Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn 2001 đến 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.46 KB, 42 trang )

Lời nói dầu
Gắn liền với công cuộc đổi mới & mở cửa của nước ta, có nhiều yêu cầu cần giải
quyết cùng lúc như: vừa ổn định vừa phát triển KT trong nước,vừa mở rộng giao lưu,
quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài,nhu cầu mở rộng lượng tiền cung ứng
ngày càng lớn dẫn đến sự xác lập quan hệ cung-cầu mới về tiền, trong khi đó vẫn phải
tiếp tục ổn định KT Vĩ mô với hạt nhân là ổn định tiền tệ,tạo lập nền tảng cho sự phát
triển chung.
Ngày nay, không còn ai có thể phủ nhận rằng: bằng việc điều chỉnh tiền tệ cho phù
hợp với nhu cầu của nền KT, là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức quản lý
các hệ thống tiền tệ phải tuân thủ& chính sách tiền tệ phải theo đuổi.
Xét về toàn cảnh, thị trường tai chính thế giới trong những năm qua thì bức tranh
Thị trường tài chính khá là sáng sủa. Thế giới đã chứng kiến sự hồi phục nhanh chóng
của các nền KT từ châu á đến châu âu &châu Mỹ sau cuộc khủng hoảng tài chính châu
á vào năm 1997.
Bước vào thế ki 21, Việt Nam xác định mục tiêu tăng trưởng KT &công bằng XH,
vì vậy việc lựa chọn giai pháp nào để xây dựng &điêù hành chính sách tiền tệ quốc gia
có hiệu quả nhất vẫn là 1 vấn đề khó khăn,phức tạp.
Qua quá trình học tập &rèn luyện môn Lý thuyết tài chính tiền tệ, em xin mạnh
dạn trình bày Đề án môn học lý thuyết tài chính tiền tệ với đề tài : “Những giải pháp

nhằm nâng cao hiệu quả của Chính sách tiền tệ của Việt Nam trong giai đoạn
2001 đến 2010”.
Phần I:

Lý luận chung về chính sách tiền tệ& các công cụ của CSTT

Phần II: Thực trạng điều hành Chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
PhầnlII: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng CSTT


Phần I: Lý luận chung về chính sách tiền tệ


và các công cụ của nó

I.

Tổng quan về chính sách tiền tệ

1.

Khái niệm về CSTT&Vai trò của chính sách tiền tệ.
Chính sách tiền tệ là tổng thể các biện pháp của nhà nước pháp quyền nhằm mục

đích:
- Cung ứng cho nền kinh tế phưcmg tiện thanh toán cần thiết
- Tạo ra khuôn khổ tiền tệ cho mối quan hệ kinh tế trong và ngoài nước.
Tại mỗi một quốc gia, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống tài
chính& ngân hàng, NHTW là cơ quan chủ chốt, thiết kế và quyết định chính sách tiền
tệ. Dù với tên gọi khác nhau (NHTW, NHNN, Hệ thống dự trữ lên bang...), nhưng tất cả
chúng đều có chung một tính chất là cơ quan trong bộ máy quản lý Nhà nước, độc
quyền phát hành tiền, thực hiện nhiệm vụ cơ bản là ổn định giá trị tiền tệ, thiết lập trật
tự, bảo dảm sự hoạt động an toàn và ổn định và hiệu quả của toàn bộ hệ thống ngân
hàng nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế vĩ mô của mỗi đất nước.
Hoạch định và thực thi chính sách tiền tệ là nhiệm vụ trung tâm, là “linh hồn” của
NHNW trong lĩnh vực tiền tệ. Điều hành chính sách tiền tệ của NHTW trong nền kinh
tế thị trường mang tính chất điều tiết vĩ mô, hướng các tổ chức tín dụng vào thực hiện
các mục tiêu của chính sách tiền tệ, đồng thời vẫn đảm bảo tính tự chủ trong hoạt động
kinh doanh của các tổ chức tín dụng. NHTW thường không can thiệp và không ra lệnh
trực tiếp vào các quyết địng tác nghiệp của các tổ chức tín dụng mà chủ yếu sử dụng các
biện pháp tác động gián tiếp để điều chỉnh môi trường và các điều kiện kinh doanh của
các tổ chức tín dụng như: khả năng thanh toán, lãi suất chiết khấu, dự trữ, khối lượng
tiền cung ứng, tỷ giá... để thông qua đó đạt tối mục tiêu của chính sách tiền tệ.

Đe điều hành chính sách tiền tệ, NHTW phải hình thành và sử dụng hệ thống công
cụ của nó. Đặc điểm của các công cụ chính sách tiền tệ là tạo cho NHTW khả năng tác
động có hiệu lực đến các yếu tố tiền đề buộc các tổ chức tín dụng phải tự điều chỉnh


hoạt động của mình theo hướng chỉ đạo của NHTW nhưng vân phải đảm bảo quyên tự
chủ trong kinh doanh cũng như sự bình đẳng trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân
hàng.
2.

Mục tiêu cùa chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là tổng hoà các phương thức mà Ngân hàng Trung ương

(NHTW) thông qua các hoat động của mình tác động đến khối lượng tiền tệ trong lưu
thông nhằm phục vụ cho mục tiêu kinh tế xã hội của đất nước trong một thời ki nhất
định.
Trong từng hoàn cảnh cụ thể, đồi với từng quốc gia thì việc đề ra chính sách tiền tệ
cũng có những điểm khác biệt. Xét về mặt tổng thể chính sách tiền tệ của các quốc gia
trên thế giới hướng vào các mục tiêu chủ yếu là:
a. Công ăn việc làm cao.
Việc làm cao là một mục tiêu có giá trị bởi 2 lý do chính:
-Trường hợp ngược lại, thất nghiệp cao gây ra gánh nặng tài chính cho gia đình và
toàn thể XH.
-Khi thất nghiệp cao, nền KT không những có nhiều lao động ngồi không mà còn
có những nguồn tài nguyên để không,gây lãng phí& không làm tăng được sản lượng
tiềm năng của quóc gia.
Mục tiêu của việc làm cao do đó không phai là một con số không thất nghiệp mà
là một mức trên số không phù hợp với việc làm đầyđủ mà tại đó cầu lao động bằng với
cung lao động.Người ta gọi đó là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Việc làm nhiều hay ít, tăng
hay giảm phụ thuộc chủ yếu vào tình hình tăng trường KT.Tuỳ theo tình hình đó mà

NHTW phảivận dụng các công cụ của mình góp phần tăng cường mở rộng đằut sản xuất
kinh doanh,đồng thời tha, gia tích cực vào sự tăng trưởng liên tục và ổn định,khống chế
tỷ lệ thất nghiệp không tăng quá mức tự nhiên.
b. Tăng trưởng KT.
Mục tiêu tăng trưởng kt quan hệ chặt chẽ với mục tiêu việc làm cao.Các chính
sách có thế tập trung vào kích thích đầu tư vào sx kinh doanh.
Tăng trưởng KT là mục tiêu hàng đầu và quan trọng nhất của chính sách tiền tệ.


