng là con đường dùng bạo lực cách mạng để chống lại con đường phản cách
mạng : chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo
- Cây xà nu cây nào cũng có dáng đứng thẳng ngay ngắn, cứng cỏi trên đất cằn sỏi đá.
Người Xô man cũng vậy họ không chấp nhận cuộc đời nô lệ tăm tối họ hướng về tự do
với bản lĩnh kiên cường, bất khuất. Đây không chỉ là phẩm chất cao đẹp của người Xô
man mà là phẩm chất của con người Việt Nam như trong thi phẩm Tre Việt Nam, Nguyễn
Duy khẳng định :
Loài tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
c. Cây xà nu tượng trưng cho tinh thần yêu thương đoàn kết của người Xơ man
- Trong RXN có 3 thế hệ : cây cổ thụ, cây trưởng thành và cây non, những cây cổ thụ bảo
vệ che chở cho những cây trưởng thành và cây non. RXN đan vào nhau trở thành 1 lũy
thép khiến kẻ thù và đạn đại bác không thể hủy diệt được chúng
- Đồng bào Xô man cũng vậy đó là một cộng đồng ln có sự đồn kết nhất trí yêu
thương nhau. Khi quân giặc kéo về đàn áp cả làng không ai khai chỗ ẩn nấp của cán bộ
cách mạng, không ai khai chỗ trú ẩn của cụ Mết, Tnú và đám thanh niên. Dưới mái nhà
ưng hội tụ sức mạnh của cả bn làng họ đồn kết vùng lên giết chết 10 tên giặc giải thoát
cho Tnú. Cũng chính ở đây họ tự hào về truyền thống bất khuất của dân tộc mình, cụ Mết
kể lại cho con cháu nghe về cuộc đời bi tráng của Tnú –người con ưu tú của làng Xô man,
cụ nhắc nhở con cháu : nhớ lấy, ghi lấy sau này tau chết chúng bay kể cho con cháu
chúng bay nghe.
d. Xà nu tượng trưng cho sức sống mãnh liệt, bất diệt của người Xô man Tây
Nguyên
- Càng trong đau thương thì xà nu càng kiên cường, bất khuất, đạn giặc không ngăn nổi sự

tồn tại kỳ diệu của RXN. Cạnh 1 cây mới ngã gục đã có 4, 5 cây con mọc lên hình nhọn
mũi tên, lao thẳng lên bầu trời. NTT đã không rè sẻn chất vàng son của ngôn từ để làm
8


sống dậy 1 RXN có sức sống mãnh liệt, đó là sự sống tồn tại trong lòng cái chết, mạnh
hơn cái chết. Xà nu ưỡn tấm ngực lớn che chở cho buôn làng như 1 hiệp sỹ đúng như lời
cụ Mết nói : khơng có gì mạnh bằng cây xà nu đất ta đó chúng nó giết hết RXN này
- Với cách miêu tả RXN như trên làm ta liên tưởng đến những con người Tây Nguyên
trong chiến tranh. Làng Xô man cũng như 1 RXN, đồi xà nu dồi dào sức sống tạo nên
rừng gồm nhiều thế hệ anh hùng kế tiếp nhau nhanh chóng trưởng thành, anh Sút, bà
Nhan ngã xuống đã có Mai, Tnu đứng lên, Mai ngã xuống có Dít nối tiếp. Người Xơ nan
cứ nối tiếp nhau bền bỉ, bất chấp sự hủy diệt của chiến tranh để chiến đấu và chiến thắng
đúng như Tố Hữu từng viết :
Lớp cha trước lớp con sau
Đã thành đồng chí chung câu qn hành
Hay Hồng Trung Thơng cũng khẳng định :
Tôi lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng lên viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua
- RXN với kết cấu đầu cuối tương ứng bắt đầu và kết thúc bằng hình ảnh những đồi xà nu,
RXN nối tiếp tít tắp đến tận chân trời thể hiện niềm tin vào sức sống của con người Xô
man con người VN như 1 dòng chảy bất diệt. Kết thúc và mở đầu này tạo nên 1 dư âm
không dứt mở ra 1 tương lai tự do và chiến thắng
4. Bút pháp NT khắc họa hình tượng rừng xà nu
- Kết hợp miêu tả khái quát và cụ thể bằng thủ pháp điện ảnh. Ống kính của NTT lúc quay
ra xa để ghi lấy toàn cảnh RXN, lúc lại quay gần để đặc tả vóc dáng vươn lên kiêu hãnh
của từng cây xà nu giúp người đọc có cái nhìn vừa rộng vừa sâu vừa sinh động về núi
rừng Tây Nguyên

- Phối hợp các giác quan để miêu tả : khứu giác, mùi nhựa thơm ứa ra, vị giác thơm mỡ
màng, thị giác một thế giới xà nu xanh bạt ngàn vươn lên trong tầm đại bác
- NT nhân hóa : xà nu ưỡn tấm ngực lớn...
- Khi miêu tả con người nhà văn say sưa so sánh xà nu : ngực cụ Mết căng như 1 cây xà
nu lớn, nhựa xà nu như những cục máu lớn, những giọt máu trên lưng Tnu thâm tím như
nhựa xà nu.
- Các phép tu từ trên tạo thành 1 quan hệ đặc biệt giữa xà nu và con người, xà nu hòa vào
con người, con người nhập vào xà nu, quan hệ ấy ánh lên đậm đà chất Tây Nguyên
- Miêu tả cây xà nu nhà văn còn sử dung 1 giọng văn tha thiết đầy yêu thương khâm phục
tự hào. Giọng văn ấy thể hiện bằng kết cấu đầu cuối tương ứng trùng điệp âm vang từ
những câu văn đầy chất thơ kết hợp với những câu văn mang cảm xúc của cái Tôi.
III. Kết luận:
- NTT đã khắc họa thành cơng hình tượng cây xà nu hào hùng đầy sức sống của thiên
nhiên và con người Tây Nguyên.
- NT miêu tả cây xà nu có sự hịa quyện nhuần nhuyễn giữa chất thơ lãng mạn và chất sử
thi bi hùng.
9


- RXN không chỉ tạo nên không gian sử thi cho truyện ngắn mà còn là khu rừng của thiên
nhiên và con người, khu rừng đau thương mà hào hùng của thời đại đánh Mĩ.
Câu 2: Phân tích hình tượng rừng xà nu trong đoạn trích sau (rút từ truyện ngắn
Rừng xà nu của Nguyễn Trung Thành):
Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc (...). Hầu hết đạn đại bác đều rơi vào ngọn
đồi xà nu cạnh con nước lớn. Cả rừng xà nu hàng vạn cây khơng có cây nào khơng
bị thương. Có những cây bị chặt đứt ngang nửa thân mình, đổ ào ào như một trận
bão. Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt, long lanh nắng hè gay
gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng cục máu lớn.Trong rừng ít có
loại cây sinh sơi nảy nở khoẻ như vậy. Cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã có bốn
năm cây con mọc lên, ngọn xanh rờn, hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời.

