Tải bản đầy đủ (.pptx) (39 trang)

Bài tập lớn mỹ học kiến trúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5 MB, 39 trang )

Bài Tập Kết thúc

Mỹ Học Kiến Trúc
Gvhd:
Svth: nguyễn thùy dương – 218215
Nguyễn Thị Hồng – 2108757
TRần Thị Hạnh – 2122557
phạm văn vinh – 2189957


Kiến Trúc là khoa học cũng là nghệ thuật xây dựng và trang hoàng nhà cửa công
trình, tức tổ chức không gian sống. Kiến trúc được xem là một lĩnh vực hoạt động sáng
tạo chủ yếu cùa con người từ khi có xã hội loài người…, nhằm cải tạo thiên nhiên hoặc
kiến tạo đổi mới mòi trường sống, phục vụ tốt các quá trình hoạt dộng của con người và
xã hội. Mục đích của kiến trúc chính là kiến tạo một “thiên nhiên thứ hai” có tổ chức bên
cạnh “thiên nhiên thứ nhất” hoang dã và tự nhiên, nhưng chi dược công nhận là kiến trúc
các “không gian – hình khối” có tác động của bàn tay con người, nhằm thoả mãn các rpục
đích vừa vật chát vừa tinh thần, nghĩa là phủi có mục đích thực dụng, trẽn nguyên tắc hợp
lý khoa học và tinh thần của cái đẹp, phù hợp quy luật sáng tạo thẩm mỹ.
Nói đến tác phẩm kiến trúc không thể chỉ hiểu là một ngôi nhà, một công trình đơn lẻ mà
còn có thể là một tập hợp nhiều công trình, một tổng thể, một quần thể gồm có nhiều dạng
hình khối và không gian nội, ngoại thất (không gian trong nhà và không gian ngoài nhà),
như kiến trúc một khu phố, một quảng trường, một công viên, một thị trấn hay cả một đô
thị.
_Có bốn yếu tố để tạo thành kiến trúc: yếu tố công năng (sử dụng tiện nghi),yếu tố bền
vững (sự hoàn thiện kỹ thuật ,điều kiện vật liệu kết cấu, kỹ thuật xây dựng , môi trường) và
hình tượng kiến trúc (yêu cầu biểu cảm thẩm mỹ) , yếu tố kinh tế ( tính thực dụng ).


1. Yếu tố công năng



I- Đặc điểm :

Yếu tố công năng chính là mục đích thực dụng, yêu cầu tiện ích hay sự thích nghi bao đám cho quá trình
sống, khai thác sử dụng công trình kiến trúc thuận tiện thoải mái và có hiệu quà cao. Nhà ở có công năng tất
nhiên không giống trường học, nhà hát cũng khác xa nhà thi đấu, cửa hàng siêu thị có công năng gần giống
trung tâm thương mại nhưng không được tương tự với công năng một nhà ga, một bệnh viện v.v…
Theo định nghĩa thì các công trình kiến trúc thỏa mãn 2 yêu cầu cơ bản công
năng và thẫm mỹ, xuất phát từ công năng phục vụ cho mục đích người sử dụng thì
mới xuất hiện kiến trúc, công năng được thể hiện ở mục đích sử dụng của con người
và dây chuyền sử dụng
• Ví dụ 1: Công năng nhà ở
- Mục đích sử dụng : nghỉ ngơi, sinh hoạt gia đình, tái tạo sức lao
động…
- Dây chuyền sử dụng
* Dây chuyền sử dụng là các trình tự các thao tác hoạt động, các sinh hoạt, các
công việc được bố trí một cách khoa học, hợp lý và phù hợp với tâm sinh lý của người
sử dung.