Với tư cách là trung tâm tiền tệ tín dụng& thanh toán trong nền kinh tế quốc dân,
NHTW có vai trò quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu này. NHNN Việt Nam cần
bằng mọi phưcmg thức để có thể huy dộng được hầu hết các nguồn vốn nhàn rồi trong
và ngoài nước để phục vụ cho mục tiêu này.Mục tiêu từ năm 2000 trở đi tốc độ tăng
trưởng hàng năm phải đạt từ 9-!0%. Đó là mức tăng trưởng cao đòi hỏi sự gia tăng đầu
tư hàng năm hàng chục tý USD.
c. về ổn định giá cả,kiểm chế lạm phát.
Khi giá cả ổn định, lạm phát ở mức thấp thu nhập thực tế của người dân được nâng
cao, đời sống nhân dân được cải thiện, đầu tư cho nền KT cũng được đảm bảo, tăng
trưởng KT thực dương. Ngược lại, khi lạm phát ở mức cao,thu nhập của người dân bấp
bênh, nguy cơ khủng hoảng KT cao.Chính vì vậy mà mục tiêu này được xem là một
trong những mục tiêu quan trọng nhất trong CSTT. Mục tiêu tăng trưởng KT luôn luôn
gắn liền với mục tiêu ổn định giá cả kiềm chế lạm phát.
d. Mục tiêu ổn định lãi suất:
Tất cả các quốc gia đều mong muốn một sự ổ định về lãi suất.Vì lãi suất có ảnh
hưởng lớn đến đầu tư và tăng trưởng,ảnh hưởng đến các luồng vốn,ngoại tệ..Chính vì
thế, ổn định lãi suất tạo ra thế ổn định cho các lĩnh vực như tín dụng, đầu tư, sự di
chuyển vốn..dẫn đến ổn định chung cho nền KT.
Lãi suất chính là một trong những công cụ quan trọng nhất của CSTT. Đe cho nền
KT được ổn định đòi hỏi CSTT phải đưa ra một hệ thống lãi suất mềm dẻo đúng
đắn,phù hợp với sự vận động của cơ chế thị trường.

e. về ốn định thị trường tài chính:
Việc toạ ra một nền tảng tài chính ổn định để hệ thống NH& các tổ chức tín dụng
có thể hoạt động một cách có hiệu quả và hỗ trợ một cách tốt nhất cho tăng trưởng KT
cao,lạm phát thấp, cũng như hạn chế những khuyết tật của hệ thống tài chính là mục
tiêu chủ đạo của chính sách tiền tệ. NHTW phải điều hoà hoạt động của hệ thống TC
trong nước một cách gián tiếp,tăng cường hiệu quả cho nó.
Bản thân hệ thống TC cũng có những mục tiêu riêng của nó và nhiều khi những
mục tiêu này lại đối chọi với các mục tiêu chung của nền KT. Do đó vai trò của CSTT
là làm hài hoà một cách tối ưu giữa các mục tiêu trên,để phục vụ tốt nhất cho lợi ích


chung của nền KT mà không làm tổn hại hay hạn chế sự phát triển của hệ thống TC.
f.

Mục tiêu ổn đinh thị trường ngoại hối:
Nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền quốc gia,NHTW thực hiện cấ nhiệm

vụ giao dịch về TC và Tiền tệ đối ngoại bằng các phưorng diện: quản lý ngoại hối,lập và
theo dõi diễn biến của cán cân thanh toán quốc tế, thực hiện các nghiệp vụ hối đoái. Tổ
chức và điều tiết thị trường hối đoái trong nước, xây dựng và thống nhất quản lý dự trữ
ngoại hối của đất nước,tiến hành kinh doanh ngoại hối trên thị trường ngoại hối quốc
tế.cần thiết lập mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế nhằm tìm kiếm các
nguồn vốn có thể huy động được(viện trợ,vay nợ,vay ưu đãi,thu hút đầu tư,thu hút kiều
hối..).
Chính sách tiền tệ góp phần nhiều vào việc thực hiện các mục tiêu trên lại mâu
thuẫn nhau, cụ thể chỉ có thể đạt được một mục tiêu khi chấp nhận sự cắt giảm nhất định
đối với mục tiêu khác. Chẳng hạn muốn kiềm chế lạm phát thì sẽ phải chấp nhận nạn
thất nghiệp tăng lên... Vì vậy tuỳ theo việc hướng vào mục tiêu nào là chính mà người
ta có thể coi chính sách tiền tệ là chính sách ổn định giá cả, chính sách tạo việc làm,
chính sách cân bằng cán cân thanh toán hay chính sách tăng trưởng kinh tế.

Để đạt được những mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ NHTW phải xác
định các mục tiêu trung gian. Bởi lẽ NHTW sử dụng các mục tiêu trung gian để có thể
xét đoán nhanh chóng được tình hình hoạt đoọng của mình phục vụ cho các mục tiêu
cuối cùng, hcm là chờ cho đến khi thấy được kết quả cuối cùng của các mục tiêu đó.
Mục tiêu trung gian là điều tiết cung tiền thông qua chi phối dòng tiền chu chuyển và
khối lượng tiền.Tuỳ theo điều kiện cụ thể của từng nước mà các khối tiền tệ có thể là
M1,M2, M3.
3.

Nội dung của chính sách tiền tệ.
Xét cho cùng NHTW có thể thực thi hai loại chính sách tiền tệ phù hợp với tình

hình thực tiễn của nền kinh tế:
- Chính sách mở rộng tiền tệ: là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế nhằm
khuyến khích đầu tư phát triển sản xuát tạo công ăn việc làm.
Chính sách này được đưa ra trong trường hợp nền KT trì trệ,tăng trưởng thấp.Nó
tạo ra không khí tiêu dùng mạnh mẽ kích thích đầu tư và tăng trưởng KT.


- Chính sách thắt chặt tiền tệ: là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm
khuyến khích đầu tư, ngăn chặn sự phát triển quá đà của nền kinh tế và kiềm chế lạm
phát. Chính sách này được đưa ra nhằm ngăn trăn tình trạng phát triển quá nóng của nền
KT. Nó tạo ra sự khan hiếm về tiền, sự đắt đỏ về chi phí, làm giảm tốc độ tăng trưởng
quá nhanh, tạo ra một sự phát triển bền vững.
Trong nền KT thị trường, CSTT bao gồm 3 thành phần cơ bản gắn liền với 3 kênh
dẩn nhập tiền vào lưu thông. Đó là:
+Chính sách tín dụng
+Chính sách ngoại hối
+Chính sách đối với ngân sách nhà nước
a. Chính sách tín dụng:

Thực chất CSTD là cung ứng phương tiện thanh toán cho nền kinh tế quốc dân,
thông qua các nghiệp vụ ngân hàng, dựa trên các quỹ cho vay được tạo lập từ các
nguồn tiền gửi của XH và với một hệ thống lãi suất mềm dẻo, phù hợp với sự vận động
của cơ chế thị trường.
h. Chính sách ngoại hoi:
Nhằm đảm bảo việc sử dụng co hiệu quả các tài sản có giá trị thanh toán đối
ngoạiphục vụ cho việc ổn định tiền tệ, thúc đẩy tăng trưởng KT bền vừng và gia tăng
việc làm trong xã hội,đảm bảo chủ quyền tiềntệ của đất nước.
c. Chính sách đoi với ngân sách nhà nước:
Nhằm đảm bảo phương tiện thanh toán cho chính phủ trong trường họp Ngân sách
nhả nước bị thiếu hụt. Phương thức tối ưu là NHTW cho ngân sách nhà nước vay
theokỳ hạn nhất định, Dần dần tiến tới loại bỏ hoàn toàn phát hành tiền để bù đắp thiếu
hụt ngân sách.
Ngân sách nhà nước có thể ở ba trạng thái,đó là thâm hụt ngân sách, cân bằng
ngân sách & thặng dư ngân sách.
- Trong trường hợp NSNN bị thiếu hụt, chênh lệch giữa thu và chi ngân sách sẽ có
những tác dụng khác nhau đến nền KT, tuỳ theo các tác động đó mà có các cách thức để
giảm bớt sự thiếu hụt:


