Tải bản đầy đủ (.pdf) (196 trang)

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG tác QUẢN TRỊ rủi RO tín DỤNG tại NGÂN HÀNG THƯƠNG mại cổ PHẦN NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM CHI NHÁNH HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 196 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING
-----O-----

NGÔ QUANG HẢI

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO
TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN
NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

HCM - NĂM 2015


BỘ TÀI CHÍNH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING
******

Học viên thực hiện: NGÔ QUANG HẢI

GIẢI PHÁP NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN
DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN NGOẠI
THƯƠNG VIỆT NAM - CHI NHÁNH HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC
Chuyên ngành: Tài chính Ngân hàng

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS ĐÀO DUY HUÂN


HCM, NĂM 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Ngô Quang Hải, xin cam đoan luận văn thạc sĩ chuyên ngành tài chính
ngân hàng này là do chính tôi nghiên cứu và thực hiện. Các thông tin số liệu, kết quả
nêu trong luận văn là trung thực, chính xác và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Người thực hiện luận văn

Ngô Quang Hải


Lời cám ơn
Suốt hai năm học tập tại Trường Đại Học Tài Chính Marketing, nhờ sự
chỉ bảo tận tình của các thầy cô, tôi đã thu thập được những kiến thức bổ ích
trong sách vở lẫn kinh nghiệm sống thực tiễn. Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin
chân thành cảm ơn, Phó giáo sư- Tiến sĩ Đào Duy Huân đã hết lòng chỉ bảo và
định hướng khoa học để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Tiếp đến, tôi gửi lời cảm ơn đến Lãnh đạo và tập thể cán bộ công nhân
viên Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam - Chi nhánh Huế
đã nhiệt tình giúp đỡ, cung cấp những thông tin, tài liệu cần thiết làm cơ sở cho
việc thực hiện luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Trường Đại Học Tài
Chính Marketing đã động viên, tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.


Danh mục các bảng
Bảng 2.1: Tình hình lao động Vietcombank chi nhánh Huế ....................... 44

T
0
4

T
0
4

Bảng 2.2: Tình hình tài sản – nguồn vốn của Chi nhánh giai đoạn 2011T
0
4

2013 ................................................................................................................. 46
T
0
4

Bảng 2.3: Tình hình huy động vốn Vietcombank chi nhánh Huế ............... 49
T
0
4

T
0
4

Bảng 2.4: Kết quả hoạt động kinh doanh Vietcombank chi nhánh Huế giai
T
0
4


đoạn 2011-2013 .............................................................................................. 52
T
0
4

Bảng 2.3. Cơ cấu tín dụng của VCB Huế giai đoạn 2011 – 2013 ............... 57
T
0
4

T
0
4

Bảng 2.4. Tình hình nợ quá hạn tại VCB Huế giai đoạn 2011 – 2013 ....... 61
T
0
4

T
0
4

Bảng 2.5. Tình hình nợ xấu tại VCB Huế giai đoạn 2011 - 2013 ............... 64
T
0
4

T

0
4

Bảng 2.6. Tình hình phân loại nợ của VCB Huế giai đoạn 2011 – 2013 ... 67
T
0
4

T
0
4

Bảng 2.7. Tình hình trích lập dự phòng của VCB Huế ...................................1
T
0
4

T
0
4


Danh mục hình vẽ và biểu đồ
Hình 1.1: phân loại rủi ro tín dụng ................................................................. 16
T
0
4

T
0

4

Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của NHTMCP Ngoại thương Việt
T
0
4

Nam – chi nhánh Huế. .................................................................................... 42
T
0
4

Biểu đồ 2.1. Tăng trưởng tín dụng của VCB Huế qua các năm 2011 – 201355
T
0
4

T
0
4

Biểu đồ 2.2. Dư nợ cho vay theo loại hình doanh nghiệp năm 2013 .......... 59
T
0
4

T
0
4



Danh mục các từ viết tắt
NHTM
NHNN
DNNN
CTCP
DNTN
CBTD
RRTD
QTRR
KNHT
TSĐB
LT

VNĐ
USD
Vietcombank
Vietcombank Huế

: Ngân hàng thương mại
: Ngân hàng Nhà Nước
: Doanh nghiệp Nhà Nước
: Công ty cổ phần
: Doanh nghiệp tư nhân
: Cán bộ tín dụng
: Rủi ro tín dụng
: Quản trị rủi ro
: Khả năng hoàn trả vốn vay
: Tài sản đảm bảo
: Luồng tiền

: Thái độ
: Việt Nam đồng
: Dolar Mỹ
: Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
Thương Việt Nam
: Ngân hàng Thương mại cổ phần Ngoại
Thương Việt Nam-Chi nhánh Huế


MỤC LỤC


LỜI MỞ ĐẦU
1.1.

