Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

CHUYÊN đề LUYỆN THI đại học tác PHẨM vợ CHỒNG a PHỦ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.72 KB, 26 trang )

CHUYÊN ĐỀ LUYỆN THI ĐẠI HỌC
TÁC PHẨM: VỢ CHỒNG A PHỦ
- TÔ HOÀI
GV: Trần Thị Ngọc Minh
Trường THPT Hồ Xuân Hương
A. MỤC ĐÍCH – YÊU CẦU
Đối tượng: học sinh lớp 12- ban C,D
Số tiết bồi dưỡng: 08
1. Nội dung
- Nắm chắc kiến thức cơ bản về tác giả Tô Hoài.
- Nắm chắc và phân tích được giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm trên cái nhìn
nhiều chiều, kể cả so sánh với những tác phẩm khác trong chương trình.
2. Kĩ năng
Ôn luyện và hình thành cho học sinh các dạng đề:
- Tái hiện kiến thức về tác giả, tác phẩm.
- Phân tích hình tượng nhân vật trong tác phẩm.
- Phân tích diễn biến tâm trạng của nhân vật.
- Phân tích một khía cạnh nội dung của tác phẩm.
- Phân tích một khía cạnh nghệ thuật của tác phẩm.
- Kiểu bài so sánh.
3. Phương pháp
- Phát phiếu học cho học sinh. Yêu cầu học sinh làm đề cương theo nhóm
Tổ chức ôn luyện và trả bài trên lớp.
B. NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
I.HỆ THỐNG ĐỀ 02 ĐIỂM
Đề 1: Trình bày hoàn cảnh ra đời và nhận xét bố cục của tác phẩm Vợ chồng A
Phủ- Tô Hoài.
Gợi ý trả lời:
- Hoàn cảnh ra đời: Năm 1952, Tô Hoài đi cùng bộ đội vào giải phóng Tây Bắc. Trong
chuyến đi dài tám tháng, nhà văn sống với đồng bào dân tộc thiểu số từ khu du kích trên núi
cao đến các bản làng mới được giải phóng. Chuyến đi đã giúp Tô Hoài hiểu biết sâu hơn về


cuộc sống và con người miền núi. Đồng thời để lại cho nhà văn những kỉ niệm sâu sắc, tình
cảm thắm thiết với người và cảnh Tây Bắc. Ông đã viết “Vợ chồng A Phủ” như một cách để
trả ơn sâu nghĩa nặng cho đồng bào vùng cao. Truyện được in trong tập Truyện Tây Bắcmột trong những tấc phẩm văn xuôi tiêu biểu của văn học thời kì kháng chiến chống Pháp.
Tác phâm được trao giải nhất – Giải thưởng Hội văn nghệ Việt Nam 54-55.
- Bố cục: truyện gồm có 2 phần:
+ Phần 1: Giai đoạn Mị và A Phủ ở Hồng Ngài

1


+ Phần 2: Giai đoạn Mị và A Phủ ở Phiềng Sa- hai vợ chồng được đượch giác ngộ
cách mạng và A Phủ trở thành du kích.
-> Qua hai chặng đường đời của A Phủ và Mị, nhà văn phản ánh quá trình vùng lên của
đồng bào miền núi: từ đau thương mất mát, bằng sức sống tiềm tàng mãnh liệt, họ đã mở
đời mình sang một trang đời tươi sáng hơn.
Đề 2: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài viết: “…Lúc ấy đã khuya. Trong
nhà đã ngủ yên, thì Mị dậy thổi lửa. Ngọn lửa bập bùng sáng lên, Mị lé mắt trông sang,
thấy hai mắt A Phủ cũng vừa mở, một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã
xám đen lại…”.
Anh/ chị có suy nghĩ gì về chi tiết “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má
đã xám đen lại” của A Phủ ?
Gợi ý trả lời:
1. Về nội dung
* Đây là một chi tiết chân thực, sống động được nhà văn miêu tả giữa lúc A Phủ đau
khổ nhất, tuyệt vọng nhất
+ Đó là giọt nào nước mắt tủi thân, tủi phận, giọt nước mắt đầy uất ức của A Phủ trước hành
động của cha con thống lí.
+ Giọt nước mắt ấy đã tác động rất lớn đến tình cảm của Mị:
- Nhìn nó, Mị nhớ lại cuộc đời cuộc đời mình mà đồng cảm về thân phận và tâm trạng của
A Phủ.

- Qua đó, Mị nhận ra bản chất của kẻ thù “Chúng nó thật độc ác”.
- Khơi dậy tình cảm trong con người Mị, tạo nên một sức mạnh đủ cho Mị không
biết sợ và quyết định cắt dây trói giải thoát cho A Phủ và cũng là giải thoát cho chímh mình
* Đây còn là chi tiết cảm động, chứa đựng giá trị nhân văn cao cả mà Tô Hoài muốn
khẳng định: đó là tình thương của những con người cùng khổ.
2. Nghệ thuật
- Đây là chi tiết làm phát triển diễn biến tâm lí nhân vật.
- Chi tiết giúp Tô Hoài thể hiện những giá trị nhân đạo: đó là tình thương người và tố
cáo bản chất tàn bạo của bọn phong kiến chúa đất miền núi.
Đề 3: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài viết: “…Mị đến góc nhà, lấy ống
mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng.” Anh/ chị có suy nghĩ gì về chi tiết
này?
Gợi ý trả lời
1. Về nội dung: - Đây là chi tiết chân thực: nhằm diễn tả hành động của nhân vật Mị trong
đêm tình mùa xuân, khi tâm hồn Mị đã phơi phới trở lại, Mị muốn được đi chơi.
- Chi tiết khẳng định sức sống của Mị đã trở lại. Mị nhận ra căn buồng Mị ở sao mà chật
hẹp, tăm tối.
- “Xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng” có nghĩa là Mị đã thắp lên ánh sáng của
cuộc đời mình. Mị bắt đầu quan tâm đến cuộc sống hiện tại tăm tối của mình.
2. Về nghệ thuật:

2


- Chi tiết làm phát triển tâm lí nhân vật, hướng nhân vật đến những hành động tiếp theo:
quấn lại tóc, với chiếc váy hoa trên vách để chuẩn bị đi chơi. Hành động dứt khoát và có chủ
ý.
- Chi tiết giúp Tô Hoài thể hiện giá trị nhân bản: khẳng định tâm hồn giàu khát vọng sống
của một cô gái miền núi bé nhỏ.
Đề 4: Trình bày ngắn gọn giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của " Vợ chồng A

Phủ" ?
Gợi ý trả lời
* Giá trị hiện thực:
- Tác phẩm cho thấy cuộc sống cơ cự bị đè nén áp bức nặng nề của người dân miền núi vùng
Tây Bắc dưới ách thống trị hà khắc của bọn địa chủ và phong kiến cấu kết với thực dân
Pháp.
+ Tiêu biểu cho số phận những con người khốn khổ bị vùi dập chẳng khác nào con sâu, con
kiến, bị coi không bằng trâu ngựa ở nhà thống lí ấy là Mị và A Phủ ( dẫn ra một số chi tiết
để thấy cuộc sống nô lệ ở Hồng Ngài tối tăm của hai nhân vật)
- Giá trị hiện thực của thiên truyện còn thể hiện ở chỗ người đọc thấy hiện lên ở đây rất sinh
động bộ mặt tàn bạo và những hủ tục thối nát của chế độ phong kiến ở miền núi trước cách
mạng. Điều này thể hiện tập trung ở cha con thống lí: Cảnh ăn vạ và xử kiện; cảnh hút thuốc
phiện; cảnh hành hạ A Phủ; cảnh đánh đập Mị của bố con thống lí
- Phần sau của chuyện hé mở cho người đọc thấy sự đổi đời của "Vợ chồng A Phủ". Dưới
ánh sáng của cách mạng, A Phủ và Mị đã tham gia du kích, chuẩn bị cùng dân làng đánh
Pháp sống cuộc sống của những con người tự do.
* Giá trị nhân đạo:
- Cảm thông sâu sắc đối với người dân, thể hiện tình yêu thương, sự đồng cảm sâu sắc với
thân phận đau khổ của người dân lao động miền núi trước cách mạng.
- Tố cáo lên án, phơi bày bản chất xấu xa tàn bạo của thế lực phong kiến ở miền núi chà đạp
lên quyền sống của con người, hiểu được ước mơ nguyện vọng của họ, trân trọng đề cao
những khát vọng chính đáng của con người.
- Ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khả năng cách mạng của nhân dân Tây
Bắc.
- Thấy được người nông dân miền núi mặc dầu bị đè nén, áp bức nặng nề nhưng họ vẫn tiềm
tàng một sức sống mãnh liệt , khao khát tình yêu, hạnh phúc, tự do. Đặc biệt cũng như nhiều

3



tác phẩm ở giai đoạn này, truyện " Vợ chồng A Phủ đề cao tình hữu ái giai cấp, sự đồng cảm
của những con người nhèo khổ cùng cảnh ngộ.
- Giải phóng con người khỏi sự chà đạp, cho họ một cuộc sống mới tốt đẹp hơn. Nhà văn đã
tin tưởng vào sức mạnh quật khởi , tinh thần đấu tranh để tự giải phóng của họ.
Đề 5: Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ khi miêu tả căn buồng của Mị nhà văn Tô Hoài
đã miêu tả một hình ảnh có giá trị tượng trưng cho số phận bi thảm của Mị. Đó là hình
ảnh nào? Cảm nhận của anh/ chị về chi tiết nghệ thuật độc đáo đó.
Gợi ý trả lời
1.Chi tiết nghệ thuật độc đáo (0,5 điểm)
Chi tiết “ Ở buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc
nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình
cứ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”
2.Cảm nhận về chi tiết nghệ thuật độc đáo trên.
- Thông qua chi tiết cái cửa sổ, Tô Hoài gợi ám ảnh về một nhà tù rùng rợn mà ở đó Mị là
một tù nhân đáng thương, có số phận bi thảm.
- Qua nhân vật Mị, tác giả tố cáo chế độ phong kiến miền núi tàn nhẫn, vô nhân đạo khinh rẻ
con người, đẩy con người tới kiếp ngựa trâu.
Đề 6 :
Trong truyện có kể, khi bị bắt vào nhà thống lí, Mị đã định tự tử bằng lá ngón,
nhưng rồi lại từ bỏ ý định vì thương cha. Nhưng đến lúc cha Mị chết đi rồi,
Mị lại không còn ý định tìm đến cái chết nữa. Vì sao vậy?
Gợi ý trả lời
Ý muốn ăn lá ngón là một phản ứng trước một cuộc sống không ra cuộc sống. Điều
đó cho thấy, phải tha thiết sống lắm thì khi mất nó, người ta mới muốn chết ngay đi.
(Cho nên, về sau này, trong một ngày tết đáng nhớ của đời Mị, khi tình xuân bất chợt trở về
bừng nở trong lòng thì Mị lại có ngay ý nghĩ: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ
ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa”).
Còn khi niềm khao khát sống, khao khát hạnh phúc đã băng giá lại thì cũng chẳng còn gì
thúc đẩyngười ta nghĩ về cái chết. Đấy là lí do cắt nghĩa vì sao khi người cha đã mất rồi, mà
ý nghĩ về nắm lá ngón sẽ không trở lại với Mị, chừng nào cô còn là một cái bóng vật vờ trôi

theo guồng công việc và không còn nhớ đến cả sự xót thương mình.
Diễn biến tâm lí của nhân vật đã được nhà văn phát hiện và miêu tả nhiều góc độ khác nhau
theo một sự tiến triển rất logic, chân thật, không giản đơn, không gượng ép giả tạo như một
vài nhân vật trong một số tác phẩm cùng thời.