Một làvay dân cư ;
Hai là vay từ hệ thống tín dụng và thị trường TC trong nước;
Ba là vay NHNN;
Bốn là vay nước ngoài;
Việc vay của NHTW& vay nước ngoài sẽ làm tăng mạnh khối tiền tệ gây ra các áp
lực tiềm tàng về sau. Vay của dân cư& của các NHTM trong nước sẽ làm cho các nguy
cơ trên giảm đi. Hiện nay, áp lực lạm phát tại các nước đang& kém phát triển cao hơn
so với các nước phát triển do họ bù đắp thâm hụt ngân sách chủ yếu bằng các biện pháp
phát hành tiền& vay nợ nước ngoài.
- Trong trường họp NSNN cân bằng, khi chính phủ thu thuế tức là đã lấy ra khỏi

lưu thông một lượng tiền và chi tiêu trở lại số tiền đó vào bộ may kinh tế. khối lượng
tiền không thay đổi vì nó được tăng giảm một lượng như nhau.Tuy nhiên, nó có thể làm
thay đổi kết cấu giữa tiêu dùng và tiết kiệm, chẳng hạn nếu tầng lớp chịu thuế không
giảm tiêu thụ mà giảm tiết kiệm, trong khi đó CP phải dùng số thuế thu được trợ cấp
cho những người có thu nhập thấp thì số tiêu thụ chung lại gia tăng, số đầu tư giảm và
kết quả là làm tăng khả năng tăng vật giá. Nêú Nhà nước dùng số chi ngân sách để đầu
tư của nhà nước tăng lên, đầu tư chung không đổi, lưu ý hai trường hợp:
Thứ nhất, nếu CSTT chống lạm phát,ngân sách thăng bằng vãn có thể tác dụng
ngược với CSTT chống suy thoái.
Thứ hai, Trường hợp CSTT nhằm chống suy thoái, Ngân sách cân bằng vẫn có thể
chuyển dịch thu nhập tiền tệ theo hướng góp phần chống suy thoái bằng cách làm tăng
mức tiêu thụ.
- Trường hợp NS thặng dư: Đây là trường hợp rất có lợi vì nó rút bớt khối tiền tệ
dư thừa, tác động có lợi cho mối tương quan giữa tổng cung và tổng cầu.
Đế thực hiện tốt các mục tiêu và nội dung như đã nêu ở trên, bản thân CSTT phải
sử dụng một cách có hiệu quả nhất các công cụ mà nó có được. Các công cụ đó bao
gồm cả các ưu và nhược đlúm.Vì vậy trong khi sử dụng cần hết sức lưu ý,tránh tình
trạng quá đà không kiểm soát nổi để chúng gây phản tác dụng, gây ra những hậu quả
khó lường đối với nền KT.


ũ. Các công cụ chính sách tiền tệ và ưu nhược điếm của nó.
Đe việc nghiên cứu và phân tích thuận lợi chúng ta chia các công cụ chính sách
tiền tệ thành các công cụ trực tiếp và các công cụ gián tiếp.
1.

Các công cụ trực tiếp.
Các công cụ sau được gọi là các công cụ trực tiếp bởi vì thông qua chúng,

NHNNcó thể tác động trực tiếp tới cung cầu tiền tệ mà không cần phải thông qua các

công cụ khác.
a. Lãi suất tiền gửi và cho vay.
Lãi suất là con át chủ bài tác động đến đầu tư và tiêu dùng là hành lang mà từ đó
những sự thay đổi trong cung ứng tiền dẫn đến sự thay đổi trong kinh tế vĩ mô.
NHTW có thể qui định khung lãi suất tiền gửi và cho vay trên thị trường nhưng
thông qua cơ chế điều chỉnh cung cầu tiền tệ. Nếu lãi suất tiền gửi cao sẽ thu hút được
nhiều tiền gửi làm tăng nguồn vốn vay, ngược lại sẽ làm giảm khả năng mở rộng kinh
doanh tín dụng. Khi muốn tăng khối lương cho vay, NHTW giảm mức lãi suất cho vay
để kich thích các nhá đầu tư vay vốn, khi cần hạn chế đầu tư NHTW sẽ ấn định mức lãi
suất cao.
Tuy nhiên, biện pháp này làm cho các NHTM mất tính chủ động, linh hoạt trong
kinh doanh. Mặt khác, nó dễ dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn ờ Ngân hàng, nhưng lại
thiếu vốn đầu tư hoặc khuyến khích dân cư dùng tiền để dự trữ vàng, ngoại tệ, bất động
sản trong khi ngân hàng bị thiếu hụt về tiền mặt cũng như nguồn cho vay.
Biện pháp này có ưu điểm là giúp Ngân hàng lựa chọn những dự án kinh tế tối ưu
để cho vay, loại bỏ các dự án kém hiệu quả nhưng nó cũng làm cho tính linh hoạt của
thị trường tiền tệ bị suy giảm, các NHTM bị động trong kinh doanh.

Ngày nay

biện pháp này ít được sử dụng ở các nước theo cơ chế thị trường bời trong cơ chế thị
trường lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nó phải được vận động theo quan hệ cung cầu
vốn trên thị trường.
h. Hạn mức tín dụng:
Đây là một biện pháp mạnh, có hiệu lực đáng kể, được áp dụng ở rất nhiều quốc
gia trên thế giới.
Thực chất biện pháp này cho phép NHTW ấn định trước khối lượng tín dụng phải


cung cấp cho nền kinh tế trong một thời gian nhất định và sau đó tìm đường để đưa nó

vào trong nền kinh tế. Khi NHTW xác định hạn mức tín dụng thì căn cứ vào các chỉ tiêu
như tốc độ tăng trưởng kinh tế; biến động của chỉ số giá cả; biến động của tỷ giá; tỷ lệ
thất nghiệp trong nền kinh tế; bội chi ngân sách gián tiếp điều tiết cung cầu tín dụng.
Trong những trường họp khẩn cấp của sức ép lạm phát tăng nhanh, NHTW kiểm soát
tất cả những khoản vay lớn của các NHTM& hạn chế các khoản vay khác như vay tiêu
dùng, vay cầm cố,vay trả chậm...Song trong nền kinh tế thị trường, cung cầu tín dụng
biến đổi không ngừng, biện pháp này chỉ được áp dụng một cách hạn chế khi tình huống
yêu cầu.
Biện pháp này bộc lộ khá nhiều nhược điểm, nó triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa
các NHTM, có tính chất đánh đồng các hoạt động tốt và hoạt động yếu. Trong thực
tế, doanh số cho vay hoặc tồn tại dư nợ của các NHTM thông thường thấp hơn hạn mức
tín dụng vì có NHTM huy động vốn tốt thì sử dụng hết hạn mức tín dụng còn những
ngân hàng hoạt động yếu kém thì không sử dụng hết hạn mức này, đặc biệt khi hệ thống
ngân hàng hoạt động chưa tốt thì con số thực tế cho vay của NHTM khác nhiêù so với
con số dự kiến, từ đó không phát huy được vai trò quản lý của NHTW. Biện pháp này
có thể làm sai lệch cơ cấu đầu tư trong nền kinh tế bởi với hạn mức tín dụng được
NHTW qui định thì các NHTM sẽ tìm đến dự án đầu tư lớn, những lĩnh vực đầu tư dễ
sinh lợi nhuận gây ra khó khăn vốn trong các doanh nghiệp nhỏ.
c. Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và đầu tư, phát hành trái phiếu:
Như đã xét ở trên, khi NSNN bị thiếu hụt thì một trong các biện pháp giải quyết
đó là phát hành tiền. Rõ ràng là biện pháp này làm tăng lượng tiền trong lưu thông,
trong khi lượng hàng hoá không tăng hoặc tăng không kịp dãn đến hậu quả tất yếu là
lạm phát. Chính vì vậy mà công cụ nay hoàn toàn không nên sử dụng.
Phát hành trực tiếp cho đầu tư có thể thông qua con đường NSNN hoặc là bằng
con đường tín dụng ngân hàng.Biện pháp này còn được gọi là biện pháp ứng trước cho
sản xuất,là một biện pháp tốt trong trường hợp nền KT suy thoái,dư thừa tiềm năng.Nó
sẽ mang lại hiệu quả tích cực, khơi dậy các tiềm năng về tài nguyên và con người.
Trong điều kiện các biện pháp khác không thuận lợi, Nhà nước muốn làm giảm
lượng tiền trong lưu thông, có htể phát hành một lượng nhất định trái phiếu CP để thu
hút khối lượng tiền trong lưu thông.



Bên cạnh các công cụ trực tiếp trên, CSTT còn bao gồm các công cụ gián tiếp tác
động đến cung cầu tiền tệ thông qua các tác động của thị trường tiền tệ.
2.