Lý do chọn đề tài
Với sự kiện Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại

Thế giới (WTO) đã mở ra nhiều cơ hội mới cho mọi doanh nghiệp, mọi lĩnh vực trong
đó không thể không nói tới ngân hàng - một lĩnh vực hết sức nhạy cảm ở Việt Nam.
Chúng ta đang bắt đầu thực hiện các cam kết mở cửa, khiến cho các doanh nghiệp
đứng trước sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt, cơ hội nhiều nhưng thách thức cũng
không nhỏ. Điều này tạo ra những ảnh hưởng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, vì thế ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng thương mại nói
chung và hoạt động tín dụng ngân hàng nói riêng.
Trong tất cả các hoạt động kinh doanh của Ngân hàng hiện nay, hoạt động tín
dụng là một nghiệp vụ truyền thống, nền tảng và là hoạt động kinh doanh quan trọng
nhất, mang lại phần lợi nhuận lớn nhất cho Ngân hàng. Tuy nhiên, nó cũng là hoạt
động phức tạp, tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Rủi ro trong hoạt động tín dụng có thể tác
động rất nặng nề đến các hoạt động kinh doanh khác và có thể làm tổn hại đến uy tín

và vị thế của Ngân hàng.
Một ngân hàng hoạt động kinh doanh hiệu quả, có năng lực tài chính mạnh và
có hệ thống quản lý rủi ro đồng bộ, hiệu quả và chuyên nghiệp sẽ đảm bảo cho sự tăng
trưởng tín dụng an toàn, hiệu quả và bền vững.
Thực tiễn hoạt động tín dụng Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi
nhánh Huế thời gian qua cho thấy rủi ro tín dụng chưa được xác định, đo lường, đánh
giá và kiểm soát một cách chặt chẽ. Chính vì vậy, yêu cầu cấp bách đặt ra là cần phải
nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng, hạn chế đến mức thấp nhất có thể những
nguy cơ tiềm ẩn gây nên rủi ro. Việc xây dựng một hệ thống quản trị rủi ro nói chung
và quản trị rủi ro tín dụng nói riêng có vai trò sống còn đối với hoạt động của Ngân
hàng. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã chọn đề tài “Giải pháp
nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Huế” làm đề tài nghiên cứu.
Việc tác giả chọn đề tài “Giải pháp nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng tại
Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Huế " là phù hợp


với chuyên ngành học và không trùng lặp với những nghiên cứu trước đây tại Ngân
hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam – Chi nhánh Huế.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

1.2.1. Mục tiêu chung
Phân tích thực trạng các rủi ro của hoạt động tín dụng tại Ngân hàng TMCP
Ngoại Thương Việt Nam - chi nhánh Huế. Từ đó đưa ra các biện pháp phòng ngừa,
hạn chế rủi ro tín dụng.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa về những lý luận rủi ro trong tín dụng Ngân hàng.
- Phân tích những rủi ro xảy ra trong hoạt động cho vay tại Vietcombank Huế.

- Phân tích những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng tại Vietcombank Huế để
tìm giải phòng hạn chế.
- Đề xuất một số giải pháp bổ sung và kiến nghị để hoàn thiện và nâng cao hiệu
quả công tác quản trị rủi ro tín dụng và hoạt động kinh doanh của Vietcombank Huế.
1.3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.

1.3.1. Đối tượng.
- Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank
Huế.
1.3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề lí luận và thực
tiễn về hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Vietcombank Huế.
- Phạm vi không gian: Vietcombank Huế.
- Phạm vi thời gian: Thu thập thông tin và dữ liệu qua 3 năm 2011 – 2013.
1.4.

Phương pháp nghiên cứu

1.4.1. Phương pháp thống kê mô tả gồm:
+ Dữ liệu thứ cấp:
- Các loại thông tin cần thu thập: Lý thuyết về những rủi ro tín dụng ngân
hàng. Thông tin về ngân hàng Vietcombank: Lịch sử phát triển của
Vietcombank, tình hình hoạt động kinh doanh của Vietcombank.
- Nguồn thu thập: Báo cáo khoa học, luận văn và các giáo trình có liên quan,
Internet, từ ngân hàng Vietcombank cung cấp,…


- Cách thu thập: Báo cáo của Vietcombank, thư viện, trung tâm học liệu, sách

báo, thông qua các thông tin trên Internet.
1.4.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu với việc hệ thống hóa một cách khoa học các cơ sở lý luận
về hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong khối ngân hàng thương mại,
kèm theo đó cho thấy được thực trạng hoạt động quản trị rủi ro tín dụng tại Ngân hàng
thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam chi nhánh Huế từ phía nhận diện của cán
bộ tín dụng và khách hàng đang sử dụng dịch vụ. Từ đó đưa ra các giải pháp có thể
giúp cho Ban giám đốc ngân hàng có những chính sách quản lý phù hợp nhằm phát
huy và khai thác tốt thị trường. Nghiên cứu này cũng là một tài liệu khoa học có giá trị
tham khảo cho các nhà nghiên cứu sau này làm các nghiên cứu liên quan.
1.5.