4


II. HỆ THỐNG ĐỀ 05 ĐIỂM
Đề 7: Phân tích Mị (đoạn trích SGK V.12) để thấy được “Tô Hoài đã xây dựng nhân
vật theo quá trình phát triển cách mạng”.
A. MỞ BÀI
- Tô Hoài là một trong những cây bút văn xuôi hàng đầu trong nền văn học hiện đại Việt
Nam. Những trang văn của ông hấp dẫn người đọc bởi lối trần thuật hóm hỉnh, sinh động
của người từng trải; vốn từ vựng giàu có rất bình dân, thông tục nhưng cũng thấm đẫm chất
thơ lay động lòng người đọc.
- Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn xuất sắc của ông về đề tài miền núi. Trong tác phẩm
này Tô Hoài đã xây dựng thành công nhân vật Mị theo quá trình phát triển cách mạng.
B. THÂN BÀI.
1. Mị trước khi về làm dâu gạt nợ nhà thông lí Pá Tra.
- Mị vốn là một cô gái nhà nghèo, trẻ, đẹp và nhất là Mị rất giàu lòng yêu đời, ham sống, lại
thêm tài thổi sáo nữa.
- Một cô gái chăm làm (“Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con phải làm ngô trả nợ cho
bố” – lời Mị nói với bố).
- Mị cũng thật là một đứa con hiếu thảo (khi bị ép về nhà Pá Tra, Mị muốn quyên sinh,
nhưng nghĩ đến bố sẽ khổ hơn, nên không đành lòng chết nữa).
=> Tóm lại, đấy là một cô gái rất xứng đáng để hưởng hạnh phúc và đang sống những ngày
tươi đẹp của tuổi trăng tròn, dù trong cảnh nghèo khó. Mùa xuân đến, Mị sống những giờ
phút hồi hộp sung sướng chờ nghe những tiếng sáo quen thuộc của ngừơi yêu; và không ít
những chàng trai Hmông đã say mê cô gái con nhà nghèo ấy: “trai đến đứng nhẵn cả chân

vách đầu buồng Mị”.
2. Cô Mị và cuộc đời làm dâu gạt nợ trong nhà thống lý Pá Tra.
* Chỉ vì món nợ truyền kiếp của bố mẹ Mị: Bố mẹ Mị ngày trước lấy nhau, không có tiền
cưới, phải đến vay của bố thống lý Pá Tra. “…mỗi năm đem nộp lãi cho chủ nợ một nương
ngô. Đến tận khi hai vợ chồng già rồi mà vẫn chưa trả được nợ. Người vợ chết cũng chưa trả
hết nợ”. Mị bị bắt trở thành con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.
- Trong thời gian đầu bị bắt về làm vợ A Sử, Mị – bằng lòng yêu tự do và ham sống mạnh
mẽ – đã phản kháng quyết liệt. Hàng mấy tháng ròng, đêm nào Mị cũng khóc, rồi Mị quyết
tự tử. Nàng Kiều của Nguyễn Du khi bị dấn thân vào cuộc đời ô nhục, đã hơn một lần nghĩ
đến quyên sinh mà cũng không thoát được kiếp đọa đày đến mười lăm năm. Cô Mị ở đây
còn gặp tình cảnh chua xót hơn: cô có chết thì món nợ vẫn còn, bố già còn khổ hơn nữa! Thế
là Mị không đành chết. Mị phải chịu đựng cuộc sống nô lệ.
- Những năm tháng trong nhà Pá Tra là một chuỗi dài những cực nhọc, vất vả nối tiếp
nhau, là những sự bóc lột và hành hạ của bọn chủ nô với kẻ nô lệ mà Mị phải chịu đựng:
“Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống
nhau tiếp nhau vẽ ra trước mắt, mỗi năm, mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại… Con ngựa,

5


con trâu làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, đàn bà con gái nhà
này thì vùi đầu vào việc cả đêm cả ngày”.
- Mị còn bị áp chế về tinh thần. Mị bị ràng buộc trong một ý nghĩ: bố con Pá Tra đã “trình
ma” mình là người nhà nó rồi, thì chỉ còn biết ở cho đến lúc chết rũ xác ở đây thôi! Mê tín,
thần quyền đã hỗ trợ đắc lực cho giai cấp thống trị, nó là một thứ “thuớc phiện của tinh
thần” đối với người dân bị áp bức, như Mác đã nói.
- Trong đoạn kể về cuộc đời làm dâu của Mị, Tô Hoài đã không chỉ đứng ở chỗ tố cáo
những sự áp bức bóc lột của bọn phong kiến miền núi, mà còn nói lên một sự thật đau xót
này: con ngừơi bị áp bức cứ nhẫn nhục chịu đựng kéo dài đến một lúc nào đó thì dường như
bị tê liệt cả tinh thần phản kháng.

+ “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi. Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu ,
mình cũng là con ngựa, là con ngựa phải đổi cái tàu ngựa nhà này đến cái tàu ngựa nhà khác,
con ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi”.
+ “Mị cúi mặt không nghĩ ngợi nữa”, “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa”. Mị sống như một cái bóng, sống mà như chết. Suốt trong phần đầu của
truyện, Tô Hoài gần như không để nhân vật Mị có một lời nói trực tiếp nào (trừ một câu nói
với bố, trong đoạn hồi tưởng quá khứ).
+ Chi tiết về căn buồng Mị nằm, cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay “lúc nào trông ra
cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình đành ngồi
trong cái lỗi vuông ấy mà trông ra cho đến chết thì thôi”. Thậm chí Mị cũng không buồn
nghĩ đến cái chết nữa: “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng
không còn nghĩ đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Khi một nạn nhân đau khổ còn nghĩ
đến cái chết để chấm dứt hoàn cảnh sống bi kịch của mình, thì phải chăng trong họ còn một
chút sức phản kháng, còn tha thiết một cuộc sống có ý nghĩa hơn. Nhưng Mị lúc này dường
như đã phó mặc cuộc sống của mình cho định mệnh, không nghĩ gì về thân phận của mình
nữa, thậm chí cũng không có ý thức về thời gian sống nữa. Cô không nhớ rằng mình về làm
dâu nhà Pá Tra đã bao nhiêu năm. Và ngồi trong căn buồng âm u nhìn qua cửa sổ, Mị không
biết cái màu nhờ nhờ trăng trắng ngoài kia là sương hay là nắng. Với Mị, sự chuyển biến của
thời khắc sớm tối hay là năm tháng qua đi cũng không có ý nghĩa gì, không gợi cho cô cảm
xúc gì, cuộc sống chỉ còn là một màn sương mờ đục không dĩ vãng, không hiện tại và tương
lai!
Tất cả tình trạng đó là hậu quả của sự đọa đày dai dẳng, nặng nề của ách thống trị phong
kiến trung cổ đối với những người lao động bị đẩy vào thân phận nô lệ. Ngòi bút của Tô
Hòai có sức tố cáo mạnh mẽ. Mặt khác chính sự đè nén càng phũ phàng tàn bạo, thì sự trỗi
dậy ở phần sau của nhân vật càng có giá trị.
3 . Sự “trỗi dậy” mãnh liệt của lòng ham sống và khát vọng hạnh phúc.

6



* Trong đoạn văn này, tác giả đã dõi theo từng bước biến diễn, phát triển của đời sống tâm
hồn nhân vật, được đặt trong một hoàn cảnh khá “điển hình” là mùa xuân về trên vùng núi
cao.
- Người Hmông ở Hồng Ngài ăn Tết khi ngô lúa đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu
họach mùa màng. Cái Tết năm ấy đến giữa lúc gió và rét dữ dội, nhưng vẫn không ngăn
được những sắc màu của mùa xuân. “những chiếc váy hoa đã đem phơi trên mỏm đá, xòe
như con bướm sặc sỡ. Những âm thanh rộn rã báo hiệu mùa xuân: “đám trẻ đợi Tết, chơi
quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà”. Sự sống của tạo vật và con người như được khởi
động, bừng tỉnh . Hoàn cảnh ấy không thể không tác động vào tâm hồn Mị. Nhất là tiếng
sáo, tiếng sáo rủ bạn đi chơi ngoài đầu núi. “Mị nghe tiếng sáo vọng lại thiết tha bồi hồi. Mị
ngồi nhẩm thầm bài hát của người đang thổi”. Trong đoạn tả diễn biến tâm trạng của Mị,
tiếng sáo đã có một vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi vì “ngày trước Mị thổi sáo giỏi. Mùa
xuân này, Mị uống rượu bên bếp và thổi sáo. Mị uốn chiếc lá trên môi, thổi lá cũng hay như
thổi sáo. Có biết bao nhiêu người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị hết núi này sang núi
khác”. Như thế, với Mị, tiếng sáo là biểu tượng lôi cuốn nhất của mùa xuân, của khát vọng
hạnh phúc.
- Thời khắc để ngọn lửa sống trong lòng Mị bùng lên đã đến, đấy là một “đêm tình mùa
xuân”. Và chúng ta cũng hồi hộp theo ngọn đèn của tác giả “từng bước rọi sâu vào miền
thâm u của thế giới nội tâm nhân vật”. Tiếng sáo, tiếng khèn và tiếng reo hò của đám trai gái
và trẻ con tụ tập ở sân chơi đầu làng vẳng lại. “tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng”.
Cái nồng nàn của một đêm xuân lại được tăng thêm bởi bữa cơm rượu ngày tết, trong tiếng
chiêng đánh ầm ỹ và đámngười nhảy đồng, người hát… “Mị cũng uống rượu. Mị lén lấy hũ
rượu, cứ uống ực từng bát. Rồi say…”. Chính trongh một tình trạng đã được kích động bởi
men rượu, bởi những âm thanh náo nhiệt của ngày tết, Mị đã vượt ra khỏi tâm trạng thờ ơ,
nguội lạnh lâu nay của mình, mà dấu hiệu đầu tiên là Mị sống lại với những kỉ niệm đẹp
ngày trước , những ngày hạnh phúc của tuổi trẻ, với những bữa rượu bên bếp lửa ấm cúng,
với những tiếng sáo dặt dìu của bao nhiêu trai làng ngày đêm theo Mị …
- Bằng việc nhớ lại quá khứ, Mị đã vượt qua tình trạng sống “phí thời gian”, sống mà như
chết, lâu nay. Tiến thêm một bước nữa. Mị trở lại với những niềm vui sống, trong chốc lát.
“Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước,

Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Lòng ham sống đã trỗi dậy. Sức sống bấy lâu
nay bị đè nén bỗng bồng bột trào lên, không thể dập tắt được nữa! Phản ứng đầu tiên đến
trong tâm trí Mị là một ý nghĩ “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết
ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa…”. Ý nghĩ về cái chết lúc này là biểu hiện của sự phản
kháng với hoàn cảnh, nó chứng tỏ rằng Mị đã ý thức trở lại tình cảnh đau xót dai dẳng của
mình.
- Trong khi ấy thì tiếng sáo gọi bạn tình cứ thôi thúc, quyến rũ. Nó là biểu tượng của sự
sống, tình yêu, tự do, mà bấy lâu nay Mị dường như đã quên rồi, nay đang trở lại. Tiếng sáo
theo sát từng bước diễn biến tâm trạng nhân vật, nó chính là ngọn gió thổi bùng lên đốm lửa
trong lòng Mị. Tiếng sáo từ chỗ là một sự việc của thực tại bên ngoài nhân vật (“tiếng sáo