Các công cụ gián tiếp
a. Dự trữ hắt buộc
Dự trữ bắt buộc là khoản tiền gửi của các NHTM ở NHTW, mức tiền gửi này do

pháp luật qui định bằng một tỷ lệ nhất định so với các khoản nợ của ngân hàng. Thông
qua việc thay đổi mức dự trữ bắt buộc NHTW tác động tới việc cung cấp tiện tệ cho nền
kinh tế quốc dân. Nếu NHTW tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên thì khả năng tín dụng của
NHTM sẽ giảm xuống. Mặt khác, để bù lại phần lãi suất đó ( do quỳ tiền gửi NHTW
không được tính lãi ) các ngân hàng phải tăng lãi suất tín dụng do vậy mức tín dụng
cung ứng cho nền kinh tế sẽ giảm xuống. Việc tăng lên hay giảm xuống quỹ dự trữ bắt
buộc sẽ làm giảm hoặc tăng lương tiền cung ứng cho nền kinh tế qua cơ chế tạo tiền của
hệ thống ngân hàng. Vì vậy đó là một công cụ tiềm tàng của chính sách tiền tệ. Ngoài ra
dự trữ bắt buộc còn đảm bảo việc thanh toán thường xuyên của các NHTM.
Điểm lợi chính của công cụ này là nó tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau
và có tác dụng đâỳ quyền lực đến cung ứng tiền tệ. Tuy nhiên khi dự trữ bắt buộc không
được trả lại, chúng tương đương với một khoản thuế và có thể dẫn đến hiện tượng phi
trung gian hoá. Mặt khác bự trừ bắt buộc thiếu tính mềm dẻo bởi sẽ rất vất vả để thực
hiện được những thay đổi nhỏ trong cung ứng tiền tệ bằng cách thay đổi dự trữ bắt
buộc. Một điểm bất lợi khác nữa của việc sử dụng dự trữ bắt buộc để kiểm soát việc
cung ứng tiền tệ là việc tăng dự trữ bắt buộc cói thể gây ảnh hường xấu đến khả năng
thanh khoản của các NHTM, gây ra tình trạng không ổn định cho các ngân hành. Chính
vì vậy công cụ dự trữ bắt buộc thường không được khuyến khích và ít được sử dụng.
b. Lãi suất chiết khấu.
Chính sách lãi suất chiết khấu là chính sách NHTW cho các NHTM vay dưới

nhiều hình thức tái chiét khấu tức là hình thức NHTW tái cấp vốn cho các NHTM. Khi
NHTW nâng lãi suất chiết khấu tức là hạn chế cho vay đối với các NHTM, khả năng
cho vay của các ngân hàng giảm lượng tiền gửi giảm đồng nghĩa với việc lượng tiền
cung ứng giảm. Ngược lại, khi lãi suất tái chiết khấu giảm, các ngân hàng kinh doanh sẽ
có khả năng bành trướng tín dụng do được lợi trong việc vay vốn của NHTW, bởi vậy


NHTM sẵn sàng hạ lãi suất khi cho các doanh nghiệp vay, kích thích đầu tư và sản
lượng.
Biện pháp này có ưu điểm là việc vay mượn được thực hiện trên những giấy tờ có
giá nên thời hạn vay mượn tương đối rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền
vay vận động phù hợp với sự vận động của qui luật cung cầu thị trường, nó cũng giúp
NHTW thực hiện vai trò là người vay cuối cùng nhằm tránh khỏi những cuộc sụp đổ tài
chính. Chiết khấu là một cách có hiệu quả đặc biệt để cung cấp dự trữ cho hệ thống
ngân hàng trong quá trình xảy ra một cuộc khủng hoảng ngân hàng bởi vì dự trữ lập tức
được điều đến các ngân hàng nào cần thêm dự trữ hơn cả. Chính sách chiết khấu có tác
dụng thông báo ý định của NHTW về chính sách tiền tệ trong tương lai.
Việc sử dụng biện pháp này đôi khi cũng không đạt hiệu quả bởi vì nó có hai
nhược điểm chính sau: thứ nhất, ở vào nghiệp vụ này NHTW ở vào thế bị động, NHTW
có thể thay đổi lãi suất tái chiết khấu nhưng không thể bắt các NHTM phải đi vay; thứ
hai khi NHTW ấn định mức lãi suất chiết khấu tại một mức đặc biệt nào đấy sẽ xảy ra
những biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất chiết khấu và lãi suất thị trường vì
lãi suất vay thay đổi, dẫn đến những thay đổi ngoài ý định trong khối lượng cho vay
chiết khấu và do đó trong cung ứng tiền tệ, NHTW khó có thể đảo ngược những thay
đổi trong lãi suất chiết khấu.
c. Nghiệp vụ thị trường mở
Nghiệp vụ thị trường mở là nghiệp vụ mua và bán các giấy tờ có giá (như cổ
phiếu, trái khoán, công trái...) do NHNN trên thị trường tiền tệ và trong chừng mực hạn
chế nhất định cả trên thị trường vốn. Đây là môt trong những công cụ rất quan trọng
được nhiều NHNN của các nước sừ dụng có hiệu quả CSTT.

Bằng việc bán các giấy tờ có giá cho các NHTM với lãi suất hấp dẫn, NHTW thu
hồi tiền từ lưu thông làm giảm lượng tiền cung ứng, đồng thời khả năng cho vay của các
NHTM cũng giảm và già trị tín dụng tăng lên. Ngược lại, Bằng việc mua các giấy tờ có
giá, NHTW cung cấp tiền cho các NHTM để cho vay, làm gia tăng lượng tiền cung ứng
trên thị trường. Điều quan trọng ở đây là thời hạn cuả các giấy tờ có giá. Việc mua bán
các giấy tờ có giá ngắn hạn chủ yếu nhằm mục đích cân bằng giao động của tỷ lệ lãi
suất trên thị trường tiền tệ, trong khi đó mua bán các giấy tờ có giá dài hạn có ảnh


hưởng rõ rệt tới khả năng thanh toán của các NHTM.
Đây được coi là công cụ quan trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có những ưu
điểm hcm hẳn so với các công cụ khác:
- Phát sinh theo ý tường chủ đạo của NHNN trong đó NHNN hoàn toàn kiểm soát
được khối lượng giao dịch.
- Là công cụ linh hoạt và có tính chính xác cao giúp NHNN luôn luôn thay đổi
được tình thế của minh khi mắc phải sai lầm.
- Nghiệp vụ này có thể sử dụng được ở bất ki một mức độ nào khi có yêu cầu căn
cứ vào khối lượng các loại giấy tờ có giá bán ra.
- Nghiệp vụ thị trường mở có thể tiến nhanh chóng không gây những chậm trễ về
mặt hành chính và ít tốn kém về mặt chi phí.
Tuy nhiên, khi NHTW mua bán chứng khoán trên thị trường thì vẫn phải phụ
thuộc vào người mua bán ( các NHTM ). Và để sử dụng được nghiệp vụ này thì phải có
sự phát triển khá cao của của cơ chế thanh toán không dùng tiền mặt, tiền trong lưu
thông phần lớn nằm trong tài khoản của ngân hàng, đòi hỏi thị trường tài chính phải
tương đối phát triển.Hay nói cách khác, nghiệp vụ thi trường mở chỉ đạt được hiệu quả
trong điều kiện có một thị trường chứng khoán thứ cấp sôi động,một thị trường liên NH,
thị trường tiền tệ hoạt động sôi động.
3.