Vd:

nhà ở gia đình
Tiền phòng ( Hiên )
P.Ngủ
p.khách

Kho
B.ăn


WC

Sơ đồ công năng của nhà hiện đại


• Ví dụ 2: Cửa hàng bách hóa
- Mục đích sử dụng : Là nơi giao dịch buôn bán, trao đổi hàng hóa...
- Dây chuyền sử dụng: Có 2 luồng người sử dụng chủ yếu là khách mua
và nhân viên bán
: Dây chuyền cửa hàng
+ Khách → gửi tư trang → chọn lựa → tính tiền giao dịch
+ Nhân viên → thay quần áo
→ giao
dịch
WC


Bảo đảm thỏa mãn yêu cầu sử dụng tiện nghi cho một công trình là đáp ứng được
những nhu cầu thực tế do chức năng của công trình đề ra. Yêu cầu công năng tùy từng loại
công trình cụ thể có khác nhau :
- Nhà ở là phòng ở phải thỏa mãn diện tích tối thiểu, phải sáng sủa, thoáng
mát . .. Không gian bên trong thuận tiện cho việc bày biện, phải đủ phương tiện vệ sinh, điện ,nước,
đường đi lại, tạo cho cuộc sống của con người ở được yên tĩnh đầy đủ, thoải mái.
- Nhà hát, rạp chiếu bóng đảm bảo cho người xem ra vào chỗ ngồi nhanh chóng,
thưởng thức âm thanh hình ảnh với chất lượng cao, trong tư thế ngồi thỏa mãi...
Yêu cầu thích dụng thay đổi trong từng giai đoạn hoàn cảnh lịch sử, không ngừng
phát triển theo sự phát triển của cơ sở vật chất và tinh thần của xã hội.
Để đảm bảo yếu tố công năng thiết kế cần chú ý :
- Chọn hình thức - kích thước các phòng theo đặc điểm và yêu cầu sử dụng của
chúng, bố trí sắp xếp các phòng chặt chẽ, hợp lí.

- Bố trí các thiết bị bên trong như máy móc, đồ đạc và các thiết bị kỹ thuật như ánh
sáng, thông hơi, cấp nhiệt, điện, vệ sinh một cách khoa học, thuận tiện cho quá trình sử
dụng.
- Giải quyết hợp lí cầu thang, hành lang và các phương tiện giao thông khác.
- Tổ chức cửa đi, cửa sổ, các kết cấu bao che hợp lí để khắc phục các ảnh hưởng
không tốt của điều kiện khí hậu thiện nhiên như cách nhiệt, thông thoáng, che mưa, nắng,
chống ồn...


II- Ý nghĩa :
Chính yếu tố công năng đã làm cho hình thức,
diện mạo bên ngoài cũng như cách xử lý tổ chức
không gian bên trong từng loại hình kiến trúc, hay
nói cách khác, ngôn ngữ kiến trúc không
nên giống nhau. Một kiến trúc sư muốn thiết kế
tốt cần tìm hiểu nắm bắt đầy đủ các yêu cầu đặc
thù của công năng loại hình công trình đang thiết
kế để công trình đảm bảo yêu cầu sử dụng.


2. Yếu tố thẫm mỹ
I- Đặc điểm
Kiến trúc cũng như các tác phẩm nghệ thuật
khác, phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản
nhất của mỹ học là thống nhất và biến hóa. Ngoài
việc chú trọng tới các chi tiết hình thức mặt đứng
công trình thì cũng cần chú trọng tới yếu tố về
tổng thể để tạo nên được một phong cách kiến
trúc hài hòa nhất định.



•Một số nhận định trong ‘ Thẫm Mỹ ‘ kiến trúc


Thẩm mỹ trong cuộc sống con người
thẩm mỹ có ngoại diên rất rộng, phản ánh cái chung vốn có trong tự nhiên, xã hội, vật