Cũng có ít loại cây ham ánh sáng mặt trời đến thế. Nó phóng lên rất nhanh để tiếp
lấy ánh nắng, thứ ánh nắng trong rừng rọi từ trên cao xuống từng luồng lớn thẳng
tắp, lóng lánh vơ số hạt bụi vàng từ nhựa cây bay ra, thơm mỡ màng. Có những cây
con vừa lớn ngang tầm ngực người lại bị đại bác chặt đứt làm đơi. Ở những cây đó,
nhựa cịn trong, chất dầu cịn lỗng, vết thương khơng lành được, cứ lt mãi ra,
năm mười hơm thì cây chết. Nhưng cũng có những cây vượt lên được cao hơn đầu
người, cành lá sum sê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác
không giết nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân
thể cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh, thay thế những cây đã ngã... Cứ thế hai
ba năm nay rừng xà nu ưỡn tấm ngực lớn của mình ra, che chở cho làng...Đứng
trên đồi xà nu ấy trông ra xa, đến hết tầm mắt cũng khơng thấy gì khác ngồi những
đồi xà nu nối tiếp tới chân trời.
(Ngữ văn 12, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, tr. 38)
1.Vài nét về tác giả, tác phẩm
- Nguyễn Trung Thành là nhà văn trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến, gắn bó mật
thiết với vùng đất Tây Nguyên.
- Rừng xà nu (1965) là tác phẩm văn xuôi tiêu biểu cho những sáng tác thời kì chống Mĩ
cứu nước của tác giả.
2. Hình tượng rừng xà nu
a. Về nội dung
- Rừng xà nu tiêu biểu cho vẻ đẹp của núi rừng Tây Nguyên (qua dáng vóc, hình khối,
màu sắc, hương thơm...).
- Hình ảnh cánh rừng xà nu bị tàn phá là biểu tượng cho nỗi đau thương, mất mát của
người dân Tây Nguyên trong chiến tranh.
- Rừng xà nu là đối tượng của sự hủy diệt, mọi sự sinh tồn đang đứng trước mối đe dọa
của diệt vong (Làng ở trong tầm đại bác của đồn giặc; hầu hết đạn đại bác đều rơi vào
ngọn đồi xà nu).
- Nỗi đau thương hiện ra trong nhiều vẻ: có cái xót xa của những cây con (nhựa cịn
trong, chất dầu cịn lỗng...), có cái đau dữ dội trên những thân cây đang trưởng thành
10



(bị
chặt đứt ngang nửa thân mình...), có nỗi đau chung của cả một cánh rừng (hàng vạn cây
khơng có cây nào không bị thương...).
- Rừng xà nu mang sức sống mãnh liệt tượng trưng cho tinh thần kiên cường bất khuất
của con người Tây Nguyên.
+ Là loại cây khao khát sống, khao khát tự do, luôn vươn lên cao để tiếp nhận ánh
sáng mặt trời (phóng lên rất nhanh để tiếp lấy ánh nắng).
+ Rừng xà nu bất khuất trước bom đạn: các thế hệ cây xà nu vẫn cường tráng mạnh
mẽ vươn lên, nối tiếp nhau thách thức kẻ thù (cạnh một cây xà nu mới ngã gục, đã
có bốn năm cây con mọc lên; hình nhọn mũi tên lao thẳng lên bầu trời; ưỡn tấm
ngực lớn che chở cho làng; những đồi xà nu nối tiếp tới chân trời...).
b. Nghệ thuật
- Các biện pháp tu từ nhân hóa, so sánh, ẩn dụ.
- Lời văn giàu sức tạo hình, giàu nhạc điệu.
- Sự hài hòa về màu sắc, đường nét, hình khối trong bút pháp miêu tả hình tượng góp
phần làm cho đoạn văn mang âm hưởng sử thi.
3. Đánh giá chung
- Hình tượng rừng xà nu nổi bật trong đoạn trích và xuyên suốt tác phẩm, tạo nên một
không gian nghệ thuật đặc sắc, vừa bi tráng vừa giàu chất thơ.
- Đoạn trích tiêu biểu cho phong cách văn xuôi Nguyễn Trung Thành.
Câu 3. Chất sử thi trong “Rừng xà nu”.
I. Khái quát về khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn
- Hướng đến khuynh hướng sử thi là hướng đến tiếng nói chung của cả cộng đồng, là VH
của những sự kiện lịch sử, của số phận toàn dân, của chủ nghĩa anh hùng. Nhân vật trung
tâm cũng như người cầm bút phải đại diện cho cộng đồng, cho giai cấp, cho dân tộc và
thời đại. Ngôn ngữ sử thi là ngôn ngữ trang trọng, tráng lệ, ngợi ca.
- VH mang cảm hứng lãng mạn luôn hướng về lí tưởng, về tương lai, những thành tựu
được nhân lên nhiều lần với kích thước tương lai, hướng vận động của tư tưởng cảm xúc

ln đi từ bóng tối ra ánh sáng, “Từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”(CLV). VH
là nguồn sức mạnh to lớn khiến con người thời kỳ này có thể vượt mọi gian lao thử thách
để vươn lên.
1. Biểu hiện thứ nhất về tính sử thi của “Rừng xà nu” được biểu lộ trước hết ở những
sự kiện có tính chất tồn dân được nhắc tới. Những chuyện xảy ra với làng Xô man hồn
tồn khơng có ý nghĩa cá biệt. Đó là chuyện chung của cả Tây Nguyên, cả miền Nam, cả
nước trong những ngày chiến đấu chống đế quốc Mĩ.
(Tình thế bị o ép của làng Xô Man trước ngày đồng khởi là bức tranh sinh động về cuộc
sống đau thương của đồng bào miền Nam trong những ngày Mĩ - Diệm thi hành luật 1059, khủng bố dữ dội những người yêu nước, những người kháng chiến cũ. Khi làng Xơ
Man đứng dậy thì gương mặt của làng lúc này lại chính là gương mặt của cả nước trong
11


những ngày quyết tâm đánh Mĩ và thắng Mĩ - một gương mặt rạng rỡ, tự tin, điềm tĩnh
đón nhận những thử thách mới).
2. Biểu hiện thứ hai của tính sử thi trong “Rừng xà nu” là truyện ngắn đã xây dựng
thành cơng hình tượng một tập thể anh hùng. Những anh hùng được kể tới trong đó đều
có tính đại diện cao, mang trong mình hình ảnh của cả một dân tộc.
+ Đó là tập thể đa dạng về lứa tuổi và giới tính. Mỗi gương mặt anh hùng đều có những
nét riêng, thể hiện một số phận riêng trong cuộc đời chung. Tất cả họ đều giống nhau ở
những phẩm chất cơ bản : gan dạ, trung thực, một lịng một dạ đi theo cách mạng.
+ Chiến cơng của mỗi người tuy đa dạng mà thống nhất. Cuốn sử vẻ vang của làng Xô
Man, của Tây Nguyên không phải do riêng một người mà do tất cả mọi người viết ra.
(Bản trường ca của núi rừng không chỉ trỗi lên một giọng mà là sự tổng hoà của nhiều
giọng. Anh Quyết, cụ Mết, anh Tnú, chị Mai, cô Dít, bé Heng là những nhân vật tiêu biểu,
nhưng bên cạnh họ, đằng sau họ cịn có bao người khác nữa cũng không chịu sống mờ
nhạt, vô danh. Tất cả họ đều thi đua lập cơng, đều muốn góp phần mình vào sự nghiệp vĩ
đại của dân tộc) .
à Dĩ nhiên, hình tượng văn học nào cũng là sự thống nhất giữa cái cá biệt và cái phổ
quát, nhưng ở Rừng xà nu, cảm hứng hướng về cái chung đã mang tính chất chi phối.

3. Biểu hiện thứ ba của tính sử thi ở truyện ngắn “Rừng xà nu” là nó đã miêu tả các sự
kiện, các nhân vật anh hùng từ một cái nhìn chiêm ngưỡng, khâm phục. Các chi tiết đời
thường ít được nhắc tới. Nhà văn chỉ tâm đắc với những chi tiết nào có khả năng làm phát
lộ được phẩm chất anh hùng của nhân vật.
( Tả cụ Mết, nhà văn chú ý tới giọng nói "ồ ồ dội vang trong lồng ngực" của cụ. Tưởng
như trong tiếng cụ nói có âm vang của tiếng cồng, tiếng chiêng, tiếng của núi rừng, của
lịch sử. Và quả thật, cụ là hình ảnh tượng trưng của truyền thống vững bền. Mỗi lời cụ
thốt ra kết tinh trải nghiệm của cả một dân tộc. Nó cơ đúc, sâu sắc, vang vọng như những
chân lí. Chả thế mà cả làng Xơ Man nghe như uống từng lời cụ nói và cả rừng xà nu cũng
"ào ào rung động" như một sự hoà điệu, một sự tạo nền. Ngay cuộc đời của Tnú, một
cuộc đời trải ra trong chính thời hiện tại cũng đã được lịch sử hoá và nhuốm màu huyền
thoại. Đêm đêm bên bếp lửa nhà ưng, cụ Mết đã kể chuyện anh cho lũ làng, cho thế hệ
con cháu nghe. Anh đã trở thành niềm tự hào của làng, là một biểu tượng sống động của
người anh hùng được tất cả ngưỡng vọng, học tập).
4. Biểu hiện thứ tư về tính sử thi của “Rừng xà nu” cịn thể hiện ở giọng văn tha thiết,
trang trọng mà tác giả đã sử dụng khi kể về sự tích của làng Xô Man.
( Giọng văn ấy cũng thấm đượm trong việc miêu tả thiên nhiên, khiến cho hình ảnh rừng
xà nu bỗng thổi tới trong lòng người đọc một cảm giác say sưa. Ta bị cuốn theo câu
chuyện khơng gì cưỡng nổi, tưởng mình đang được tắm trên một dịng sơng mênh mang,
tràn trề sinh lực, hoặc tưởng mình đang bị thôi miên bởi một bản nhạc giao hưởng hùng
tráng).
Câu 4. Phân tích hình tượng các thế hệ người dân làng Xô man trong RỪNG XÀ
NU.
12