Kết cấu của đề tài
Đề tài nghiên cứu: “Giải pháp nâng cao công tác quản trị rủi ro tín dụng tại

Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam–Chi nhánh Huế” gồm 3
chương :
Chương 1: Cơ sở khoa học của vấn đề nghiên cứu.
Trong phần này nghiên cứu đề cập đến những vấn đề cơ sở lý luận liên quan
đến rủi ro trong ngân hàng, rủi ro tín dụng cũng như ý nghĩa thực tiễn về công tác quản
lý rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay.
Chương 2: Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng
tại Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam- chi nhánh Huế.
Đánh giá tổng quan về các đặc điểm của ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
Thương Việt Nam chi nhánh Huế, phân tích kết quả kinh doanh, tình hình cho vay,
huy động vốn, doanh thu cũng như nợ quá hạn từ năm 2011 – 2013.
Nghiên cứu phân tích rủi ro tại Vietcombank Huế theo quy trình nhận dạng,
đánh giá dấu hiệu rủi ro và phân tích nguyên nhân dẫn đến rủi ro tại Vietcombank
Huế. Bên cạnh đó, nêu lên các biện pháp quản trị rủi ro đã được áp dụng tại
Vietcombank Huế.

Chương 3: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao công tác quản trị rủi ro tín
dụng tại ngân hàng TMCP Ngoại Thương – Chi nhánh Huế


Từ định hướng phát triển và phát hiện một số tồn tại Vietcombank Huế, đề xuất
một số nhóm biện pháp nhằm phòng ngừa và hạn chế rủi ro tại Ngân hàng thương mại
cổ phần Ngoại Thương Việt Nam-Chi nhánh Huế.

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA ĐỀ TÀI
1.1.

Những vấn đề lý luận chung về rủi ro trong kinh doanh ngân hàng

1.1.1. Khái niệm rủi ro
Cho đến nay chưa có được định nghĩa thống nhất về rủi ro. Những trường phái
khác nhau, các tác giả khác nhau đưa ra những định nghĩa rủi ro khác nhau. Những
định nghĩa này rất phong phú và đa dạng, nhưng tập trung lại có thể chia thành hai
trường phái lớn:
Theo trường phái truyền thống, rủi ro được xem là sự không may mắn, sự tổn
thất mất mát, nguy hiểm. Nó được xem là điều không lành, điều không tốt, bất ngờ xảy
đến. Đó là sự tổn thất về tài sản hay là sự giảm sút lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận
dự kiến. Rủi ro còn được hiểu là những bất trắc ngoài ý muốn xảy ra trong quá trình
kinh doanh, sản xuất của doanh nghiệp, tác động xấu đến sự tồn tại và phát triển của
một doanh nghiệp.Tóm lại, theo quan điểm này thì rủi ro là những thiệt hại, mất mát,
nguy hiểm hoặc các yếu tố liên quan đến nguy hiểm, khó khăn hoặc điều không chắc
chắn có thể xảy ra cho con người.
Theo trường phái hiện đại, rủi ro là sự bất trắc có thể đo lường được, vừa
mang tính tích cực, vừa mang tính tiêu cực. Rủi ro có thể mang đến những tổn thất mất
mát cho con người nhưng cũng có thể mang lại những lợi ích, những cơ hội. Nếu tích
cực nghiên cứu rủi ro, người ta có thể tìm ra những biện pháp phòng ngừa, hạn chế

những rủi ro tiêu cực, đón nhận những cơ hội mang lại kết quả tốt đẹp cho tương lai.
1.1.2. Thành phần của rủi ro
Rủi ro bao gồm 3 yếu tố:
- Xác suất xảy ra (Probability):là khả năng có thể xảy ra rủi ro trong một thời
gian nhất định. Bản chất rủi ro là sự không chắc chắn, nếu chắc chắc (xác suất bằng
0% hoặc 100%) thì không gọi là rủi ro.
- Khả năng ảnh hưởng đến đối tượng (Impacts on objectives): Có những rủi ro
có thể mang lại những tổn thất về mặt tài chính khá lớn nhưng ngược lại, cũng có


những rủi ro có mức độ nghiêm trọng là nhỏ. Để đo lường mức độ nghiêm trọng của
rủi ro, người ta thường cố gắng lượng hóa bằng tiền và sử dụng một đơn vị tiền tệ nhất
định nào đó.
- Thời lượng ảnh hưởng (Duration): rủi ro xảy ra có thể chỉ ảnh hưởng tức thời
tại thời điểm xảy ra rủi ro, cũng có thể ảnh hưởng trong suốt thời gian dài sau đó.
1.1.3. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng
Có nhiều cách phân loại rủi ro, tuy nhiên trong phạm vi hoạt động của các ngân
hàng thương mại Việt Nam có thể tổng hợp thành một số loại rủi ro cơ bản sau:
Rủi ro tín dụng: rủi ro mà khách hàng không hoàn thành được nghĩa vụ của họ
vào ngày cam kết theo hợp đồng tín dụng.
+ Có thể do khách hàng giải ngân trễ hạn, hoặc giải ngân ít hơn mức cam kết,
hoặc có thể hủy ngang không giải ngân, hoặc trả vốn vay trước hạn. Và do vậy, ngân
hàng sẽ bị ứ đọng vốn, không thu được tiền lãi trong khi vẫn phải chi trả chi phí sử
dụng nguồn vốn này.
+ Có thể khách hàng trả lãi vay, vốn vay trễ hạn đe dọa làm vỡ kế hoạch sử
dụng vốn này vào các dự án kinh doanh khác. Ngân hàng phải thay đổi kế hoạch kinh
doanh, dĩ nhiên hoặc phải trả thêm chi phí sử dụng vốn, hoặc làm giảm các khoản thu
nhập của ngân hàng.
+ Có thể khách hàng không thanh toán đầy đủ cả vốn vay và lãi vay. Trong
trường hợp này ngân hàng vừa không nhận được khoản thu nhập mà lẽ ra họ phải được

