Tải bản đầy đủ (.doc) (34 trang)

CHUYÊN đề ôn THI đại học bài thơ tây TIẾN (quang dũng)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (259.3 KB, 34 trang )

CHUYÊN ĐỀ ÔN THI ĐẠI HỌC
Bài thơ: TÂY TIẾN - (Quang Dũng)
GV: Nguyễn Thị Kim Dung - Tổ Ngữ văn
Trường THPT Trần Nguyên Hãn
I. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU
1. Nội dung
- Nắm chắc kiến thức cơ bản về tác giả Quang Dũng.
- Nắm chắc và phân tích được giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ trên cái nhìn nhiều
chiều, so sánh với những tác phẩm khác trong chương trình.
2. Kĩ năng
Ôn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề và kỹ năng phân tích đề, lập dàn ý, kỹ
năng làm văn:
- Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm.
- Phân tích, bình giảng một đoạn thơ.
- Phân tích một khía cạnh nội dung của một bài thơ.
- Phân tích một khía cạnh nghệ thuật của một bài thơ.
- Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ.
- Kiểu bài so sánh, tổng hợp
3. Phương pháp
- Phát phiếu học tập cho học sinh, yêu cầu học sinh làm đề cương theo nhóm.
- Tổ chức ôn luyện trên lớp.
- Hướng dẫn học sinh làm dàn ý các đề

1


II. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
A.
Hệ thống kiến thức cơ bản
1.
Giá trị nội dung:


Bài thơ vẽ nên bức tranh thiên nhiên con người miền Tây với vẻ đẹp vừa hoang sơ,
hùng vĩ, hiểm trở, dữ dội vừa thơ mộng, yên bình, trong trẻo.
Khắc họa hình tượng người lính Tây Tiến trong sự hài hòa hai vẻ đẹp: vẻ đẹp vừa
hào hùng vừa hào hoa.
2.
Giá trị nghệ thuật:
Bút pháp lãng mạn
Những sáng tạo về hình ảnh, ngôn ngữ và giọng điệu.
B.
Hệ thống đề luyện:
*Hệ thống đề 2,0 điểm:
Đề 1: Nêu hoàn cảnh sáng tác và bút pháp nghệ thuật bài thơ Tây Tiến của Quang
Dũng
*Gợi ý:
1. Khái quát:
- Quang Dũng (1921-1988), tên thật là Bùi Đình Diệm quê ở Phùng nay thuộc Đan Phượng,
Hà Nội.
- Ông là một nghệ sĩ đa tài: làm thơ, viết văn, vẽ tranh… Là nhà thơ trưởng thành từ cuộc
kháng chiến chống Pháp, Quang Dũng mang một hồn thơ trung hậu yêu thiết tha quê hương,
đất nước mình. Trong thơ ông có hình ảnh cái tôi hào hoa, thanh lịch, giàu chất lãng mạn,
nhạy cảm với vẻ đẹp tinh tế của thiên nhiên, con người. Đặc điểm phong cách này in dấu ấn
khá đậm nét trong bài thơ Tây Tiến.
2. Hoàn cảnh sáng tác
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947 có nhiệm vụ phối hợp với bộ đội
Lào bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng Lào,
cũng như ở biên giới Tây Bắc Việt Nam. Địa bàn đóng quân và hoạt động của Tây Tiến khá
rộng từ Châu Mai - Châu Mộc sang Sầm Nứa rồi vòng về phía Tây Thanh Hóa. Ngày ấy,
nơi đây còn rất hoang vu và hiểm trở, núi cao, sông sâu, rừng có nhiều thú dữ.
- Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội chiến đấu trong hoàn cảnh gian khổ, vô
cùng thiếu thốn. Chết vì sốt rét nhiều hơn là vì súng đạn. Tuy vậy, các chiến sỹ Tây Tiến

vẫn phơi phới tinh thần lạc quan hào hùng.
- Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào trở về Hòa Bình thành lập Trung
đoàn 52, Quang Dũng là Đại đội trưởng ở đó từ đầu năm 1947 - 1948 rồi chuyển sang đơn
vị khác. Nhà thơ nhớ đơn vị cũ mà viết bài thơ này. Bài thơ lúc đầu có tên là “Nhớ Tây
Tiến” sau đổi thành “Tây Tiến”.
2. Đặc trưng bút pháp nghệ thuật
Bài thơ được viết bằng bút pháp lãng mạn. Bút pháp này có đặc điểm:
a) Thể hiện cái tôi trữ tình giàu cảm xúc, giàu trí tưởng tượng.
b) Nhạy cảm với cái phi thường, khác thường, lý tưởng. Cho nên, có viết về những cái có
thực thì cũng được lãng mạn hóa, độc đáo hóa.
c) Nhạy cảm với vẻ đẹp của cảnh và người mang màu sắc xứ lạ.
d) Hay viết về nỗi buồn, cái chết nhưng để tô đậm vẻ đẹp bi tráng.
2


e) Hay sử dụng thủ pháp đối lập.
Đề 2. Hãy nêu hoàn cảnh sáng tác bài thơ “Tây Tiến” của nhà thơ Quang Dũng ? Từ
hoàn cảnh sáng tác giúp em hiểu gì về nội dung của bài thơ ?
*Gợi ý:
- Ý nghĩa của hoàn cảnh sáng tác : Một văn sĩ Pháp khi trả lời thư của một bạn trẻ “ Hãy
truy cứu nguyên do mà mình cầm bút, hãy kiểm tra xem nó có bắt rễ từ chỗ sâu xa nhất của
trái tim không?.Hãy tự thú xem nếu không viết liệu trái tim mình có chết không? Và trước
hết hãy tự hỏi mình vào giờ khắc tĩnh mịch nhất trong đêm: ta có phải viết không ?” (Rai –
tơ)
Cứ theo những lời khuyên của Rai –tơ thì những ngày xa binh đoàn Tây Tiến nếu không
viết một bài thơ để thương, để nhớ thì chưa chắc Quang Dũng đã chết nhưng ông sẽ vô cùng
đau khổ vì nỗi nhớ chơi vơi, vì nỗi nhớ về “Đất Tây bắc tháng ngày không có lịch”, và sẽ
trở thành nỗi ám ảnh day dứt. Như thế mảnh đất Phù Lưu Chanh đã không trở thành một
huỳên thoại về một khúc độc hành gắn liền với một đời người, một đời thơ Quang Dũng.
- Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập đầu năm 1947, có nhiệm vụ phối hợp với bộ

đội Lào, bảo vệ biên giới Việt - Lào và đánh tiêu hao lực lượng quân đội Pháp ở Thượng
Lào cũng như ở miền Tây Bắc Bộ VN. Địa bàn đóng quan và hoạt động của đoàn quân Tây
Tiến khá rộng , bao gồm các tỉnh Sơn La, Lai Châu, miền Tây Thanh Hóa và cả Sầm Nưa
(Lào). Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên Hà Nội, trong đó có nhiều học sinh, sinh
viên(như Quang Dũng), chiến đấu trong những hoàn cảnh rất gian khổ, vô cùng thiếu thốn
về vật chất, bệnh sốt rét hoành hành dữ dội. Tuy vậy, họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất
dũng cảm. Đoàn quân Tây Tiến sau một thời gian hoạt động ở Lào, trở về Hòa Bình thành
lập trung đoàn 52. Cuối 1948, Quang Dũng chuyển sang đơn vị khác. Rời xa đơn vị cũ chưa
được bao lâu, tại Phù Lưu Chanh (một làng thuộc tỉnh Hà Đông cũ), Quang Dũng viết bài
thơ Tây Tiến.
- Từ hoàn cảnh sáng tác bài thơ ta có thể hiểu được nội dung của bài thơ: đây là một bài thơ
được viết hoàn toàn bằng cảm xúc của một nỗi nhớ chơi vơi xao xuyến của thi sĩ về đơn vị
cũ. Vì thế ND của bài thơ đều xoay quanh nỗi nhớ :
+ Nỗi nhớ những kỉ niệm Tây Tiến dọc đường hành quân qua miền núi rừng Tây Bắc hiểm
trở mênh mang.
+ Nhớ về những kỉ niệm gắn bó trong tình quân dân.
+ Vẻ đẹp ngoại hình và tâm hồn hào hoa lãng mạn, tinh thần sẵn sàng xả thân hi sinh cho
TQ của đoàn binh Tây Tiến.
=>Tây Tiến là bài thơ tiêu biểu cho đời thơ Quang Dũng, thể hiện sâu sắc phong cách nghệ
thuật.
Đề 3. Nêu vài nét về tác giả? Chủ đề tư tưởng của bài thơ ?Bài thơ lúc đầu mang tên
“Nhớ Tây Tiến” sau này nhà thơ bỏ chữ “Nhớ” cho nên bài thơ chỉ còn là “Tây Tiến”,
vì sao nhà thơ làm như vậy?
*Gợi ý :
a)Tác giả : (1921-1988) tên là Bùi Đình Diệm , quê Đan Phượng –Hà Tây.
- Quang Dũng là người có tài năng nhiều mặt: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.

3



- Với thơ ca: ông là một hồn thơ đầy cảm hứng lãng mạn, hào hoa, thanh lịch, giàu chất thơ
mộng. Ông có khả năng diễn tả và cảm nhận tinh tế, tài hoa vẻ đẹp của thiên nhiên và con
người. Người ta vẫn thường nhắc đến thơ Quang Dũng như:
“Tôi nhớ thôn Đoài mây trắng lắm
Em có bao giờ thôi nhớ thương”.
b) Chủ đề tư tưởng:
Bài thơ là cảm xúc của tác giả về hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hiểm trở dữ dội
nhưng cũng đầy thơ mộng trữ tình, đặc biệt là hình ảnh lãng mạn hào hoa đầy bi tráng của
người lính Tây Tiến.Toàn bài thơ cũng là nỗi nhớ chơi vơi của Quang Dũng với đoàn quân
Tây Tiến.
c) Nhan đề bài thơ:
Bỏ chữ “Nhớ” mạch thơ không bị lộ ngay từ tên bài. Người xưa nói về phép làm thơ: Ý
kị nông, mạch kị lộ; Đồng thời tập trung tô đậm được một địa danh nổi tiếng: Tây Bắc. Hơn
nữa âm hưởng Tây Tiến đứng một mình gợi cảm giác chắc, khỏe, hùng hồn.
Đề 4. Mạch cảm xúc của bài thơ Tây Tiến bắt đầu bằng chi tiết nào? Hãy phân tích
mạch cảm xúc ấy.
*Gợi ý:
1.Khái quát:
- Quang Dũng là người có tài năng nhiều mặt: làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc.
- Bài thơ Tây Tiến được viết hoàn toàn bằng cảm xúc của một nỗi nhớ chơi vơi xao xuyến
của thi sĩ về đơn vị cũ. vì thế nội dung của bài thơ đều xoay quanh nỗi nhớ
2.Mạch cảm xúc của bài thơ :
- Mạch cảm xúc của bài thơ bắt đầu bằng nỗi nhớ. Đó là nỗi nhớ đồng đội:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
+ Sông Mã, Tây Tiến là tên gọi cụ thể. Chắc chắn cũng gợi nhớ về những năm tháng, miền
đất, có sông, có rừng, có núi.
+ Hai câu thơ mở đầu đã định hướng cụ thể cho cảm xúc của toàn bộ bài thơ. Sông Mã đại
diện cho vùng đất miền Tây. Hai hình tượng song song kết đọng nỗi nhớ. Đó là miền Tây
Bắc Bắc Bộ và người lính Tây Tiến. Nỗi nhớ ấy không bình thường: “Nhớ chơi vơi”. Hai

tiếng “chơi vơi” tái hiện những kí ức lúc đạm, lúc nhạt. Nó bồng bềnh khó tả. Có lúc nó
chợt đến bằng hình ảnh vừa sống động, vừa lung linh.
- Từ nỗi nhớ mở đầu, mạch cảm xúc tái hiện lại cuộc hành quân chiến đấu đối với những
thử thách, gian khổ, hi sinh và cả tình quân dân thắm thiết. Kế đó là nỗi nhớ về những đêm
liên hoan và một vùng Châu Mộc đầy thơ mộng. Khung cảnh thiên nhiên ấy làm nổi bật
hình ảnh người lính với những cảm hứng lãng mạn anh hùng, nét hào hoa của những chàng
trai Hà Nội với tâm hồn thơ mộng và đậm chất bi tráng. Nỗi nhớ là yếu tố liên kết ý thơ.
- Nỗi nhớ đã gọi về, dựng lên trong tâm trạng nhân vật trữ tình bao hình ảnh, những kỉ niệm
không kém phần sâu sắc về một thời đẹp đẽ, hào hùng của tuổi trẻ. Nỗi nhớ đã tạo nên cảm
xúc mãnh liệt. Thơ hay là thơ tạo ra cảm xúc ấy.
- Câu thơ ba, bốn gợi cho ta nhận thức được những địa danh tên đất, tên làng. Đó là Sài
Khao, Mường Lát. Đỉnh Sài Khao bốn mùa mây bao phủ.
4


Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Sài Khao, Mường Lát mang vẻ đẹp hấp dẫn của xứ lạ. Câu thơ diễn tả vể đẹp huyền ảo.
Đoàn quân đi trên đỉnh núi cao mù sương và dừng chân ở những bản làng, với gió núi hoa
rừng… đầy lãng mạn. Nỗi gian khổ vì thế cũng vơi đi. Mặt khác trong 14 âm tiết chỉ có ba
âm tiết là thanh trắc, 11 thanh bằng tạo âm hưởng đều đều, lan tỏa, lung linh huyền ảo trong
nỗi nhớ. Người đọc chỉ nhận ra núi, bản làng, hoa và sương khói bàng bạc. Nỗi vất vả mệt
mỏi giường như bị lùi đi. Người lính Tây Tiến hiện lên giữa thiên nhiên hùng vĩ.
*Hệ thống đề 5,0 điểm:
Đề 1: Cảm nhận đoạn thơ:
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
A.
Phân tích đề:

1.
Thao tác nghị luận:
- Thao tác chính: phân tích
- Thao tác hỗ trợ: Bình giảng, chứng minh, so sánh...
2.
Nội dung nghị luận: Làm rõ nét đặc sắc của nội dung và nghệ thuật thể hiện ở đoạn
thơ.
- Nội dung:
+ Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống con người miền Tây với vẻ đẹp thơ mộng, diễm lệ, trữ
tình
+ Vẻ đẹp hào hoa trong tâm hồn của những người lính Tây Tiến
- Nghệ thuật:
+ Nghệ thuật dựng cảnh: ngôn ngữ chính xác, tinh tế, tài hoa: giàu chất thơ, chất tạo hình;
+ Bút pháp tả cảnh: kết hợp tả thực và lãng mạn
3.
Phạm vi dẫn chứng:
- Bắt buộc: Đoạn thơ,
- Mở rộng: Văn học sử: Tác phẩm(A) + Tác giả( B); đặc trưng PCNT thơ Quang Dũng
Liên hệ: Đồng chí, Nhớ, Người lái đò sông Đà...
B.
Dàn bài:
I.
ĐVĐ: giới thiệu khái quát về A + vị trí Văn học sử, đoạn văn, nội dung nghị luận
- Cùng với “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi, “Tây
Tiến” của Quang Dũng được coi là một trong những thi phẩm tiêu biểu nhất của nền thơ ca
HĐVN giai đoạn 46-54. Bài thơ là một bức họa giàu chất cổ điển, cùng là khúc nhạc giàu
chất lãng mạn về cảnh trí thiên nhiên, cuộc sống, con người miền Tây, đồng thời, bài thơ
còn là tượng đài nghệ thuật giàu chất bi tráng về tập thể đoàn quân Tây Tiến hào hùng và
hào hoa. Tác giả đã khắc họa tượng đài nghệ thuật về những con người ấy bằng ngòi bút tài
hoa cùng hồn thơ thấm đẫm cảm xúc lãng mạn. Dường như tất cả đặc sắc nghệ thuật nổi bật

của tác phẩm đã được chưng cất trong 8 câu thơ:
“ Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
II.
GQVĐ
1.
Tổng quát:
a.
Hoàn cảnh ra đời: địa bàn hoạt động của đoàn quân Tây Tiến(đề 1)
5


b.
Về đoạn thơ: vị trí, cấu tứ
- Đoạn thơ nằm trong mạch thơ tập trung tái hiện bức tranh thiên nhiên cuộc sống con người
miền Tây trong sự hài hòa hai vẻ đẹp vừa hoang vu, hiểm trở, dữ dội, hùng vĩ, vừa rất đỗi
thơ mộng, mỹ lệ, trữ tình. 8 câu thơ tập trung làm bật lên vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình, đượm
vẻ hoang sơ của thiên nhiên, cuộc sống, con người miền Tây qua cái nhìn của những người
lính Tây Tiến.
- Là một nghệ sỹ đa tài, hồn thơ của Quang Dũng rất nhạy cảm với những vẻ đẹp mang màu
sắc bí ẩn của thiên nhiên, cuộc sống, con người nơi xứ lạ, phương xa. Cảnh ấy, người ấy
hiện lên trong một không gian, thời gian làm nổi bật nhất vẻ lung linh, huyền ảo, trữ tình
của nó. Đó là khung cảnh một đêm liên hoan đầy tình nghĩa quân dân và một buổi chiều
sông nước miền Tây gắn với một cuộc chia tay đầy lưu luyến.
2.
Đặc sắc đoạn thơ:
a.
Bức tranh miền Tây trong khung cảnh đêm hội liên hoan đầy tình nghĩa quân dân
Hồi ức nhà thơ sống dậy bằng những kỷ niệm khó quên về một đêm hội liên hoan đậm bản

sắc miền Tây:
“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
…Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”
- Dòng thơ như cũng sáng lên bởi câu chữ, hình ảnh chứa đầy ánh sáng. hai chữ “bừng lên”
rất giản dị mà lại vô cùng hàm súc. Trước hết, nó gợi chính xác sự hiện diện bất ngờ của
ánh sáng đêm rừng. Không chỉ vậy, dường như nó còn gợi được cả sự bừng tỉnh của thiên
nhiên ở một vùng đất hoang sơ khi có con người xuất hiện.hình như những người lính Tây
Tiến đang thổi hồn và đem đến sức sống cho vùng đất khuất thấp, hẻo lánh này. Hai chữ
“bừng lên” còn diễn tả chân thực và đầy ấn tượng không khí náo nức, tưng bừng của đêm
hội.
- Khung cảnh đêm hội được thể hiện bằng hệ thống chi tiết vừa rất thực, vừa rất ảo, “đuốc
hoa”, “xiêm áo”, “man điệu”, “e ấp”. Qua ánh sáng lung linh của lửa đuốc, những âm thanh
réo rắt, tình tứ của những điệu khèn có phần hoang dã, cái nhìn của những người lính Tây
Tiến với cảnh và con người nơi đây thấm đẫm cảm xúc lãng mạn.
- Chữ “đuốc hoa” là kết quả nhà thơ đã mỹ lệ hóa một hình ảnh vốn rất dân dã, bình dị những bó đuốc được đốt sáng bằng chất liệu như nứa, rơm, bỗng trở nên “đuốc hoa”, vừa có
ánh sáng, màu sắc, hình ảnh gợi ta liên tưởng đến thứ ánh sáng ấm áp, tình tứ được đốt lên
trong những dịp con người thực sự hạnh phúc – một đêm tân hôn hoặc một đêm dạ hội.
Theo đó mà hình ảnh con người Miền Tây hiện lên thật quyến rũ, diễm lệ - “kìa em xiêm
áo”, “e ấp”. Hai chữ “kìa em” chứa đựng cảm xúc đầy ngỡ ngàng, ngạc nhiên xen lẫn mê
say, vui sướng của những người lính Tây Tiến trước sự xuất hiện bất ngờ của những cô
gái.Họ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy, với những cử chỉ e lệ, giàu chất nữ tính,
trong những vũ điệu sôi động, đầy màu sắc xứ lạ. Họ giống như những tiên nữ giáng trần
vậy.
- Vẻ đẹp lý tưởng, sự trẻ trung, hồn nhiên của họ đã khơi dậy những cảm xúc lãng mạn, bay
bổng, có chút đã tình trong tâm hồn những người lính vốn xuất thân từ tầng lớp trí thức thủ
đô.
- Cảnh đêm hội còn truyền đến người đọc cảm giác ngất ngây, mê say như chính mình đang
sống hòa nhập với khung cảnh ấy.
b.
Bức tranh Miền Tây trong chiều sông nước gắn với buổi chia tay

Khép lại bức tranh đêm hội Miền Tây là dòng hoài niệm đầy lưu luyến về một buổi chiều
sông nước gắn với cuộc chia tay đầy nhung nhớ
“Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

6


Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Giọng thơ không còn cái náo nức, rộn ràng, thay thế vào đó là một giai điệu trữ tình sâu
lắng, bồi hồi, xốn xang, được gửi vào những dòng thơ đầy tài hoa, mở ra trước mắt người
đọc là một không gian Miền Tây trong chiều sương gắn với một sự kiện thành kỷ niệm: một
cuộc chia tay tiễn biệt người đi. Sự kiện này bản thân nó chứa đựng nỗi buồn bởi lẽ cuộc
chia tay nào cũng là sự xa cách, có thể là tạm thời, có thể là vĩnh viễn. Cuộc chia tay ấy lại
diễn ra vào buổi chiều, hơn thế lại là một buổi chiều sương. Nỗi buồn càng chất chứa, đong
đầy.
- Những cuộc chia tay được ghi lại trong thơ ca Trung Đại thường diễn ra ở một điểm cao
bởi ở điểm nhìn ấy, cả người tiễn và người đi đều có thể nhìn thấy nhau trong thời gian lâu
nhất. Điều đó giúp mỗi người bớt đi cảm giác chống chếnh, cô đơn khi phải rời xa những
người thân yêu hoặc những người thân thiết của mình. Vậy mà cuộc chia tay, trong ký ức
của QD lại diễn ra trong một không gian che khuất tầm nhìn bởi những làn sương chiều
giăng mắc. Câu chữ ko có từ nào trực tiếp diễn tả nỗi buồn vậy mà nỗi buồn nơi lòng người
như chứa chan trong câu chữ mà còn thấm đẫm tâm hồn người đọc. Đây là dấu ấn lố “tả
cảnh ngụ tình” vừa tinh tế, tài hoa, vừa chân thực, xúc động.
- Ba chữ “chiều sương ấy” như gợi không gian hoài niệm vừa thăm thẳm, vừa vời vợi. Cảnh
sông nước Miền Tây còn được tái hiện với “hồn lau nẻo bến bờ”. Bến bờ vốn đã xa nẻo,
càng khuất người, tất cả gợi lên một không gian xa vắng, quên lãng. Chữ “hồn lau” rất gợi,
rất sống động. Thủ pháp nhân hóa làm lời thơ vốn dùng để đặc tả sắc màu trắng bạc của hoa
lau - một loài hoa gợi về vùng không gian hoang sơ, hoang dại, đã trở thành ám ảnh trong
thơ Quang Dũng. Trong khúc ca “Những làng đi qua”, Quang Dũng kịp ghi lại một sắc hoa
lau thi vị, gợi cảm như thế:

“Hoa lau trắng bạc trời Yên Thế”
Giờ đây, hoa lau trở thành một sinh thể có điệu hồn, có nỗi lòng, tâm trạng riêng. Ta có cảm
giác nếu không có bước chân người lính Tây Tiến đặt lên vùng đất này, hoa lau có đẹp đến
đâu cũng chỉ nở, chỉ phô bày vẻ đẹp như chưa từng có. Bởi vậy điệu thơ như có gì xa xót
trước một vẻ đẹp bị lãng quên. Đó là chất thi sỹ, chất lãng mạn của người lính Tây Tiến
được đánh thức trong phút giây giao cảm bất ngờ giữa hồn người và hồn tạo vật.
Điều đáng chú ý, trong cảm nhận của những người lính ấy, hồn lau kia phải chăng còn là
mảnh hồn người lính Tây Tiến gửi lại Mai Châu khi giã từ theo quy luật tình cảm rất kì diệu
mà Chế Lan Viên đã chiêm nghiệm:
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”
Đó cùng là tình cảm tha thiết mà người dân Miền Tây muốn dành cho những con người Tây
Tiến trước lúc chia xa.
Trên nền khung cảnh sông nước “hoang dại như thời tiền sử” đậm màu sắc cổ tích, huyền
thoại ấy lại thấy thấp thoáng bóng hình cô gái Miền Tây
“Có nhớ dáng người trên độc mộc
Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa”
- Ta gặp ở đây một lối tạo hình rất cổ điển. Giữa dòng nước lũ mênh mang, mờ ảo, dữ dội,
nhà thơ đưa nét bút chấm phá những đóa hoa rừng đong đưa như làm duyên cùng dòng
nước, đồng thời chấm phá một dáng người mềm mại, uyển chuyển, duyên dáng, song cũng
rất đỗi vững vàng, tự tin trên dáng thuyền độc mộc. Ngòi bút Quang Dũng không chỉ tả mà
còn gợi tinh tế cái phần thiêng liêng của cảnh vật quê hương, xứ sở. Đọc câu thơ viết về
thiên nhiên, cuộc sống, con người, ta cứ ngỡ mình được sống lại cảm giác mê say, ngỡ
ngàng, thích thú khi được đắm mình vào những trang văn đầy chất thơ, nhạc, họa. Dựng
cảnh bờ bãi, con sông trong tùy bút “Người lái đò sông Đà” trong tùy bút của Nuyễn Tuân:
7