Dàn ý
A. Mở bài:
- Nguyễn Trung Thành được mệnh danh là nhà văn của Tây Nguyên bởi ông đã gắn bó
máu thịt với mảnh đất này trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Sự am

tường về Tây Nguyên, niềm ngưỡng mộ những phẩm chất cao quý của đồng bào nơi đây
đã giúp cho nhà văn gặt hái được những thành công rực rỡ về đề tài Tây Nguyên.
- Truyện ngắn “Rừng xà nu” được viết khi Nguyễn Trung Thành đang ở vào độ chín của
tài năng. Trong tác phẩm này, nhà văn không chỉ xây dựng một biểu tượng nghệ thuật
tuyệt đẹp- rừng xà nu- nhằm tôn vinh sức sống bất tử kỳ diệu của mảnh đất Tây Nguyên
những ngày đánh Mỹ mà còn xây dựng thành cơng hình tượng tập thể những ngưịi anh
hùng.
B. Thân bài
1. Hoàn cảnh sáng tác và chủ đề
- Đầu năm 1965, Mĩ đổ quân ồ ạt vào miền Nam và tiến hành đánh phá ác liệt ra miền
Bắc. “Rừng xà nu” được viết vào đúng thời điểm mà cả nước ta trong khơng khí sục sơi
đánh Mĩ. Tác phẩm được hồn thành ở khu căn cứ của chiến trường miền Trung Trung
bộ, in lần đầu trên tạp chí Văn Nghệ Quân Giải Phóng Trung Trung bộ, sau đó in trong
tập “Trên quê hương những anh hùng Điện Ngọc”.
- Thông qua câu chuyện về những con người anh hùng ở một buôn làng hẻo lánh, bên
những cánh rừng xà nu bạt ngàn, xanh bất tận, tác giả đã đặt ra một vấn đề có ý nghĩa lớn
lao của dân tộc và thời đại: Để cho sự sống của đất nước và nhân dân mãi mãi trường tồn,
khơng có cách nào khác hơn là phải cùng nhau đứng lên, cầm vũ khí đứng chống lại kẻ
thù tàn ác.
2. Phân tích
a. Giới thiệu chung
- Ta biết rằng nội dung chủ yếu của tác phẩm là kể về cuộc chiến đấu kiên cường của làng
Xôman. Từ trong máu lửa dân làng đã kết thành một khối vững chắc đứng lên làm cách
mạng bảo vệ cho cuộc sống tự do cho buôn làng. Các thế hệ khác nhau của làng đều có
những đóng góp xứng đáng cho cuộc chiến đấu chung. Trong mỗi sự tích anh hùng đều có
cơng lao của tập thể và trong mỗi chiến cơng chung đều có những đóng góp xứng đáng
cuả mỗi thành viên anh hùng.
b.Những nét chung
- Trong tập thể anh hùng đó ta có thể cảm nhận những nét chung của họ: Họ đều là những
con người Tây nguyên bất khuất thời chống Mỹ. Ở họ đều cháy lên lịng u nước, u

thương bn làng, lịng căm thù giặc cao độ.
c. Những nét riêng
- Tuy vậy, mỗi một nhân vật để lại trong trái tim độc giả những ấn tượng riêng. Phẩm chất
kiên cường của họ cũng được biểu hiện khác nhau. Điều này đã làm cho bức chân dung
của tập thể của những người anh hùng thêm đa dạng và phong phú
. * Cụ Mết
13


- Đứng đầu tập thể anh hùng ấy là Cụ Mết. Cụ Mết là hiện thân của truyền thống, là pho
sử sống của làng Xôman. Cụ là biểu tượng cho sức quật khởi của một truyền thống lịch sử
hào hùng ở Tây Nguyên đúng như hồi ức của nhà văn: Ông là cội nguồn, là Tây Nguyên
của thời “Đất nước đứng lên” cịn trường tồn đến hơm nay, ơng như lịch sử bao trùm
nhưng khồng che lấp sự tiếp nối ngày càng mãnh liệt hơn, tự giác hơn của các thế hệ sau.
- Nhân vật cụ Mết trở lên đặc biệt sống động trong tác phẩm nhờ nghệ thuật cá tính hố
nhân vật đặc sắc của nhà văn. Ở cụ vừa có nét tiêu biểu điển hình của những già làng Tây
Nguyên thời chống Mỹ, vừa có những nét riêng biệt độc đáo.
- Đọc tác phẩm, hình ảnh của cụ Mết đã khiến cho độc giả liên tưởng đến một cây xà nu
cổ thụ giữa buôn làng, luôn vững vàng trước phong ba bão táp. Cụ Mết đã được nhà văn
miêu tả trong sự so sánh đối chiếu với cây xà nu. “Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu
bây giờ đã dài mà vẫn đen bong, mắt vẫn sang và xếch ngược… Ông ở trần, ngực căng
như một cây xà nu lớn”, đôi bàn tay sần sùi như vỏ cây xà nu, bàn tay nặng trịch.
- Giọng nói của cụ Mết thì “ồ ồ, dội vang trong lồng ngực” như mang trong đó âm vọng
của những cánh rừng Tây Nguyên bạt ngàn hùng vĩ. Như tất cả những người dân Xơ man
khác, cụ Mết rất ít nói. Lời nói khen tặng cao nhất chỉ là “được” nhưng những lời lẽ của
cụ lại có một sức mạnh cổ vũ động viên rất lớn đối với dân làng. Mỗi lời dặn dò nhắc nhở
của cụ đều là những bài học quý báu, thể hiện niềm tự hào về sức mạnh Tây Ngun. Cụ
đã nói về rừng xà nu của làng mình: Khơng có cây gì mạnh bằng cây xà nu đất ta. Cây mẹ
ngã cây con mọc lên…. Có những lúc lời nói của cụ Mết trở thành chân lý được những
người như Tnú ghi lòng tạc dạ: “Cán bộ là Đảng. Đảng còn, núi nước này còn”. Cụ Mết

còn dặn dò các thế hệ cháu con về một bài học xương máu được tổng kết từ chính cuộc
đời của Tnú : “ Nhớ lấy, ghi lấy. Sau này tau chết rồi, bay cịn sống phải nói lại cho con
cháu: Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo” đó đâu phải là sự chiêm nghiệm từng
trải của một đời người mà là sự chiêm nghiệm từng trải của cả một dân tộc trong đau
thương chiến tranh.
.- Cụ Mết luôn giáo dục ý thức cách mạng cho dân làng bên ánh lửa xà nu bập bùng. Với
một giọng nói trầm ấm trang nghiêm, cụ đã kể cho dân làng nghe về cuộc đời của Tnú.
Trong lời kể của cụ có một cái gì đó thật thiêng liêng hệt như một câu chuyện lịch sử, một
huyền thoại của thời đại. Từ những câu chuyện ấy, cụ Mết đã khơi dậy trong tâm hồn mỗi
người lịng u thương bn làng, u q hương đất nước, lòng trung thành tuyệt đối vào
Đảng, vào cách mạng.
Cụ Mết cũng chính là người chỉ huy trực tiếp cuộc chiến đấu của dân làng Xơ
Man. Đó là sự chỉ huy sáng suốt giàu kinh nghiệm và uy lực. Cụ đã bình tĩnh chỉ huy dân
làng vùng dậy tự trang bị vũ khí mài bằng đá núi Ngọc Linh, chém chết tiểu đội lính
nguỵ, giải thốt cho Tnú, đốt lên ngọn lửa đồng khởi cháy khắp núi rừng Tây Nguyên.
Hình ảnh cụ Mết chống giáo chỉ huy dân làng trong ánh lửa xà nu bừng bừng khiến cho ta
nhớ đến các nhân vật trong sử thi Tây Nguyên. Có thể nói nhân vật cụ Mết đã trở thành
một cơ sở quan trọng tạo nên vẻ đẹp sử thi hùng tráng trong truyện ngắn đặc sắc này.
- Xây dựng nhân vật cụ Mết như một nhân vật huyền thoại, kết tinh những phẩm chất tốt
đẹp của con người Tây Nguyên, phải chăng Nguyễn trung Thành muốn khẳng định vai trò
14