nhận, lại vừa có thể bị mất vốn kinh doanh.
Rủi ro lãi suất: thể hiện rủi ro tiềm tàng của một ngân hàng do các biến động
của lãi suất. Rủi ro lãi suất có thể có một số hình thức khác nhau như rủi ro xác định
lại lãi suất, rủi ro do đường cong lãi suất thay đổi, rủi ro do tương quan lãi suất, và rủi
ro quyền chọn đi kèm
Rủi ro thanh khoản: rủi ro do không có đủ tiền đáp ứng mọi nghĩa vụ liên
quan đến việc chi trả hoặc phát tiền ra. Khi ngân hàng không đảm bảo các khoản chi
trả tiền mặt, nhu cầu thanh toán với ngân hàng khác, thỏa mãn các nhu cầu hợp lý về
tín dụng thì lòng tin của khách hàng với ngân hàng bị giảm sút, khách hàng ngại quan
hệ với ngân hàng. Khi việc mất lòng tin xảy ra thường xuyên thì nguốn vốn huy động


thu hẹp lại, không tìm được khách hàng tin cậy để cho vay, uy tín ngân hàng bị giảm
sút, hạn chế khả năng sinh lợi nhuận của ngân hàng.
Rủi ro ngoại hối: phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn, về loại tiền tệ của
các khoản ngoại hối nắm giữ, và vì thế làm cho ngân hàng có thể gánh chịu thua lỗ khi
tỷ giá ngoại hối biến động.
Rủi ro thị trường: rủi ro mà do sự biến động của thị trường theo hướng bất lợi
cho ngân hàng. Rủi ro thị trường là nguyên nhân gây ra các thiệt hại chủ yếu về thu
nhập, và là tác nhân kích thích khách hàng có các phản ứng bất lợi cho ngân hàng.
Rủi ro về giá cả: đây là rủi ro về việc giá trị các tài sản của một ngân hàngcó
thể biến động. Rủi ro này xuất hiện trong tất cả các chủng loại tài sản, từ bất động sản
đến cổ phiếu và trái phiếu…Có thể là do sự biến động về lãi suất trên thị trường. Khi
có sự biến động về lãi suất hoặc một mặt sẽ gây bất lợi cho tài sản Nợ,mặt khác sẽ có
lợi cho tài sản Có, hoặc ngược lại; Có thể là do sự biến động giá cảcác loại chứng
khoán Ngân hàng đang nắm giữ, hoặc sẽ mua bán theo các hợp đồng mua bán chứng
khoán.
Rủi ro về chi trả: rủi ro xảy ra khi có sự biến động về tình hình kinh tế - xã hội,
chính trị, hoặc có khi do những thông tin bất lợi đối với uy tín của Ngân hàng,
ngườidân ồ ạt đổ xô đi rút tiền ra khỏi Ngân hàng làm Ngân hàng mất khả năng thanh

toán trầm trọng dẫn tới phá sản, thậm chí là phá sản cả hệ thống Ngân hàng của một
quốc gia.
Rủi ro hoạt động: bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà
một ngân hàng điều hành các hoạt động của mình. Ví dụ như: việc cấu trúc hạn mức
không phù hợp trong lĩnh vực kinh doanh nguồn vốn, quản trị kém các quy trình quản
lý tín dụng, cán bộ tham ô, thiếu các kế hoạch khôi phục kinh doanh trong trường hợp
xảy ra thảm họa…
Rủi ro pháp lý: thường tác động đến các ngân hàng theo hai cách. Thứ nhất,
các khách hàng và những người khác vì lý do đồn đại nào đó về chính sách có thể khởi
kiện ngân hàng. Thứ hai, khi các thu xếp pháp lý của một ngân hàng, ví dụ: các hợp
đồng cho vay và tài sản đảm bảo tiêu chuẩn của ngân hàng đó không được đáp ứng,
hoặc Nhà nước thay đổi đột ngột chính sách vĩ mô về cơ cấu kinh tế, lĩnh vực ưu
tiên…


Rủi ro chiến lược: phát sinh từ các thay đổi trong môi trường hoạt động của
ngân hàng trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến
lượccũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân ngân hàng. Ví dụ: việc
xâmnhập vào môi trường mới mà thiếu sự nghiên cứu đầy đủ và thiếu các nguồn lực
cần thiết để khai thác thị trường này…
Rủi ro uy tín: là rủi ro dư luận đánh giá xấu về ngân hàng, gây khó khăn
nghiêm trọng cho ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ
ngân hàng.
Ngoài những rủi ro chính trên đây, các nhà quản trị ngân hàng còn quan tâm
đến một số rủi ro khác như: Rủi ro lạm phát, rủi ro quốc gia và các rủi ro khác.
Tuy nhiên, trong đề tài này, chúng ta sẽ nghiên cứu về rủi ro tín dụng, một loại
rủi ro đặc trưng trong ngân hàng thương mại.
1.2.