chất và tinh thần. Trong quá trình hoạt động lao động của thực tiễn xã hội với sự tham gia
tích cực của ý thức, con người cải tạo hiện thực và thế giới chung quanh mình. C.Mác viết:
"Súc vật chỉ nhào nặn ra thước đo và nhu cầu của giống loài của nó, còn con người thì có
thể sản xuất theo thước đo của bất cứ giống nào và ở đâu có thể áp dụng thước đo thích
dụng cho mọi đối tượng, do đó con người cũng có thể nhào nặn vật chất theo quy luật của
cái đẹp (C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, 1977, tr. 17).
các yếu tố thẩm mỹ không thể thiếu trong mọi dạng hoạt động thực tiễn của con người.
Trong giao tiếp các yếu tố thẩm mỹ được biểu lộ qua giao tiếp. Nhờ giao tiếp con người có
thể củng cố và tăng cường thông tin được truyền đi mặt khác con người có được sự thỏa
mãn thấm mỹ bởi bản thân quá trình giao tiếp. Trong sản xuất, các yếu tố thẩm mỹ được biểu
lộ như một nguyên tắc nhất thiết phải tính đến khi xây dựng những giá trị vật chất từ diện
mạo, màu sắc, hình dáng, chất liệu của vật phẩm, thậm chí cả mối tương quan giữa các bộ
phận của vật phẩm được sản xuất. Tất nhiên, điều quyết định vẫn không loại trừ ý nghĩa sử
dụng những vật phẩm nhàm đáp ứng một mục đích thực tế nhất định.
Xét một cách toàn diện, có thể nói các yếu tố thẩm mỹ không thể tách rời được quá trình
hoạt động của con người, nó vừa là kết quả của hoạt động thực tiễn nhận thức, phương thức
nhận thức, phương tiện phản ánh thế giới vừa tác động trở lại nâng cao cuộc sống con
người. Nói như M. Kalinin: "... kể từ việc rửa mặt cho đến đỉnh cao nhất của tư tưởng loài
người" (M. Kalinin, 1947, tr. 43). Như vậy, trong phạm vi thiên nhiên thứ hai, tức các sản
phẩm (vật chất - tinh thần) được con người tạo nên được xem như là kết quả của hoạt động
thẩm mỹ và là sự thể hiện ý đồ thẩm mỹ trong quá trình sáng tạo.



 Thẩm

mỹ kiến trúc gắn liền với các loại hình nghệ thuật

Khi đi tìm những bước đầu tiên của kiến trúc, có lẽ trước hết chúng ta thường liên tưởng đến những câu
chuyện mang dấu vết của cái hang, cái lều, cái nhà, thành lũy... Những hình thức đó đáp ứng nhu cầu thiết thực của
đời sống hàng ngày: nơi cư ngụ, sinh hoạt và mọi hoạt động của đời sống định cư. Khi ấy, những trụ bằng đá, một
bức tường thẳng, những xà đặt thành góc vuông và một cái mái tạo thành một không gian khép kín có thể đáp ứng
tính hợp lý cho nhu cầu cư ngụ. Nêu một cách khái quát như trên, chúng ta nhận thấy con người cần một nơi cư ngụ
nhầm thỏa mãn nhu cầu định cư. Nhưng con người trong toàn bộ đời sống của mình luôn hướng tới các mối quan hệ
tổng hòa các quan hệ xã hội, trong đó nhu cầu làm đẹp cho một kiến trúc trở thành một nhu cầu tự thân. Do đó, ngôi
nhà (hiểu theo nghĩa rộng tức kiến trúc) như là phương tiện để thực hiện mục đích này. Và để đáp ứng cho mục đích
vươn tới cái đẹp, con người đã sử dụng các yếu tố thẩm mỹ cho kiến trúc (tạo hình, cân đối, đều đặn, hài hòa, sử
dụng tiện ích...). Vậy là con người tìm cách thực hiện cái xà như một đoạn thẳng có khởi đầu và kết thúc, thanh dọc
(cột) chống cái xà khởi đầu trên mặt đất và kết thúc ở trên cao, và cũng nơi đó, cái xà là một đường ngang đặt trên
nó... Bản thân các yếu tố tạo hình gắn chặt với các yếu tố kết cấu của một kiến trúc, các yếu tố kết cấu đòi hỏi đường
thẳng của những bức tường, cột trụ cũng đều dài như nhau, khoảng cách phân chia cũng đều ngang nhau. Đó chính là
lúc cái thẩm mỹ gắn vào các kiểu thức tạo hình của kiến trúc và làm đẹp cho nó.