của thế hệ đi trước đối với thế hệ trẻ. Cụ Mết vừa là người nối kết thế hệ với truyền thống,
với lịch sử quê hương, vừa là người dẫn dắt thế hệ thanh niên trong cuộc chiến đấu hiện
tại. Chính vì có một thế hệ cha ơng như cụ Mết mà thế hệ của Tnú, của Dít, của bé Heng
có sự trưởng thành lớn lao.
* Tnú:
.- Trong tác phẩm “Rừng xà nu”, độc giả khơng thể qn hình ảnh Tnú không phải chỉ bởi
đây là nhân vật trọng tâm của tác phẩm mà cịn bởi những tính cách mạnh mẽ ngoan

cường của anh.
-Tnú là ngưòi con ưu tú của làng Xô Man đã lớn lên trong máu lửa của cuộc chiến tranh ,
đã vượt qua những mất mát đau thương của cuộc đời để chiến đấu và trở thành một chiến
sĩ giải phóng. Nét tính cách chủ yếu của anh là sự mạnh mẽ quyết liệt mang đặc trưng tính
cách của người dân Tây Nguyên.
- Tnú vốn là một đứa trẻ mồ côi, anh đã lớn lên bằng sự cưu mang đùm bọc của dân làng
Xô Man. Anh sớm giác ngộ lý tưởng cách mạng và đã theo bước dân làng hồ mình vào
con dường do Đảng đã vạch ra. Sự can đảm ngoan cường của Tnú cùng với sự dữ dội
quyết liệt của anh dã được thể hiện từ những ngày thơ ấu. Khi cách mạng bị địch khủng
bố ráo riết, chúng treo cổ anh Xút lên cây vả đầu làng, chặt đầu bà Nhan treo đầu súng,
Tnú đã khơng nhụt chí, anh đã tiếp tế cho bộ đội, nuôi giấu cán bộ với một niềm tin: “Cán
bộ là Đảng, Đảng còn, núi nứoc này còn.”. Niềm tin giản dị ngây thơ mà cũng rất chân
thành mãnh liệt.
- Học chữ hay quên nhưng Tnú lại rất thông minh và nhanh trí khi làm nhiệm vụ. Lúc đi
liên lạc, Tnú khơng bao giờ đi đường mịn, bị giặc bao vây khắp các ngả đưòng Tnú leo
lên cây cao giữa rừng tìm quanh một lượt rồi sau đó xé rừng mà đi. Khi qua song, Tnú
thường chọn những đoạn có thác dữ cho địch khỏi phát hiện. Hình ảnh chú bé cưỡi lên
con thác băng như một con cá kình là một hình ảnh tuyệt đẹp cho thấy khí phách và bản
lĩnh của một thiếu niên Tây Nguyên ngoan cường, dũng cảm. Có lần khi vựot qua thác
sơng Đắc Năng, Tnú đã bị kẻ thù phục kích bắt được, cậu chỉ kịp nuốt là thư vào bụng.
Kẻ thù tra tấn hết sức dã man, Tnú đã can đảm chỉ tay vào bụng mà nói: “Cộng sản ở đây
”. Đó khơng phải là câu trả lời mà là một lời thách thức. Hành động quả cảm của Tnú đã
cho thấy lòng trung thành tuyệt đối của người dân Tây Nguyên đối với Đảng. Trong
những gian khổ hy sinh thử thách tàn khốc thì lịng trung thành ấy càng toả sáng. Đảng đã
tồn tại trong tâm hồn những người dân Tây Nguyên bất khuất kiên cường như Tnú . Hình
ảnh Tnú thời thơ âú với tất cả sự ngộ nghĩnh, gan dạ, trung thành, kiên cường đã tạo tiền
đề để tạo nên một Tnú anh hùng dũng cảm về sau
.- Giống như một cây xà nu vươn lên một cách kiêu dũng trong đau thương mất mát, sau
những năm bị tù đầy, Tnú đã vượt ngục trở về làng. Anh thực sự đã trưởng thành, lúc này
cán bộ Quyết cũng đã hy sinh. Tnú đã tiếp tục nuôi dưỡng ngọn lửa đấu tranh cách mạng,

chuẩn bị vũ khí cho đồng khởi. Chính anh đã đi bộ ba ngày đường lên núi Ngọc Linh
mang về một gùi nặng đá mài ( không phải là một xà lét đựng đầy đá trắng như trước đây)
để dân làng mài giáo mác, phát nương rẫy và chuẩn bị cuộc chiến đấu bảo vệ buôn làng,
núi rừng hùng vĩ.
15


- Quân giặc đã bao vây làng Xô Man quyết bóp chết mầm cách mạng từ trong trứng nước.
Hiểu được vai trị của Tnú, chúng đã tìm cách để bắt anh, kẻ thù đã giở ngón địn hiểm
độc là tra tấn vợ con Tnú. Lòng căm thù, nỗi đau khi chứng kiến cảnh vợ con bị địch tra
tấn đã biến đôi mắt anh thành hai cục lửa lớn. Anh đã xông vào quân giặc. Mẹ con Mai
chết, anh bị kẻ thù bắt trói, chúng đã tẩm nhựa xà nu và đốt mười đầu ngón tay anh.
“Mười ngón tay anh đã thành mười ngọn đuốc”. Tnú không kêu van một tiếng nào, bởi
“Người cộng sản không thèm kêu van”. “Anh không cảm thấy lửa ở mười đầu ngón tay
nữa. Anh nghe lửa cháy trong lồng ngực, cháy ở bụng. Máu anh mặn chát ở đầu lưỡi.
Răng anh đã cắn nát môi anh rồi”. Tnú trừng trừng ném căm giận vào kẻ thù. Mười ngọn
đuốc từ đơi tay Tnú đã châm ngịi cho cuộc khởi nghĩa của làng XôMan. Tnú thét lên,
tiếng thét ấy như một lời hiệu triệu, kêu gọi dân làng cầm vũ khí đứng lên.
* Tóm tắt số phận:
- Nhỏ: mồ côi cả cha lẫn mẹ, sống nhờ vào cự cưu mang đùm bọc của dân làng.
- Trưởng thành: Số phận của Tnú giống như số phận của người làng Xơ Man:
+ Có gia đình, vợ, con nhưng đều bị giặc sát hại dã man.
+ Bản thân Tnú cũng mang thương tích trên thân thể - hậu quả của những đòn tra tấn của
kẻ thù: tấm lưng lằn ngang dọc, bàn tay cụt mười ngón.
* Phẩm chất
- Là một chú bé gan góc, táo bạo, trung thực, trung thành với cách mạng (giặc khủng bố
dã man vẫn cùng Mai hăng hái vào rừng nuôi cán bộ, quyết tâm học tập để làm cán bộ,
gan dạ dũng cảm khi làm giao liên, bị giặc bắt, tra tấn, quyết không khai, chỉ tay vào bụng
Cộng sản ở đây…).Khi lớn lên, Tnú trở thành người lãnh đạo dân làng Xơ Man bình tĩnh
vững vàng chống Mĩ Diệm.