“Cảnh ven sông…tuổi xưa” …. “con hươu thơ ngộ…sương đêm”. Có thể nói, ở đây có sự
gặp gỡ kỳ diệu trong cách cảm nhận, diễn tả những vẻ đẹp Miền Tây giữa 1 cây bút VX, thơ

ca tài hoa ở những giai đoạn lịch sử khác nhau. Phải chăng sự gặp gỡ ấy có nguồn cội là
chất tài hoa, nghệ sỹ của những người cầm bút, ở tình yêu, tiếng lòng tha thiết với những vẻ
đẹp non sông gấm vóc tổ quốc ở những người nghệ sỹ đó và còn bởi chính vùng đất Tây
Bắc tiềm tàng những vẻ đẹp nên thơ ấy.
3.
Đánh giá
- Dòng thơ đưa người đọc vào thế giới riêng của Miền Tây – TG của cái đẹp được tạo nên
từ sự hài hòa của nhạc, thơ, họa. Lời thơ ngân nga như những điệu hát. Hình ảnh thơ mềm
mại như những nét bút chấm phá tài hoa. Nó lưu giữ vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con
người của một thời Tây Tiến.
- Làm sao có thể không nhớ một Miền Tây hoang sơ mà thơ mộng, diễm lệ, trữ tình như thế.
Làm sao có thể quên dược những người lính hào hoa, thanh lịch như thế, một nghệ sỹ- chiến
sỹ tài hoa, lãng mạn như thế.
Đề 2: Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến qua bài thơ “Tây Tiến” (Quang Dũng)
A.
Phân tích đề:
1.
Thao tác nghị luận: Phân tích, chứng minh, so sánh...
2.
Nội dung
Nội dung: Vẻ đẹp hình tượng người lính Tây Tiến
+ Vẻ đẹp hào hùng(lý tưởng cứu nước cao đẹp, ý chí nghị lực phi thường, vượt lên mọi khó
khăn)
+ Vẻ đẹp hào hoa(nhạy cảm với vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con người Tây Bắc; nỗi nhớ
lãng mạn trong tâm hồn)
Nghệ thuật: Kết hợp bút pháp hiện thực, lãng mạn giàu chất sử thi
3.
Kiến thức
Bắt buộc: bài thơ
Mở rộng: văn học sử A + B, đặc trưng VHCM + PCNT thơ Quang Dũng;

Liên hệ: sáng tác về đề tài người lính trong KCCP: Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ
(Hồng Nguyên), Lên Tây Bắc…
B.
Dàn bài
I.
ĐVĐ: Nhan đề => khái quát A => nội dung cần phân tích
- “Tây Tiến” của Quang Dũng là tác phẩm đã lưu giữ những kỷ niệm hào hùng, đáng nhớ
của một thời tiến quân về Miền Tây cùng quân dân nước bạn Lào chống Pháp xâm lược. Đó
là một tiếng thơ bi tráng của thơ ca VN trong những ngày đầu cả dân tộc tiền hành cuộc
kháng chiến trường kỳ, toàn dân, toàn diện.
- Quang Dũng khắc tạc thành công tượng đài nghệ thuật bằng ngôn từ về tập thể đoàn quân
Tây Tiến trong sự hài hào vẻ đẹp vừa hào hùng vừa hào hoa.
II.
GQVĐ
1.
Tổng quát
a.
Hoàn cảnh ra đời (đơn vị Tây Tiến, sự ra đời của A)
b.
Cấu tứ - hình tượng:
- Toàn bộ bài thơ có 34 dòng, chia thành 3 phần. 14 dòng đầu Quang Dũng tập trung khắc
họa bức tranh thiên nhiên, núi rừng, đèo, dốc Miền Tây dữ dội hiểm trở, sương dày, mưa
mịt mù trời đất cùng thác gầm, cọp dữ. 8 dòng tiếp theo ghi lại kỷ niệm bồi hồi về một đêm
hội nơi xứ bạn cùng cảnh sông nước miền tây buổi chiều buông vừa hoang sơ vừa nên thơ,
huyền ảo. Những dòng thơ còn lại tập trung khắc họa hình tượng đoàn quân Tây Tiến. Có
thể nói, hình tượng những người lính trong thi phẩm được khắc họa với vẻ đẹp tinh thần vừa
8


hào hùng vừa hào hoa. Những con người mang trong mình lý tưởng cứu nước cao đẹp nên

có ý chí, nghị lực phi thường để đối mặt, vượt lên những thử thách khốc liệt của cuộc sống,
sinh hoạt, chiến đấu của chiến trường. Đó còn là những con người mang vẻ đẹp hào hoa với
trái tim nhạy cảm trước vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con người Miền Tây và nỗi nhớ bay
bổng, lãng mạn, đằm thắm về quê hương. Có lẽ khắc họa vẻ đẹp những người lính Tây
Tiến, Quang Dũng không chỉ thực sự “xúc động hồn thơ” mà còn phát huy tận độ tài năng
của một cây bút tài hoa trong thơ ca CMVN thời KCCP.
2.
Phân tích vẻ đẹp
a.
Vẻ đẹp tinh thần hào hùng
- Đọc Tây Tiến, bất cứ ai cũng đều có chung tình cảm kính phục, ngưỡng mộ những người
lính mang trong mình vẻ đẹp tinh thần rất hào hùng. Dường như vẻ đẹp hào hùng của người
lính Tây Tiến qua cách thể hiện cảm nhận riêng của Quang Dũng được phát hiện trong
tương quan với bức tranh thiên nhiên Miền Tây hoang sơ, hiểm trở, dữ dội. Vẻ đẹp này
được phác họa ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm. Núi rừng Miền Tây và cuộc vạn lý
trường chinh Tây Tiến lúc nào cũng sẵn sàng bẻ gãy ý chí của những người lính ấy. Sự hiểm
trở của địa hình
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời”
sự oai linh của chốn “rừng thiêng nước độc”:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét”
sự rình mò của thú dữ:
“Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
sự khắc nghiệt của thời tiết, khí hậu “sương lấp”, “mưa rừng”. Những thiếu thốn trong đời
sống sinh hoạt chiến trường cùng sự dãi dầu thân xác trong thời gian dài dặc “quân mỏi”,
“Anh bạn dài dầu không bước nữa”. Đọc hành trình này, người ta thấy vẻ đẹp hào hùng,
kiêu dũng của người lính Tây Tiến cứ sáng dần lên. Đến khi họ đối mặt với thách thức dịch
bệnh, cái chết, vẻ đẹp tinh thần của những người lính Tây Tiến mới ngời chói. Nét vẽ nào về
người lính Tây Tiến cũng rất sắc sảo đến lạ kỳ. Có thể thấy, vẻ đẹp được tập trung trong 8
dòng thơ:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
….
Sông Mã gầm lên khúc độc hành
- Trước hết người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của lý tưởng cứu nước cao cả.
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
+ Câu thơ vang lên như một lời thề. Nó đúng là cái giọng của những trượng phu coi cái chết
“nhẹ như lông hồng". Những chiến sỹ Tây Tiến là sản phẩm của niềm tin, trí thức Hà Nội,
những chàng trai “chưa trắng nợ anh hùng”, mang cái chí của nam nhi thời loạn, sẵn sàng
xếp bút nghiên ra sa trường. Họ coi “Gian nan là nợ anh hùng phải vay”, cho nên tự nguyện
dấn thân, sẵn sàng xả thân hành binh trận mạc.
“Tuổi xanh chắc tiếc xá chi bạc đầu” (Tố Hữu)
Cũng chính những con người ấy xác định cho mình lý tưởng sống cao đẹp “quyết tử cho tổ
quốc quyết sinh”.
Ta cũng tìm thấy sự đồng điệu này ở những người lính thời kỳ KCCP nơi hồn thơ Chính
Hữu:
“Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
Dòng thơ là sản phẩm của hai nghệ sỹ có nguồn gốc xuất thân khác nhau nhưng có sự đồng
điệu kỳ diệu trong cách biểu đạt cũng như trong nội dung trữ tình được thể hiện. Đối với
những người lính xuất thân nghèo khó, gian nhà là tài sản lớn nhất, có giá trị nhất. Nó được
9


tạo dựng bằng sự chắt chiu của nhiều thế hệ trong gia đình. Vậy mà những người lính nông
dân ấy sẵn sàng để lại sau lưng, vững bước ra trận.
+ “Đời xanh” là một hoán dụ nghệ thuật để chỉ quãng đời tuổi trẻ, quãng đời đẹp nhất, có
ý nghĩa nhất của những người lính trí thức HN, vậy mà họ không hề phân vân, do dự khi
cống hiến quãng đời ấy cho sự nghiệp cứu nước. Cái ngữ khí biểu đạt bằng thứ ngôn từ đặc
sắc, tự nhiên “mặc kệ”, “chẳng tiếc” lại trở thành những nhãn tự trong mọi dòng thơ để biểu
đạt sâu sắc, cảm động lý tưởng cứu nước, thái độ dứt khoát, ý chí quyết tâm sắt đá, dâng
hiến những gì có giá trị nhất của đời mình cho cuộc đấu tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở

những người lính. Họ ra đi từ những miền quê khác nhau nhưng đều có đích đến giống nhau
– chiến trường – nơi phẩm chất anh hùng tiềm tàng trong họ sẽ được phát lộ, thử thách, tôi
rèn.
+ Những câu thơ có âm điệu rắn rỏi, lời thơ ít nhiều mang phong cách khẩu ngữ, buột ra
như một lời nói thường tưởng không có gì là chau chuốt, là nghệ thuật vậy mà lại có khả
năng làm xúc động lòng người. Thế mới biết một câu thơ hay bao giờ cũng là những câu thơ
được viết từ ngôn ngữ chân cảm của người nghệ sỹ. Không chỉ vậy cái điệu thơ ngang tàng
ấy còn phảng phất lời thơ trong Kinh thi, Chinh Phụ ngâm khúc, Tống biệt hành…
- Xuất phát từ lý tưởng cứu nước đẹp đẽ ấy, người lính Tây Tiến hiện lên với vẻ đẹp của
những con người có ý chí, nghị lực phi thường.Ý chí, nghị lực ấy giúp người lính vượt lên
mọi thử thách nghiệt ngã của hiện thực chiến đấu nơi chiến trường.
+ Những thiếu thốn trong sinh hoạt, sự hoành hành của bệnh tật. Dõi theo bài thơ, người đọc
thấy Tây Tiến là cuộc hành quân đầy gian khổ. Vì vậy Quang Dũng thay vì dùng “đoàn
quân” mà dùng “đoàn binh” – vừa chân xác vừa tài hoa, gợi sinh động hình ảnh những
chiến binh có vũ khí đang trong tư thế xông trận oai phong – sẵn sàng tiến công chiến đấu,
vừa gợi âm hưởng hào hùng, mang màu sắc sử thi hào hùng cho hình tượng thơ. Bắt đầu từ
đây vẻ đẹp hào hùng của người lính được đặc tả qua một số chi tiết giàu chất tả thực “không
mọc tóc”, “xanh màu lá”. Chi tiết tả thực, cách nói độc đáo, hình ảnh “không mọc tóc” gợi
ta hình dung về những anh “vệ trọc”, “vệ túm” trong những năm đầu KCCP. Do thời tiết khí
hậu, nhất là căn bệnh sốt rét rừng nơi Lam Sơn khiến hầu hết mọi người lính rụng tóc.
+ Điều kiện chiến đấu vất vả thiếu thốn buộc người lính phải cạo trọc đầu để thuận tiện
trong sinh hoạt, đặc biệt là khi đánh giáp lá cà. Hình ảnh “quân xanh màu lá” cũng vậy. Cấu
trúc ngôn từ rất lạ lại chứa nhiều ý nghĩa.“Xanh màu lá” là màu xanh quân phục, hay màu
da xanh xao vì bệnh tất, vì những đêm thiếu ngủ, bữa thiếu ăn. Chính ở đây câu chữ chứa
đựng sự hàm súc cao. Thơ ca chống pháp viết về người lính dường như đều chối bỏ hiện
thực này.
Chính Hữu trong “Đồng chí” miêu tả chi tiết đến trần trụi hiện thực gian khổ của người lính:
“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày”