Thẩm mỹ kiến trúc có nguồn gốc từ đặc điểm hình
thành đô thị

Đô thị là một hình thức cư trú và làm ăn của con người có từ xa xưa. Ở Châu Âu
thời Trung cổ, nơi ở của các lãnh chúa phong kiến được xây dựng thành lũy pháo đài.
Bên ngoài thành lũy, những người thợ thủ công, buôn bán đến tụ cư hoạt động sinh
sống gọi là phố. Về sau, mỗi tụ điểm "thành" và "phố" dần phát triển lên trở thành những
thành phố. Như vậy thành phố ra đời là do phát triển kinh tế công thương nghiệp.

Ở Châu Á, cũng đã xuất hiện các đô thị riêng của nó, một trong số đó là đô thị thương
nghiệp nông nghiệp. Loại đô thị này được hình thành khi con đường biển tạo ra mối
quan hệ giữa các quốc gia ven biển. Gọi là các đô thị thương nghiệp bởi ở đó chỉ diễn
ra hoạt động mua bán, dịch vụ, trao đổi hàng hóa và mang lại nguồn thu cho cư dân và
chính quyền của các quốc gia này. Do đó, các đô thị thương nghiệp thường nằm ở cửa
sông, cửa biển để tiện việc giao thông, giao tiếp, trao đổi, bốc dỡ hàng hóa... ở Đông
Nam Á, nhiều đô thị của các quốc gia ven biển đã trở thành đô thị thương nghiệp một
thời phồn thịnh như Dvaravati (một Vương quốc cổ Nam Thái Lan), Phù Nam Óc Eo
(vương quốc và là thành phố cổ ở Nam Việt Nam), Champa (ở miền Trung Việt Nam).
Khi con đường buôn bán chuyển sang hướng khác thì sự phồn vinh của các đô thị này
cũng tàn lụitheo... (Nguyễn Tấn Đắc, 1998, tr. 67).


Ở nước ta phần lớn các đô thị Việt Nam khi xưa tuy được hình thành do hoạt động hành chính nhưng cũng đều có
nguồn gốc từ một xã hội nông nghiệp chữ không phải do hoạt động công thương nghiệp. Khởi nguyên, triều đình
đầu tư xây dựng cung điện, dinh thự, chuyển bộ máy quan lại, binh lính đến ở và kéo theo gia đình, họ hàng thân
tộc, làng xóm cùng đến. Nơi nhà vua đóng đô có xây thành lũy gọi là đô (hoặc thành), do yêu cầu về mọi mặt phục
vụ bộ máy hành chính và quân đội nên ở ngoài thành hình thành các chợ (thị) để mua bán, trao đổi, đô thị bắt đầu
từ đó. Tương tự, các đô thị Hà Nội, Huế trong từng giai đoạn lịch sử với vị trí là kinh đô Việt Nam (hoặc một số các
đô thị khác), nhưng vẫn là một đô thị hành chính mang tính chất tự cấp, tự túc của nền sản xuất nông nghiệp. Một
đô thị đóng kín.
Sài Gòn trước kia vốn là một đô thị được hình thành không theohường trên, mà nguồn gốc của nó là một đô thị
thương nghiệp của nông nghiệp. Với vị trí địa lý nằm trong vùng chuyển tiếp giữa Đông Nam bộ và đồng bàng sông
Cửu Long trù phú, điều kiện giao thông (thủy, bộ) thuận lợi, những nông dân từ buổi đầu khai hoang, mở đất đã
biến các sản phẩm nông nghiệp thành hàng hóa thương nghiệp cho các quốc gia khác trong vùng. Từ đó, hoạt
động mua bán nơi đây trở thành hoạt động chủ yếu, và Sài Gòn nhanh chóng trở thành đô thị thương nghiệp của
nông nghiệp. Sau ngày thống nhất đất nước, Sài Gòn mang tên Thành phố Hồ Chí Minh trở thành một đô thị lớn,
một đô thị với nhiều ưu thế so với các đô thị khác trong cả nước (đội ngũ khoa học kỹ thuật, nhiều ngành công
nghiệp cao, sản phẩm sản xuất chiếm tỷ trọng lớn...). Thành phố Hồ Chí Minh được xem như là "đầu mối giao
thông lớn, nối liền với các tỉnh trong vùng và là cửa ngõ của cả nước ra thế giới" (Viện Kinh tế, 2005, tr.1-15 ).