- Yêu thương vợ con, dân làng và quê hương (chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù hành hạ,
biết là thất bại, anh vẫn xông ra cứu. Xa làng Tnú nhớ làng, nhớ âm thanh vfa nhịp điệu
sinh hoạt của làng; khi về, anh nhớ tất cả mọi người…).
- Biết vượt lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân để dũng cảm chiến đấu, trả thù cho q
hương và gia đình (Khi xơng ra cứu vợ con, anh bị bắt đốt mười đầu ngón tay, Tnú quyết
không kêu van à tiếng thét của anh trở thành hiệu lệnh cho dân làng giết giặc. Dù mất vợ
con, dù hai bàn tay mỗi ngón chỉ cịn hai đốt, Tnú vẫn nén đau thương, tham gia lực lượng
vũ trang để góp phần giải phóng quê hương…).
- Có tinh thần kỉ luật cao: Ba năm đi bộ đội, dù nhớ làng nhưng được phép cấp trên mới
dám về thăm làng. Khi được về thăm làng, dù rất lưu luyến song anh chấp hành đúng qui
định, ở lại một đêm rồi đi…
* Tác giả đặc biệt miêu tả đôi bàn tay của Tnú, gây ấn tượng sâu sắc và đậm nét, qua đó
hiện lên cả cuộc đời và tính cách nhân vật (bàn tay khi còn lành lặn là bàn tay trung thực,
nghĩa tình: Cầm phấn học chữ, cầm đá mài giáo, đặt lên bụng khi bị tra tấn, cầm tay Mai;
với hai bàn tay không xông ra cứu vợ - Bàn tay bị giặc đốt cụt, trở thành mười ngọn đuốc
trở thành chứng tích tội ác của kẻ thù – Bàn tay còn hai đốt vẫn cầm được súng để bảo vệ
quê hương…).
Tóm lại:
16


- Tnú là nhân vật có tính sử thi: số phận và phẩm chất của anh ta tiêu biểu cho con người
Xơ Man nói riêng và nhân dân Tây Ngun nói chung.
- Cảm hứng, giọng điệu chủ đạo là ca ngợi
- Làm phong phú thêm chân dung con người Việt Nam anh hùng trong kháng chiến chống
Mĩ.
c. Dít:
Cùng với Tnú là đại diện cho thế hệ thanh niên, là lực lượng chiến đấu chính của dân làng
– những cây xà nu đã trưởng thành.
- Phẩm chất gan dạ, dũng cảm.

- Tôn trọng kỉ luật.
d. Bé Heng:
- Đại diện cho thế hệ măng non sẵn sàng tiếp bước cha anh. Rất háo hức tham gia đánh
giặc, rất thông thuộc, tự hào về trận địa của dân làng.
Tóm lại: Các thế hệ nhân dân Xô Man tiếp nối trong cuộc chiến đấu, càng về sau càng
lớn mạnh. Nhà văn đã xây dựng được hệ thống nhân vật tiêu biểu, có tác dụng làm nổi bật
chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân Tây Nguyên trong kháng chiến chống Mĩ.
=> Tác phẩm đã khắc họa được tập thể nhân dân anh hùng, gắn bó với nhau trong
thời đại anh hùng, vừa mang dấu ấn của thời đại chống Mĩ, vừa mang phóng cách của núi
rừng Tây Nguyên. .
Câu 5. Phân tích nhân vật Tnú trong truyện ngắn “ Rừng xà nu” của Nguyễn
Trung Thành”
Dàn bài gợi ý
I/ Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu về nhân vật Tnú.
II/ Thân bài: Học sinh có thể tìm ý và sắp ý theo chiều hướng khác nhau, nhưng phải đạt
được các ý chính:
- Giới thiệu khái quát về nhân vật: Tnú là người Strá, mồ côi cha mẹ từ rất sớm, được
dân làng Xô Man cưu mang- đùm bọc. Từ nhỏ Tnú đã giác ngộ cách mạng và làm liên lạc
cho cách mạng rất thông minh, gan dạ, giàu tự trọng..
- Lần lượt phân tích những biểu hiện phẩm chất anh hùng của Tnú:
1/ Một con người gan góc, táo bạo, dũng cảm, mưu trí, căm thù giặc sơi sục, trung
thành tuyệt đối với cách mạng:
+ Tiếp tế cho các cán bộ ở trong rừng mà không sợ bị chặt đầu hoặc treo cổ.
+ Làm liên lạc, giặc vây các ngả đường thì xé rừng mà đi, qua sơng lựa chỗ thác mạnh mà
bơi, “vì chỗ nước êm thằng Mĩ hay phục”.
+ Bị giặc bắt thì nuốt ln cái thư vào bụng, bị tra tấn khơng khai; một mình xơng ra giữa
vịng vây của kẻ thù trong tay khơng có vũ khí; bị giặc bắt, bị đốt mười đầu ngón tay vẫn
khơng kêu than...

+ Học chữ thua Mai thì lấy đá đập vào đầu -> lòng tự trọng và ý chí quyết tâm cao.
17


 Phẩm chất anh hùng là cơ sở để làm nên hành động anh hùng của Tnú.
2/ Một người biết vươn lên mọi đau đớn và bi kịch cá nhân:
+ Mồ côi, được dân làng nuôi nấng, sau này trở thành người con ưu tú của dân làng.
+ Bản thân 2 lần bị giặc bắt, bị tra tấn dã man( tấm lưng chằng chịt những vết chém, hai
bàn tay bị đốt mỗi ngón chỉ cịn lại hai đốt; vợ con bị giặc giết hại...) Tnú không khuất
phục, kiên cường, bền gan gia nhập bộ đội để cầm súng bảo vệ dân làng, quê hương, đất
nước.
3/ Là người có ý thức và tinh thần kỷ luật cao:Xa bản làng ba năm, tuy nhớ nhà, nhớ quê
hương, nhưng phải được cấp trên cho phép anh mới về và chỉ về đúng một đêm như qui
định trong giấy phép.
4/. Là một người giàu tình yêu thương người thân và quê hương bản làng:
- Yêu thương vợ con: Chứng kiến cảnh vợ con bị kẻ thù tra tấn dã man anh khơng kìm
được nỗi đau đang đốt cháy lịng mình: “anh đã bứt đứt hàng chục trái vả mà không hay.
Anh chồm dậy (...) ở chỗ hai con mắt anh bây giờ là hai cục lửa lớn”
--->Yêu thương – căm thù đốt cháy trong hai con mắt - một chi tiết dữ dội, bi thương.
- Yêu bản làng, yêu quê hương đất nước: Trên đường trở về thăm làng, Tnú nhớ từng
gốc cây, nhớ tiếng chày giã gạo....cũng chính vì tình u q hương mà Tnú đã tham gia
là cách mạng, chịu nhiều đau thương....vì sự yên bình của quê hương, đất nước.
 Tnú là một nhân vật tư tưởng có sơi lơi cuốn khơng chỉ bởi tính triết lý mà cịn mà
cịn bởi tính trữ tình, tính hình tượng.
Đặc biệt hình ảnh bàn tay Tnú là chi tiết nghệ thuật giàu sức ám ảnh – Bàn tay ấy
cũng có một cuộc đời:
+ Đó từng là bàn tay trung thực và tình nghĩa, từng cẩm phấn viết chữ anh Quyết dạy
cho, từng cầm đá đập vào đầu khi quên chữ, từng đặt lên bụng mình mà nói “Cộng sản ở
đây này”, từng được Mai cầm bàn tay ấy mà khóc khi Tnú thốt ngục trở về ....
+ Đó cịn là bàn tay của đau thương và thù hận : Khi giặc đốt 10 đầu ngón tay, bàn tay

thành chứng tích của tơi ác và lòng hận thù. Hận thù đã khiến bàn tay Tnú thành bàn tay
quả báo (mười ngọn đuốc từ ngón tay Tnú đã châm bùng lên ngọn lửa nổi dậy của dân
làng Xơ Man; bàn tay chỉ cịn hai đốt mỗi ngón vẫn cầm giáo, cầm súng lên đường trả
hận....
=> Đánh giá:
- Hình tượng Tnú điển hình cho con đường đến với CM của nhân dân TN, làm sáng tỏ
chân lý của thời đại đánh Mĩ: chúng nó cầm súng mình phải cầm giáo.
- Bi kịch của Tnú khi chưa cầm vũ khí chính là bi kịch của người dân Stra khi chưa giác
ngộ chân lý CM
III/. Kết bài:
- Chân lý cách mạng là chân lý từ máu và nước mắt, nó đồng nghĩa với chân lý cuộc sống.
Cuộc đời Tnú là bằng chứng sống cho qui luật nghiệt ngã ấy.
- Câu chuyện bi tráng về cuộc đời Tnú - cuộc đời của một con người mang ý nghĩa cuộc
đời của một dân tộc. Có thể nói nhân vật Tnú mang đậm tính sử thi – nhân vật ấy gánh
nặng số phận lịch sử.
18