Kinh nghiệm về các chính sách tiền tệ trên thế giói

Có bốn loại chính sách tiền tệ cơ bản trên thế giới: chính sách tiền tệ có mục tiêu

tỷ giá hối đoái; chính sách tiền tệ có mục tiêu là khối lượng tiền tệ; chính sách tiền tệ có
mục tiêu lạm phát; chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm ẩn chứ không công khai.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu tỷ giá hối đoái đã có một lịch sử lâu dài. Đó là
việc ấn định giá trị đồng nội tệ theo giá vàng hoặc gắn vào đồng tiền của một quốc gia
khác. Gần đây, người ta thường sử dụng phương pháp neo giá trị của đồng nội tệ theo
giá trị một ngoại tệ trong một biên độ nhất định. Phương pháp này rất đơn giản rõ ràng
và dễ hiểu và tỷ lệ lạm phát dự kiến sẽ được kiểm soát thông qua đồng ngoại tệ được
chọn làm neo. Một số quốc gia đã sử dụng thành công chính sách này như Anh, Pháp
(sau khi gắn đồng tiền của nó vào đồng Mark Đức. Tuy nhiên nó cung có nhũng mặt


hạn chế như làm mất đi tính độc lập của các chính sách tiền tệ; do có sự ổn định của
đồng tiền, các nhà đầu tư không lường hết được mọi sự rủi ro và làm luồng vốn đố vào
tăng nhanh, khi vốn bị rút ra một cách bất ngờ thì đây là một trong những nguyên nhân
chính làm gia tăng mức độ trầm trọng của các cuộc khủng hoảng; nó cũng loại bỏ đi
những dấu hiệu quan trọng cho thấy chính sách tiền tệ đã quá bành trướng nhưng đến
khi NHNN nhận ra thì đã muộn.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu tiền tệ: Chính sách này cho phép NHNN có thể
chọn một tỷ lạm phát không giống các quốc gia khác tuỳ theo sự biến động của sản
lượng. Chế độ tiền tệ này có thể gửi tín hiệu gần như lập tức cho cả công chúng và thị
trường về tình trạng của chính sách tiền tệ cũng như ý định của các nhà làm chính sách
trong việc kiểm soát lạm phát. Mỹ, Anh, Canada đã không thành công trong việc kiểm
soát vì việc theo đuổi chính sách này không được chặt chẽ và mối liên hệ không ổn định
giữa khối lượng tiền tệ và các biến mục tiêu như lạm phát. Thế nhưng Đức và Thuỵ Sĩ
lại thành công khi áp dụng và do đó hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến ủng hộ mạnh mẽ và
nó đang được xem xét như là một chính sách tiền tệ chính của NHTW các nước Châu
Âu.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu lạm phát: Niu Dilân là quốc gia đầu tiên thực hiện

theo chính sách này vào năm 1990 tiếp theo là Canada (1991) Anh (1992)...Chính sách
này có một số lợi điểm quan trọng. Nó cho phép sử dụng chính sách trong việc đối phó
với các cú sốc trong nội địa, ngoài ra nó dễ hiểu và có tính minh bạch cao. NHTW có
trách nhiệm công khai về con số mục tiêu lạm phát, nó sẽ cung cấp thông tin cho công
chúng và những người tham gia thị trường tài chính cũng như các nhà chính trị, đồng
thời nó làm giảm bớt tính không chấc chắn của chính sách tiền tệ, lãi suất và lạm phát.
Một đặc tính quan trọng nữa của chế độ tiền tệ này là nó làm tăng tính trách nhiệm của
NHTW.
- Chính sách tiền tệ có mục tiêu ngầm chứ không công khai: Milton Friedman đã
nhấn mạnh tác động của chính sách tiền tệ có độ trễ khá lớn. Do đó chính sách tiền tệ sẽ
mất thời gian khá dài để có thể tác động tới lạm phát. Vì vậy để ngăn chặn lạm phát
xuất hiện, NHNN cần phải hành động theo kiểu dự báo đón trước nhằm đưa ra chính
sách tiền tệ phù hợp. Lí do cơ bản cho việc sử dụng chiến lược này chính là sự thành
công của nó mà điển hình là ở Mỹ trong vài năm gần đây. Một nhược điểm quan trọng


của chiến lược náy là nó thiếu tính minh bạch. Nhưng nhược điểm lớn nhất là nó phụ
thuộc quá nhiều vào sở thích, năng lực và độ tin cậy của những người có trách nhiệm
trong NHNN. Những bất lợi đó có thể làm cho chiến lược hoạt đông không tốt trong
tương lai.
Bốn loại chính sách tiền tệ được đề cập trên đây đều có những ưu và nhược điểm
riêng của mình. Các kinh nghiệm quốc tế cho thấy sự minh bạch và tính có trách nhiệm
là điều cốt yếu để điều khiển một chính sách tiền tệ nhằm mang lại một kết quả mong
muốn trong dài hạn. việc sử dụng loại chế độ nào là tuỳ thuộc vào điều kiện chính trị,
kinh tế, văn hoá và lịch sử của từng quốc gia.
Phần II: Thực trạng điều hành chính sách tiền tệ
ử Việt Nam

I.


Bối cảnh chung
Sau đại hội Đảng lần thứ VI nền kinh tế nước ta chuyển từ chế độ kế hoạch hoá

tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Chúng ta phải đi những
bước đầu tiên, vừa xây dựng và cải cách tổ chức hoạt động hệ thống ngân hàng, vừa
định hướng chính sách tiền tệ.
Từ năm 1990, sau khi hai pháp lệnh ngân hàng được ban hành( pháp lệnh về Ngân
hàng Nhà nước và pháp lệnh Ngân hàng - Hợp tác xã tín dụng - Công ty tài chính ), hệ
thống ngân hàng Việt Nam chuyển đổi từ một cấp sang hai cấp, phân định rõ chức năng
quản lý Nhà nước của Ngân hàng Nhà nước và chức năng kinh doanh tiền tệ của các tổ
chức tín dụng, bước đầu thích ứng dần với hệ thống ngân hàng của nền kinh tế thị
trường.
Chính sách tiền tệ đã được xác định thông qua xây dựng các chính sách cụ thể:
chính sách tín dụng tạo ra các công cụ huy động vốn, mở rộng cho vay đến mọi thành
phần kinh tế; chính sách lãi suất thực hiện thông qua xoá bỏ bao cấp vốn, thực hiện
chính sách lãi suất thực dương, điều chỉnh lãi suất cho vay phù hợp với sự biến động
của lạm phát...; chính sách quản lí ngoại hối và một số công cụ hỗ trợ khác.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hoạt động ngày càng có hiệu quả, thể hiện vai trò


quản lí thông qua: ban hành và hoàn thiện cơ chế chính sách, điều hành các chính sách
ấy hoạt động có hiệu quả; đổi mới hệ thống tổ chức của hệ thống ngân hàng theo hướng
gọn nhẹ có khoa học; củng cố hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh, mở rộng
quan hệ quốc tế; xây dựng qui chế, cấp giấy phép thành lập và quản lý hệ thống các tổ
chức tín dụng đa thành phần; xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ ngày càng hoàn
thiện, có hiệu quả, góp phần kiềm chế lạm phát, từng bước ổn định giá trị đồng tiền Việt
Nam.
Đen tháng 10 / 1998, hai pháp lệnh ngân hàng đã được thay thế bằng hai luật ngân
hàng: Luật ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức Tín dụng. Hai luật này đã giúp hoạt
động của hệ thống ngân hàng được tự do hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với những

thay đổi lớn lao trong lĩnh vực ngân hàng.
II.

Chính sách tiền tệ ở Việt Nam qua các giai đoạn
Chính sách tiền tệ của NHNN là tổng hoà các giải pháp đảm bảo ổn định đồng tiền

và thị trường tiền tệ, góp phần giải quyết các mục tiêu vĩ mô của nền kinh tế. Chúng ta
sẽ tiến hành nghiên cứu chính sách tiền tệ ở Việt Nam từ sau Đại hội Đảng lần thứ 6.
Thời kì 1986 đến 2000 có thể chia làm 4 giai đoạn
1.

Giai đoạn 1986- 1988
Đây là giai đoạn đặc trưng của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tổng cầu luôn

vượt quá tổng cung. Tình trạng thiếu ngân sách xảy ra thường xuyên vì vậy Nhà nước
liên tục phát hành tiền để bù thiếu hụt khiến cho nền kinh tế luôn trong trạng thái bát ổn
định, lạm phát đạt kỷ lục ba con số (siêu lạm phát). Xuất phát từ thực trạng đó, nhiệm
vụ chống lạm phát đựơc đặt lên hàng đầu. Do vậy đã có hai thay đổi lớn trong lĩnh vực
tiền tệ:
- Đưa tỷ giá hối đoái lên ngang mức giá thị trường
- Thi hành chế độ lãi suất thực dương.
Điều này đã làm nên những thay đổi mạnh mẽ dảo ngược tình hình. Với mục tiêu
trực tiếp là đem lại giá trị thực cho đồng tiền Việt Nam, những thay đổi trên đã góp
phần đẩy lùi lạm phát và khủng hoảng, khôi phục lòng tin của người dân đối với đồng
nội tệ, các quan hệ thị trường được hình thành, tạo ra những cơ sở vững chắc để biến tư


tưởng đổi mới trở thành xu hướng thực tiễn.
2.