7


gọi bạn yêu vẫn lửng lơ bay ngòai đường”), đã xâm nhập thế giới tâm hồn Mị, trở thành một
hiện hữu của đời sống bên trong (“trong đầu Mị đang rập rờn tiếng sáo”).
- Sức sống trỗi dậy như những đợt sóng ào ạt trong tâm hồn Mị, đợt sau lại mạnh mẽ hơn
đợt trước. Đến đây đã xảy ra bước phát triển quyết định: từ những sôi sục trong tâm trí nó
bùng ra thành hành động. Mà đầu tiên là một hành động có nhiều ý nghĩa: “Mị đến góc nhà,
lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”. Có thể xem đấy là một hành
động thức tỉnh. Nó có nghĩa là Mị đã thắp lên một ngọn đèn soi rọi vào cuộc sống của mình,
để thóat ra khỏi những đêm dài tăm tối triền miên của quá khứ. Và hành động này thúc đẩy
hành động khác tiếp theo, như một “phản ứng dây chuyền” không thể ngăn lại được nữa.
Dường như không kể gì đến những ràng buộc khe khắt, những xiềng xích tàn bạo của nhà Pá
Tra, Mị tự mình hành động như một con người tự do, theo tiếng gọi của lòng mình: quấn lại
tóc, rút cái váy hoa…, sửa soạn đi chơi Tết.
- Giữa lúc lòng ham sống trỗi dậy mãnh liệt nhất, thì cũng là lúc nó bị dập xuống phũ
phàng nhất. A Sử bước vào, thản nhiên,lầm lỳ trói đứng Mị vào cột nhà. “Tóc Mị xõa xuống,
A Sử quấn tóc lên cột… Trói xong vợ, A Sử thắt nốt cái thắt lưng xanh ra ngoài áo, rồi A Sử
tắt đèn, đi ra, khép cửa lại”. Trong cái kỹ càng, rành rẽ của từng động tác của A Sử ta thấy

toát lên sự tàn ác đến thản nhiên của một kẻ đã không còn chút gợn nào của lương tri nữa.
- Suốt cái đêm bị trói đứng vào cột ấy, Mị đã sống trong sự giằng xé mãnh liệt giữa niềm
khao khát hạnh phúc cháy bỏng và thực tại tàn bạo lạnh lùng. Lúc mới bị trói, Mị vẫn sống
trong tâm trạng say mê với tiếng sáo, với những đám chơi Tết ngoài kia. “Tiếng sáo đưa Mị
đi theo những cuộc chơi, những đám chơi”. Mị như quên mình là đang bị trói, quên những
đau đớn thể xác, đến nỗi trong giây phút niềm khát khao cuộc sống mãnh liệt. Mị đã vùng
bước đi!” Nhưng thực tế phũ phàng là những vòng dây trói đang thít chặt, dẫu ước mong
mãnh liệt đến mấy, Mị không vượt qua nó được. Hai biểu tượng của ước mơ và thực tại hiện
ra trong hai âm thanh trái ngược – tiếng sáo gọi bạn tình tha thiết và tiếng chân ngựa đạp vào
vách khô khan!. “Mị không nghe tiếng sáo nữa. Chỉ còn nghe tiếng chân ngựa đạp vào vách.
Ngựa vẫn đứng yên, gãi chân, nhai cỏ. Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa”. Thực
tại phũ phàng đã lấn át, bóp nghẹt những ước mơ, khát vọng tươi sáng. Kết cục ấy nói lên
rằng chỉ có những phản kháng tự phát, nhân vật không thể giải thoát khỏi tình cảnh bị giam
hãm đày đọa, không thể giải phóng thực sự cho những ước vọng hạnh phúc.
=> Trong đoạn văn chúng ta vừa phân tích ở trên. Tô Hoài đã đặt nhân vật của mình vào một
hoàn cảnh thật căng thẳng, làm bộc lộ những động lực tiềm ẩn sâu xa trong đời sống tâm
hồn nhân vật, với một diễn biến, phát triển được dẫn dắt hợp qui luật.
4. Diễn biến tâm lí nhân vật Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ.
- Những đêm mùa đông trên núi cao thường dài và lạnh. Mị sẽ buồn đến chết mất nếu không
có bếp lửa làm bạn. Những đêm khuya, Mị ra thổi lửa để sưởi, Mị thấy A Phủ bị trói, Mị bị
A Sử đánh nhưng cô vẫn cứ ra sưởi lửa. Mị nghĩ “Nếu A Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng
thế thôi”, Mị đã sống vô thức, vô cảm, chai sần.

8


- Lị một đêm nữa Mị trở dậy, ngọn lử sưởi bùng lên cùng lúc Mị lé mắt trông sang thấy hai
mắt A Phủ mở trừng trừng mới biết A Phủ vẫn còn sống, “một dòng nước mắt bò xuống hai
hõm má đã sạm đen lại”. Mị chợt nhớ lại năm trước, Mị cũng bị A Sử trói đứng trong nhà
này, tóc bị quấn ngang cổ, nước mắt chảy xuống không lau được, đau đớn chảng khác nào A

Phủ bây giờ.
- Vừa thương mình, vừa căm phẫn lũ tàn ác vừ bị ám ảnh bởi cái chết, ám ảnh bởi con ma
nhà thống lí, vừa nhớ tới một người đàn bà đời trước cũng bị cái nhà này trói cho đến chết
đau, chết đói, chết rét…Và người kia - A Phủ chỉ đêm mai nũa là cũng chết thôi. Tâm hồn
Mị nổi sóng.
- Những ý nghĩ ấy thúc đẩy Mị bát buộc phải có hành động đáp ứng. Mị cởi trói cho A Phủ
và dặt mình phải lựa chọn con đường chạy theo A Phủ hay là bị trói đứng như ngày nào cho
đến chết. Thời điểm hệ trọng này “con ma” cũng không đủ sức giữ chân Mị lại, Mị cứu A
Phủ là tự cứu mình.
- Tình huống diễn ra thật bất ngờ, tự nhiên nhưng vẫn rất loogic, phù hợp với sự phát triển
tính cách của nhân vật mà trước đó đã từng có khát vọng mãnh liệt trong đêm mùa xuân năm
trước. Hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị là hành động cắt đứt, đoạn tuyệt với quá
khứ khổ đau cho cả hai người. Như chim xổ lồng, họ băng xuống dốc núi, bay về phía tự do.
C. KẾT BÀI
- Qua việc phát hiện, miêu tả sức sống tiềm tàng trong tâm hồn Mị, Tô Hoài không chỉ ngợi
ca đó là vẻ đẹp trong tâm hồn của người lao động miền núi bị áp bức mà còn khẳng định sức
sống tiềm tàng ấy chính là sức mạnh là vũ khí giúp họ vùng lên giả phóng cuộc đời bất hạnh
của mình để đến với tự do, hạnh phúc. Cách nhìn này mang giá trị nhân sinh sâu sắc.
- Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã phản ánh chân thực bức tranh cuộc sống của người phụ nữ
miền núi thật tù đọng và đầy bất hạnh. Nhà văn còn khẳng định ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất,
khát vọng tự do hạnh phúc cùng sức sống mãnh liệt trong tâm hồn người lao động. Mị thực
sự đổi đời khi cùng A Phủ đến với khu du kích Phiềng Sa. Nhân vặt Mị đã đi từ hình tunwgj
người nô lệ sang hình tượng người khởi nghĩa. Điều này thể hiện tư tưởng nhân đạo chưa
từng có trong văn học truyền thống. Đó là chủ nghĩa nhân đạo cách mạng gắn với đấu tranh,
gắn niềm tin vào tương lai đầy triển vọng của con người.
Đề 8: Phân tích diễn biến tâm trạng và hành động của nhân vật Mị qua cảnh đêm mùa
xuân Mị muốn đi chơi và bị trói trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài?
GIÓI THIỆU ĐÁP ÁN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP 2013 CỦA BỘ GIÁO DỤC
Câu Ý
Nội dung

Điểm
1
Nêu thiệu vấn đề nghị luận
0,5
2
Hoàn cảnh xuất hiện tâm trạng của Mị
0,5
- Mị vốn là thiếu nữ sinh đẹp, tài hoa, yêu đời; từ khi buộc trở thành

9


3

4

con dâu gạt nợ nhà thống lý Pá Tra. Mị cam chịu đến mức như không
còn ý thức sống.
- Mùa xuân về, thiên nhiên đất trời thay đổi, không khí đón tết náo nức
(đối lập với không gian sống và tâm trạng của Mị) khiến sức sống trong
Mị trỗi dậy.
Nội dung diễn biến tâm lý và hành động của Mị
- Khi nghe tiếng sáo gọi bạn tình
+ Tâm trạng: bồi hồi, xúc động, thức tỉnh (ý thức về thời gian, kỉ niệm 1,0
sống dậy, tiếng sáo gợi nhớ, thấy mình còn tre, ý thức về thân phận...)
và muốn đi chơi.
+ Hành động khác thường ( nhẩm theo lời bài hát, xắn mỡ bỏ thêm vào 0,5
đĩa đèn, sủa soạn đi chơi..) thể hiện trạng thái phản kháng.
- Khi bị trói
1,0

+ Tâm trạng đau khổ chập chờn giữa quá khứ và hiện tại ( không biết
mình bị trói, vẫn sống với tiếng sáo, bồi hồi tha thiết, lúc mê lúc tỉnh..).
+ Hành động mạnh mẽ, vùng bước đi nhưng dây trói thít chặt).
Nghệ thuật
1,0
- Nghệ thuật miêu tả và phân tích tâm lý nhân vật phù hợp với loogic
đời sống, đạt đến độ chân thực tinh tế.
- Trần thuật uyển chuyển, linh hoạt, dẫn dắt tình tiết khéo léo, tư nhiên.
- Ngôn ngữ sinh động, chọn lọc, sáng tạo; câu văn giàu tính tạo hình và
đậm chất thơ.
Đánh giá: diễn biến tâm lý và hành động của Mị đã thể hiện một tâm 0,5
hồn khao khát hạnh phúc, một sức sống tiềm tàng mãnh liệt, thể hiện
tình cmar nhân đạo của nhà văn.

Đề 9: Phân tích tâm trạng và hành động cắt dây trói cứu A Phủ của Mị trong đêm mùa
đông ( trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài)
• Hướng dẫn tham khảo mục 4 đề 1
Đề 10:Phân tích nhân vật A Phủ trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài.
A.Mở bài
Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là tác phẩm xuất sắc trong tập Truyện Tây Bắc của Tô
Hoài in năm 1953. Thành công lơn nhất của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây
dựng nhân vật, trong đó có nhân vật A Phủ. Xây dựng nhân vật A Phủ, nhà văn muốn đô
đậm thêm bức tranh hiện thực về đời sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tọc thiểu số
ở vùng cao dưới ách thống trị của bọn thực dân, chúa đất. Và cũng chính họ là người giác
ngộ cách mạng, tự đứng lên đấu tranh giải phóng đời mình.
B.Thân bài
*A Phủ và số phận