- Dù có nhiều dị biệt, Tnú vẫn là kiểu nhân vật sánh vai với các anh hùng trong trường ca
Đam San, Xinh Nhã của núi rừng Tây Nguyên.
II. NHỮNG ĐỨA CON TRONG GIA ĐÌNH (Nguyễn Thi )
1. Dạng câu hỏi 2 điểm:
Câu 1. Trình bày những nét cơ bản về tác giả Nguyễn Thi.
+ Nguyễn Thi (1928- 1968) tên khai sinh là Nguyễn Hoàng Ca, quê ở Hải Hậu- Nam
Định.
+ Nguyễn Thi sinh ra trong một gia đinh nghèo, mồ côi cha từ năm 10 tuổi, mẹ đi bước
nữa nên vất vả, tủi cực từ nhỏ. Năm 1943, Nguyễn Thi theo người anh vào Sài Gòn ; năm
1945, tham gia cách mạng ; năm 1954, tập kết ra Bắc ; năm 1962, trở lại chiến trường
miền Nam. Nguyễn Thi hy sinh ở mặt trận Sài Gòn trong cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy
Mậu Thân 1968.

+ Nguyễn Thi cịn có bút danh khác là Nguyễn Ngọc Tấn. Sáng tác của Nguyễn Thi
gồm nhiều thể loại: bút kí, truyện ngắn, tiểu thuyết. Ơng đợc tặng giải thưởng Hồ Chí
Minh về văn học nghệ thuật năm 2000.
+ Đặc điểm sáng tác: Nguyễn Thi gắn bó với nhân dân miền Nam và thực sự xứng đáng
với danh hiệu: Nhà văn của người dân Nam Bộ.
Nhân vật của Nguyễn Thi có cá tính riêng nhưng tất cả đều có những đặc điểm chung
"rất Nguyễn Thi". Đó là:
- Yêu nước mãnh liệt, thủy chung đến cùng với Tổ quốc, căm thù ngùn ngụt bọn xâm lược và tay sai của chúng, vô cùng gan góc và tinh thần chiến đấu rất cao - những con người sinh ra để đánh giặc.
- Tính chất Nam Bộ: thẳng thắn, bộc trực, lạc quan, yêu đời, giàu tình nghĩa.
Câu 2. Hồn cảnh ra đời của truyện ngắn và tóm tắt tác phẩm Những đứa con
trong gia đình (Nguyễn Thi).
- Hoàn cảnh ra đời: “ Những đứa con trong gia đình” là một trong những truyện ngắn
xuất sắc nhất của Nguyễn Thi, được viết 2- 1966 khi cuộc kháng chiến chống Mỹ và tay
sai đang trong những ngày chiến đấu ác liệt. Khi đó, nhà văn đang cơng tác ở tạp chí Văn
nghệ Qn giải phóng. TP được in trong tập truyện và kí của Nguyễn Thi.
- Tóm tắt tác phẩm:
Việt và Chiến là hai chị em cùng sinh ra trong một gia đình nơng dân Nam Bộ giàu truyền
thống cách mạng. Ông nội và bố mẹ Việt đều bị giặc Mĩ giết hại. Gia đình chỉ cịn lại
Việt, chị Chiến, út em, chú Năm và người chị nuôi đi lấy chồng xa. Truyền thống cách
mạng vẻ vang của gia đình đã thơi thúc hai chị em Việt hăng hái tòng quân giết giặc.
Trong một trận đánh lớn, Việt dùng thủ pháo diệt một xe bọc thép Mĩ, bị thương và lạc
đơn vị. Việt ngất đi rồi tỉnh lại nhiều lần. Trong cơn mê sảng, Việt nhớ về những kỉ niệm
vui buồn tuổi thơ ấu. Sau ba ngày đêm, anh Tánh, đồng đội của Việt cùng tiểu đội mới
tìm thấy Việt trong một lùm cây rậm và đưa Việt về bệnh viện. Sức khoẻ dần hồi phục,
anh Tánh giục Việt viết thư cho chị Chiến kể về chiến cơng của mình. Việt nhớ chị Chiến
19


muốn viết thư nhưng khơng muốn kể chiến cơng vì Việt thấy chưa thấm tháp gì so với
chiến cơng của đơn vị và những ước mong của má.

Câu 3. Ý nghĩa nhan đề và chủ đề của tác phẩm Những đứa con trong gia đình
(Nguyễn Thi).
- Ý nghĩa nhan đề: Nhan đề tác phẩm khơng chỉ có giá trị thơng báo về vị trí thế hệ của
hai nhân vật chính mà cịn gợi nhiều ý nghĩa:
+ Đó là những con người được ni dưỡng và trưởng thành trong gia đình có truyền
thống tốt đẹp, đáng tự hào.
+ Họ là những con người đã tiếp nối xứng đáng truyền thống cách mạng của gia đình.
+ Vai trị của gia đình với truyền thống đất nước: Các thế hệ trong gia đình, các gia đình
nối tiếp nhau làm nên truyền thống đất nước. Truyền thống gia đình gắn bó hịa quyện với
truyền thống đất nước.
=> Nhan đề hay, giàu ý nghĩa.
- Chủ đề tác phẩm: Khẳng định, ngợi ca mối liên hệ bền chặt, thiêng liêng giữa các thế
hệ trong gia đình, giữa những người con trong một gia đình Nam Bộ có truyền thống yêu
nước, căm thù giặc, thuỷ chung son sắt với q hương cách mạng. Chính sự gắn bó sâu
nặng giữa tình cảm gia đình với tình yêu nước, giữa truyền thống gia đình với truyền
thống dân tộc đã tạo nên sức mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam, dân tộc Việt
Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước.
Câu 4. Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi (SGK
Ngữ Văn 12, Tập 1,NXB Giáo Dục 2011)có nhắc đến cuốn sổ gia đình mà chú
Năm cất giữ và giao cho Chiến và Việt khi hai chị em chuẩn bị lên đường. Cuốn sổ
ấy có ý nghĩa như thế nào? Việc Chú Năm trao cuốn sổ cho Chiến và Việt đã
khẳng định điều gì?
- Giới thiệu truyện ngắn “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi
- Chi tiết cuốn sổ gia đình của Chiến và Việt là một sáng tạo độc đáo đầy ý nghĩa:
+ Là cuốn sổ ghi lại những đau thương mất mát và chiến cơng của gia đình được chú Năm
gìn giữ và ghi chép tỉ mỉ , chi tiết bằng nét chữ “lòng còng”,lời văn giản dị , mộc mạc.
+ Cuốn sổ là bằng chứng nóng hổi về tội ác của kẻ thù và sự kiên cường dũng cảm và
chiến cơng của gia đình, cuốn sổ là một kiểu gia phả, một hình thức giáo dục lịng tự hào
về truyền thống gia đình…
+ Chú Năm giao cuốn sổ cho Chiến và Việt khẳng định hai chị em đã trưởng thành để

gánh vác trách nhiệm và ghi tiếp truyền thống gia đình, hành động ấy cịn gửi gắm
niềm tin tưởng của chú Năm vào Chiến và Việt-khúc sông sau đầy mạnh mẽ của dịng
sơng truyền thống gia đình…
Câu 5. Chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú
Năm diễn ra trong hoàn cảnh nào? Ý nghĩa của chi tiết hai chị em Chiến và Việt
khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm.
20


a. Chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên nhà chú Năm
diễn ra trong hoàn cảnh
Việt và Chiến sinh ra trong một gia đình có truyền thống cách mạng, cha mẹ bị kẻ thù giết
hại dã man. Hai chị em sớm gánh trên vai mối thù sâu nặng. Họ đã tranh nhau tự nguyện
đi bộ đội để trả thù nhà đền nợ nước. Đêm hơm trước hai chị em đã bàn tính việc nhà ổn
thỏa. Buổi sáng hôm sau trước khi lên đường đi đánh giặc, chị Chiến và Việt đã khiêng
bàn thờ má sang gửi nhà chú Năm.
b. Ý nghĩa của chi tiết hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn thờ má sang gửi bên
nhà chú Năm
- Mang ý nghĩa tâm linh thiêng liêng, thể hiện đạo lí thờ ơng bà, cha mẹ, tổ tiên của dân
tộc ta; tấm lòng hiếu thảo, thành kính đối với cha mẹ.
- Lịng u nước, sự căm thù giặc, quyết tâm trả thù cho gia đình, quê hương làm nên sức
mạnh tinh thần to lớn của con người Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ.
- Thế hệ sau đã khôn lớn, trưởng thành và đủ sức gánh vác sứ mệnh mà cha ông giao phó.
- Nét riêng trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Thi, nhà văn thường chọn lọc những
chi tiết đời thường, bình dị mà giàu ý nghĩa để ca ngợi con người anh hùng cách mạng.
Câu 6. Hai chị em khiêng má băng tắt qua dãy đất cày trước cửa, men theo chân
vườn thoảng mùi hoa cam, con đường hồi trước má vẫn đi để lội hết đồng này sang
bưng khác.
Nêu ý nghĩa của hình ảnh con đường trong câu văn trên?
- Giới thiệu vị trí của câu văn: thuộc đoạn tả cảnh hai chị em Chiến và Việt khiêng bàn

thờ má sang gửi nhà chú Năm trước khi lên đường nhập ngũ. Đây là đoạn cảm động nhất
trong tác phẩm.
- Ý nghĩa của hình ảnh con đường:
+ Đó là con đường quen thuộc, men theo chân vườn thoảng mùi hoa cam mà má vẫn
từng đi qua.
+ Trước lúc ra trận, Việt và Chiến lại đi trên con đường ấy để khiêng bàn thờ má sang
gửi nhà chú Năm.
+ Đó cũng là con đường ra trận đánh giặc để trả thù cho gia đình và quê hương. Hai
chị em Chiến và Việt đang tiếp bước con đường chiến đấu của má.
+ Mỗi nẻo đường ra trận bắt nguồn từ mỗi mái nhà với bao yêu thương và những tình
cảm gia đình tốt đẹp.
+ Qua hình ảnh con đường, câu văn góp phần thể hiện một chân lý của chủ nghĩa anh
hùng cách mạng Việt Nam: Đó là sự chuyển giao, tiếp nối giữa các thế hệ đã tạo nên
sức mạnh tinh thần to lớn của dân tộc Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến
chống Mĩ.
Câu 7. Những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật (kể chuyện) của Nguyễn
Thi qua Những đứa con trong gia đình.
21


- “Những đứa con trong gia đình” được trần thuật chủ yếu qua dòng hồi tưởng miên man
đứt nối của nhân vật Việt khi bị trọng thương nằm lại chiến trường.
- Cách thức trần thuật ấy đã đem đến cho tác phẩm màu sắc trữ tình đậm đà, tự nhiên,
sống động. Đồng thời tạo điều kiện cho nhà văn có thể nhập sâu vào thế giới nội tâm của
nhân vật để dẫn dắt câu chuyện. Làm cho diễn biến của câu chuyện trở nên linh hoạt,
không phụ thuộc vào trật tự của thời gian tự nhiên, có thể xáo trộn không gian với thời
gian, từ những chi tiết ngẫu nhiên của hiện thực chiến trường mà gợi ra những dòng hồi
tưởng, liên tưởng đến quá khứ khi gần, khi xa, từ chuyện này sang chuyện khác hết sức tự
nhiên của nhân vật.
- Bút pháp Nguyễn Thi nghiêm ngặt, năng lực phân tích và diễn tả tâm lí sắc sảo, tinh tế.

Câu 8. Chất sử thi trong tác phẩm Những đứa con trong gia đình (Nguyễn Thi).
+ Chất sử thi của thiên truyện được thể hiện qua cuốn sổ của gia đình với truyền thống
yêu nước, căm thù giặc, thủy chung son sắt với quê hương.
+ Cuốn sổ là lịch sử gia đình mà qua đó thấy lịch sử của một đất nước, một dân tộc
trong cuộc chiến chống Mĩ.
+ Số phận của những đứa con, những thành viên trong gia đình cũng là số phận của
nhân dân miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mĩ khốc liệt.
+ Truyện của một gia đình dài như dịng sơng cịn nối tiếp. "Trăm dịng sơng đổ vào
một biển, con sơng của gia đình ta cũng chảy về biển, mà biển thì rộng lắm…, rộng bằng
cả nước ta và ra ngoài cả nước ta…". Truyện kể về một dịng sơng nhưng nhà văn muốn
ta nghĩ đến biển cả. Truyện về một gia đình nhưng ta lại cảm nhận được cả một Tổ quốc
đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.
+ Mỗi nhân vật trong truyện đều tiêu biểu cho truyền thống, đều gánh vác trên vai trách
nhiệm với gia đình.
Câu 9. Đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn Những đứa con trong gia đình.
- Xây dựng tình huống truyện đắc sắc: Việt rơi vào tình huống đặc biệt.Trong trận đánh
tại cánh rừng cao su, Việt bị thương, lạc đồng đội, ngất đi tỉnh lại nhiều lần
- Nghệ thuật trn thut qua dòng hồi tởng miên man đứt nối của nhân vật Việt khi bị trọng
thơng nằm lại chiến trêng
- Biệt tài xây dựng tính cách nhân vật: Nhân vật vừa có những nét chung lại vừa có gương
mặt, cá tính riêng.
- Nghệ thuật phân tích và diễn tả tâm lí sắc sảo, tinh tế.
- Ngơn ngữ phong phú, góc cạnh, đậm chất Nam Bộ.
2. Dạng câu hỏi 5 điểm:
Câu 10. Trong truyện Những đứa con trong gia đình, Nguyễn Thi có nêu lên quan
niệm: Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi
trăm con sơng của gia đình lại trở về một biển, … mà biển thì rộng lắm (…), rộng
bằng cả nước ta và ra cả ngoài nước ta….
22



Anh (chị) có cho rằng, trong thiên truyện của Nguyễn Thi quả đã có một dịng
sơng truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước: tổ tiên, ông cha, cho
đến lớp người đi sau - chị em Chiến, Việt?
Các ý cơ bản
1. Chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc:
- So sánh chuyện gia đình dài như sơng với dịng chảy liên tục từ thế hệ trước sang
thế hệ sau.
- Chỉ được coi là con của gia đình khi những ai đã ghi được, làm được "khúc" của
mình trong dịng sơng truyền thống. Con cái trong gia đình khơng chỉ là sự tiếp nối huyết
thống mà phải là sự tiếp nối truyền thống.
- Khơng thể hiểu khúc sau của một dịng sơng nếu khơng hiểu ngọn nguồn đã sinh
ra nó. Cũng như vậy, ta chỉ có thể hiểu những đứa con (Chiến, Việt) khi hiểu truyền thống
gia đình đã sinh ra những đứa con ấy.
Chứng minh:
- Truyền thống ấy chảy từ các thế hệ ông bà, cha mẹ, cô chú đến những đứa con, mà
kết tinh ở hình tượng chú Năm:
+ Chú Năm khơng chỉ ham sơng bến mà cịn ham đạo nghĩa. Trong con người chú
Năm phảng phất cái tinh thần Nguyễn Đình Chiểu xa xưa.
+ Chú Năm là một thứ gia phả sống luôn hướng về truyền thống, sống với truyền
thống, đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống (trong những câu hị, trong cuốn
sổ gia đình).
- Hình tượng người mẹ cũng là hiện thân của truyền thống:
+ Một con người sinh ra để chống chọi với gian nguy, khó khăn thử thách.
+ Một con người sinh ra để chống chọi với gian nguy, khó nhọc "cái gáy đo đỏ, đôi
vai lực lưỡng, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi". "người sực mùi lúa gạo" thứ mùi của đồng áng,
của cần cù mưa nắng.
+ Ấn tượng sâu đậm nhất là khả năng ghìm nén đau thương để sống, để che chở cho
đàn con và tranh đấu.
+ Người mẹ không biết sợ, không chùn bước, kiên cường và cao cả.