Thẩm mỹ kiến trúc nhà ở trong quá trình đô thị hóa

Từ khi đất nước bước sang thời kỳ mới, thực hiện chính sách mở cửa, cơ chế thị trường đã thúc đẩy nền
sản xuất của đất nước phát triển mạnh mẽ và ngày càng mở rộng trên quy mô cả nước. Cùng với sự tác động
mạnh mẽ của quá trình hội nhập và giao lưu quốc tế, quá trình đô thị hóa đã làm thay đổi nhiều mặt của cộng
đồng xã hội. Sự thay đổi này, diễn ra theo chiều hướng thuận nghịch khác nhau của nền kinh tế nhiều thành
phần, trong đó một bộ phận không nhỏ lao động nông thôn ra thành thị, kéo theo sự gia tăng dân số ở các đô
thị (cả về mặt cơ học và tự nhiên), nhất là các đô thị lớn.
Riêng ở Thành phố Hồ Chí Minh, cùng với quá trình đô thị hóa, dân số của Thành phố cũng tăng rất
nhanh, chủ yếu là người nhập cư. Theosố liệu tổng điều tra dân số, dân số Thành phố là 6,12 triệu người,
trong đó có 1,8 triệu người nhập cư. ước tính bình quân mỗi năm có từ 40.000 đến 60.000 người di dân về
thành phố. Sự thay đổi về dân số kéo theo các đô thị mới được hình thành. Nhiều vùng ven nội thành (Tân
Bình, Gò Vấp, Bình Thạnh...) và ngoại thành là khu vực có quỹ đất dành cho sự phát triển, mở rộng đô thị
cũng dần trở thành những đô thị mới (Nam Sài Gòn, Bắc Nhà Bè, Tây Bấc Củ Chi...) như một xu thế tất yếu
để giải quyết nhà ở cho quá trình đô thị hóa của thành phố.
Dân số tăng cao, đô thị mở rộng, nhu cầu về xây dựng các công trình sản xuất, dịch vụ nhất là nhà ở đã
làm cho diện mạo đô thị thay đổi từng ngày, từng giờ, mà bất cứ nhà sáng tạo nào cũng hụt hơi trước tốc độ
xây dựng gần như chóng mặt của quá trình đô thị hóa. Thành phố trở thành một công trường xây dựng khổng
lồ, các khu đô thị hiện hữu xuống cấp cần sửa chữa, các khu đô thị mới cần được hoàn thành để đáp ứng yêu
cầu cho sự phát triển. Cùng với sự phát triển thương mại, dịch vụ, kiểu cư trú theo các trục lộ giao thông
(đường thủy, đường bộ) trở nên thịnh hành. Tình hình trên đã dẫn đến sự bất cập trong kiểm soát quy hoạch
kiến trúc làm cho không gian đô thị trở nên vụn mảnh, chắp vá, hỗn loạn bởi đường ngang, nét dọc. Bức
tranh đô thị trở nên hỗn độn như một bảng pallete lấm màu, hệ quả là thẩm mỹ của kiến trúc đô thị bị phá vở
kéo theo những bất cập về môi trường văn hóa xã hội.