Rủi ro tín dụng

Trong nền kinh tế thị trường, cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của

ngân hàng. Rủi ro trong ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào các danh mục
tín dụng. Đây là rủi ro lớn nhất và thường xuyên xảy ra. Khi ngân hàng rơi vào trạng
thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động
tín dụng của ngân hàng.
1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng
Theo quy định trong Quyết định số 493/2005/QĐ – NHNN ngày 22/04/2005
của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, “rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng là
khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam
kết”.
Rủi ro tín dụng là rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của ngân hàng,
biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả không đúng hạn
cho ngân hàng. Như vậy có thể nói rằng rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối
quan hệ mà trong đó ngân hàng là chủ nợ, mà khách nợ lại không thực hiện hoặc
không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Đây là loại rủi ro gắn liền
với hoạt động tín dụng ngân hàng.
1.2.2. Đặc điểm rủi ro tín dụng


Về mặt định lượng: rủi ro tín dụng được phản ánh bởi chính số lượng nợ quá
hạn, nợ đọng của mỗi tổ chức tín dụng.
Về mặt định tính: rủi ro tín dụng có quan hệ ngược chiều với chất lượng tín
dụng. Theo đó chất lượng tín dụng càng cao thì mức độ rủi ro càng thấp và ngược lại,
chất lượng tín dụng thấp, nợ quá hạn cao thì rủi ro tín dụng là rất lớn và có tác động
ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh ngân hàng.
1.2.3. Phân loại rủi ro tín dụng
 Nếu căn cứ vào nguyên nhân phát sinh rủi ro, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau:


Rủi ro tín

Rủi ro

Rủi
ro lựa

Rủ
i ro bảo

Rủi ro danh

Rủ

Rủ

i ro
i ro nội
Hình 1.1: phân loại rủi ro tín dụng

Rủ
i ro tập

Theo sơ đồ trên, rủi ro tín dụng được chia thành hai loại là rủi ro giao
dịch(transaction risk) và rủi ro danh mục (Portfolio risk):
- Rủi ro giao dịch: Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân
phátsinh là do những hạn chế trong quá trình giao dịch và xét duyệt cho vay, đánh
giákhách hàng. Rủi ro giao dịch có ba bộ phận:
+ Rủi ro lựa chọn là rủi ro liên quan đến quá trình đánh giá phân tích tíndụng,

khi ngân hàng lựa chọn phương án vay vốn có hiệu quả để ra quyết định cho vay
+ Rủi ro bảo đảm phát sinh từ các tiêu chuẩn đảm bảo như các điều khoản trong
hợp đồng cho vay, các loại tài sản đảm bảo, chủ thể đảm bảo, cách thức đảm bảo và
mức cho vay trên trị giá của tài sản đảm bảo.


+ Rủi ro nghiệp vụ là rủi ro liên quan đến công tác quản lý khoản vay và hoạt
động cho vay, bao gồm cả việc sử dụng hệ thống xếp hạng rủi ro và kỹ thuật xử lý các
khoản cho vay có vấn đề.
- Rủi ro danh mục: Là một hình thức của rủi ro tín dụng mà nguyên nhân phát
sinh là do những hạn chế trong quản lý danh mục cho vay của Ngân hàng, được phân
chia thành hai loại: Rủi ro nội tại (Intrinsic) và rủi ro tập trung (Concentration risk).
+ Rủi ro nội tại xuất phát từ các yếu tố, các đặc điểm riêng có, mang tính riêng
biệt bên trong của mỗi chủ thể đi vay hoặc ngành, lĩnh vực kinh tế. Nó xuất phát từ đặc
điểm hoạt động hoặc đặc điểm sử dụng vốn của khách hàng vay vốn.
+ Rủi ro tập trung là trường hợp ngân hàng tập trung vốn cho vay quá nhiều đối
với một số khách hàng, cho vay quá nhiều doanh nghiệp hoạt động trong cùng một
ngành, lĩnh vực kinh tế; hoặc trong cùng một vùng địa lý nhất định; hoặc cùng một
loại hình cho vay có rủi ro cao.
 Nếu căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng, rủi ro tín dụng được phân chia
thành các loại sau:
- Rủi ro không hoàn trả nợ đúng hạn (rủi ro đọng vốn): Khi thiết lập mối
quan hệ tín dụng, ngân hàng và khách hàng phải quy ước về khoảng thời gian hoàn trả
nợ vay. Tuy nhiên đến thời hạn mà ngân hàng vẫn chưa thu hồi được vốn vay, những
tổn thất xảy ra trong trường hợp này người ta gọi đó là rủi ro không hoàn trả nợ đúng
hạn.
-Rủi ro do không có khả năng trả nợ: là rủi ro xảy ra trong trường hợp doanh
nghiệp đi vay đã mất khả năng chi trả. Do vậy ngân hàng phải thanh lý tài sản của
doanh nghiệp để thu nợ.
1.2.4. Nguyên nhân