Tố Hữu khi vẽ chân dung người lính vệ quốc trong “Cá nước” chọn hình ảnh
“Giọt giọt mồ hôi rơi
Trên má anh vàng nghệ”
Hồng Nguyên có câu thơ gân guốc về hiện thực ấy trong “Nhớ”:
“Lột sắt đường tàu, rèn thêm dao kiếm
Áo vải chân không đi lùng giặc đánh”
Còn hiện thực ấy qua ngòi bút hồn thơ Quang Dũng dường như được tái hiện bằng cái nhìn
đậm màu sắc lãng mạn:
“Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

10


Là một cây bút lãng mạn, dường như Quang Dũng có sở trường phát huy sức mạnh biểu đạt
bằng thư pháp tương phản đối lập – một dấu ấn thi pháp của khuynh hướng lãng mạn. Nó
tạo thành cấu trúc đối ở những cấp độ giữa các đoạn, trong một khổ, trong dòng thơ. Câu
thơ “Quân xanh màu lá dữ oai hùm” cũng vậy. Ba chữ “dữ oai hùm” đứng riêng chứa đựng
sức mạnh nhưng khi đứng trong cấu trúc này, nó kết tụ thành một sức mạnh ẩn chứa một vẻ
đẹp giàu chất sử thi – cái thần thái oai phong, lẫm liệt làm ngời lên vẻ đẹp tinh tế, kiêu
hùng, kiêu dũng của những người lính Tây Tiến. Tạo nên sự tương phản giữa vẻ ngoài với
vẻ đẹp sức mạnh tinh thần bên trong “oai phong” đầy dũng khí, Quang Dũng làm cho những
người lính Tây Tiến toát lên vẻ đẹp đậm chất sử thi hào hùng. Nhưng đó chưa phải thử
thách khốc liệt nhất với người chiến sỹ.
+ Cuộc trường chinh về Miền Tây khiến những người linh đối mặt với thử thách khốc liệt
nhất – cái chết. Quang Dũng ghi lại hình ảnh đồng đội mình ngã xuống mang âm điệu ngậm
ngùi:
“Rải rác biên cương mồ viễn xứ”
“Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
Những câu thơ gợi lên hình ảnh rùng rợn, hãi hùng của chiến trường. Ta hình dung đây đó

những nấm mồ hoang lạnh nơi đất khách, xứ người. Nó như truyền đến ta những cảm giác
lạnh rợn từ những lời thơ Đoàn Thị Điểm:
“Hồn tử sỹ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu sỹ tử mấy người
Nào ai mặc mặc, nào ai gọi hồn”
Viết về chiến tranh trong thơ ca CM, mấy ai dám đưa những hình ảnh thê lương ấy vào
trang văn, trang thơ bởi có một thời người ta ngỡ rằng những hình ảnh ấy khiến người đang
sống chùn bước, nhụt ý chí nhưng Quang Dũng lại dám viết bởi nhà thơ có lối nói riêng.
Xuất phát từ những cảm xúc rất thật của mình, tài năng, thành công của Quang Dũng là ở
chỗ nhà thơ chiến sỹ ấy viết về nó để làm ngời lên vẻ đẹp hào hùng của hình tượng mình
đang khắc họa. Ngay sau dòng thơ này, Quang Dũng đẩy vẻ kiêu dũng của đồng đội đến
cực điểm:
“Áo bào thay chiếu anh về đất”
Ở đây, Quang Dũng chọn lối viết tả thực bởi nếu vậy câu thơ sẽ phải là
“Áo sờn thay chiếu anh vùi đất”
Thay vào đó là hình ảnh “áo bào”, “về đất” được bao bọc trong nguồn xúc cảm đầy chất
lãng mạn. “Áo bào” là kết quả sự tái tạo một thi liệu cổ điển, giúp Quang Dũng tô đậm vẻ
đẹp tráng sỹ trượng phu của người lính Tây Tiến – ngã xuống như những dũng tướng, vẫn
oai phong, lẫm liệt, kiêu dũng. Chữ “về” – sản phẩm của cách nói giảm, nói tránh diễn tả tư
thế ngạo nghễ, tâm thế thản nhiên, thư thái của người lính Tây Tiến khi đón nhận cái chết,
không còn mang nét nghĩa nặng nề bi thương, mất mát của sự tổn thất mà hàm chứa niềm tự
hào của những con người ý thức rằng: hoàn thành nhiệm vụ với đất nước, tổ quốc, nếu có
ngã xuống cũng là được trở về với đất mẹ, sống trong vòng tay bao dung yêu thương của đất
mẹ.
“Sông Mã gầm lên khúc độc hành”
+ Quang Dũng là cây bút giỏi dùng từ chỉ địa danh. Qua hồn thơ của ông, mỗi địa danh khơi
dậy một chất thơ bí ẩn mà dường như chỉ hồn thơ lãng mạn, tài hoa như Quang Dũng mới
nắm bắt được và đưa vào thơ như một ngôn từ đắc dụng. Con sông mã lần hai xuất hiện trở
lại. Lần một nó gợi nhớ, gợi thương, lần hai nó được chọn để khép lại khúc độc hành về

những người lính Tây Tiến khi hóa thành con chiến mã gầm lên khúc ca bi tráng oai linh
11


tiễn đưa người lính Tây Tiến về với đất mẹ. Lời thơ gợi không khí chiến trận của bản anh
hùng ca trong lời thơ cổ. Câu thơ nói cái bi mà vẫn hùng.
=> Với những câu thơ thấm đẫm cảm xúc lãng mạn, bi tráng, Quang Dũng làm hiện lên
hình tượng người lính Tây Tiến trong vẻ đẹp chói ngời lí tưởng cứu nước, tinh thần quả cảm
khi đối mặt với thử thách nơi chiến trường. Đó thực sự là những con người làm chủ hoàn
cảnh. Không chỉ vậy, họ còn là những con người tiềm tàng khả năng cải tạo hoàn cảnh.
b.
Vẻ đẹp tâm hồn hào hoa
- Vẻ đẹp hào hoa của người lính Tây Tiến được khắc họa trong tương quan bối cảnh bức
tranh Miền Tây nên thơ, thi vị, gợi cảm. Dõi theo mạch cảm xúc Tây Tiến, người ta thấy
chất hào hoa được hé lộ khi những người lính ấy cứ vượt qua một thử thách là lại tìm thấy
cho mình một cơ hội để thưởng thức những vẻ đẹp nên thơ, thi vị của thiên nhiên, cuộc
sống, con người Miền Tây
Vừa mới hành quân trong màn “sương lấp”, mệt mỏi đến rã rời, những người lính Tây Tiến
thu vào hồn màn mưa rừng Pha Luông huyền ảo:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Vừa mới vượt qua đèo dốc heo hút, thăm thẳm, tâm hồn nghệ sỹ nơi những người lính ấy
bắt ngay được vẻ đẹp huyền ảo, gợi cảm:
“Mường lát hoa về trong đêm hơi”
Vừa thoát khỏi sự rình rập của thú dữ, họ mở lòng đón nhận:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
- Đó còn là vẻ đẹp tâm hồn tinh tế của người lính khi nhận ra, xót xa trước vẻ đẹp dung dị bị
lãng quên của hoa lau “nẻo bến bờ”. Khi ngỡ ngàng đắm say ngắm nhìn vẻ đẹp của những
thiếu nữ Miền Tây trong lửa khi họ hiện ra trong những bộ xiêm áo lộng lẫy. Quả thực,
người lính Tây Tiến tiềm ẩn trong mình một tâm hồn nghệ sỹ lãng mạn, bay bổng, trẻ trung,

có một chút đa tình. Đó là kết quả cái nhìn đa chiều của Quang Dũng nói riêng và của thơ ca
CM nói chung.
- Từ cái nhìn đa chiều ấy, Quang Dũng phát hiện ra vẻ dẹp trong sâu thẳm tâm hồn người
chiến sỹ Tây Tiến ước mơ hướng về quê hương:
“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới”
+ Câu thơ có cấu trúc tương phản. Mắt mở to vừa thể hiện sự mỏi mệt vì thiếu ngủ do
hành binh trận mạng vừa thể hiện nghị lực vượt lên chính mình của người lính Tây Tiến.
“Gửi mộng” là gửi mơ ước, khao khát đằm thắm. Đó là nỗi nhớ quê hương trong sâu thẳm
trái tim những người lính Tây Tiến. Đặc biệt, nỗi nhớ bật trào từ những rạo rực khát khao
yêu thương:
“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”
+ Hai câu thơ chứa đựng hai từ như nhãn tự làm ngời lên vẻ đẹp những người lính Tây Tiến
– “mộng”, “mơ”. Nó khiến người lính Tây Tiến trở nên thật tình tứ: không phải nỗi nhớ
mộc mạc được biểu đạt dung dị hướng đến “người vợ trẻ mòn chân bên cối gạo canh
khuya” trong thơ Hồng Nguyên. Nỗi nhớ của người lính Tây Tiến hướng về thủ đô yêu dấu,
dồn vào “dáng kiều thơm”. Ba chữ “dáng kiều thơm” được xây dựng bằng bút pháp chấm
phá, gợi tả tài hoa, thâu tóm vẻ đẹp riêng, chứa đựng sự quyến rũ kỳ diệu của những thiếu
nữ HN thanh lịch. Nỗi nhớ ấy làm nên bản sắc riêng trong tâm hồn những người lính ra đi
từ một góc phố hoặc giảng đường đại học.
Có một thời người ta cho rằng những câu thơ ấy là biểu hiện của “mộng rớt tiểu tư sản”. Nó
chỉ khiến người ta yếu mềm, ủy mị, mất đi nhuệ khí chiến đấu song chính nỗi nhớ ấy mới là
cội nguồn của sức mạnh tinh thần kỳ diệu, giúp người lính Tây Tiến vững bước vượt lên tất
cả. Bởi họ hiểu rằng những bước hành quân gian khổ hôm nay là để dành, để giữ những
12


dáng kiều thơm cho mai sau. Mục đích cầm súng giàu chất nhân văn của cả dân tộc ta trong
cuộc KCCP và trong suốt thời kỳ lịch sử của dân tộc:
“Dù rằng đời ta thích hoa hồng
Kẻ thù buộc ta ôm cây súng”

3.
Đánh giá
- Những người lính Tây Tiến là tượng đài nghệ thuật lãng mạn thấm đẫm chất bi tráng, giàu
chất hiện thực về người lính vệ quốc trong KCCP. Đó là biểu tượng về vẻ đẹp của chủ nghĩa
anh hùng VN trong những năm tháng ấy.
- Quang Dũng kế thừa thành tựu nghệ thuật của thơ ca Trung đại, lãng mạn trong việc khắc
họa những con người lý tưởng của thời đại. Hình tượng người lính Tây Tiến vừa anh hùng
vừa hào hoa. Họ là những con người vĩ đại nhưng rất bình thường. Có lẽ vậy hình tượng thơ
mới tạo được sức sống lâu bền trong dòng chảy của thời gian, lịch sử.
III.
KTVĐ
Đề 3: Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên và tình người được thể hiện như thế nào qua cách
cảm nhận và thể hiện riêng của Quang Dũng ở đoạn thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
A.
Phân tích đề:
1.
Thao tác nghị luận: Phân tích, chứng minh, bình giảng, so sánh...
2.
Nội dung:
ND:
+ Vẽ nên bức tranh thiên nhiên Miền Tây vừa dữ dội hoang sơ, hiểm trở vừa thơ mộng, nên
thơ, trữ tình
+ Vẻ đẹp tình người – nỗi nhớ da diết, say đắm mãnh liệt
Nghệ thuật:
+ Ngôn ngữ độc đáo, sáng tạo(sử dụng từ chỉ địa danh; vận dụng sáng tạo ngôn ngữ trong
ca dao)
+ Thủ pháp đối lập tương phản