- Những đứa con đã tiếp nối truyền thống:
+ Chiến mang dáng vóc của mẹ, cách nói in như má.
- >So với má thì Chiến là khúc sơng sau. Khúc sông sau bao giờ cũng chảy xa hơn
khúc sông trước. Người mẹ mang nỗi đau mất chồng nhưng chưa có dịp cầm súng, cịn
Chiến mạnh mẽ quyết liệt, ghi tên đi bộ đội cầm súng trả thù cho ba má.
+ Việt là chàng trai mới lớn, lộc ngộc, vô tư. Chất anh hùng ở Việt: không bao giờ
biết khuất phục; bị thương chỉ có một mình vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù.
-> Việt đi xa hơn dòng sông truyền thống: không chỉ lập chiến công mà ngay cả khi
bị thương vẫn là người đi tìm giặc. Việt chính là hiện thân của sức trẻ tiến cơng.
2. Rồi trăm con sơng của gia đình lại cùng đổ về một biển, "mà biển thì rộng
lắm [....], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta".
23


+ Điều đó có nghĩa là: từ một dịng sơng gia đình nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả,
đến đại dương của nhân dân và nhân loại.
+ Chuyện gia đình cũng là chuyện của cả dân tộc đang hào hùng chiến đấu bằng sức
mạnh sinh ra từ đau thương.
Câu 11. Phân tích hình tượng hai chị em Chiến và Việt trong tác phẩm Những
đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi.
a. Nét tính cách chung của hai chị em:
- Cùng sinh ra trong một gia đình chịu nhiều mất mát đau thương (cùng chứng kiến cái
chết đau thương của ba và má).
- Có chung mối thù với bọn xâm lược. Tuy cịn nhỏ tuổi, chí căm thù đã thơi thúc hai
chị em cùng một ý nghĩ: phải trả thù cho ba má, và có cùng nguyện vọng được cầm súng
đánh giặc.
- Tình yêu thương là vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em. Tình cảm này được thể hiện sâu
sắc và cảm động nhất trong cái đêm chị em giành nhau ghi tên tịng qn và sáng hơm sau
trước khi lên đường nhập ngũ cùng khiêng bàn thờ má sang nhà chú Năm
- Đều là những chiến sĩ gan góc dũng cảm. Đánh giặc là niềm say mê lớn nhất của hai

chị em Việt và Chiến cũng là của tuổi trẻ miền Nam trong những năm tháng ấy: "Hạnh
phúc của tuổi trẻ là trên trận tuyến đánh quân thù".
- Đều có những nét rất ngây thơ thậm chí có phần trẻ con (giành nhau bắt ếch nhiều hay
ít, giành nhau thành tích bắn tàu chiến giặc và giành nhau ghi tên tịng qn).
b. Nét riêng ở Chiến:
- Chiến có những nét giống má: Kế thừa ở má sự khỏe khoắn về thể chất, sự mạnh
mẽ về tinh thần.
+ Mang vóc dáng của má: "hai bắp tay trịn vo sạm đỏ màu cháy nắng… thân người to
và chắc nịch".
+ Đặc biệt giống má ở cái đêm sắp xa nhà đi bộ đội:
. Biết lo liệu, toan tính mọi việc nhà (“nói nghe in như má vậy”), đảm đang, tháo vát
. Hình ảnh người mẹ như bao bọc lấy Chiến, từ cái lối nằm với thằng út em trên giường ở
trong buồng nói với ra đến lối hứ một cái "cóc" rồi trở mình.
. Chính Chiến cũng thấy mình trong đêm ấy đang ùa vào trong mẹ: "Tao cũng đó lựa ý
nếu má cũng sống chắc má tính vậy, nên tao cũng tính vậy".
- Có tính cách đa dạng:
+ Là một cơ gái vừa mới lớn nên tính khí cũng rất “trẻ con”
+ Là một người chị biết nhường nhịn em, giàu đức hi sinh: Hơn Việt chừng một tuổi
nhưng Chiến người lớn hơn hẳn. Tính cách "người lớn" ở Chiến cịn thể hiện ở sự nhường
nhịn. Tuy có lúc giành nhau với em tranh công bắt ếch, đánh tàu giặc, đi tịng qn nhưng
cuối cùng bao giờ cơ cũng nhường em hết trừ việc đi tòng quân.
+ Chăm chỉ, tần tảo, kín đáo, biết lo toan, đảm đang, tháo vát: Chiến có thể bỏ ăn để
đánh vần cuốn sổ gia đình. Chiến khơng chỉ "nói in như má" mà cịn học được cách nói
"trọng trọng" của chú Năm
24


+ Là chiến sĩ giải phóng quân anh hùng, hiên ngang: Chiến đó lập nên nhiều chiến cơng
lớn.
- Nét khác biệt so với người mẹ:

+ Trẻ trung, thích làm duyên làm dáng
+ Đươc trực tiếp cầm súng đánh giặc để trả thù nhà, thực hiện lời thề như dao chém: “Đã
là thân con gái ra đi thì tao chỉ có một câu: Nếu giặc cịn thì tao mất”.
=>Nguyễn Thi đã xây dựng nhân vật Chiến vừa có cá tính vừa phù hợp với lứa tuổi, giới
tính. Chiến là nhân vật được hồi tưởng qua Việt nhưng đã gây được ấn tượng sâu sắc .
c. Nét riêng ở Việt:
- Là một cậu con trai mới lớn, tính tình cịn trẻ con, ngây thơ, hiếu động:
+ Chiến hay nhường nhịn bao nhiêu thì Việt tranh giành phần hơn với chị bấy nhiêu: đi
bắt ếch, giết giặc, đi bộ đội …
+ Thích đi câu cá, bắn chim, đến khi đi bộ đội vẫn cũng đem theo ná thun trong túi.
+ Đêm trước ngày lên đường: Trong khi chị đang toan tính, thu xếp chu đáo mọi việc
(từ út em, nhà cửa, ruộng nương đến nơi gửi bàn thờ má), bàn bạc trang nghiêm thì Việt
vơ lo vơ nghĩ:
• Vơ tư “lăn kềnh ra ván cười khì khì”
• vừa nghe vừa “chụp một con đom đóm úp trong lịng bàn tay”
• ngủ qn lúc nào không biết
+ Cách thương chị của Việt cũng rất trẻ con: “giấu chị như giấu của riêng” vì sợ mất chị
trước những lời đùa của anh em.
+ Bị thương nằm lại chiến trường: sợ ma cụt đầu, khi gặp lại anh em thì như thằng Út ở
nhà “khóc đó rồi cười đó”.
- Việt là chàng trai có tâm hồn nhạy cảm, trái tim nhân hậu, giàu tình yêu thương:
+ Dù bị thương khơng nhìn thấy vẫn cảm nhận được thế giới xung quanh
+ Dù ngất đị tỉnh lại nhiều lần Việt luôn hồi tưởng và nhớ về những người thân yêu: ba
má, chú Năm, chị Chiến, đồng đội thân yêu
- Vừa là một chiến sĩ đường hoàng, dũng cảm, kiên cường:
+Khi cịn nhỏ: Cứ xơng thẳng vào đá thằng giặc đã giết hại cha mình
+ Lớn lên: nhất quyết đòi đi tòng quân để trả thù cho ba má
+ Khi xung trận: chiến đấu rất dũng cảm, dùng pháo tiêu diệt được một xe bọc thép của
giặc.
+ Khi bị trọng thương: một mình giữa chiến trường, mặt khơng nhìn thấy gì, tồn thân rỏ

máu nhưng vẫn trong tư thế quyết chiến tiêu diệt giặc.
“Tao sẽ chờ mày … Mày cứ bắn tao thì tao cũng bắn được mày … Mày chỉ giỏi giết
gia đình tao, cịn đối với tao thì mày là thằng chạy”
= >Việt là một thành cơng đáng kể trong cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Thi. Tuy
còn hồn nhiên và còn bé nhỏ trước chị nhưng trước kẻ thù Việt lại vụt lớn, chững chạc
trong tư thế của một người chiến sĩ.
= > Chiến và Việt là khúc sông sau nên đi xa hơn trong cả dịng sơng truyền thống.
d. Hình ảnh chị em Việt khiêng bàn thờ ba má sang gửi chú Năm.
25


×