Có 4 nguyên nhân cơ bản gây nên rủi ro tín dụng: nguyên nhân khách quan từ
bên ngoài (từ phía nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà Nước), nguyên nhân chủ
quan từ phía NHTM, nguyên nhân từ phía khách hàng và nguyên nhân từ các đảm bảo
tín dụng tạo nên.
 Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà Nước:
- Xuất phát từ hệ thống thông tin:


Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu hướng
phát triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính và phi tài
chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục vụ
cho việc xếp loại khách hàng vay. Nguyên nhân này cụ thể như sau:
+ Hệ thống thông tin của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập, Việt Nam
chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ.
+ Vai trò kết nối các NHTM của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn lỏng
lẻo, chưa đạt được kết quả như mong muốn.
Đây chính là thách thức cho các NHTM Việt Nam trong việc mở rộng và kiểm
soát hoạt động tín dụng. Nếu các NHTM cố gắng mở rộng tín dụng trong điều kiện
môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu.
- Xuất phát từ hệ thống văn bản luật:
Qua nghiên cứu, phân tích, đồng thời, đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong
thực tế hoạt động của các NHTM cho thấy vẫn còn những “lỗ hổng” khá nguy hiểm,
cụ thể là:
+ Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi phối của
khá nhiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính
chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh.
+ Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, các quy định
về đất đai, nhà ở…Ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ
trên thị trường của các khách hàng, dẫn đến việc hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ,
thua lỗ.

- Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra:
Hiện nay, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh tra,
kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả:
+ Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một
số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt kịp thời.
+ Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi
mới, hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng
ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm.
- Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan:


Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng của
các NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận: quản lý doanh nghiệp
còn lỏng lẻo, công chứng tài sản đảm bảo sai pháp luật…
- Xuất phát từ môi trường kinh tế không ổn định:
Trong điều kiện kinh tế mở cửa, sự biến động quá nhanh và khó có thể dự đoán
được trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng đến
chất lượng các khoản cấp tín dụng của các NHTM. Nhiều hình thức và phương tiện,
những biến động lớn về kinh tế chính trị trên thế giới có ảnh hưởng đến các quan hệ
kinh tế đối ngoại của một nước mà biểu hiện là cán cân thanh toán, tỷ giá hối
đoái…biến động đến sự biến động của giá cả hang hóa xuất nhập khẩu, lãi suất, mức
cầu tiền tệ…

Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM:
- Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng:
+ Cán bộ tín dụng vi phạm đạo đức kinh doanh. Đạo đức của cán bộ tín dụng là
một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một
cán bộ hạn chế về năng lực có thể được bồi dưỡng, nhưng một cán bộ chưa đạt được
chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp cần thiết mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy
hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng.

+ Cán bộ tín dụng không tuân thủ chính sách tín dụng, không chấp hành
đúngquy trình cho vay.Định giá tài sản không đảm bảo, không chính xác hoặc không
thực hiện đầy đủ thủ tục pháp lý cần thiết. Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình
độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công
việc.
- Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy
trình tín dụng chưa nghiêm túc:
+ Chính sách tín dụng không hợp lý, quá nhấn mạnh vào lợi nhuận ngân hàng
nên khi cho vay quá chú trọng về lợi tức.Hiện nay, chính sách tín dụng của các NHTM
phần lớn đều chưa đạt tầm chiến lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn
bị cuốn theo phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích.


+ Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa học, phù
hợp thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng.
+ Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói cách khác
chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường.
+ Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập.
+ Mô hình thích hợp cho việc lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng để từ đó
xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng
cũng như để trích lập dự phòng rủi ro hầu như chưa được các NHTM đầu tư xây dựng.
+ Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều
NHTM vẫn chưa thật sự tách biệt.
+ Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, do sự cạnh tranh
của các ngân hàng mong muốn có tỷ trọng cho vay nhiều hơn các ngân hàng
khác,trong quá trình vận dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ
thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, nên nảy sinh nhiều sai phạm: về điều kiện vay
vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về việc kiểm tra, quản lý nợ vay…
- Xuất phát từ công tác thẩm định:
+ Hiện nay, công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính

và chủ quan của các cán bộ nghiệp vụ, như dựa vào các quan hệ trong quá khứ: khách
hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới
quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với
khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được.
+ Công việc đánh giá khách hàng chỉ được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân
tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp.
+ Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định sẽ phải tiến hành thẩm định các khía
cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự
án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông tin như của Việt
Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định.
- Xuất phát từ tài sản đảm bảo:
+ Quản trị danh mục tài sản đảm bảo (TSĐB) là yêu cầu cần thiết trong công
tác quản lý rủi ro tín dụng, và là mắt xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi
nợ, xử lý các khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc giám sát, quản lý, đánh giá, phân


loại, dự báo, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được làm thường xuyên, chưa có
tính hệ thống mà chỉ dừng ở mức kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá
trị.
+ Trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ đồng, các NHTM mới
thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá, còn lại đa số việc định giá đều do
các bên thỏa thuận, và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được định giá còn mang tính
chủ quan và thiếu tính khoa học.
+ Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các
NHTM sử dụng một cách thích hợp. Việc định giá tài sản đảm bảo là bất động sản, cổ
phiếu đều do cán bộ tín dụng tự định giá theo giá thị trườngmà chưa có một bộ phận
chuyên định giá tài sản trước khi cho vay để lường trước những biến động thị trường
để dự báo mức giá trong tương lai. Nên khi thị trường bất động sản, chứng khoán sôi
động giá trị thế chấp cũng được định giá tăng theo giá thị trường, cán bộ tín dụng định
giá lại theo yêu cầu của khách hàng để tăng thêm hạn mức vay cho khách hàng, nhưng