Giai đoạn 1989 - 1991
Các chính sách tiền tệ mới đã có ỷ nghĩa quyết định cắt được cơn sốt lạm phát cao.

Nhưng lạm phát ở mức trên 66% năm 1990 -1991 là không thể tránh khỏi vì nhuồn lực
cho nền kinh tế đang ở trong quá trình chuyển đổi thích nghi hướng theo hệ thống kinh
tế thị trường.
Đi đôi với các biện pháp thắt chặt chi tiêu tài chính, tiết kiệm chi và giảm bội chi,
việc tăng cường động viên tài chính và hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo
nguồn vốn cần thiết cho tăng trưởng kinh tế cũng được quan tâm thích đáng. Đặc biệt
cải cách hệ thống thuế, áp dụng chính sách thuế thống nhất đối với tất cả các thành phần
kinh tế từ năm 1990 đã có tác động tích cực trong mờ rộng và tập trung kịp thời nguồn
thu cho ngân sách Nhà nước.
3.

Giai đoạn 1992 - 1995
Đây là giai đoạn nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi, sự ổn định đã đi vào

chế độ dừng. Việc cung ứng tiền tệ cho bội chi ngân sách đã chấm dứt, cải cách thuế đã
thay đổi cơ bản thu chi ngân sách Nhà nước, các chính sách kinh tế đưa ra phú hợp vứi
nền kinh tế đã chuyển đổi sang cơ chế thị trường làm cân bằng tổng cung và tổng cầu
hàng hoá. Việc điều hành quản lý kinh tế tuy vậy vẫn ở dạng thô. Do vậy nền kinh tế
không tránh khỏi những giao động về lạm phát.
Lạm phát giai đoạn 1991-1995


Trong giai đoạn này có nhiều yếu tố quyết định chiếu hướng thuận lợi cho chính
sách tiền tệ. Chính phủ luôn chú trọng ổn định kinh tế vĩ mô, quan tâm đến chính sách
tiền tệ và giữ lạm phát ở mức thấp. Pháp lệnh ngân hàng Nhà nước, pháp lệnh ngân
hàng thương mại và hợp tác xã tín dụng đã qui định cơ sở cho việc thành lập hệ thống
ngan hàng hai cấp. Bên cạnh đó Nhà nước đã mở rộng quan hệ đối ngoại và được sự trợ

giúp kĩ thuật của các tổ chức tài chính quốc tế. cán cân thanh toán đã có chiều hướng
thuận lợi.
Bên cạnh những thành tựu đạt được như kiềm chế lạm phát, quản lí ngoại hối,
chính sách lãi xuất... việc điều hành chính sách tiền tệ cũng bộc lộ nhiều mặt hạn chế.
Cụ thể:
- Các công cụ điều hành chính sách tiền tệ chưa được hoàn thiện theo cơ chế thị
trường: lãi suất còn cao và chưa được điều chinh khéo léo, linh hoạt phù hợp với yêu
cầu đặt ra của nền kinh tế; công cụ dự trữ bắt buộc chưa phát huy hết tác dụng; cán cân
thanh toán còn bị thâm hụt lớn; việc chi tiêu ngân sách còn gặp nhiều bất cập, đôi khi
gây ra những ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế.
- Trên thực tế vần xảy ra hiện tượng phát hành để bù đắp chi tiêu gây ra hiện
tượng lạm phát ngoài dự kiến.
- Công cụ hữu hiệu nhất của chính sách tiền tệ là hoạt động thị trường mở trong
khi thị trường tín phiếu kho bạc hình thành chậm làm cho NHNN khó khăn trong việc
điều hành công cụ này.
- Sự phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài chính nhiều khi chưa ăn
khớp nhịp nhàng.
4.

Giai đọan 1996 - 2000.
Trong giai đoạn này mục tiêu của chính sách tiền tệ là ổn định kinh tế vĩ mô và

đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế. Gia tăng tốc độ phát triển là mục tiêu chính
trong giai đoạn này, mục tiêu kinh tế vĩ mô bao hàm nghĩa rộng hơn so với mục tiêu
kiểm soát, ổn định kinh tế, tốc độ tăng trưởng đồng đều trong các năm, tỷ lệ lạm phát
giao động không quá mạnh, cố gắng đạt cán cân thanh toán quốc tế từ thiếu hụt tới cân
bằng vá tiến tới thặng dư. Đảm bảo trạng thái cân bằng ngân sách, tăng thu giảm chi
nhất là các khoản chi điều hành để tập trung cho đáu tư công cộng.



Một số nội dung chính trong điều hành các công cụ chính sách tiền tệ trong thời kì
này:
- Hạn mức tín dụng: việc đưa ra hạn mức tín dụng sẽ tạo ra những nhân tố khó
khăn cho các NHTM. Mặc dù công cụ này đã được áp dụng từ năm 1994 và đã có
những tác đọng hiệu quả nhưng từ quý II năm 1998 NHNN đã không áp dụng công cụ
này như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ.
- Dự trữ bắt buộc: theo quy chế dự trữ bắt buộc được ban hành theoQuyết định số
1991/1999/QD-NHNN1 năm 1997, NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc áp dụng
chung cho các tổ chức tín dụng(6%_đối với tiền gửi ngắn hạn và không kỳ hạn;6%
trung và dài hạn). Đồng thời cũng qui định trả lãi cho dự trữ vượt quá, mức phạt nếu tổ
chức tín dụng thiếu khoản dự trữ bắt buộc. Những quy định này khuyến khích các tổ
chức tín dụng chủ đọng trong điều hành nguồn vốn kinh doanh và thực hiện dự trữ bắt
buộc đúng như quy định phù họp mục tiêu hành chính sách tiền tệ.
- Tái cấp vốn: thông qua hình thức cho vay thế chấp chứng từ và cho vay thế chấp
bằng tiền gửi ngoại tệ của các NHTM, NHNN thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù
đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các NHTM. Năm 1998 lãi suất tái cấp vốn
được điều chỉnh từ 1% tháng lên 1,1% tháng. Năm 1999, cùng với việc giảm trần lãi
suất cho vay lãi suát tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85% tháng.
- Lãi suất: thời kì này đánh dấu sự thay đổi căn bản về điều hành lãi suất thích ứng
với nhịp độ cải cách kinh tế của Việt nam. NHNN điều hành chính sách lãi suất thông
qua mức lãi suất trần theo thời hạn cho vay và khống chée theo tỷ lệ chênh lệch giữa lãi
suất cho vay và lãi suất huy động là 0,35% tháng. Trong phạm vi trần lãi suất và tỷ lệ
chênh lệch lãi suất được công bố, các ngân hàng thưcmg mại được điều chỉnh linh hoạt
các mức lãi suất cho vay và huy động vốn phù họp với quan hệ cung cầuvề vốn và đặc
điếm kinh doanh riêng.
- Nghiệp vụ thị trường mở: ngày 12/7/2000 nghiệp vụ thị trường mở do NHNN
chủ trì đã mở phiên giao dịch đầu tiên. Công cụ thị trường mở được coi là công cụ quan
trọng nhất của chính sách tiền tệ vì nó có ưu điêmr hơn hẳn các công cụ khác, cho phép
NHNN chủ động linh hoạt điều hành chính sách tiền tệ. Do vậy việc áp dụng công cụ
thị trườnt mở đánh dấu bước phát triển quan trọng trong điều hành chính sách tiền tệ



1. Một số thành tựu của CSTT trong thời gian qua.

của NHNN từ việc sử dụng những công cụ cứng nhắc mang tính hành chính sang công
cụ linh hoạt và hiệu quả hom.