3.
PVKT: văn học sử A + B, đặc trưng thi pháp văn học lãng mạn và PCNT thơ Quang
Dũng;
Liên hệ: cách sử dụng từ địa danh trong “Việt Bắc”, “Bên kia sông Đuống”.
B.
Dàn bài
I.
ĐVĐ: Giới thiệu khái quát vhs B + đóng góp (PCNT), dẫn nội dung nghị luận
- Quang Dũng là một trong những gương mặt tiêu biểu của nền thơ ca HĐVN những năm
KCCP. Thơ Quang Dũng hấp dẫn người đọc bởi sự hội tụ của hai nguồn thi cảm, tình yêu
đất nước, quê hương và khát vọng lên đường.Tiếng nói trữ tình ấy được biểu hiện bằng hệ
thống nghệ thuật hài hòa yếu tố cổ điển và hiện đại, vừa giàu chất họa vừa giàu chất nhạc và
chan chứa nguồn chân cảm.
- Tác phẩm là một bức họa ngôn từ về bức tranh TN Miền Tây dữ dội, hiểm trở mà hùng vĩ
song cũng rất đỗi trữ tình, nên thơ. Đó là nền để Quang Dũng khắc họa tượng đài nghệ thuật
thấm đẫm tinh thần bi tráng về đoàn quân Tây Tiến trong sự hài hòa vẻ đẹp hào hùng và hào
hoa.
- Bốn dòng thơ mở đầu tác phẩm đưa người đọc đến với TG ấy để được xúc động trước vẻ
đẹp của tình người, để được đắm say trước vẻ đẹp TN Miền Tây qua cách cảm nhận, thể
hiện riêng của Quang Dũng.
II.
GQVĐ
1.
Vẻ đẹp thể hiện trong đoạn thơ
13


Tây Tiến ghi lại chân thực nhiều vẻ đẹp tình người: cái tình người của Quang Dũng dành
cho động đội cũ, tấm tình Quang Dũng dành cho TN Miền Tây và tình cảm của con người,
TN Miền Tây dành cho người lính Tây Tiến trong đó có tác giả. 4 dòng mở đầu tập trung

thể hiện vẻ đẹp tình cảm Quang Dũng dành cho đồng đội cũ, những dòng còn lại Quang
Dũng dành cho vẻ đẹp TN Miền Tây.
Về đoàn quân Tây Tiến: năm thành lập, thành phần, nhiệm vụ, địa bàn hoạt động...
(Đề 1)
Lực lượng tham gia đoàn quân Tây Tiến phần đa là thanh niên trí thức HN, những chàng
trai “chưa trắng nợ anh hùng”, mang cái chí của nam nhi thời loạn, sẵn sàng bứt lên coi
“nam nhi là nợ anh hùng phải vay” nên tự dấn thân, sẵn sàng đương đầu với khó khắn thử
thách. Là người từng tham gia đơn vị Tây Tiến dù chỉ trong thời gian ngắn song Quang
Dũng thực sự gắn bó sâu sắc với đoàn quân ấy.
Tây Tiến mở đầu bằng câu thơ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”
- Lời thơ như một câu nói chợt thốt lên khi nỗi nhớ dâng đầy trong tim, chứa đựng nỗi luyến
tiếc vô cùng. Tây Tiến vốn là tên gọi một đoàn quân, nay thành tên gọi của một người mang
giọng điệu tha thiết, bồi hồi. Chính hai chữ này làm câu thơ vang lên như một tiếng gọi tiếc
nuối vọng qua không gian, dội vào tâm tưởng. Dòng thơ có cách tổ chức ngôn từ độc đáo
bởi có 4/7 tiếng hợp thành từ chỉ địa danh. Những tiếng, những chữ ấy dường như không
còn sắc thái trung tính, vô cảm, vô hồn của những địa danh trên bản đồ mà thực sự trở thành
nơi cất giữ cho tác giả một quãng đời, trở thành tiếng vọng thăm thẳm của quá khứ ko chịu
nguôi yên trong tâm can nhà thơ. Ta có cảm tưởng nếu không có nỗi nhớ thì vốn ấn tượng
về cảnh Miền Tây và con người Miền Tây sẽ vẫn được bảo lưu trong tâm tưởng, ký ức nhà
thơ nhưng nó sẽ không trở thành những hình tượng thơ sinh động, ám ảnh đến vậy.
- Đoạn thơ có những từ láy sử dụng đắc địa, độc đáo. Từ láy “chơi vơi” hiệp vần với câu
một, mở ra một không gian mênh mông, vời vời của nỗi nhớ. Bản thân 2 chữ “chơi vơi” có
khả năng diễn tả tinh tế một trạng thái cảm xúc không điển hình, mơ hồ nhưng rất ám ảnh
hồn người.
Ca dao đã từng ghi lại nỗi nhớ chơi vơi như thế:
“Ra về nhớ bạn chơi vơi”
Những vẫn thơ lãng mạn của Xuân Diệu thời kỳ Thơ mới 32 – 45 cũng xuất hiện một nỗi
nhớ “chơi vơi” giống vậy:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời

Tương tư nâng lòng lên chơi vơi”
Trong ca dao và trong thơ Xuân Diệu, “chơi vơi” vốn được dùng để diễn tả trạng thái cảm
xúc của con người trong tình yêu lứa đôi. Còn trong thơ Quang Dũng, nó được dùng để biểu
đạt cảm xúc mang màu sắc chính trị của con người VN trong cách mạng – tình đồng chí,
đồng đội của những người lính vệ quốc những năm KCCP. Dường như đây là lối biểu đạt
mang dấu ấn thi pháp và khuynh hướng thơ trữ tình chính trị VN suốt 30 năm chiến tranh.
Ta sẽ còn gặp lối biểu đạt ấy trong Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Việt Bắc của Tố
Hữu.
- Cả đoạn thơ xuất hiện hai từ “nhớ” nhưng được dồn trọn vẹn trong một dòng thơ:
“Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”
Hình thức điệp từ vừa tô đậm cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ, của toàn bài, lại vừa làm cho ý
thơ biểu đạt nỗi nhớ trở nên đằm thắm, mãnh liệt, da diết. Có lẽ đây là lý do Quang Dũng
lược bỏ chữ “nhớ” trong nhan đề bài thơ, để cuối cùng thi đề tác phẩm chỉ là “Tây Tiến”,
gợi nhiều liên tưởng chứa nhiều cảm xúc.

14


Cũng chính chữ “nhớ” này làm cho giọng thơ hòa vào dòng hồi tưởng sâu lắng, bồi hồi của
bác giả để cảm nhận sâu sắc tình cảm gắn bó nhớ thương da diết mà Quang Dũng đã dành
cho những đồng đội của mình khi xa cách.
2.
Vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên Tây Bắc qua cách cảm nhận:
- Nỗi nhớ trở về với những kỷ niệm khó quên trong đó người ta thấy hiện lên bức tranh
miền Tây. Bốn từ chỉ địa danh giúp tác giả gợi lại chân thực, sống động về một không gian
Miền Tây có gì đó xa xôi, lạ lẫm, không phải cho đến 1948 mà đến tận bây giờ người VN
vẫn thấy xa lạ.
Đọc thơ ca VN trong KCCP, người ta thấy mỗi nhà thơ như Hoàng Cầm, Quang Dũng đều
có biệt tài sử dụng các từ chỉ địa danh. Bằng sự gắn bó máu thịt, sự am hiểu sâu sắc, những
rung động chân thành, mãnh liệt, mỗi nhà thơ ấy đều làm sống dậy một vùng đất Việt.

Hoàng Cầm thổi hồn vào những địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, để dựng lên không gian
Kinh Bắc giàu truyền thồng văn hóa. Nhà thơ Tố Hữu khi nhắc đến Tân Trào, Đèo De, Núi
Hồng là để dựng lại một không gian sôi động, hào hùng của cái nôi của sự nghiệp cách
mạng. Quang Dũng cũng vậy, nhà thơ làm sống dậy một không gian Tây Bắc hoang sơ,
hiểm trở mà rất đỗi nên thơ trữ tình bằng chính những địa danh riêng có của vùng đất ấy.
- Bức tranh TN Miền Tây hiện lên bằng nét bút tài hoa, bằng cảm xúc thấm đẫm chất hiện
thực, lãng mạn của người viết:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
+ Dễ dàng nhận thấy ngôn ngữ, thanh điệu giữa hai dòng thơ này có sự tương phản, đối
lập.“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” có nhiều thanh trắc, rơi vào trọng âm của đoạn
thơ. Kết hợp với hình ảnh thơ sương lấp, quân mỏi, Quang Dũng gợi tả sinh động không khí
âm u mù mịt, lạnh lẽo của Miền Tây. Còn dòng thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi” có
6/7 tiếng là thanh bằng, kết hợp hình ảnh thơ giàu chất lãng mạn, “hoa về”, “đêm hơi”, gợi
ấn tượng về một Miền Tây huyền ảo, thi vị.
+ Đáng chú ý, mỗi dòng thơ có hai hình ảnh thơ mang sắc thái thẩm mỹ đối lập nhau
được khắc họa bằng cảm quan nghệ thuật tương phản: “sương lấp”, “quân mỏi” là hình ảnh
được Xuân Diệu bằng bút pháp tả thực. Nó giúp người đọc hình dung những người lính Tây
Tiến đang hành quân trong địa hình hiểm trở, giữa một vùng thời tiết, thiên nhiên khắc
nghiệt. Thử thách của TN như muốn đè bẹp ý chí con người. Vậy mà ngay sau câu thơ đó,
cảm xúc thơ bay bổng lại làm hiện lên những hình ảnh rất trữ tình – “đêm hơi”, “hoa về”.
Dường như trong cái nhìn của người lính Tây Tiến, vẻ đẹp TN Tây Bắc đang thể hiện.“Hoa
về” gợi nhiều liên tưởng. Hoa hiện về? Hoa trở về? Hoa theo về? Chữ “về” còn mang theo
nghĩa của từ “nở”. “Đêm hơi” cũng vậy. Đêm nhẹ như làn hơi, hơi huyền ảo như hơi sương
giắc mắc? Có lẽ khi bỏ đi những giới từ giữa những tiếng ấy, Quang Dũng làm hình ảnh thơ
trở nên đa nghĩa.
+ Phải chăng ở đây người viết đã phát huy sức mạnh nghệ thuật của tư duy trượng trưng
như ta đã gặp ở “Mây vắng trời trong, đêm thủy tinh” của Xuân Diệu hoặc “Chập chờn sống
lại những ngày không” của Lưu Trọng Lư. Cũng nhờ hình ảnh thơ này mà người đọc nhận
ra một Miền Tây rất riêng trong sự hài hòa hai vẻ đẹp rất tương phản nhau, vừa hoang vu,

hiểm trở, vừa huyền ảo, nên thơ. Đúng là một bức tranh được miêu tả theo lối “thi trung hữu
họa, thi trung hữu nhạc”.
Dường như các cây bút khi nảy sinh cảm hứng từ Miền Tây đều gặp nhau ở hình tượng này.
Lời thơ trong hai câu thơ của Quang Dũng như nhắc người đọc nhớ đến những câu văn uyên
bác của Nguyễn Tuân trong tùy bút “Người Lái Đò Sông Đà”. Ở đó thiên nhiên Miền Tây
vừa mang diện mạo một thứ kẻ thù số một với con người ở đá, ở thác nước gùn ghè, ở thạch
trận nham hiểm xảo quyệt. Ở đó người ta thấy hiện lên một thiên nhiên Miền Tây trữ tình
15


lúc như một giai nhân tuyệt sắc với mái tóc dài, lúc như tình nhân. Lời văn, lời thơ ấy không
chỉ là chất tài hoa, lãng mạn trong tâm hồn nghệ sỹ như Quang Dũng, Nguyễn Tuân mà còn
ở vẻ đẹp đặc trưng, vốn có của miền đất Tây Bắc.
3.
Đánh giá
- Bốn dòng thơ, Quang Dũng diễn tả chân thành niềm thương, nỗi nhớ của mình với đồng
đội cũ. Đó cùng là dòng cảm xúc chan chứa tiếc nuối về một vẻ đẹp thiên nhiên thuộc về
quá khứ. Đó là nơi nhà thơ và đồng đội mình đi qua những thàng ngày gian khổ.
- Có thể nói, đây là khúc nhạc dạo đầu cho nỗi nhớ Tây Tiến chảy dọc mạch thơ Tây Tiến.
Chiều sâu của nó là biểu hiện độc đáo nơi trang thơ VN những năm KCCP nói chung, nơi
những dòng thơ Tây Tiến nói riêng.
III.
KTVĐ
Trở thành nốt nhạc chan hòa vào bản hợp xướng những khúc ca ngân lên tình yêu quê
hương đất nước của thơ ca VN trong 30 năm chiến tranh và lưu giữ những vẻ đẹp của quê
hương đất nước ở một thời gian khổ của dân tộc.
Đề 4: Cảm nhận đoạn thơ:
“Dốc lên khúc khủy dốc thăm thẳm
….
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”

A.
Phân tích đề
1.
Thao tác nghị luận:
2.
Nội dung:
Bức tranh TNMT vừa hiểm trở hoang sơ vừa huyển ảo, nên thơ
Tái hiện người lính Tây Tiến lãng mạn, hồn nhiên
Nghệ thuật: sử dùng từ chỉ địa danh, thủ pháp tương phản: thanh điệu; ngôn ngữ sáng
tạo, giàu chất tạo hình
3.
Kiến thức: đoạn thơ; văn học sử A + B; Liên hệ: đồng chí, hành lộ nan (Lý Bạch)
B.
Dàn bài:
I.
ĐVĐ: Giống đề 5
- Bốn dòng thơ khắc họa thành công bức tranh thiên nhiên miền Tây tổ quốc, hiểm trở, hùng
vĩ mà cũng rất nên thơ, huyển ảo = nghệ thuật mang đậm dấu ấn PCNT thơ Quang Dũng.
II.
GQVĐ
1.
Tổng quát:
Bài thơ mở ra bằng nỗi nhớ da diết bao trùm không gian, thời gian của tác giả, bật thành
tiếng gọi tha thiết “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi”. Nỗi nhớ chơi vơi khơi nguồn cho cảnh
thiên nhiên Tây bắc hiện về. Tthiên nhiên Tây bắc qua ngòi bút tài hoa, lãng mạn của thiên
nhiên Tây bắc được cảm nhận với vẻ đẹp đa dạng, độc đáo, vừa hoang sơ mà ấm áp, vừa
hùng vĩ mà thơ mộng.
2.
Đặc sắc của đoạn thơ:
a.