khi thị trường bất động sản đóng băng, thị trường chứngkhoán giảm sút trầm trọng dẫn
đến việc cho vay có tài sản đảm bảo theo qui định không được vượt quá 70% giá trị tài
sản đảm bảo nay bị vi phạm trong khi trước đây thì dư sức đảm bảo.
+ Tâm lý của cán bộ tín dụng (CBTD) hiện nay chủ yếu dựa vào TSBĐ để cho
vay nên sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác
được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi
ro, khách hàng không uy tín.
+ Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn
đốc, kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương tiện
bị tai nạn, việc trục vớt, sửa chữa phải bỏ thêm rất nhiều vốn, gây khó khăn lâu dài về
khả năng thanh toán khoản nợ vay…
+ Cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, chịu sự điều chỉnh, chi phối
của nhiều văn bản luật, dưới luật chồng chéo nhau, đặc biệt đối với TSBĐ là bất động sản.
+ Cuối cùng là các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây
cản trở không ít cho các NHTM như: gặp khó khăn trước khi bán đấu giá tài sản; các
NHTM chưa có thực quyền trong việc bán, quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền
tiếp quản; xử lý tài sản mất nhiều thời gian, thủ tục còn quá nhiều kẻ hở….


- Xuất phát từ thông tin tín dụng:
+ Các NHTM hiện nay chưa nhận được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin
từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê…
+ Bản thân các NHTM đôi khi cũng lệ thuộc khá nhiều vào các số liệu của
khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông tin.
+ Việc thu thập thông tin của mỗi ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về
môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản luật mới được ban
hàng…Chưa được thực hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống.
- Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ:
Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ, tuy nhiên, ở một số
ngân hàng, bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng thiếu

nhân sự, cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn kinh nghiệm
nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp thời nhằm chấn
chỉnh và tư vấn cho ban điều hành về những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.
 Nguyên nhân từ phía khách hàng:
Nguyên nhân từ phía người đi vay là một trong những nguyên nhân chính gây
ra rủi ro tín dụng cho ngân hàng. Nhìn chung các nguyên nhân này ngân hàng có thể
xác định được thông qua quá trình tìm hiểu, nắm vững “tình hình sức khỏecủa khách
hàng” cả trước, trong và sau khi cho vay, tìm hiểu mục đích sử dụng tiềnvay và hiệu
quả của phương án sản xuất kinh doanh.
- Đối với khách hàng là doanh nghiệp:
Trong hoạt động kinh doanh, ngoài nguồn vốn tự có của mình, các doanh
nghiệp luôn phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài, đó là vốn vay các NHTM. Rủi ro
tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do:
+ Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng không được thực hiện đúng. Đa số
các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều có các phương án kinh doanh cụ thể, khả
thi. Số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để
chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề,
liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác.
+ Công tác quản lý, điều hành của một số các doanh nghiệp chưa thật sự hiệu quả.
Khi các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng để mở rộng quy mô kinh doanh, đa phần là


tập trung vốn đầu tư vào tài sản vật chất chứ ít doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới
cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo
đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh phình ra quá to so với tư duy quản lý là nguyên
nhân dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải
thành công trên thực tế.
+ Tình hình tài chính của hầu hết các doanh nghiệp thiếu sự minh bạch, trung
thực, chưa đáp ứng yêu cầu. Quy mô tài sản, nguồn vốn nhỏ bé, tỷ lệ nợ so với vốn tự
có cao là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Ngoài ra, thói quen

ghi chép đầy đủ, chính xác, rõ ràng các sổ sách kế toán vẫn chưa được các doanh
nghiệp tuân thủ nghiêm chỉnh và trung thực. Do vậy, sổ sách kế toán mà các doanh
nghiệp cung cấp cho ngân hàng nhiều khi chỉ mang tính hình thức hơn là thực chất.
Khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số
liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là
nguyên nhân vì sao ngân hàng vẫn luôn xem năng phần tài sản thế chấp là chỗ dựa
cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng.
+ Việc xây dựng và triển khai các phương án, dự án đầu tư sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp không khoa học, việc dự toán chi phí và xác định mức sản lượng
không phù hợp. Các thiệt hại doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị
trường cung cấp, thị trường tiêu thụ.
+ Khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ và
chính xác cho ngân hàng để phục vụ cho việc cấp tín dụng. Một bộ phận khách hàng
không có thiện chí trong việc trả nợ.
+ Khách hàng không thật sự nỗ lực trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả.
Công nghệ, quy trình sản xuất không tạo ra được những sản phẩm mang tính cạnh
tranh.
+ Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường
kinh tế - xã hội...
Tóm lại, hoạt động tín dụng của Ngân hàng luôn chứa đựng tiềm ẩn rủi ro,
nguồn phát sinh có thể do tác động thiên tai, cơ chế chính sách, sự biến động kinh tế
chính trị hay do sự yếu kém của Doanh nghiệp về năng lực quản lý, khả năng tài
chính, thậm chí là sự lừa gạt của Doanh nghiệp... và chính sự yếu kém của bản thân
Ngân hàng trong việc sàn lọc thông tin, chọn lọc Khách hàng và công tác theo dõi,