10



_A Phủ xuất hiện khá đột ngột gây ấn tượng mạng cho người đọc, đó là cảnh A Phủ
đánh A Sử. Người đọc tưởng đây là nhân vật có máu mặt trong bản làng nhưng không, thân
phạn của A Phủ không khác Mị là mấy.
+A Phủ cũng như Mị, họ đều là những người dân nghèo bị gia đình thống Lí Pá Tra
áp bức, bóc lột và trở thành con nợ - nô lệ. Song họ đều có tình yêu và khát vọng giải phóng.
_ A Phủ khác Mị: Nếu Mị là người con gái thùy mị, nết na thì A Phủ là một chàng
trai mạnh mẽ. Thời thơ ấu Mị còn có cha, có mẹ, có một gia đình để được yêu thương, đùm
bọc, thì A Phủ mười tuổi đã bị mồ côi cả cha lẫn mẹ trong một chận dịch khủng khiếp. A
Phủ thành đứa trẻ bơ vơ, bị người làng bán đổi lấy thóc dưới vùng thấp. A Phủ không chịu
đã chốn lên vùng cao, làm thuê làm mướn kiếm sống và đã lưu lạc đến vùng Hồng Ngài.
_Lớn lên giữa núi rừng hoang dã, A Phủ thành một chàng trai Mông khỏe mạnh:
“Chạy nhanh như ngựa”, “biết thúc lữa cày, biết đục cuốc, cày giỏi và săn bò tót rất bạo”,
“mọi công việc cứ làm phăng phăng”.
_Vượt lên hoàn cảnh khắc nghiệt, A Phủ sống rất hồn nhiên,yêu đời, yêu cuộc sống
bình yên chính nghĩa. Ngày tết dù chẳng có nhiều quần áo đẹp như nhiều chàng trai khác,
trên cổ vẫn lằn một chiếc vòng vía đeo từ nhỏ, như A Phủ vẫn hòa cùng đám bạn thổi
kèn,thổi sáo tìm người yêu. A Phủ trở thành niềm mơ ước của bao cô gái Mèo. Họ kháo
nhau: “Đứa nào có được A Phủ như có được con trâu tốt trong nhà, chẳng mấy lúc mà
giàu”. Nhưng với tập tục khắc nghiệt của xã hội phong kiến miền núi thì A Phủ mãi chỉ là
người làm thuê, không nhà, không bạc, không ruộng, tứ cố vô thân mà thôi, làm sao lấy
được vợ!
*Tính cách của A Phủ
_Ngay từ nhỏ A Phủ đã có cá tính rất đặc biệt: gan góc, có ý thức phản kháng mỗi khi
không chịu nổi điều gì.
+ 10 tuổi A Phủ bị bán đổi lấy thóc của người Thái dưới cánh đồng. A Phủ gan bướng
không chịu ở dưới vùng thấp, chốn về vùng núi cao tự kiếm sống.
+ A Sử phá đám chơi của A Phủ và bạn bè, A Phủ đánh. Tác giả miêu tả: “một người
to lớn chạy ra vung tay ném con quay rất to vào mặt A Sử, con quay gỗ ngát lăng vào giữa
mặt…A Phủ đã xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”.

=>Với những hành động nhanh, mạnh, dứt khoát, táo bạo của A Phủ, A Sử đã bị
thương nặng, mặt dù A Phủ đã biết đó là con quan – “con trời” không ai dám động tới,
nhưng A Phủ vẫn đánh vì nó là đứa phá đám cuộc chơi cần phải đánh. Thế thôi. Thật đơn
giản nhưng đó là ý thức phản kháng chống lại kẻ quen thế cậy quyền phá phách.
_ A Phủ đã phải trả giá đắt, bị bắt, trói, đánh đập rất dã man trong cuộc sử kiện tại
nhà thống lí. Nhưng A Phủ tỏ ra rất gan lì.
+Bị đánh đập, chửi bới, A Phủ chỉ quỳ chịu trận trong làn mưa roi và làn khói thuốc
phiện, không được nói, không được thanh minh.
+ Suốt chiều, suốt đêm quỳ chịu đòn vẫn im như tượng đá.
+ Cảnh sử kiện kết thúc và phải chịu cảnh làm nô lệ suốt đời cho nhà thống lí Pá Tra
để trả nợ, A Phủ vẫn lầm lũi chấp nhận.
_ A Phủ lại như Mị, ngày ngày làm việc cực nhọc; cày ruộng, săn bò tót, bẫy hổ, chăn
ngựa, một mình cô độc rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng.
_ Bị đày đọa triền miên khiến cho cá tính gan góc và tính phản kháng của A Phủ như
con sóng ngầm ngày càng mạnh mẽ.
+ A Phủ dám cãi lại thống lí cho mình đi bắt con hổ đền vào con bò đã mất.

11


+ Bị thống lý trói đứng vào cột, A Phủ không kêu van, không cầu cứu. Đêm xuống
cúi nhay đứt hai vòng dây trói. Được Mị cứu, A Phủ quật sứt vùng lên chạy thoát. Đó chính
là ý thức làm người, là tinh thần phản kháng dù tự phát nhưng nó là cơ sở tốt để sau này A
Phủ làm du kích.
_Nếu Mị được nhà văn xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng đầy nữ tính thì A Phủ
được xây dựng theo kiểu nhân vật hành động đầy nam tính. Khát vọng tự do, công bằng
được biểu hiện ở A Phủ âm thầm mà mạnh mẽ; hồn nhiên đơn giản, mà dữ dội, khôn lường.
Tính cách A Phủ mang phẩm chất tiêu biểu của người đàn ông H’Mông.
*Sự thống nhất hai tính cách trong con người A Phủ: phản kháng và cam chịu.
Có những ý kiến băn khoăn, A Phủ có tính cách tự do, ngang bướng luôn phản kháng

mỗi khi không chịu nổi điều gì nhưng tại sao:
_ Sau khi bị đánh đập, xử tội phải ở nợ cho nhà thống lí, A Phủ vẫn tự tay cầm dao, lê
bước chân tập tễnh của mình đi giết lợn phục dịch chính những kẻ đã hành hạ, đánh đập,
biến mình thành con nợ?
_Khi để hổ vồ mất một con bò, A Phủ cãi lại thống lí nhưng vẫn tự mình phải vác
cọc, đóc cọc, mang dây mây đến cho tên ác bá trói mình vào đó?
=> Những chi tiết ấy có gì mâu thuẫn với tính cách của một con người vốn mãnh liệt,
can trường? Điều đó cũng dễ hiểu, nhà văn Tô Hoài quả là một tay bút dà dặn, ông đã nhìn
rõ hai mặt đối lập ấy trong một con người: mâu thuẫn mà thống nhất. Một con người cường
tráng, bất khuất và một con người thân phận tôi đòi đều có trong A Phủ. A Phủ đánh con
quan vì không chịu được điều vô lí, A Phủ phải giết lợn cho kẻ đã áp bức mình ăn, phải
đóng cọc lấy dây trói cho chính mình vì thân cô thế cô không thể nào khác được. A Phủ
không tự mình bỏ chốn khi chỉ có một mình rong ruổi cùng đàn trâu ngựa ngoài nương rừng,
gò bãi vì cam phận . Cũng như Mị, sau khi bố chết, Mị có thể ăn lá ngón để giải thoát nhưng
“ở lâu trong cái khổMị quen rồi”. Vì ai trong cái nhà này, sống trên đất Hồng Ngài này
cũng thế cả thôi. Đó là sự cam chịu, cam phận của người nông dân trên các vùng núi cao khi
ánh sáng của Đảng chưa đến được với họ. Họ chưa được giác ngộ, chưa có những người
cùng khổ cùng kết lại thành sức mạnh chống lại cường quyền. Vì thế có ý kiến cho rằng: A
Phủ là nhân vật được xây dựng đang trên bước “tìm đường, nhận đường” để sau này sang
Phiềng Sa gặp A Châu, trở thành du kích trở về giải phóng quên hương.
C.Kết bài
Qua cuộc đời và số phận của A Phủ, Tô Hoài đã tố cáo tội ắc dã man của giai cấp
thống trị ở miền núi, tiêu biểu là cha con thống lí Pá Tra đã đẩy con người hiền lành, chất
phác vào tình trạng thảm hại, bị cướp đoạn sức lao động, quyền làm người, trở thành nô lệ.
Viết về họ, nhà văn luôn thể hiện lòng thương cảm với những đau khổ, bất hạnh của họ.
Ông đồng tình với sự phản kháng và mở ra cho họ một lối thoát. Qua đây, chúng ta cũng
thấy nhà văn có sở trường quan sát nhạy bén và khả năng thiên phú trong việc nắm bắt cá
tính của con người. Đó là hai yếu tố giúp nhà văn xây dựng nhân vật A Phủ đơn sơ mà đặc
sắc.
Đề 11: Anh, Chị hãy phân tích những đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Vợ chồng

A Phủ” của Tô Hoài.
A. Mở bài

12


_ Tô Hoài là nhà văn lớn trong văn học hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông thiên về
diễn tả những sự thật của đời thường. Ông có vốn hiểu biết phong phú, sâu sắc về phong tục,
tập quán của nhiều vùng trên đất nước. Văn của ông hấp dẫn ở lối trần thuật hóm hỉnh, sinh
động, vốn từ vựng giàu có và cách sử dụng đắc địa, tài ba.
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài được viết năm 1953, in trong tập Truyện
Tây Bắc, cho đến nay hơn nửa thế kỉ đã trôi qua nhưng vẫn nguyên vẹn giá trị và sức thu hút
với người đọc bởi những đặc sắc nghệ thuật của nó.
B.Thân bài
- Truyện ngắn Vợ chồng A Phủ không chỉ đem lại cho người đọc giá trị thẩm mĩ về
nội dung mà đặc sắc hơn là nghệ thuật viết truyện của Tô Hoài. Với lối kẻ truyện lôi cuốn,
miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật tinh tế, với cách dựng cảnh sinh động, gợi cảm; với ngôn
ngữ giàu chất thơ, chất tạo hình, Tô Hoài đã đem đến cho người đọc những trang văn hấp
dẫn và vốn hiểu biết văn hóa sâu rộng về con người và đời sống các dân tộc vùng cao Tây
Bắc.
* Thành công nhất của truyện ngắn Vợ chồng A Phủ là nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Nhân vật Mị:
Xây dựng nhân vật Mị, nhà văn sử dụng thủ pháp tương phản, miêu tả những mâu
thuẫn giữa hoàn cảnh và số phận; giữa ngoại hình với nội tâm và sự phát triển tính cách của
nhân vật đạt tới mức biện chứng. Điều đó được thể hiện rất rõ qua hai tình huống: Trong
đêm tình mùa xuân và trong đêm đông Mị cắt dây trói cứu A Phủ.
+ Mị từ một cô gái hồn hiên, yêu đời, hạnh phúc bỗng chốc thành người bất hạnh, thân nô lệ,
mất tự do, phải sống với người không yêu, làm việc quần quật suốt ngày, bị áp chế về tình
thần, bị đánh đập, ngược đãi. Tâm hồn, tinh thần Mị bị tê liệt, cam chịu. Mị sống như cái xác
không hồn, lầm lũi như con rùa trong xó cửa, bị giam trong căn buồng u tối như địa ngục

trần gian…tưởng như không bao giờ thoát ra được.
+ Đêm tình mùa xuân trở về trên rẻo cao, tiếng sáo gọi bạn và hơi men đã làm thức tỉnh tâm
hồn yêu sống và khát khao tự do của Mị. Mị muốn đi chơi xuân như lần ấy, Mị đã bị A Sử
trói đứng vào cột nhà trong căn buồng u tối, giá lạnh. Vòng dây tàn bạo xiết chặt thể xác
nhưng tinh thần Mị vẫn cứ mộng du theo tiếng sáo. Hơi men và tiếng sáo nâng đỡ tâm hồn
Mị…nhưng Mị lại bị rơi vào tình trạng bi đát, vô vọng trầm trọng hơn.
+ Nếu ở đêm tình mùa xuân Mị chưa thực hiện được khát khao tự do của mình thì phải đến
đêm mùa đông năm sau, Mị mới có hành động đột biến, quyết liệt để thay đổi số phận. Mị
cắt dây trói cứu A Phủ, giải phóng cho cả hai khỏi ách kìm kẹp, khổ đau, mở ra một trang
đời mới.
 Số phận và tâm lý của Mị được nhà văn phác họa như một “hình sin”, mỗi khi “đồ thị” đi
xuống là để tạo sức nén cho nhân vật lần sau vút lên cao hơn và giành chiến thắng.
- A Phủ cũng được nhà văn thể hiện sống động và chân thực với những nét tính cách đặc
trưng của người dân lao động miền núi. Nếu Mị là nhân vật tâm trạng thì A Phủ lại được xây
dựng là nhân vật hành động. Hành động của A Phủ thể hiện sự táo bạo, gan góc, tự do, dũng
mãnh nhưng cũng rất cam chịu và hiền lành. A Phủ bị áp bức tàn bạo nhưng trong anh luôn
tiềm ẩn một sức mạnh phản kháng mãnh liệt, dữ dội. Đó là những phẩm chất tốt để sau này
họ có thể tự đứng lên giải phóng đời mình.
 Tính cách của Mị cũng như A Phủ được nhà văn thể hiện rất độc đáo, mang phẩm chất
tiêu biểu của người Mông: âm thầm và mãnh liệt; mộc mạc, đơn sơ mà dữ dội khôn lường.
Và trên hết là lối sống phóng khoáng tự do, hồn nhiên đầy bản lĩnh của họ. Những phẩm