Bức tranh Miền Tây hiểm trở, hoang vu
- Đoạn thơ làm hiện lên trước mắt người đọc một bức tranh Miền Tây hiểm trở, hoang vu
trong ba dòng thơ:
“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”
+ Ba dòng thơ có sự xuất hiện đan dày của những từ, tính từ miêu tả, từ láy: khúc khuỷu,
thăm thẳm, heo hút, cồn mây. Đó là những từ rất giàu giá trị tạo hình. Nó giúp người viết

16


diễn tả thật đắc địa sự hiểm trở, khung cảnh trùng điệp, độ cao ngất trời của những núi, đèo
Tây Bắc.
+ Hình ảnh thơ “súng ngửi trời” được viết rất hồn nhiên mà cũng rất táo bạo. Nó vừa đặc
tả độ cao của núi đèo – núi cao tưởng chừng chạm mây, mây nổi thành cồn khi người lính
trèo lên đỉnh núi cao có cảm giác như đang đi trên mây. Mũi súng hướng lên trời cao tưởng
chạm tới trời. Cũng hình ảnh thơ này còn có giá trị thể hiện sự ngộ nghĩnh pha một chút tinh
ngịch trong cách cảm nhận thiên nhiên của những người lính trẻ trí thức. Hình ảnh thơ này
rất gần gũi với hình ảnh trong câu thơ trong Đồng chí của Chính Hữu:
“Đầu súng trăng treo”
Đó là sự gần gũi trong liên tưởng nghệ thuật giàu chất lãng mạn từ một hiện thực gắn với
đời sống người linh khi những người linh hành quân hay phục kích, mũi súng hướng lên trời
cao. Khi ấy tâm hồn trong người lính liền có liên tưởng bất ngờ - “Trăng treo đầu súng” hay
“súng ngửi trời”. Tất cả đều hé lộ cho người đọc thấy tâm hồn vừa lãng mạn vừa trẻ trung,
hồn nhiên của những anh lính vệ quốc thời chống pháp năm nào
+ Sự xuất hiện liên tiếp của những thanh trắc. Có 11/21 tiếng của ba dòng đều là thanh trắc,
khiến âm điệu thơ trở nên gân guốc, góc cạnh. Riêng dòng ba là cách ngắt nhịp truyền thống
4/3 nhưng có khả năng tạo hiệu quả nghệ thuật bất ngờ:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”

Câu thơ như bẻ gãy làm đôi, tạo đường gấp khúc giữa chiều cao, chiều sâu, diễn tả đắc địa,
thần tình những dốc núi dựng lên rồi đổ xuống, nhìn lên cao thấy chót vót, nhìn xuống lại
thấy sâu hun hút. Có nhà nghiên cứu phê bình cho rằng, đó là cách ngắt nhịp đầy sáng tạo
bởi người viết đã biết phát huy sức mạnh nghệ thuật của những yếu tố nghệ thuật biểu hiện
mang màu sắc cổ điển để thể hiện hiện thực riêng, độc đáo của địa hình, địa thế miền Tây
Bắc. Trong Tây Tiến, thiên nhiên Tây bắc đã có khá nhiều dòng thơ đặc tả ấn tượng vẻ trắc
trở, hùng vĩ, dữ dội của thiên nhiên Tây bắc:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi”
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
Nhưng có lẽ đây mới thực sự là những dòng thơ để lại cho người đọc nỗi ám ảnh hãi hùng
về miền đất Miền Tây của những ngày KCCP.
b.
Bức tranh thiên nhiên miền Tây nên thơ, huyền ảo
- Nối tiếp cảnh Miền Tây hoang sơ, hiểm trở là một bức tranh Miền Tây rất đỗi thơ mộng,
thi vị.
+ Ở Tây Tiến, cảnh trí thiên nhiên dường như được tạo hình theo lối truyền thống “thi
trung hữu họa”, “thi trung hữu nhạc”. Bên cạnh một Miền Tây góc cạnh, hiểm trở, gân guốc
của điêu khắc lại là một Miền Tây mờ nhòe kiểu tranh lụa. Nó tạo sự tương phản gay gắt
trong diện mạo thẩm mỹ của vùng đất này. Thế nên thủ pháp nghệ thuật này được Quang
Dũng sử dụng đắc địa hơn cả trong suốt thi phẩm. Nó không chỉ do yêu cầu tôn trọng hiện
thực phản ánh mà còn bị chi phối bởi đặc trưng thi pháp lãng mạn gắn với đặc trưng tâm
hồn của tác giả. Sau 3 dòng thơ đan dày thanh trắc lại là những dòng thất ngôn toàn thanh
bằng, lại ko ngắt nhịp. Nó tạo hình được vẻ đẹp mềm mại có sức lan tỏa của bức tranh thiên
nhiên.
+ Âm điệu thơ nhẹ nhàng, thư thái giúp người đọc thấy khung cảnh những người lính dừng
chân bên núi phóng ra xa và bất ngờ phát hiện trong không gian mịt mùng sương khói, mưa
rừng, thấp thoáng ẩn hiện những ngôi nhà như đang bồng bềnh giữa biển khơi. Nhờ chuỗi
âm thanh bằng, điệu thơ nhẹ nhàng, êm ái, du dương, Quang Dũng miêu tả được cả tiếng
thở phào của người vượt qua độ cao đang phóng mắt nhìn cảnh trí.


17


+ Hình ảnh thơ với cấu trúc ngôn từ lạ, táo bạo: “Xa khơi” vốn là hình ảnh tả không gian
biển, nay được Quang Dũng sử dụng để tả cảnh không gian núi rừng miền Tây. Hình ảnh
mưa xa khơi khép dòng thơ làm cho câu thơ đẹp như một bức tranh lụa kiểu thủy mặc rất
nên thơ. Chính ở đây, chất Quang Dũng còn thể hiện rõ ở điểm nhìn của người viết. Thơ cổ
thường dùng độ cao để gợi cái xa. Câu thơ của Quang Dũng dùng cái xa của không gian để
gợi tầm cao của tư thế đứng:
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
+ Câu thơ còn làm hiện rõ người lính trong tầm vóc giàu chất sử thi. Thế nên sau bức tranh
thiên nhiên miền tây hùng vũ, nên thơ là hình ảnh những con người Tây Tiến trong tư thế
chinh phục thiên nhiên ở một điểm cao ngạo nghễ mà vẫn hồn nhiên. Đó là những con
người đang trong trạng thái phấn khích bởi vừa vượt qua một thử thách.
3.
Đánh giá
- Bốn câu thơ là một bức họa rất cao đẹp về cảnh núi đèo Tây Bắc, địa bàn hoạt động chủ
yếu của đoàn quân Tây Tiến. Lời thơ gợi nhớ câu thơ:
“Hình khe thế núi gần xa”
Đứt thôi lại nối thấp đà lại cao”
trong “chinh phụ ngâm khúc”, còn vẻ hoang vu hiểm trở của Tây Bắc làm tái sinh trong ký
ức người đọc những câu thơ của Lý Bạch ở “Thục đạo nan”:
“Thục đạo chi nan
Nan ư thướng thanh thiên”
Thế mới biết người viết đã lựa chọn một giải pháp nghệ thuật rất phù hợp với hiện thực cần
phản ánh, thể hiện, lại cũng rất phù hợp với sở trường nghệ thuật của bản thân mình. Phải
chăng đây cũng là một trong những yếu tố quyết định thành công xuất sắc của Tây Tiến
trong đời thơ Quang Dũng.
Đề 5:Anh (chị) hãy phân tích đoạn thơ:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
A.
Phân tích đề
1.
Thao tác nghị luận: Phân tích, chứng minh, bình giảng, so sánh...
2.
Nội dung:
+ Nội dung: vẻ đẹp bức tranh thiên nhiên Miền Tây dữ dội hiểm trở; bức tranh cuộc sống
con người Miền Tây bình yên, giàu tình người; tâm hồn lãng mạn, tài hoa của người lính
Tây Tiến.
+ Nghệ thuật: sử dụng từ địa danh, thủ pháp tương phản, bút pháp lãng mạn, hiện thực.
3.
Kiến thức:
+ BB: đoạn thơ
+ Mr: văn học sử B, A và đặc trưng 45-75, Liên hệ: tác phẩm “Tiếng hát con tàu”, Việt
Bắc...
B.
Dàn bài:
I.
ĐVĐ: Giới thiệu chung B + A – đoạn thơ
- Cũng như Nguyễn Đình Thi, Quang Dũng được đánh giá là một nghệ sỹ đa tài: làm thơ,
viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh, ở lĩnh vực nào cũng có những thành tựu đáng ghi nhận.
Nhưng có lẽ người đọc biết đến Quang Dũng nhiều hơn trong tư cách một nhà thơ. Đó là
một hồn thơ trung hậu, yêu quê hương, đất nước tha thiết. Đọc thơ Quang Dũng, ta luôn gặp
ở đó cái tôi trữ tình hào hoa, thanh lịch, giàu cảm xúc lãng mạn, có khả năng cảm nhận, diễn
18



tả tinh tế vẻ đẹp thiên nhiên, cuộc sống, con người, đồng thời lại rất hồn nhiên, dung dị,
chân thực.
- Tây Tiến – đỉnh cao nhất trong sự nghiệp thơ Quang Dũng đã kết tinh được đặc sắc riêng
ấy của nhà thơ xứ Đoài, nhiều “đá ong”, “mây trắng”. Và đoạn thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
dù chỉ là một lát cắt của thi phẩm cũng đã mở ra trước mắt người đọc một góc Miền Tây
hiểm trở mà cũng đằm thắm tình người bằng những vần thơ tài hoa.
II.
GQVĐ
1.
Tổng quát: Mạch cấu tứ
- Cảm hứng về Tây Tiến được bắt nguồn từ kỷ niệm, kỷ niệm về một vùng đất, về những
đồng đội, về một đoạn đời chiến đấu, cả những kỷ niệm khó quên về chính mình của Quang
Dũng. Đó là dòng cảm xúc chứa chan nỗi nhớ, nỗi nhớ gắn với Miền Tây, nỗi nhớ gắn với
những người lính của đoàn quân Tây Tiến. Theo đó một Miền Tây hoang vu, dữ dội, hiểm
trở với “sương lấp”, dốc đèo “khúc khuỷu” , “heo hút” hiện ra cùng một Miền Tây thi vị,
nên thơ, huyền ảo trong “mưa xa khơi” nơi Pha Luông, cùng “hoa về” chốn Mường Lát. Tất
cả được tái hiện chân thực, sống động bằng cảm nhận lãng mạn, tài hoa của một người lính
trong đoàn quân Tây Tiến. Bức tranh Miền Tây như thế đã khắc ghi trong ký ức người lính
ấy dù đã rời về đơn vị nhận công tác khác, để rồi trong một khoảnh khắc thả hồn về quá
khứ, những đồng đội cũ lại hiện về.
2.
Phân tích:
- Đoạn thơ đưa người đọc trở về với bức tranh thiên nhiên Miền Tây dữ dội, hiểm trở trong
2 dòng thơ:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
+ Hai dòng thơ 7 chữ xuất hiện 2 từ láy chỉ thời gian đều được đặt ở đầu mỗi câu “chiều
chiều”, “đêm đêm”. Nó làm lời thơ có vẻ gần gũi với lời ca dao trong những khúc ca trữ
tình về tình yêu lứa đôi:
“Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai”
“Đêm đêm vầng sáng hao gầy đêm đêm”
Song ý thơ thì hoàn toàn mới mẻ, khác lạ.
+ Những từ láy này được dùng để biểu đạt thời gian để lại ấn tượng hãi hùng cho người lính
xuất thân từ thủ đô trong những bước hành binh về Miền Tây đánh giặc ở bên kia biên giới
Việt – Lào.
+ Dòng thơ chứa đầy thanh bằng gợi âm điệu thơ có gì đó đầy bí ẩn dù vẻ ngoài tưởng như
thật yên bình.
+ Hệ thống ngôn ngữ được tổ chức trong cấu trúc âm thanh lạ “thác”, “thét”, hiệp âm đầu và
thanh trắc ở âm vực cao nhất. Những câu trúc âm, thanh này gợi tả những thanh âm, tiếng
vọng hung hãn, dữ dội của núi đèo Miền Tây, lại gợi tinh tế bước chân rình rập đâu đây của
thú dữ. Miền Tây hiện lên như mối hiểm họa luôn đe dọa cướp đi sinh mệnh con người.
Hiểm họa ấy không chỉ bởi những địa thế hiểm trở mà còn bởi sự đe dọa của thú rừng.
- Trong toàn bài có hai lần nhà thơ nhắc đến thú dữ “cọp”, “hùm”. Nhưng mỗi lần hình ảnh
ấy lại mang những nét khác nhau.
+ Hình ảnh “hùm” trong “dữ oai hùm” có giá trị đặc tả sức mạnh tinh thần, phong thái, tư
thế oai phong, kiêu hùng của người lính Tây Tiến khi đối mặt với thử thách của cuộc chiến
19