kiểm soát khoản vay. Những rủi ro này hoàn toàn có thể kiểm soát được bằng một cơ
chế và chính sách QTRR thích hợp.
- Đối với khách hàng là cá nhân:
Mặc dù quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng là cá nhân thủ tục đơn

giản hơn nhiều so với khách hàng là doanh nghiệp, song thực tế số lượng khách hàng
cá nhân lại rất lớn nên việc tìm hiểu các nguyên nhân từ phía khách hàng cá nhân có ý
nghĩa rất quan trọng.
Với khách hàng cá nhân, nguyên nhân rủi ro có thể là:
+ Hoạt động kinh doanh không gặp thuận lợi, khả năng quản lý tình hình tài
chính yếu kém.
+ Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất việc,
chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động.
+ Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống, vì vậy, họ phải sử
dụng một số tiền lớn nên ảnh hưởng khả năng hoàn trả cho ngân hàng.
+ Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn sai mục
đích...
 Nguyên nhân từ các đảm bảo tín dụng
Khi thực hiện hoạt động tín dụng vay vốn tại ngân hàng, khách hàng phải có tài
sản đảm bảo (tài sản thế chấp) để cầm cố vay vốn. Có 3 yêu cầu đối với các đảm bảo
tài sản là:
- Tài sản phải dễ được định giá.
- Tài sản dễ chuyển nhượng cho ngân hàng quyền được sở hữu hợp pháp.
- Tài sản dễ tiêu thụ hay thuận tiện trong giao dịch tiêu thụ trên thị trường.
Tuy nhiên, do sự biến động của nền kinh tế, giá trị tài sản đảm bảo có thể thay
đổi theo chiều hướng bất lợi hoặc có lợi phụ thuộc vào đặc tính của tài sản và thị
trường giao dịch các tài sản đó, làm cho tài sản có thể lên giá hoặc xuống giá.
Nguyên nhân xảy ra rủi ro có thể là:
- Tài sản đảm bảo mất giá:tài sản có thể có giá trị cao tại thời điểm định giá,
nhưng sau thời gian vay vốn có thể bị mất giá do sự biến động của nền kinh tế, do các
tác động như thiên tai, hạn hán làm cho tài sản mất giá hoặc không còn giá trị.


- Tài sản đảm bảo không thể chuyển nhượng: một số trường hợp khách hàng
vay vốn đã thế chấp tài sản không thuộc sở hữu của người có nghĩa vụ và cũng không

thuộc sở hữu của người thứ ba, những tài sản không chính chủ hay tài sản bất động sản
nằm trong kế hoạch quy hoạch của nhà nước chưa được công bố chính thức tại thời
điểm cầm cố, làm cho tài sản không thể chuyển nhượng khi ngân hàng tiến hành thanh
lý.
- Tài sản đảm bảo không được chấp nhận trên thị trường hiện tại tùy thuộc vào
thị trường giao dịch tài sản tại thời điểm thanh lý tài sản.
 Nguyên nhân khác:
Sự biến động quá nhanh, và khó có thể dự đoán được trên các mặt kinh tế,
chính trị, xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cấp tín
dụng của các NHTM. Biểu hiện rõ nét nhất là tình hình biến động giá cả các mặt hàng
mà các NHTM đang đầu tư, hoặc các cơ chế, chính sách thương mại,...
Bên cạnh đó, quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác
động không nhỏ đến hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Với môi trường hội nhập,
các khách hàng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, nguy cơ thua lỗ
là điều có thể xảy ra.
Cuối cùng là do sự ổn định của nền kinh tế nước ta khi chính sách quản lý kinh
tế vẫn có những thay đổi đột ngột, hành lang pháp lý chưa thật sự an toàn, điều chỉnh
quy hoạch các ngành, các vùng chưa phù hợp…
Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân từ các
nguyên nhân khách quan do nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà nước đến các
nguyên nhân chủ quan của chính bản thân các NHTM, và các nguyên nhân từ phía
khách hàng vay vốn, từ các đảm bảo tín dụng... Do đó, các ngân hàng cần tìm hiểu kỹ
những nguyên nhân này nhằm có những biện pháp quản trị rủi ro phù hợp.
1.2.5. Tác động
Khi RRTD xảy ra sẽ làm ảnh hưởng xấu đến rất nhiều chủ thể. Đầu tiên là bản
thân các ngân hàng và khách hàng đi vay, sau đó là tác động đến cả nền kinh tế.
 Hậu quả của rủi ro tín dụng đối với ngân hàng
Việc không thu hồi được nợ (gốc, lãi và các khoản phí) làm cho nguồn vốn của
các NHTM bị thất thoát, trong khi đó, các ngân hàng này vẫn phải chi trả tiền lãi cho



×