Tỉ lệ tăng tổng

Tỉ lệ tăng

Tỉ lệ tăng dư

Tỉ lệ tăng

phương tiện

lượng tiền

thanh toán (%)

cung ứng (%)

nợ tín dụng
(%)

vốn huy động
(%)

1996


22,7

22,7

1997

26,1

26,1

22

25,7

1998

23,9

25,6

16,4

34

1999

39,25

39,3


19,2

34

2000

20

25

21

25

Để triển khai và thực hiện thắng lợi CSTT trong giai đoạn tiếp theo, giai đoạn
2001-2005,2005-2010 góp phần thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội từ năm
2001 đến 2010. Muốn vậy, chúng ta cần có cách nhìn nhận, phân tích,đánh giá những
bài học thực thi CSTT ở nước ta trong thời gian qua
Từ quá trình thực hiện CSTT ở nước ta chúng ta cần rút ra được các bài học kinh
nghiệm,thấy được thành công cũng như hạn chế của quá trình thực hiện CSTT ở Việt
nam để từ đó có một CSTT đủ sức vượt qua các thách thức và trở ngại.
III. Các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua.
Cho đến nay, CSTT ở nước ta chưa đạt đến độ hoàn thiện và tưcmg xứng với
những đòi hỏi mà nền kinh tế đạt ra. Nhưng một cách khách quan và công bằng mà nói
thì chúng ta đã có đủ cơ sở để thừa nhận sự đóng góp to lớn của CSTT vào thành tựu to


1. Một
thànhnăm

tựu đầu
của trong
CSTTcông
trongcuộc
thờiđổi
gianmới
qua.
lớn
củasố
những
đất nước của Đảng và nhân dân ta.


1. Một số thành tựu của CSTT trong thời gian qua.
a. Đã tiếp cận và vận dụng những quy luật,nguyên tắc của KT thị trường vào xác
lập tổ chức vận hành CSTT. CSTT đã trở thành công cụ không thể thiếu trong điều hành
KT vĩ mô, Vai trò của nó đối với nền KT ngày càng rõ nét và mạnh mẽ.
Neu như trước đây,CSTTchỉ là tên gọi chứ chưa có thì nay CSTT đã xác định
được rõ nội dung, nhiệm vụ, mục tiêu trong từng giai đoạn của công cuộc cải cách
KTXH của nước ta.Tuy nền kinh tế nước ta chưa thực sự là nền KT thị trường nhưng
chúng ta đã tìm được một CSTT phù hợp thích ứng với điều kiện đất nước. Điều đó thể
hiện ở những chỉ tiêu vĩ mô khả quan mà Việt Nam đã đạt được trong suốt thời gian
qua.ác nguyên lý cơ bản dần dần dược quán triệt,đồng thời có những sáng tạo thích nghi
với điều kiện thực tế cụ thể.
b. Đã xây dựng được một môi trường pháp lý thuận lợi, nhận thức rõ vai trò tiền
đề và động lực của môi trường pháp lý trong sự nghiệp đổi mới CSTT,hệ thống tiền
tệ tín dụng ngân hàng.Trải qua nhiều thử nghiệm, tìm tòi, nắm bắt tín hiệu thực tế
chúng ta đã bước đầu xác lập ngừng nhân tố cơ bản của môi trường pháp lý,từ việc ra
đời hai pháp lệnh NH với tư cách là những văn bản luật đầu tiên nhằm điều chỉnh các
quan hệ pháp lý,kinh doanh tiền tệ tín dụng ngân hàng,cho đến nay đã có luật

NHNN,luật Các tổ chức tín dụng đã được quốc hội thông qua và có hiệu lực từ
l/10/1998.Những năm gần đây, việc đưa hai bọ luật này vào áp dụng trong thực tế đã
được chú trọng hết sức nhằm tạo ra một hành lang pháp lý mới thông thoáng và có hiệu
quả.
c. Hoạt động tiền tệ, ngân hàng có nhiều thành tựu đáng khích lệ.
Hệ thống ngân hàng hai cấp ngày nay đang đi vào nề nếp, NHNN đã thực sự trở
thành người cho vay cuối cùng, hệ thong NHTM rộng khắp và hoạt động dưới sự chỉ
đạo của NHNN. Việc tự chủ kinh doanh và xoá bao cấp khiến cho các ngân hàng càng
ngày càng phải giảm thiểu chi phí hoạt động, nhằm kinh doanh có hiệu quả nhất. Các
NH đã nâng cấp nhiều về trang thiết bị, đưa công nghệ tiên tiến vào hoạt động quản lý,
xây dựng một hệ thống thanh toán thông qua mạng lưới vi tính hiện đại.Đây có thể coi
là một bước biến chuyển khả quan về chất lượng trong điều hành hoạt động tiền tệ-ngân
hàng của nước ta.


2.

Những kết quá đạt được do việc xd & thực thi CSTT đúng hướng, phù họp
vói diễn biến của nền kinh tế.
a. Chính sách lãi suất.
Trong suốt thời gian qua, lãi suất đã thực sự là một công cụ điều hành CSTT rất

đắc lực. Đặc điểm sử dụng lãi suất NHNN mang tính trực tiếp theo yêu cầu tăng cường
vốn đầu tư phát triển KT và thực hiện một số chính sách XH.Cho đến nay, ta đã thực thi
và hoàn thiện dần dần cơ chế lãi suất dương và đang trên con đường tiến tới tự do hoá
lãi suất. NHNN đã công bố cho phép các tổ chức tín dụng được tự do ấn định lãi suất
trong kinh doanh theo một phạm vi nhất định,vào 1/1/1996. Luật ngân hàng nhà nước
(10/1998) quy định tại diều 18: ”NHNN công bổ lãi suất cơ bản và lãi suất tái cấp
vốn”& tại điều 19 quy định: “lãi suất cơ bản là lãi suất do NHNN công bố để các tổ
chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh”.

Những thành công trên là kêt quả của cả một quá trình từ diều chỉnh lãi suất một
cách tình thế sang một cách chiến lược có tính lâu dài cho cơ chế lãi suất.
Việc vận dụng các công cụ trực tiêp của chính sách tiền tệ vẫn rất cần thiết và phù
họp với điều kiện của nước ta. Việc xây dựng nền móng và tiến tới sử dụng các công cụ
gián tiếp cũng được chú trọng và đạt nhiều thành tích đáng kể.
h. Chính sách tỷ giá.
Trong những năm dầu của thời kì đổi mới, Nhà nước vẫn duy trì chính sách hai tỷ
giá:tỷ giá do NHNN quy định& tỷ giá do thị trường quy định.Cùng với nó lạn khan
hiếm ngoại tệ mạnh làm cho nạn đầu cơ xuất hiện làm tỷ giá tăng mạnh.
Nhà nước vừa không điều hành được tỷ giá vừa không dự trữ được ngoại tệ
mạnh.Vì vậy, việc ấn định tỷ giá gần vơi tỷ giá trên thị trường có ý nghĩa quan trọng và
mang tính chiến lược về kinh tế. Ngày 25/2/1999 NHNN ra quyết định 64/QĐ NHNN
“NHNN công bố tỷ giá giao dịch bình quân hàng ngày trên cơ sở tỷ giá thực tế bình
quân hình thành ở thị trường ngoại tệ liên ngân hàng của ngày giao dịch gần nhất”. Như
vậy Cơ sở pháp lý cho việc điều hành tỷ giá của NHNN trên cơ sở thị trường đã được
xác lập, góp phần tạo thế ổn định cho sản suất trong nước và khuyến khích xuất khẩu. Sự
ổn định của tỷ giá sau khi điều chỉnh cơ chế điều hành tỷ giá phần nào phản ánh sự
thành công của hoạt động quản lý tiền tệ _ngân hàng.