13


chất này khiến người Mông mang một sinh lực dồi dào, họ có đủ sức mạnh để vượt qua bất
cứ sự áp bức, đè nén nào.
* Nghệ thuật kể chuyện lôi cuốn, hấp dẫn. Mở đầu như một câu chuyện cổ tích nhưng lại
là một mảnh đời, một số phận hiện thực. Cách kể đan xen giữa quá khứ và hiện tại; giữa kể
và tả. Đặc biệt là cách dựng cảnh, tạo không khí rất đặc sắc như cảnh A Sử hành hạ Mị trong

đêm tình mùa xuân, cảnh A Phủ đánh A Sử, cảnh xử kiện A Phủ.
* Cách miêu tả cảnh trí, nếp sống sinh hoạt, phong tục tập quán cũng thật độc đáo,
mang phong vị đặc trưng của vùng Tây Bắc như tục cưới vợ, tục lễ cúng trình mà, tục xử
kiện, ốp đồng…chứng tỏ nhà văn rất am hiểu về một vùng đất mà nhà văn gắn bó, yêu mến.
* Vốn ngôn ngữ phong phú, giàu tính tạo hình, giàu chất thơ và sáng tạo.
C.Kết bài
Tóm lạ, truyện ngắn Vợ chồng A Phủ ra đời đã hơn nửa thế kỉ, nhưng cho đến nay nó
vẫn giữ nguyên giá trị và sức hút đối với nhiều thế hệ bạn đọc trong nghệ thuật khắc họa tính
cách nhân vật; sự tinh tế trong diễn tả đời sống nội tâm và trong quan sát những nét lạ về
phong tục tập quán, cá tính người Mông cùng lối trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế giàu
chất thơ và đậm màu sắc dân tộc. Tác phẩm cung cấp cho người đọc tri thức lạ về vùng cao
Tây Bắc trong quá khứ và hiện tại.
Đề 12: Phân tích giá trị nhân đạo của truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”- Tô Hoài (Phân
tích Ngữ văn 12, Tập hai, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2008).
A. Mở bài
- Chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm văn học bắt nguồn từ truyền thống nhân đạo của người
Việt Nam. Chủ nghĩa nhân đạo là sợi chỉ hồng xuyên suốt quá trình lịch sử phát triển văn
học, từ cội nguồn văn học dân gian đến văn học hiện đại. Chủ nghĩa nhân đạo trong tác
phẩm rất phong phú, đa dạng: biểu hiện ở lòng thương người; lên án tố cáo những thế lực
tàn bạo chà đạp lên con người; khẳng định, đề cao con người về các mặt phẩm chất, tài năng,
những khát vọng chính như khát vọng về quyền sống, quyền hạnh phúc, quyền tự do, về
công lí, chính nghĩa; đề cao những quan hệ đạo đức, đạo lí tốt đẹp giữa người với người.
- Đọc Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (1952), theo dõi số phận của hai nhân vật: Mị và A Phủ
mới thấy hết tấm lòng yêu thương con người của nhà văn. Nhà văn không chỉ lên án, tố cáo
sự tàn bạo của giai cấp thống trị ở miền núi mà còn bênh bực, cảm thông sâu sắc với nỗi bất
hạnh, khổ đau của họ; trân trọng khát vọng, đồng tình với tinh thần phản kháng và mở ra cho
họ một con đường giải phóng. Đó chính là giá trị nhân đạo của tác phẩm.
B.Thân bài
Tư tưởng nhân đạo vốn là mạch nguồn xuyên suốt trong văn học ngàn xưa.
Văn học từ Đông- Tây, kim cổ đều xem tư tưởng nhân đạo là linh hồn tác phẩm, là

thước đo giá trị tác phẩm. Tư tưởng ấy, giá trị ấy được nhà văn thể hiện thông qua nhân vật
chính, nhân vật trung tâm của tác phẩm. Tô Hoài đã từng quan niệm: “Nhân vật là trụ cột
của sáng tác” là linh hồn tác phẩm để nhà văn thể hiện chủ đề, tư tưởng, bộc lộ tình cảm,
thái độ của nhà văn đối với cuộc đời, xã hội. Tô Hoài đã thể hiện tư tưởng ấy qua các nhân
vật của mình trong tác phẩm.
* Xây dựng hình tượng cha con thống lí Pá Tra, nhà văn lên án, tố cáo sự tàn
bạo của giai cấp thống trị miền núi.

14


- Ngay đầu tác phẩm, nhà văn đã cho người đọc thấy hai cảnh đối lập: Mị ngồi quay sợi bên
những tảng đá, tàu ngựa, mặt lúc nào cũng cuối xuống buồn rười rượi; một bên là cảnh nhà
thống lí người ra vào tấp nập, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng.
Do đâu mà nhà thống lí giàu như thế? Do thống lí “ ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muốn
về bán”. Câu văn kể thản nhiên nhưng cũng phơi bày bản chất kẻ vừa làm tay sai cho đế
quốc ngoại xâm, vừa là kẻ ức hiếp ngay chính dân mình.Câu chuyện hé mở cho người đọc
vì sao Mị lại có mặt trong cái nhà giàu có nhất làng này? Vì sao Mị phải làm việc quần quật,
bị đối xử như một nô lệ, thậm chí không bằng kiếp trâu, kiếp ngựa? Vì Mị phải trả món nợ
truyền thống của cha mẹ để lại cho nhà thống lí.
- Xây dựng nhân vật A Phủ, tác giả nhằm tô đậm thêm bức tranh hiện thực cuộc sống. Từ
một đứa trẻ mồ côi, vô tội, A Phủ phải lang thang kiếm sống, lớn lên lại trở thành nô lệ nhà
thống lí vì tội dám đánh lại con quan con trời.
+ Tô Hoài vạch trần bản chất phi lí, vô đạo của bọn thống trị khi xử tội A Phủ: “Mày đánh
con quan làng, đáng lẽ làng xử mày tội chết, nhưng làng tha cho mày được sống, và nộp
vạ….một trăm bạc trắng. Mày không có….thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền
giả thì tao cho mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao.
Đời mày, đời con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”.
+ Thật nực cười, kẻ ngồi trên ghế quan tòa phán quyết lí đúng sai, lẽ công bằng lại chính là
một tên kẻ cướp. Cái lí lẽ vay – trả với gia đình Mị và A Phủ đó chẳng phải là cái lí của kẻ

thống trị chuyên quyền, áp bức, cướp đoạt sức lao động, quyền làm người của những người
dân nô lệ?
+ Sự tàn độc của cha con thống lí Pá Tra còn được tác giả thể hiện ở chi tiết: thống lí bắt
chính A Phủ phải tự vác cộc, đóng cọc, lấy dây mây để tự trói chính mình. Nếu không tìm
được con hổ ăn con bò thì A Phủ phải chết như con bò đã chết. Kiểu trói đứng con người
cho đến khi người ta phải chết dần vì đau, đói, rét là một kiểu tra tấn “gia truyền” của nhà
thống lí đối với con dâu, người ở trong cái nhà này.
 Nói về nỗi khổ đau của Mị và A Phủ cùng những hành động tàn độc, vô đạo của cha con
thống lí Pá Tra đại diện cho giai cấp thống trị ở miền núi, nhà văn nhân danh quyền con
người lên án, tố cáo tội ác của chúng đối với những người dân vô tội. Những người hiền
lành, chất phác lẽ ra họ phải được sống trong yên bình, hạnh phúc.
* Khi nói về cuộc sống khổ đau, tối tăm của Mị và A Phủ, ẩn sâu trong ngòi bút là sự
bênh vực và cảm thông sâu sắc của nhà văn.
- Nhà văn xót xa khi miêu tả cuộc đời Mị lúc còn ở với cha mẹ là một cô gái xinh đẹp, nết
na, hiền thảo, có tâm hồn trong sáng và nhiều khát khao hạnh phúc. Đặc biệt Mị lại có tài
thổi sáo, kèn lá vì thế có nhiều chàng trai say mê đêm về đứng nhẵn cả đầu vách. Thế mà
bỗng chốc, Mị trở thành con dâu gạt nợ, thực chất là nô lệ.
+ Mấy tháng đầu, đêm nào Mị cũng khóc. Mị khóc vì ý thức được thân phận của mình phải
sống với người mình không yêu, phải làm việc quần quật suốt ngày bên những tảng đá, tàu
ngựa, con người khác gì đồ vật, con vật. Cuộc đời đâu còn những ngày phơi phới tự do,
ngập tràn hạnh phúc trong những đám chơi ngày tết. Có lúc Mị định ăn lá ngón để quên đi
những tháng ngày đẹp đẽ ấy. Nhưng chết thì ai trả nợ thay cha, cha thì già rồi sao có thể
cuốc nương trả nợ.
+ Cuộc đời chỉ còn biết ngày này tháng khác làm bạn với công việc, sống như kiếp trâu, kiếp
ngựa, thậm chí còn không bằng trâu ngựa. Con trâu, con ngựa làm có lúc, đêm còn được
đứng gãi chân, nhai cỏ, còn đàn bà con gái trong cái nhà này thì làm việc cả đêm lẫn ngày,

15



nhà văn đã liên tưởng cuộc đời Mị với con rùa nuôi trong xó cửa, lùi lũi, câm lặng, thân
phận phụ thuộc như thể mà thôi.
+ Nhà văn xót xa khi tả nơi ở của Mị: “Một cái buồng Mị nằm kín mít, có một chiếc cửa sổ
một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương
hay là nắng. Mị nghĩ mình cứ chỉ ngồi trong lỗ vuông ấy mà trông ra đến bao giờ chết thì
thôi”. Chi tiết gây ám ảnh về một nhà tù mà Mị là một tù nhân bị áp bức tới mức cạn khô
nhựa sống.
+ Ngày tết mọi người được đi chơi, nghỉ ngơi nhưng Mị lại bị kìm hãm, bị trói vào cột thật
dã man khiến tâm hồn Mị càng bị rơi vào vô vọng. Song để sự vô vọng ấy không bị lùa đi
đến tận cùng, Mị vẫn còn một bếp lửa. Ngọn lửa đã sưởi ấm tâm hồn Mị mỗi khi mùa đông
giá lạnh trở về.
- Khi nói về A Phủ, nhà văn cũng thương cảm xót xa cho cuộc đời cậu bé 10 tuổi mồ côi bị
người làng bán xuống vùng thấp lấy thóc ăn. Xót xa thương cảm khi A Phủ bị quỳ, bị đánh
chửi suốt một ngày một đêm mà vẫn phải câm như thóc; phải cầm dao giết lợn để phục vụ
chính kẻ đã hành hạ mình, xử mình thành ra nô lệ; phải vác cọc, đóng cọc để tự trói mình
vào; phải khóc vì bị trói đau đớn, đói khát, bất lực không thể làm gì được khi cái chết đã kề
bên.
 Viết về nỗi đau khổ, bất hạnh của Mị và A Phủ, ngòi bút nhà văn như có nước mắt, ông
đã gieo vào lòng người đọc một nỗi niềm thương cảm sâu xa trước số phận con người.
* Nói về giá trị nhân đạo của tác phẩm, chỗ sâu sắc nhất trong tấm lòng nhân đạo của
nhà văn là trân trọng khát vọng tự do, hạnh phúc và phẩm chất tốt đẹp của người nông
dân cùng khổ.
- Ngòi bút nhà văn từng bước rọi sâu khám phá vào miền thâm u của thế giới nội tâm nhân
vật, ông hiểu tâm sự, nỗi niềm và khát vọng của họ.
+ Khi Mị nghe thống lí Pá Trá nói với bố mình: “Cho tao đứa con gái này về làm dâu thì tao
xóa hết nợ cho” thì ngay lập tức, Mị bảo bố rằng: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô, con
phải làm nương ngô trả nợ thay cho bố. Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Vì sao Mị phản ứng
như vậy? Vì Mị đã có người yêu, vì Mị không yêu A Sử và biết nhà giàu như nhà thống lí thì
thật đáng sợ.
+ Về nhà thống lí phải sống trong khổ cực, Mị mấy lần đã nghĩ đến cái chết. Nghĩ đến cái