đấu bằng cảm xúc lãng mạn, giàu chất sử thi: sự thiếu thốn những điều kiện sinh hoạt tối
thiểu ở chiến trường nước bạn, sự hoành hành của bệnh tật mà không có thuốc thang.
+ Hình ảnh “cọp” trong cụm từ “cọp trêu người” có giá trị thể hiện hiện thực miền tây bí
hiểm bởi thú dữ ẩn khuất, đánh hơi thấy sự hiện diện của con người nơi núi rừng hoang vu,
khuất nẻo này bằng biện pháp giàu chất hiện thực mang tính khách quan.

=> Hai dòng thơ dựng cảnh rừng núi miền tây khi chiều xuống, đêm buông đã để lại cho
người đọc cảm giác khó quên về 1 không gian âm u, huyền bí, hãi hùng. Đọc câu thơ này, ta
nhớ đến câu văn đầy ấn tượng của nghệ thuật trong “Người lái đò Sông Đà”, khi miêu tả
những con thác của con Sông Đà Miền Tây, hay lời thơ của Chế Lan Viên trong “Tiếng hát
con tàu”:
“Gió ngàn rú gọi xứ thiêng liêng”
Tất cả thâu tóm được đặc trưng thần thái của miền đất Miền Tây vừa dữ dội, vừa hùng vĩ.
- Trong hoài niệm đầy nỗi nhớ của Quang Dũng, không chỉ có bức tranh thiên nhiên Miền
Tây dữ dội, hiểm trở, hùng vĩ mà còn có sự hiện diện của bức tranh cuộc sống con người
Miền Tây rất đỗi bình yên, đằm thắm tình người.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
+ Giọng điệu thơ có sự chuyển đổi từ điệu thơ gân guốc, rắn rỏi, trầm hùng sang điệu thơ
thiết tha, bồi hồi, xốn xang, xúc động.
+ Câu thơ “Nhớ ôi…khói” được viết rất lạ. Nó bộc lộ lời nói trực tiếp của nỗi nhớ làm âm
điêu thơ, lời thơ đang từ lời nói thường sang âm điệu, lời nói đầy cảm xúc. Dường như xúc
cảm làm lời nói bị xáo trộn. Cách diễn đạt sáng tạo của Quang Dũng đã giúp nhà thơ diễn tả
sâu sắc nỗi nhớ đang trào dâng trong lòng. Ở đây sự lạ hóa ngôn từ đã chứa đựng sự lạ hóa
cảm xúc.
+ Cách cấu trúc ngôn từ trong dòng thơ “Mai Châu..xôi” cũng rất lạ. Về mặt cấu tạo – có 2
hình ảnh chồng lên trong từ ngữ: mùa em; đó là “mùa” gặt và “em”. Nó không chỉ chứa
đựng tình cảm nội dung mà còn biểu đạt tình cảm hướng tới dành cho đối tượng trữ tình cụ
thể “em”. Về mặt ý – Âm điệu bao trùm là nỗi nhớ. Nó hiện lên thành ngôn từ trực tiếp. Nỗi
nhớ làm thức dậy những kỷ niệm. Những kỷ niệm ùa về làm nỗi nhớ trở nên có hình sắc, cụ
thể. Đó không chỉ là trí nhớ mà còn được bao bọc trong bầu khí quyển của cảm xúc nhớ.
+ Hình ảnh “cơm lên khói”, “thơm nếp xôi” là hình ảnh thơ vừa rất thực, vừa lãng mạn bởi
đây là kỷ niệm gắn với sinh hoạt của người dân Miền Tây. “Cơm lên khói” gợi cảm giác ấm
cúng giữa không gian lạnh rợn, gợi cảm giác bình yên giữa không gian hãi hùng của “thác
gầm thét”, “cọp trêu người”. Còn hình ảnh “cơm nếp xôi” lại gợi nhớ một mùa thu hoạch hồ
hởi, phấn chấn. Làn hương xôi nếp vùng đất Tây Bắc phả vào ký ức của Quang Dũng tạo

nên một miền nhớ lãng mạn. Có lẽ vậy mà trong ký ức những con người từng gắn bó với
vùng đất Tây Bắc dường như đều lưu giữ làn hương ấy:
“Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
(Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên)
-> Hình ảnh thơ ở 2 dòng thất ngôn giúp người đọc cảm nhận thật ấm áp một miền quê trữ
tình qua tâm hồn yêu sống lãng mạn, bay bổng của những người lính Tây Tiến hào hoa, tài
hoa.
3.
Đánh giá
=> Bốn dòng thơ là một bức họa về thiên nhiên, cuộc sống Miền Tây có sự hòa trộn cảm
xúc rất thực mà rất lãng mạn. Một Miền Tây gân guốc, hùng vĩ cũng là một Miền Tây nên
thơ, trữ tình. Thấp thoáng ẩn hiện trong lời thơ, hình ảnh thơ là những người lính Tây Tiến
rất hào hoa cũng rất đỗi hào hùng.
III.
KTVĐ
20


- Tây Tiến là một thi phẩm đạt đến độ toàn bích của một tác phẩm thơ trữ tình. Ở đó bất cứ
khổ thơ, đoạn thơ nào cũng làm hiện lên một Quang Dũng hào hoa, đắm say trước những vẻ
đẹp độc đáo, riêng có của MT. Đó là biểu hiện sâu thẳm của một thứ tình cảm thiêng liêng,
đẹp đẽ: tình yêu quê hương, đất nước.
Đề 6: Bút pháp nghệ thuật là gì ? so sánh bút pháp nghệ thuật giữa “Tây Tiến” của
Quang Dũng và “Đồng chí” của Chính Hữu?
A. Phân tích đề :
1- Nội dung nghị luận :
+ Khái niệm bút pháp nghệ thuật
+ Làm rõ sự giống và khác nhau trong bút pháp nghệ thuật của “Tây Tiến” và “Đồng chí”
2- Thao tác nghị luận:
3- Phạm vi kiến thức: Hai bài thơ ‘Tây Tiến” của Quang Dũng và “Đồng chí” của Chính

Hữu.
B. Dàn bài :
1. Khái niệm bút pháp nghệ thuật :
- Là một yếu tố tạo nên phong cách của tác giả, nó là cách thức sử dụng từ ngữ, hành văn,
bố cục, cách dùng các phương tiện biểu hiện để tạo thành hình thức nghệ thuật nào đó.
- Có rất nhiều loại bút pháp khác nhau: hiện thực, lãng mạn, bi tráng, trữ tình, trào
phúng...
2. So sánh bút pháp:
a)Giống nhau: Đều dùng bút pháp chung là hiện thực và lãng mạn với đối tượng chung là
hình ảnh người lính trong kháng chiến chống Pháp.
b) Khác nhau :
* “Đồng chí”:Chủ yếu dùng bút pháp hiện thực: Miêu tả vẻ đẹp đời sống bằng những hình
tượng tương ứng, với những cái vốn có của đời sống: Cái gần gũi, cái phổ biến được nhấn
mạnh hơn là cái đặc biệt khác thường.
- Nguồn gốc xuất thân : hoàn cảnh nghèo khó, vất vả nơi nước mặn đồng chua, đất cày lên
sỏi đá” , “Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”
=> Cuộc sống vất vả đói nghèo hiện lên rõ nét, không che giấu, không cường điệu bởi là
cuộc sống phổ biến của người nông dân thời ấy.
- Lí tưởng: Ra đi với lòng hăng hái, chẳng hẹn mà nên, chịu đựng mọi thiếu thốn gian khổ,
trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp: “Áo anh rách vai...” chịu đựng cả
những cơn sốt rét rừng hành hạ dữ dội nhưng tác giả chỉ miêu tả ở mức độ cụ thể, đó là “
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”.
- Nỗi nhớ: quê hương, người thân mộc mạc chân chất, hòa tan trong nỗi nhớ giếng nước
gốc đa.
- Tình đồng chí, đồng đội: Đã giúp họ vượt qua gian khổ:
“Súng bên súng đầu sát bên đầu
...Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”
- Tư thế sẵn sàng chiến đấu: “Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới” được tác giả vẽ lên sinh
động và gần gũi, anh hùng, oai phong, lẫm liệt.
*) ‘Tây Tiến” : Bút pháp chủ yếu là lãng mạn:

21


- Đặc điểm của bút pháp Lãng mạn:
+ Thường tô đậm hiện thực bằng cách dùng những thủ pháp tương phản, cường điệu để tạo
nên cái phi thường độc đáo.
+ Thích nói đến cái buồn, cái đau, cái chết coi như một biểu hiện của cái đẹp.
+ Sự nhạy cảm tinh tế bay bổng trước những hiện thực mới lạ, hấp dẫn.
*Chứng minh :
- Hình ảnh người lính xuất hiện trong bối cảnh hoang vu, hiểm trở. Hiện thực là dốc núi
đèo cao, vực thẳm, nhưng tác giả đã tô đậm hiện thực ấy bằng thủ pháp đối lập, tương phản,
bằng hình ảnh thơ độc đáo khiến người đọc cảm nhận được những gian lao, vất vả của
chặng đường hành quân:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm >< Mường Lát hoa về trong đêm hơi.
“Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống >< Nhà ai Pha luông mưa xa khơi.
- Cũng là căn bệnh sốt rét rừng hành hạ khiến ngoại hình thay đổi, nhưng người lính vẫn
hiện lên trong tư thế oai phong dữ dội khác thường.Trong sự tương phản giữa vẻ ngoài và
khí chất toát ra:
“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”
- Bài thơ nói nhiều tới sự hi sinh nhưng trong cách miêu tả có sự tô đậm vừa gợi lên cái
hùng vừa gợi lên cái bi, nhưng cái hùng ở đây là chính bởi những người lính luôn coi cái
chết nhẹ tựa lông hồng :
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Hoặc “ Rải rác biên cương mồ viễn xứ
....Sông Mã gầm lên khúc độc hành.”
- Sự nhạy cảm tinh tế bay bổng trong những hình ảnh mới lạ, hấp dẫn: hình ảnh người lính
hào hoa lãng mạn, thanh lịch với đời sống nội tâm phong phú đa tình, đa cảm, luôn được
khắc họa rõ nét:

+ Khi thì rung động trước cảnh đẹp của TN
+ Khi thì thả hồn theo các điệu khèn của các cô thôn nữ.
+ Có khi thể hiện qua vẻ bên ngoài vớí ánh mắt dữ dội, khi lại ẩn dấu bên trong với “Đêm
mơ HN dáng kiều thơm".
=>Viết về hình ảnh người lính cụ Hồ xuất thân từ tầng lớp trí thức, lớn lên từ đất Hà
Thành, Quang Dũng đã rất thành công khi miêu tả họ ở bút pháp lãng mạn.
Nhận xét : Với 2 bút pháp khác nhau, các tác giả đã tạo ra được 2 hình ảnh khác nhau:
- Một anh lính chân đất từ giã ruộng nương để có mặt trong quân ngũ mang theo nếp
nghĩ, nếp cảm dân dã, mộc mạc, chân chất như hạt lúa, củ khoai.
- Một anh lính đất Hà Thành, lớn lên ở chốn phồn hoa, đô hội mang vào quân ngũ nếp
sống và sinh hoạt của những người trí thức Tây Tiến nhạy cảm và đầy mơ mộng, kiêu hãnh
tự ý thức về con người cá nhân của mình khá rõ nét.
=>Mỗi bài một bút pháp, hình tượng người lính hiện lên phong phú đa dạng nhưng đều
đẹp, đều đáng yêu -> Sự sáng tạo của Văn chương là vô tận.