c. Thị trường tín dụng.
Môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng đã được cải thiện, song hoạt động tín
dụng vẫn chưa đạt được kết quả mong muốn. Với quy chế 324, cơ chế cải thiện từng
bước: tính hiệu quả được đề cao trong các quyết định tín dụng, thời hạn tín dụng được
điều chỉnh theo chu kỳ sản xuất kinh doanh, đối tượng cho vay được mở rộng,thủ tục
nới lỏng...đã làm cho hiệu quả tín dụng tăng lên đáng kể.
d. Thị trường tài chính thứ cấp.
Quyết định số 140/QĐ NHNN ra ngày 19/4/1999( có hiệu lực sau 15 ngày) về
mua bán nợ giữa các tổ chức tài chính tín dụng cũng là một tư tưởng hoàn toàn mới
trong việc điều hành hoạt động tiền tệ ngân hàng. Thực chất của quy chế này là tạo môi

trường pháp lý cho việc hình thành thị trường thứ cấp các tài sản của hệ thống tài chính
tín dụng. Mặc dù thời gian hoạt động chưa nhiều để có thể đánh giá được hoạt động
mua bán nợ giữa các tổ chức tài chính tín dụng, nhưng có thể khẳng định được sự tồn tại
cũng như tác dụng tích cực của cơ chế này.
Thứ nhất,đối với thị trường tài chính, Sự ra đời của thị trường thứ cấp là một tất
yếu vãe có tác dụng tích cực đối với thị trường sơ cấp.
Thứ hai, trong điều kiện tạo các nguồn vốn trung và dài hạn trong nền kinh tế
tương đối hạn chế, thì việc hình thành thị trường thứ cấp làm các tài sản có của hệ thống
TCTD sẽ có tác dụng tích cực trong việc chuyển đổi thời hạn giữa các nguồn vốn ngắn
hạn sang các khoản tín dụng trung và dài hạn.
Hơn thế nữa, Việc thiết lập môi trường pháp lý cho thị trường thứ cấp các tài sản
có của hệ thống trung gian TC, còn có tác dụng đối với việc tối đa hoá hiệu quả sử dụng
vốn qua đó góp phần giảm lãi suất tín dụng và tạo điều kiện cho NHNN thực hiện làm
người cho vay cuối cùng hiệu quả hơn.
e. Kiềm chế lạm phát on định sức mua đồng VNĐ.
Không một ai có thể phủ nhận vai trò đặc biệt quan trọng của CSTT trong việc
kiềm chế lạm phát của chính phủ Việt Nam trong thời gian qua. Từ khi đổi mới đến nay,
nhờ CSTT và hoạt động NH được cải thiện đổi mới mà lạm phát đã giảm thấp và được
kiềm chế( Năm 1994 tỷ lệ lạm phát là 14,4%; năm 1995 là 12,7%; năm 1996 là 4,5%;
năm 1997 là 3,6%..).trong khi tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vẫn khá ổn định và ở mức cao.


Ngoài các thành công đã nêu trên, CSTT còn đóng góp rất nhiều vào các lĩnh vực
khác như: tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng, thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu,
xoá đói giảm nghèo..
Tuy vậy, chúng ta cần làm rõ cốt lõi của tất cả các thành tựư đã đạt được. Điểm
mấu chốt nằm trong sự phù hợp của hướng tiếp cận đến CSTTvới lôgic của tiến trình
đổi mới. Có 3 đặc trưng chinh thể hiện sự phù họp đó:
Một là, CSTT quán triệt đi theo đường lối chuyển sang kinh tế thị trường.
Hai là, Nồ lực để CSTT thực sự trở thành công cụ điều hành KT vĩ mô hữu hiệu

trong tay nhà nước.
Ba là, Sự đồng nhất và phù hợp của CSTT với tất cả các chính sách kinh tể vĩ mô
khác được áp dụng trong quá trình đổi mới.
Tại các mức độ khác nhau, cả 3 đặc trưng trên đều chứa đựng trong từng giải pháp
tiền tệ đã nói ở trên. Tổ hợp chung lại là lời giải thích đầy đủ hơn cả về thành công của
chính sách tiền tệ trong toàn bộ quá trình chuyển đổi nền kinh tế nhìn từ góc độ CSTT.
Với cách tiếp cận đó, CSTT đã góp phần to lớn vào việc thực hiện hai mục tiêu khôi
phục ổn định& thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Trong quá trình thực thi CSTT thời gian qua, chúng ta đã đạt được những thành
tựu đáng kể, nhưng mặc dù vậy cũng không tránh khỏi những bộc lộ yếu kém.
IV. Nhũ ng tồn tại trong sử dụng công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam& nguyên
nhân
Chính sách tiền tệ của NHNN thời gian qua đã góp phần quan trọng thực hiện mục
tiêu của chính sách tiền tệ quốc gia, tuy nhiên trong việc vận hành các công cụ của
chính sách tiền tệ đang bộc lộ những thiếu sót nhất định. Hiện tượng thiếu lành mạnh
trong hệ thống tài chính - tiền tệ nói chung và sự thiếu nhất quán về một số mặt chính
sách vĩ mô trong đó có chính sách tiền tệ, đe doạ sự ổn định kinh tế về trung và dài hạn.
Tình hình xấu đi càng bộc lộ rõ những khó khăn và tồn tại trong việc hoạch định và điều
hành chính sách tiền tệ. Có thể nêu một số điểm chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, Việc xây dựng và điều hành CSTT của Việt Nam mới dừng ở diểm “sơ
khai”,’’xuất phát”. Thông thường NHNN dựa vào các tín hiệu của nền kinh tế để xác


định lượng tiền cung ứng trình CP phê duyệt, bổ sung, diều chỉnh; vẫn mang nặng tính
đối phó trước mắt mà còn chưa có tính chiến lược lâu dài nên dề bị động, hiệu quả và độ
tin cậy thấp.
Thứ hai, kinh doanh của hầu hết các NHTM còn gò bó, thiếu chủ động, tự chủ.
Phần lớn các NHTM cổ phần hiện nay đều trong tình trạng thua lồ. Nguồn vốn tín dụng
còn hạn hẹp, mất cân đối cơ cấu với việc sử dụng, cho vay còn phân tán, hiệu quả thấp.
Rủi ro tín dụng ngân hàng là đáng lo ngại và luôn luôn thường trực.

Thứ ba, hoạt động của thị trường tiền tệ liên ngân hàng chưa phát triển, chưa có
những điều kiện căn bản để từng bước tự do hoá lãi suất và thả nổi tỷ giá hối đoái. Thị
trường vốn mới ở dạng “manh nha” nên khả năng cung cấp vốn đầu tư trung dài hạn
cho nền kinh tế còn rất yếu kém. Việc tạo lập các công cụ và thể chế phát triển thị
trường tiền tệ ngắn hạn và thị trường vốn daì hạn nói chung mới bắt đầu và còn gặp
không ít khó khăn. Đó là những trở ngại lớn cho NHNN tiến hành các hoạt động nghiệp
vụ trên thị trường nhằm đạt được mục tiêu kinh tế của đất nước.
Thứ tư, sự thâm hụt lớn của cán cân vãng lai do nhập siêu triền miên và gánh nặng
từ nợ nước ngoài cũng như gánh nặng của bội chi ngân sách tạo nên những áp lực từ
nhiều phía đe doạ tính ổn định, độc lập tương đối của chính sách tiền tệ mà bước đầu đã
tạo dựng được ở giai đoạn chống lạm phát trước đây. Thâm hụt cán cân vãng lai chủ
yếu phải bù đắp bằng nhập khẩu vốn là nguyên chính khiến đồng tiền Việt Nam bị quá
cao, kích thích tâm lí tích trữ dưới dạng ngoại tệ. Trong khi đó sự nôn nóng uốn nắn
một cách cứng nhắc hoạt động tiền tệ tín dụng và ngân hàng sau một số vụ đổ vỡ tài
chính làm tái phát xu hướng bao cấp tràn lan qua hạn mức tín dụng, qua lãi suất ưu đãi,
qua áp lực chỉ định cho vay...
1.

Chúng ta hãy xem xét những bất cập đó thông qua các khía cạnh sau:
Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành.
Tháng 6/1992 là một mốc quan trọng, đánh giá sự chuyển giai đoạn từ chính sách

lãi suất âm sang CSLS thực dương, chấm dứt khâu cuối cùng của sự bao cấp tín dụng,
bắt đầu CSLS tín dụng hoạt động theo cơ chế thị trường. Nhưng thực tế hoạt động lại
chưa được như mong muốn.
NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi suất của các NHTM,
vẫn còn quy định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau. Bắt đầu là khung lãi suất rời



×