chết nghĩa là Mị phải sống trong giằng xé, thấu hiểu nỗi đời cay đắng bị nhà giàu cướp đoạt
tình yêu, hạnh phúc của mình. Nhưng nhà văn đã để ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua vì sự sống là
đáng trân trọng, dù thế nào con người cũng phải vượt qua, phải sống.
+ Sống câm lặng lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa, nhưng nhà văn đã nhìn thấy sâu thẳm
trong tâm hồn người con gái ấy vẫn hôi hổi một hòn than nóng vùi dưới lớp tro tàn. Nó chỉ
chờ cơ hội đến là bùng cháy lên những khát khao. Đêm tình mùa xuân trở về, tiếng sáo,
tiếng kèn, tiếng reo hò của đám trai gái đầu làng….đã đánh thức trong Mị niềm yêu sống mà
bấy lâu nay bị vùi lấp. Mị hát nhẩm theo tiếng sáo, Mị uống rượu...Mị thấy mình còn trẻ
lắm. Mị muốn đi chơi…Tô Hoài đã giành trang văn đẹp và thơ mộng nhất để diễn tả niềm
yêu sống, khát vọng và sức sống mãnh liệt của tuổi trẻ. Ông làm sống lại không khí văn hóa
ngày hội đẹp đẽ, đắm say của người dân tộc và chuyển hóa thành đời sống nội tâm nhân vật.
Ngòi bút nhà văn đẫ thâm nhập sâu sắc, diễn tả những biến thái tinh vi của nội tâm nhân vật,
hiểu thấu những đường nét quanh co, bí ẩn và đầy phức tạp của nó để nâng niu con người
khỏi bị rơi vào tuyệt vọng.

16


_ Đỉnh cao của sự nổi loạn chống lại thân phận trâu ngựa của Mị là đoạn trong đêm mùa
đông Mị đứng dậy giải thoát cho A Phủ và cả chính mình. Nhà văn đã tạo điều kiện, tạo tình
huống để nhân vật có cơ hội giải thoát. Đó chính là tình huống A Phủ đánh mất bò, bị trói đã
mấy ngày đêm, dòng nước mắt bất lực của con người vốn đầy sức mạnh và sống rất tự do
chẳng lẽ lại bị chết một cách thương tâm. Chính điều đó đã thức tỉnh lòng trắc ẩn trong Mị,
Mị thấy “chúng nó thật độc ác” và tình thương người như thể thương thân, đẩy Mị đến hành
động quyết liệt cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động quyết liệt ất cũng là hành động cắt đứt tất
cả những khổ đau, kìm kẹp, trói buộc họ trong suốt bao năm qua ở cái nhà tàn độc này. Họ
thực sự được giải phóng như cánh chim kia được tháo cũi xổ lồng bay lên bầu trời cao rộng.
* Nhà văn không chỉ trân trọng khát vọng tự do của Mị và A Phủ mà còn đồng tình với
tinh thần phản kháng, đấu tranh của họ vạch ra cho họ con đường giải phóng.
- A Phủ mồ côi cha mẹ lúc mười tuổi bị người ta bán xuống vùng thấp, A Phủ không chịu

được trốn về vùng cao kiếm sống. Đó là thể hiện sự phản kháng.
- A Phủ đánh con quan vì nó phá đám cuộc chơi của bạn bè. Nhà văn như đồng tình, hả hê
miêu tả những hành động của A Phủ: ném con quay rất to vào mặt A Sử, con quay gỗ ngát
lăng vào giữa mặt. A Phủ xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo đánh tới
tấp.
- Khi con bò bị hổ ăn thịt, A Phủ không sợ sự uy hiếp của thống lí mà cãi lại đòi cho đi bắt
con hổ đền vào con bò đã mất.
- Khi được Mị cắt dây trói, A Phủ vùng lên quật sức còn lại để cố thoát ra khỏi địa ngục tối
tăm, khổ đau.
 Tất cả những hành động của A Phủ đều thể hiện tinh thần phản kháng của con người bị
áp bức. Nó là sức mạnh, là tiền đề để sau này A Phủ trở thành du kích, trở về giải phóng quê
hương.
- Còn Mị, Mị muốn đi chơi trong đêm tình mùa xuân, Mị thắp đèn chuẩn bị xuống áo chẳng
cần biết A Sử ở đó và hỏi gì, đó là khát vọng và cũng là sự phản kháng chống lại thân phận.
Mị bị A Sử đánh dập bên bếp lửa mà vẫn cứ dậy sưởi hàng đêm không hẳn là sự chai lì mà
đó cũng là sự phản kháng. Mị định ăn lá ngón mấy lần cho chết đi cũng là sự phản kháng.
Sự phản kháng dù là bột phát ra hành động hay âm ỉ trong lòng đều là sự dồn nén, tích tụ
một tinh thần quyết liệt để đến đêm mùa đông, Mị có đủ sức mạnh trỗi dậy giải thoát kiếp tôi
đòi.
 Nhà văn đã miêu tả quá trình diễn biến nội tâm và hành động của nhân vật thật tự nhiên
và sống động. Đó cũng là quy luật tất yếu của sự sống mà nhà văn luôn đồng tình, ủng hộ và
mở ra cho họ một hướng đi, một lối thoát.
C. Kết bài
Viết truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhà văn Tô Hoài đã đổ biết bao công sức để suy
ngẫm làm sao cho tác phẩm của mình phải đạt đến chiều sâu của tư tưởng nhân đạo. Muốn
vậy, nhà văn phải đi, phải nhìn, phải nghe, phải suy ngẫm, phải đào xới bản chất con người
vào các tầng sâu lịch sử để khám phá phẩm chất con người, để từ đó biết yêu thương, sẻ
chia, trân trọng và đồng tình với những khát vọng của họ, hướng họ đi vào con đường đúng
đắn. Đó là tấm lòng của một nhà văn lớn luôn đứng về phía con người cùng khổ để sống và
viết.

Đề 13: Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài?

17


A. ĐẶT VẤN ĐỀ
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Khái quát
Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã tái hiện thành công bức tranh hiện thực
xã hội miền núi Tây Bắc trước 1945 làm nổi bật bộ mặt của giai cấp thống trị, cuộc sống cực
khổ, khốn cùng của người lao động miền núi bị áp bức. Truyện còn phản ánh sự vùng lê đấu
tranh và nguyện vọng hướng tới cách mạng của người dân lao động miền núi, quá trình đấu
tranh đi từ tự phát đến tự giác.
II. Cụ thể
1. Gía trị nhân đạo
- Gía trị hiện thực là một trong hai nội dung cơ bnar của một tác phẩm văn học.
- Hiện thực trong văn học là hiện thức thứ hai được tái tạo thông qua lăng kính chủ quan của
nghệ sĩ. Bởi vậy, một tác phẩm văn học có giá trị hiện thực là khi phản ánh một cách chân
thực, khách quan hiện thực đời sống không tô hồng, bôi đen hay sao chép nguyên vẹn cuộc
sống mà phải thấy được bnar chất của hiện thực đời sống, từ đó thể hiện được chiều sâu tư
tưởng của nhà văn.
2. Gía trị hiện thực trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”.
a. Tác phẩm phản ánh chân thực bộ mặt của giai cấp thống trị miền núi trước Cách
Mạng.
- Cha con thống lý PáTra là hiện thân của tội ác vô nhân đạo, chúng đại diện cho chế độ
lãnh chúa phong kiến vẫn còn duy trì ở miền núi trước Cách Mạng tháng 8.
Dưới chế độ xã hội này, giai cấp thống trị không chỉ bóc lột sức lao động mà còn đánh đập
hành hạ thân xác con người lao động và giết chết những người chúng biến thành nô lệ (cho
vay nặng lãi; tước đoạt quyền sống của những người mắc nợ chúng; tra tấn con người dã
man theo kiêu trung cổ..)

+ Ngày tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao. A Sử đến phá đám bị A Phủ đánh. Cũng vì thế,
A Phủ bị trói mang đến nhà Pá Tra. Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã
tái hiện sống động một cuộc xử kiện quái lạ, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắng trợn
kiểu trung cổ của bọn thống lí miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong không gian của màu
khói thuốc phiện “xanh như khói bếp”, của mùi khói thuốc phiện ngào ngạt. Những kẻ tham
gia vào bộ máy xử kiện thì “nằm dài cả bên khay đèn”. Cứ hút xong một đợt thuốc phiện, Pá
Tra lại ra lệnh, trai làng lại thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi xông ra đánh A Phủ. Như
vậy, cuộc xử kiện quái đản này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn người dã man của bọn chúa
đất – những con nghiện: “suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi,
càng hút”. Cuối cùng, người con trai tự do của núi rừng như A Phủ cũng không thoát khỏi
nanh vuốt của lũ chúa đất. Từ đây, anh vĩnh viễn trở thành nô lệ cho nhà Pá Tra: “Cả tiền
phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng… Bao giờ có tiền giả thì tao cho
mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời
con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Như vậy, bản chất của phạt
vạ ở đây chỉ là để thỏa mãn cho bọn thống quán ăn chới hút xách.
+ Cảnh A Sử trói Mị một cách lạnh lùng, tàn nhân cũng đủ thấy sự vô lương tâm, mất hết
nhân tính của bọn thống trị…
+ A Sứ còn dùng chân đạp vào mặt Mị; đánh Mị ở cửa bếp…
 Cách đánh đập, trói đứng người cho đén chết đã trở thành cảnh tượng quen
thuộc trong nhà thống lí Pa Tra.

18


- Bên cạnh sự tàn bạo về cường quyền giai cấp thống trị còn duy trì sự tàn bạo của thần
quyền
+ Chúng trói buộc người dân bằng sự mê tín dị đoan
+ Hủ tục cúng trình ma tạo nên một thế lực tinh thần cướp đi sự sống và cả khát vọng giả
thoát của những người lao động bị áp bức. Con ma vô hình của giai cấp thống trị đã cột chặt
cuộc đời nô lệ đối với những người lao động trong ngục tù của cường quyền và thần quyền.