22


Đề 7: Cảm nhận của anh / chị về hai đoạn thơ sau:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
(Ngữ văn 12, tập 1, NXB GD, 2011, tr 88)
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
(Ngữ văn 12, tập 1, NXB GD, 2011, tr 110)
*Dàn ý:

1.Giới thiệu hai tác giả, hai tác phẩm và hai đoạn trích
- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn. Tố Hữu
là một tác gia tiêu biểu có vị trí đặc biệt quan trọng, một nhà thơ tiêu biểu của dòng thơ cách
mạng Việt Nam với hồn thơ đậm đà tính dân tộc.
- " Tây Tiến" (1948), " Việt Bắc "(1954) là những thành tựu đặc sắc của thơ ca kháng chiến
chống Pháp, là những bài ca không thể nào quên về một thời gian khổ mà hào hùng, hào hoa
của lịch sử dân tộc.
2. Cảm nhận về hai đoạn thơ
* Đoạn thơ trong bài Tây Tiến:
- Mở đầu đoạn thơ là một nỗi nhớ: nhớ rừng núi miền Tây, nhớ về đơn vị cũ và người lính
Tây Tiến đến da diết “chơi vơi”. Thiên nhiên miền Tây xa xôi mà thân thiết, hoang vu mà
thơ mộng; con người Tây Tiến gian khổ mà hào hoa…
- Hình ảnh thơ có sự hài hoà giữa nét thực và nét ảo, vừa mông lung vừa gợi cảm về cảnh và
người; nhạc điệu có sự hòa hợp giữa lời cảm thán với điệu cảm xúc. Từ láy “chơi vơi”,
cách gieo vần ơi, chơi vơi, hơi) với điệp từ (nhớ / nhớ) và lối đối uyển chuyển (câu 3 với
câu 4) đã tạo ra một âm hưởng tha thiết, ngậm ngùi.
* Đoạn thơ trong bài Việt Bắc
- Đoạn thơ là một nỗi nhớ trào dâng vừa bồi hồi vừa sâu lắng thiết tha. Nỗi nhớ mà
người ra đi dành cho người ở lại được cụ thể hóa bằng một nỗi nhớ - nhớ người yêu. Người
ra đi muốn nhấn mạnh, khắc sâu nỗi nhớ nơi trái tim mình là nỗi nhớ thường trực, da diết,
khắc khoải, trở thành một nỗi ám ảnh.
- Sau lời khẳng định là những hình ảnh thiên nhiên và con người Việt Bắc đẹp như khúc
hát đồng quê. Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương, bản khói cùng sương…là những
hình ảnh rất đặc trưng cho khung cảnh núi rừng êm đềm, thơ mộng. Trên cái nền trữ tình là
hình ảnh con người Việt Bắc tần tảo, chịu thương chịu khó. Con người và thiên nhiên hài
hòa gắn bó trong nỗi nhớ người về xuôi.
- Các hình ảnh trong hoài niệm nhưng hiện lên thật cụ thể, rõ nét, chứng tỏ sự gắn bó sâu
sắc và nỗi nhớ thiết tha.
3. Điểm tương đồng và nét riêng biệt:
- Điểm tương đồng: Đều bộc lộ nỗi nhớ của người trong cuộc: tha thiết, bồi hồi, sâu lắng về

thiên nhiên và con người một thời gắn bó, yêu thương trong kháng chiến.
- Điểm khác biệt: Hai bài thơ sử dụng hai hình thức khác nhau để bộc lộ cảm xúc:
+ Việt Bắc sử dụng hình thức thơ lục bát
+ Tây Tiến sử dụng hình thức thơ thất ngôn trường thiên
+ Nỗi nhớ của nhà thơ Quang Dũng được bộc lộ trực tiếp, cụ thể.
+ Tố Hữu dùng nỗi nhớ tình yêu để khẳng định nỗi nhớ với quê hương cách mạng.
23


4.Đánh giá
- Với hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và đậm đà tính dân tộc, Quang Dũng và Tố
Hữu đã làm nổi bật nỗi nhớ thiết tha, sâu nặng về đơn vị cũ và nỗi nhớ quê hương cách
mạng.
Đề 8: Nét mới trong hình tượng người lính ở bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng
*Gợi ý:
1. Vài nét về hình tượng người lính trong thơ ca Việt Nam.
+ Dân tộc Việt Nam - một dân tộc luôn phải đương đầu với các cuộc chiến tranh xâm lược.
Lịch 4000 năm của dân tộc, về cơ bản là lịch sử chiến tranh vệ quốc. Vì vậy, hình tượng
người lính luôn là hình tượng trung tâm trong đời sống xã hội cũng như trong văn học nghệ
thuật.
+ Hình tượng người lính đã từng xuất hiện trong ca dao, cổ tích, trong văn học Trung đại
(thơ Phạm Ngũ Lão, trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc...) tuy số lượng không nhiều
+ Từ sau CM Tháng Tám, hình tượng người lính đã trở thành hình tượng trung tâm của VH
CM. (...)
2. Hoàn cảnh ra đời và cảm hứng sáng tác bài thơ Tây Tiến
- Bài thơ Tây Tiến ra đời năm 1948, sau một thời gian Quang Dũng xa Tây Tiến vì vậy cảm
xúc bao trùm trong bài thơ là cảm xúc hoài niệm. Đây là điểm khác biệt so với hoàn cảnh ra
đời của các bài thơ viết về người lính trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp như:
Đồng chí của Chính Hữu, Nhớ của Hồng Nguyên...
- Cảm hứng bao trùm của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ thiên nhiên Tây Bắc hoang sơ kỳ vĩ và thơ

mộng; nhớ về tình quân dân ấm áp và bao trùm lên cả là nỗi nhớ về những đồng đội, những
người đã cùng Quang Dũng trải qua những ngày tháng gian khổ ở Tây Tiến.
- Khắc hoạ hình tượng người lính, Quang Dũng không nhằm khắc hoạ, thể hiện một con
người cụ thể, riêng biệt, mà tạo dựng hình ảnh người lính Tây Tiến được hun đúc từ những
phẩm chất tinh thần đẹp đẽ của muôn ngàn người lính nơi miền Tây. Với Quang Dũng,
người lính Tây Tiến trở thành niềm kiêu hãnh. Quang Dũng như tìm thấy bóng dáng của
mình trong chân dung của đồng đội.
3. Những nét mới trong cách cảm nhận và khắc hoạ hình tượng người lính của Quang Dũng
trong bài thơ Tây Tiến.
a. Nét mới trong cách cảm nhận về vẻ đẹp người lính:
+ Vẻ đẹp hào hoa
- Hoàn cảnh xuất thân: Hầu hết là các chàng trai Hà thành thuở ấy. Họ là những thanh niên
trí thức mang trong mình sự sôi nổi, lãng mạn và một bầu nhiệt huyết đối với quê hương đất
nước. Họ khao khát được khẳng định mình trong môi trường khốc liệt của chiến tranh(thực
chất đây là một sự ý thức sâu sắc về mình...) (người lính trong Đồng chí (Chính Hữu), Nhớ
(Hồng Nguyên), Cá nước (Tố Hữu); Đồng chí (Chính Hữu) mang dáng dấp của những
người nông dân ra trận- chất phác, hồn nhiên, ra đi từ mái tranh gốc rạ, bến nước cây đa (...)
)
- Sự khác biệt ấy còn xuất phát từ chất tâm hồn của chính Quang Dũng. Cái chơi vơi, thăm
thẳm, xa khơi, oai linh thác gầm thét, oai hùm... của cảnh và người trong Tây Tiến cũng là
24


những giai điệu, những sắc màu của thế giới tâm hồn Quang Dũng. Chính vì thế, nhà thơ
đặc biệt đồng điệu đồng cảm với chất lính Tây Tiến hào hoa, phóng khoáng, nên thơ.
+ Vẻ đẹp giản dị mà kiêu hùng
- Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp hào hùng, lẫm liệt - có bóng dáng của các
tráng sĩ xưa - coi cái chết nhẹ nhàng, thanh thản: "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/áo
bào thay chiếu anh về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành" nhưng cũng rất thời đại, rất mới
mẻ.

- Hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên một cách chân thực, gần gũi trong nét hồn nhiên,
tinh nghịch (Người lính trong Đồng chí của Chính Hữu không có dáng dấp tráng sĩ mà gần
với Văn tế NSCG ). Họ là những người chiến sĩ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, bước
vào cuộc chiến khốc liệt với tư thế ngang tàng, bất chấp hiện thực nghiệt ngã: "Heo hút cồn
mây súng ngửi trời"... "Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc - Quân xanh mâu lá dữ oai
hùm"; "Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh". Nhưng điều làm nên sức mạnh thực sự của
người lính Tây Tiến là nguồn lực tinh thần. Ý chí chiến đấu quên mình, tình yêu mãnh liệt
với quê hương đất nước mà biểu hiện cụ thể trong bài thơ là tình yêu với thiên nhiên miền
Tây, với núi rừng, làng bản. Tình yêu cuộc sống làm bừng sáng vẻ đẹp của cuộc đời chiến
đấu gian khổ: "Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói - Mai Châu mùa em thơm nếp xôi" "Doanh
trại bừng lên hội đuốc hoa - Kìa em xiêm áo tự bao giờ"....
- Viết về người lính trong những năm thăng kháng chiến gian khổ, Quang Dũng không né
tránh sự mất mát, đau thương. Vẻ đẹp của người lính không tách rời nỗi đau của chiến tranh
ác liệt. Sự hi sinh của những người lính đã được biểu hiện bằng những hình ảnh bi thương,
nhưng không bi luỵ. Cái chết đồng hành với mỗi bước chân trên con đường chiến trận.
Người lính có thể gục xuống, ngã xuống vì bom đạn vì sốt rét, vì đói khổ, nhưng đó không
phải là sự gục ngã: Trong cái bi (nỗi đau mất mát, chiến tranh tàn khốc) vẫn tiềm tàng một
sức mạnh bất khuất: "Anh bạn dãi dầu không bưởi nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời"...;
"Rải rác biên cương mồ viễn xứ/Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh/Áo bào thay chiếu anh
về đất/Sông Mã gầm lên khúc độc hành"
+ Tâm hồn lạc quan, lãng mạn
- Tâm hồn lạc quan, lãng mạn vốn là phẩm chất tinh thần nổi bật của người lính. Nhiều tác
giả đã viết về điều đó, song ở Tây Tiến, tâm hồn lạc quan, mơ mộng của những chàng trai
Hà Nội không giống với cái hồn nhiên chân chất của những người lính xuất thân từ từ gốc
rạ bờ tre, từ cây đa, giếng nước. (Giếng nước gốc đa...Đằng nớ vợ chưa đằng nớ...Lũ chúng
tôi...). Đã có một thời người ta phê phán câu thơ "Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm" cho
rằng Quang Dũng mộng mơ quá, nhưng suy cho cùng, điều đó lại rất cần thiết. Đặc biệt, đối
với những người lính phải chiến đấu trong một hoàn cảnh khắc nghiệt, nếu không có niềm
lạc quan, mộng mơ thì họ sẽ chết vì nỗi buồn trước khi chết vì bom đạn của kẻ thù (nhất lại
là đối với những chàng trai HN...). Từng là một người lính nên Quang Dũng hiểu rõ điều đó.

- Vẻ đẹp lãng mạn của người lính Tây Tiến được bộc lộ không phải chỉ ở dáng vẻ oai hùm,
phóng túng, mà luôn thăng hoa trong chất tâm hồn, trong từng giai điệu cảm xúc của người
lính giữa cảnh tàn khốc của chiến tranh. Cái nhìn của nhà thơ cũng là cái nhìn từ đôi mắt
mộng mơ của người lính. Đôi mắt ấy đã cảm nhận được vẻ đẹp đầy chất thơ của thiên nhiên,
con người, cuộc sống miền Tây Tổ quốc: "Người đi Châu Mộc chiều sương ấy/ Có thấy hồn
25


×