Nỗi niềm của Mị thể hiện điều này…
b. Vợ chồng A Phủ phản ánh một cách toàn diện và sâu sắc đời sống của người lao
động bị áp bức ở miền núi Tây Bắc trước 1945.Đó là một cuộc sống tù đọng, ngột ngạt,
họ thực sụ phải sống trong địa ngục trần gian.
* Bức tranh về cuộc sống tối tăm cảu Mị.
- Bố mẹ nghèo, vay tiền cưới nhau -> cả đời không trả được nợ -> Mị trả nợ bằng tự do,
hạnh phúc đời mình.
- Bị chà đạp về thể xác.
- Bị chà đạp về tinh thần.
* Bức tranh về cuộc sống tối tăm của A Phủ.
=> Mị và A Phủ là hiện thân cho số phận bất hạnh, cho cuộc đời khổ đau của người dân
miền núi trước Cách Mạng.
c. Tác phẩm phản ánh những quy luật của xã hội. Ngòi bút của Tô Hoài toàn diện vá sắc
sảo khi ông không chỉ phả ánh hiện thực tăm tối, đau thương của người lao động miền
núi mà còn phản ánh quá trình đấu tranh đến với Cách Mạng của họ.
* Tô Hoài có cái nhìn biện chứng về mối quan hệ giữa hoàn cảnh và tính cách.
- Bị đày ải trong thế giới không có nhân tính cả Mị và A Phủ đều trở thành những con người
an phận thàm chí vô cảm.
- Nhưng khi bị ức hiếp, bị đẩy đến đường cùng nguwoif lương thiện sẽ vùng dậy, tự giải
phóng cho mình, tình hữu ái giai cấp sẽ tạo sức mạnh đẻ họ tự giả thoát.
* Điểm mới của Tô Hoài là đã nắm bắt và miêu tả hiện thực trong xu thế cách mạng.
Tô Hoài đã phản ánh con đường đấu tranh của người lao động bị áp bức ở miền núi từ tự
phát đến tự giác, chống lại ách thông trị của bọn thực dân, phong kiến dưới sự dìu dắt của
cán bộ Đảng, của cáh mạng. Đoa là con đường tất yếu để nguwoif dân miền núi thoát khỏi
ách nô lệ vươn tới cuộc sống tự do, hạnh phúc.
- Lúc đầu bị áp bức nặng nề cả Mị và A Phủ đã vùng lên đấu tranh để tự cứu mình…
- Sau khi trốn khỏi Hồng Ngài đến Phiềng Sa, Mị và A Phủ đã trở thành vợ chồng; trở thành
đội viên du kích dưới sự dẫn dắt của cán bộ cách mạng A Châu để đấu tranh giải phóng bản
làng, bảo vệ quê hương.
d. Phản ánh chân thực vẻ đẹp thiên nhiên và phong tục miền núi.

- Vẻ đẹp thiên nhiên: mùa xuân trên núi cao.
- Phong tục miền núi: tục cướp vợ, sử kiện, hò hẹn giao duyên…
III. ĐÁNH GIÁ
- Lần đầu tiên bức tranh cuộc sống vùng cao Tây Bắc trước Cách Mạng được miêu tả toàn
diện, sâu sắc qua trang văn của Tô Hoài. Điều này cho thấy sáng tác của Tô Hoài thiên về
diễn tả sự thật của đời thường. Đúng như nhà văn từng tâm niệm “viết văn là một quá trình
đấu tranh để nói ra sự thật”.
- Gía trị hiện thực là phông nề để Tô Hoài bày tỏ tấm lòng nhân đạo của mình. Bởi vậy mà
đến ngày nay tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị, sức sống trong lòng bạn đọc.

19


Đề 14: Phân tích nhãn quan phong tục của Tô Hoài trong truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ” ?
A. MỞ BÀI
- Tô Hoài được mệnh danh là nhà văn của phong tục. Ông có một nhãn quan phong tục
đặc biệt nhạy bén và sắc sảo. Những phong tục bao đời nay của dân tộc ta vốn đã rất phong
phú và độc đáo nhưng khi vào tác phẩm của Tô Hoài, nó lại được miêu tả sinh động và lôi
cuốn bội phần.
- Có thể nói, dù viết về những người dân ngoại thành Hà Nội, về đồng bào miền núi cao
Tây Bắc hay về loài vật, Tô Hoài cũng khéo léo đưa vào đó những phong tục, tập quán quen
thuộc của con người Việt Nam. Ở đây, xin đi sâu phân tích nhãn quan phong tục của Tô
Hoài trong tác phẩm tiêu biểu của ông: Vợ chồng A Phủ.
B. THÂN BÀI
1. Khái quát
Phong tục là đặc trưng văn hóa dân tộc, là niềm tự hào của một cộng đồng người từng
quần tụ với nhau hàng nghìn năm trong một vùng lãnh thổ. Đó là thói quen đã ăn sâu vào
đời sống xã hội, được mọi người công nhận và làm theo. Việc thể hiện phong tục trong tác
phẩm đem đến cho người đọc những tri thức bổ ích về đời sống, những hiểu biết thú vị về

những vùng trời xa lạ hay về một thời kì lịch sử thường không còn vang bóng. Thông qua
những trang viết đậm màu sắc phong tục, người đọc biết được ở thời kì ấy, miền đất ấy, dân
tộc ấy có những thói quen sinh hoạt, cách ăn mặc, nói năng, vui chơi, lao động, cách giao
tiếp, ứng xử, những nghi lễ tôn giáo như thế nào.
Vợ chồng A Phủ là tác phẩm tiêu biểu nhất của Tô Hoài viết về đề tài miền núi. Mảng sáng
tác về đề tài này được coi là một “đặc sản” của ông. Căn cứ vào số lượng tác phẩm và hành
trình sáng tác, có thể coi Tô Hoài là nhà văn viết nhiều nhất, thủy chung nhất với đề tài miền
núi. Chính những năm tháng thâm nhập thực tế vùng núi cao Tây Bắc đã giúp Tô Hoài có
một vốn sống phong phú và sâu sắc về cuộc sống và con người đồng bào các dân tộc vùng
đất này.Bởi vậy, đọc Vợ chồng A Phủ, ngoài bức tranh hiện thực về đời sống xã hội, người
đọc còn bị thu hút bởi những trang miêu tả phong tục sinh hoạt với màu sắc dân tộc đậm đà,
với những chi tiết độc đáo, sinh động của một cây bút có óc quan sát thông minh, tinh tế.
2. Tục cho vay nặng lãi
Tục cho vay nặng lãi ở miền núi thời phong kiến được thể hiện tập trung ở nhân vật Mị. Số
phận của Mị tiêu biểu cho số phận người phụ nữ H’mông nghèo ngày trước: có đầy đủ phẩm
chất để được sống hạnh phúc nhưng lại bị đọa đày trong kiếp sống nô lệ.
Đi tìm nguyên nhân cho số phận bất hạnh của cô Mị, người đọc có dịp hiểu về tục cho
vay nặng lãi – nỗi lo sợ hãi hùng của biết bao số phận người lao động nghèo khổ miền núi
trước Cách mạng. Ngày xưa, bố mẹ Mị lấy nhau không có đủ tiền cưới, phải đến vay nhà
thống lí, bố của thống lí Pá Tra bây giờ. Mỗi năm phải đem nộp lãi một nương ngô. Rồi đến
khi mẹ Mị chết, bố Mị đã già mà món nợ ấy vẫn như một sợi dây oan nghiệt: “Chao ôi! Thế
là cha mẹ ăn bạc của nhà giàu từ kiếp trước, đến bây giờ người ta bắt con trừ nợ, không thể
làm khác được rồi”. Mị muốn được làm chủ cuộc đời bằng sức lao động của chính mình:
“Con nay đã biết cuốc nương, làm ngô, con phải làm nương ngô giả nợ thay cho bố. Bố

20


đừng bán con cho nhà giàu”. Nhưng đâu có được! Tục cho vay nặng lãi đã trói Mị vào món
nợ truyền kiếp. Từ đây, Mị phải sống cuộc đời của người con dâu gạt nợ nhà thống lí Pá Tra.

Định mệnh bi thảm đã giáng xuống cuộc đời người thiếu nữ ấy, buộc chặt cô vào số phận nô
lệ không có lối thoát.
3. Tục cướp vợ trình ma
"Bản Mèo ánh trăng sáng
Tay dắt cương giấu con ngựa dưới sàn
Chàng trai người Mông vắt em yêu ngang lưng ngựa đó
Ngựa mang thiên thần lên đỉnh núi".
Những câu hát trong ca khúc “Cướp vợ” của ban nhạc Ngũ Cung đã phần nào nói lên
phong tục cưới hỏi rất đặc sắc của người H’mông. Trai gái H’mông yêu nhau, chàng trai
thỏa thuận với người yêu tổ chức cuộc “cướp” mang người con gái về nhà mình. Sau đó mới
đến trình nhà vợ. Thường mùa xuân ăn tết, con trai hay đi “cướp vợ”. Đây là phong tục
thanh niên rất thích và bây giờ vẫn còn.
Mị là cô gái đẹp, thổi kèn hay, nhiều người mê Mị “trai đến đứng nhẵn cả chân vách
đầu buồng Mị”. Tết năm ấy, Mị bị A Sử - con trai thống lí Pá Tra đánh lừa, lợi dụng tục này
cướp cô về làm vợ. Xót xa thay, hắn đâu cưới Mị vì tình yêu, hắn và người nhà hắn bắt Mị
về ép duyên để gạt nợ: “Họ nhốt Mị vào buồng. Ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng
ma đương rập rờn nhảy múa”. Ngòi bút hiện thực tỉnh táo của Tô Hoài đã phanh phui bản
chất bóc lột giai cấp được ẩn sau những phong tục tập quán. Cô Mị tiếng là con dâu nhưng
thực chất chỉ như một nô lệ, thứ nô lệ người ta không phải mua mà lại tha hồ được bóc lột,
hành hạ.
Ý thức phản kháng của Mị cũng dần tiêu tan chỉ vì ý nghĩ : mình đã bị đem trình ma
thì có chết cũng trở thành ma nhà thống lí, chết cũng không được tự do. Hủ tục đã giết chết
hạnh phúc của Mị. Suy nghĩ lạc hậu, mê tín dị đoan – một phần trong tâm linh người dân tộc
H’mông cũng là một phần nguyên nhân khiến cuộc đời Mị rơi vào bi kịch. Tình cảnh của Mị
là chứng cớ tố cáo mãnh liệt nhất bọn cường hào cho vay nặng lãi. Vợ chồng A Phủ chính là
bản cáo trạng hùng hồn về những nối thống khổ của người phụ nữ miền núi – những người
vừa phải chịu gánh nặng của chế độ phong kiến, vừa bị trói chặt trong xiềng xích của thần
quyền.
4. Tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ
Sự xuất hiện của nhân vật A Phủ cũng góp phần thể hiện nhãn quan phong tục của Tô

Hoài. A Phủ có số phận bất hạnh, mồ côi cả cha lẫn mẹ, suốt đời làm thuê làm mướn. Anh
nghèo đến nỗi không thể nào lấy được vợ và cũng không có nổi cái vòng bạc để đi chơi tết
như bao chàng trai H’mông khác. Chính những hủ tục “phép rượu”, “phép làng” và tục cưới
xin nên A Phủ trở thành tứ cố vô thân, không sao lấy được vợ.
Ngày tết, A Phủ rủ bạn đi chơi đánh pao. A Sử đến phá đám bị A Phủ đánh. Cũng vì thế, A
Phủ bị trói mang đến nhà Pá Tra. Bằng ngòi bút miêu tả phong tục bậc thầy, Tô Hoài đã tái
hiện sống động một cuộc xử kiện quái lạ, từ đó vạch trần cách áp bức dã man, trắng trợn
kiểu trung cổ của bọn thống lí miền núi. Cuộc xử kiện diễn ra trong không gian của màu
khói thuốc phiện “xanh như khói bếp”, của mùi khói thuốc phiện ngào ngạt. Những kẻ tham
gia vào bộ máy xử kiện thì “nằm dài cả bên khay đèn”. Cứ hút xong một đợt thuốc phiện, Pá
Tra lại ra lệnh, trai làng lại thay nhau lạy tên thống lí lia lịa rồi xông ra đánh A Phủ. Như
vậy, cuộc xử kiện quái đản này thực chất chỉ là một cuộc tra tấn người dã man của bọn chúa

21


đất – những con nghiện: “suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi,
càng hút”. Cuối cùng, người con trai tự do của núi rừng như A Phủ cũng không thoát khỏi
nanh vuốt của lũ chúa đất. Từ đây, anh vĩnh viễn trở thành nô lệ cho nhà Pá Tra: “Cả tiền
phạt, tiền thuốc, tiền lợn, mày phải chịu một trăm bạc trắng… Bao giờ có tiền giả thì tao cho
mày về, chưa có tiền giả thì tao bắt mày ở làm con trâu, con ngựa cho nhà tao. Đời mày, đời
con, đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Như vậy, bản chất của phạt
vạ ở đây chỉ là để thỏa mãn cho bọn thống quản ăn chơi, hút xách.
=> Bằng nhãn quan phong tục sắc sảo, Tô Hoài đã giúp người đọc hiểu thêm về những tục lệ
kì quái, dã man của bọn chúa đất, chúa rừng trước kia. Câu chuyện về A Phủ - người nô lệ
gạt nợ đã bổ sung cho câu chuyện về Mị - người con dâu gạt nợ để làm hoàn chỉnh bản án về
tội ác của bọn thống trị phong kiến đối với những người lao động lương thiện ở miền núi
trước Cách mạng.
5. Những ngày tết vùng cao, đêm tình mùa xuân
Với vốn hiểu biết phong phú, khả năng quan sát sắc sảo và năng lực dựng người, dựng

cảnh tinh tế, tác giả đã phác họa được những bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, thơ
mộng, miêu tả sinh động nhiều phong tục độc đáo của người H'mông.
Tết của người vùng cao không giống tết ở miền xuôi. Người H'mông ăn tết khi ngô lúa
đã gặt xong, mùa xuân có niềm vui thu hoạch mùa màng. Cho nên cái tết năm ấy đến Hồng
Ngài giữa lúc "gió và rét rất dữ dội" nhưng cũng không ngăn được niềm vui đang trỗi dậy
trong tâm hồn những người dân ở đây, đặc biệt là ở những đôi trai gái yêu nhau. Tô Hoài đã
đặc tả không khí ngày tết với những từ ngữ giàu chất tạo hình, qua đó hiện lên bức tranh
ngày tết miền núi tràn ngập màu sắc và âm thanh: "Trong các làng Mèo Đỏ, những chiếc váy
hoa đã đem ra phơi trên những mỏm đá xòe như con bướm sặc sỡ [...] Đám trẻ đợi tết, chơi
quay, cười ầm trên sân chơi trước nhà". Ông cũng đặc biệt chú trọng đến những phong tục
lạ, ngộ nghĩnh qua con mắt tò mò, hóm hỉnh của mình: "Trai gái kéo nhau lên núi chơi. Đi
chơi trên núi từng đoàn", "Các chị Mèo đỏ, váy thêu, áo khoác, khăn hoa chùm rực rỡ. Các
chị Mèo trắng chít khăn xếp phẳng lì, tóc mai cạo xanh nhẵn".
Khi viết về những ngày tết ở Hồng Ngài, nhà văn Tô Hoài cũng rất chú ý miêu tả tiếng
sáo. Sáo H’Mông có khả năng diễn tả ngôn ngữ của người H’Mông, thay họ nói lên tình cảm
trong lòng:" Anh ném pao, em không bắt. Em không yêu, quả pao rơi rồi". Đó là phương
tiện giao duyên hữu hiệu của các chàng trai đối với con gái trong bản làng. Trong "Vợ chồng
A Phủ", ngòi bút Tô Hoài cũng tỏ ra rất thành công khi lột tả được nét đặc trưng, lột tả được
"cái hồn" của tiếng sáo: "Ngoài đầu núi lấp ló đã có tiếng ai thổi sao rủ bạn đi chơi", "Tiếng
sáo réo rắt suốt đêm ngoài đầu núi tranh". Tiếng sáo còn là cách tỏ tình đặc biệt của người
con trai miền núi: "Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh
vách".
Thời gian cứ tiếp nối, những ngày tết vùng cao và đêm tình mùa xuân của ngày xưa và ngày
sau dường như vẫn thế. Tiếng sáo gọi bạn tình vượt qua thời gian, tồn tại vĩnh hằng trong
trái tim biết bao chàng trai cô gái miền sơn cước.
C. KẾT BÀI
Trong Vợ chồng A Phủ, với biệt tài miêu tả thiên nhiên và phong tục xã hội, Tô Hoài đã tạo
dựng được một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng, một không gian nghệ thuật mang
đậm màu sắc dân tộc độc đáo ở vùng cao Tây Bắc. Thông qua tác phẩm, người đọc có thêm
những tri thức bổ ích về đời sống, phong tục tập quán của dân tộc H'mông đó là tục cho vay

nặng lãi; tục cướp vợ trình ma; tục xử kiện, phạt vạ, trình ma người vay nợ... Tất cả được Tô

22


Hoài miêu tả với những tìm tòi, khám phá sâu sắc, không phải bằng kiến thức dân tộc học
khô khan mà là qua nhãn quan phong tục vô cùng độc đáo và những trang viết thấm đẫm
tình người./.
Đề 15: Số phận và đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt qua hai truyện ngắn “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hoài, “Vợ nhặt” của Kim Lân .
A. MỞ BÀI
- Truyện kí Việt Nam từ 1945 đến 1975 đã có những đóng góp rất quan trọng trong việc
phản ánh cuộc sống và vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam. Bên cạnh những truyện viết về
đề tài chiến đấu, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng Cách mạng còn có những truyện viết về cuộc
sống thường ngày, đi sâu miêu tả số phận và vẻ đẹp tâm hồn con người lao động, đặc biệt là
người phụ nữ. Hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài và “Vợ nhặt” của Kim Lân
được học trong chương trình lớp 12 là những tác phẩm tiêu biểu cho phương diện này.
- Số phận con người, nhất là người phụ nữ đã trở thành một vấn đề quan trọng đặc biệt
được các nhà văn Việt Nam rất quan tâm. Nhưng thân phận những người phụ nữ trong quá
khứ vô cùng đau khổ và thường rơi vào bế tắc.
B. THÂN BÀI
1. Giới thiệu những nét chung về vác nhân vật phụ nữ trong hai tác phẩm
- Những nhân vật phụ nữ của Tô Hoài, Kim Lân đã được các nhà văn quan sát, miêu tả
trong xu thế hiện thực, vận động đi lên nên số phận của các nhân vật này đã đi từ bóng tối
đến ánh áng, “từ thung lũng đau thương ra cánh đồng vui”.
- Mị là nạn nhân của chế độ phong kiến miền núi hà khắc mà hiện thân của nó là cha con
thống lí Pá Tra; bà cụ Tứ, vợ Tràng là những nhân vật bị cái đói, cái chết đe dọa cướp đi sự
sống. Nhưng họ không mất đi hi vọng vào tương lai và luôn luôn tiềm ẩn một sức sống
mãnh liệt.
- Do cái nhìn khám phá riêng biệt độc đáo của từng tác giả trước hiện thực cuộc sống nên

mỗi nhân vật cũng có nhiều biểu hiện khác nhau về số phận và vẻ đẹp tâm hồn thật đa dạng,
phong phú và hấp dẫn.
2. Phân tích số phận và vẻ đẹp tâm hồn nhân vật ở mỗi tác phẩm
a. Nhân vật Mị trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ.
- Mị là một cô gái dân tộc Mèo (H’Mông) đã kết tinh được những phẩm chất cao đẹp của
người phụ nữ miền núi. Nhưng dưới tầng áp bức khắc nghiệt tàn bạo của cường quyền, thần
quyền, hủ tục phong kiến, Mị gần như tê liệt hết sức sống.
- Tô Hoài đã khám pha ra lòng ham sống, khát khao tình yêu, hạnh phúc, tự do tiềm ẩn mãnh
liệt trong tâm hồn Mị. Chính sức sống này là tiền đề quan trọng giúp Mị thoát khỏi nhà ngục
thống lí tìm đến Phiềng Sa được cán bộ A Châu dìu dắt để trở thành người tự do, người làm
chủ cuộc đời mình, chiến đấu, giải phóng quê hương mình như một tất yếu.
- Qua nhân vật Mị, Tô Hoài đã đặt vấn đề khát vọng tự do, hạnh phúc chân chính của người
phụ nữ miền núi và con đường giải phóng của họ phải đi từ tự phát đến tự giác, dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
b. Ở “Vợ nhặt”, số phận con người chưa hoàn toàn sang trang mới, nhưng ở đoạn cuối của
tác phẩm đã hé mở cho họ một tương lai tươi sáng, tốt đẹp.
Nét đặc sắc về nghệ thuật của Kim Lân ở truyện này là sáng tạo được một tình huống rất
độc đáo: “Vợ nhặt”, nghĩa là nhặt được vợ giữa nạn đói khủng khiếp. Đặt nhân vật vào tình

23


huống ấy, Kim Lân đã có điều kiện làm rõ số phận cùng phẩm chất của nhân vật.
* Vợ Tràng
- Đây là một người phụ nữ bị cái đói xô đẩy thành thân phận bơ vơ. Và cái đói cũng hủy hoại
cả thể xác lẫn tâm hồn chị.
- Nhưng khi gặp được người chồng thực sự yêu thương, gặp bà mẹ chồng đôn hậu, thị đã
thành “một người phụ nữ hiền hậu đúng mực”.
- Thị cũng là người gieo vào đầu Tràng hình ảnh ddaonf người phá kho thóc Nhật và lá cờ
đỏ đằng trước. Thị đã nhen lên ánh sáng của niềm tin cho cả gia đình, họ hi vong cách mạng

sẽ giải phóng cho cuộc đời họ.
* Bà cụ Tứ
- Sống nghèo khổ dưới đáy cùng của xóm ngụ cư với dáng đi “lọng khọng”, thân hình còm
cõi, gương mặt u ám.
- Số phận bắt bà phải sống cuộc sống tối tăm nhưng không thể dập tắt được phần người
trong tâm hồn bà cụ già nua, nghèo khổ, rất cần cù, chịu thương chịu khó, giàu lòng yêu con,
rất mực nhân hậu, vị tha và một lòng thương hướng về cái thiện, hướng về tương lai tươi
sáng.
* Viết về nạn đói, Kim Lân không nhằm miêu tả sự tha hóa, của người phụ nữ, trái lại đã
khẳng định khát vọng sống và phẩm giá của họ.
C. KẾT BÀI
- Đúng như M.Gor-ki đã viết “Văn học là nhân học”, văn học từ muôn đời nay đều nhằm
phấn đấu cho con người được sống trong tự do, hạnh phúc và tình yêu gia đình.
- Chính tấm lòng tin yêu về số phận, phẩm giá của người phụ nữ, cộng với tài năng, cá tính
sáng tạo đã giúp cho các tác giả sáng tạo nên những nhân vật phụ nữ vừa có những nét
chung phổ biến vừa có những nét riêng độc đáo, rất hấp dẫn như thế
C. Kết quả triển khai chuyên đề
- Lớp chuyên đề khối C,D - năm 2013 - 2014 đạt 100% học sinh nắm được kiến thức cơ
bản, biết làm các dạng đề nghị luận văn học.
D. Lời kết
Trên đây là một số phương pháp và kiến thức về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” mà tôi đã áp
dụng trong giảng dạy ôn thi đại học khối C,D. Có thể còn nhiều hạn chế rất mong nhận được
sự ủng hộ và đóng góp của đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Vĩnh Tường ngày 06 tháng 03 năm 2014
Người viết

TrầnThị Ngọc Minh

24



SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO VĨNH PHÚC
ĐOÀN TRƯỜNG THPT HỒ XUÂN HƯƠNG

..……*****……...

Chuyên đề:

TÁC PHẨM: VỢ CHỒNG A PHỦ
Họ và tên: Trần Thị Ngọc Minh
Tổ: Văn- Sử- Địa- GDCD

Năm học: 2013 - 2014
25


×