• Ta có thể lấy ví dụ từ đầu đường Phan Đăng Lưu (Bình Thạnh) đến cầu Thị Nghè, nhà cửa hai bên cao thấp với nhiều hình thù kỳ lạ Tam giác
có, hình thang có, nhiều căn mỏng như hộp diêm, thậm chí có nhiều nhà chiều ngang 2m, chiều sâu khoảng... 1m (!). Về kiểu dáng thì hỗn độn
các "trường phái", cổ có, kim có, không ít những căn có hình động như cái thang cao vút, phần mặt tiền 4m, phần mặt hậu 1m (?). Đã vậy, hai
bên đường hầu hết đều là cửa hàng, cửa hiệu trang trí với nhiều bảng hiệu, bảng quảng cáo có kích cỡ to nhỏ, màu sắc sặc so với hình thức
thể hiện khác nhau. Vị trí lắp đặt cũng hết sức "đa dạng", ngang có, dọc có trên cao có, dưới thấp có, mỗi một hình thức đều cố gắng tranh
giành "vị trí" phô trương một cách vô tội vạ.
Một ví dụ khác, rất nhiều kiểu dáng kiến trúc lai tạp đến mức khó có thể dùng từ nào trong ngôn ngữ để diễn tả đầy đủ. Nhiều phong cách trang
trí "kinh điển" độc đáo của nghệ thuật kiến trúc cùng "sốngchung" trong một kiến trúc, các trường phái cổ điển - hiện đại cùng song hành đã
làm cho bộ mặt rất nhiều khu đô thị lâm vào cảnh ngộ "không giống ai". Thật vậy, ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, không ít kiến trúc mang
trong nó cả lịch sử kiến trúc nhân loại. Phía trước là kiểu cột dorique, bên hông là gothique... cửa vòm, cửa vuông phối hợp hết sức tùy tiện. Tệ
hại hơn là các yếu tố tạo hình của kiến trúc được chiều theo ý thích của cá nhân nhiều hơn là đặt nó trong tổng thể không gian đô thị. Bởi vậy,
nhiều kiến trúc mang kiểu dáng "chết non" vừa xây xong đã thấy lỗi thời cần phải sửa hoặc lâm vào cảnh ngộ như đã nêu...
Thực trạng nêu trên cho thấy, dường như các yếu tố thẩm mỹ kiến trúc không được xem trọng ngay từ khâu quy hoạch đô thị (?) Bởi nếu coi
cơ sở của quy hoạch gắn liền với thẩm mỹ thì kiến trúc nhà ở đô thị không dị hợm như hiện nay. Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình hình
trên nhưng dù với bất cứ lý do nào, thì các yếu tố thẩm mỹ kiến trúc đô thị đã bị xem nhẹ.




Thẩm mỹ kiến trúc các công trình công cộng

Có lẽ vấn đề công trình công cộng ở các đô thị lớn hiện nay là một vấn đề hết sức nhạy
cảm, bởi tiềm năng kinh tế về mặt bằng đất đai, vị trí kinh doanh, giao thông thuận lợi... Chính
từ những khía cạnh này, mà không ít nhà quản lý đô thị hiện nay nhìn nhận kiến trúc công cộng
dưới góc độ cái có ích nhiều hơn là nhìn nó ở góc độ thẩm mỹ trong tổng thể không gian đô thị.
Ta cũng biết, cả hai thành tố liên hệ tác động lẫn nhau tạo ra kiểu kiến trúc cư trú đô thị là:
thành tố không gian - vật chất bao gồm không gian quy hoạch, kiến trúc, cơ sở hạ tầng, môi
trường sinh thái và thành tố văn hóa - xã hội (bao gồm trước hết là đặc điểm hình thành đô thị,
tổ chức cộng đồng dân cư với những thiết chế đô thị được xây dựng hiện tại). Đặt cả hai thành
tố trên với thực tiễn kiến trúc công cộng xem ra đều đối diện với những khó khăn gay gắt mà

chưa có lời giải thỏa đáng. Chẳng hạn giải pháp lập lại trật tự vỉa hè trong thời gian gần đây là
một ví dụ.
Thành phố Hồ Chí Minh, một đô thị được hình thành từ hoạt động thương nghiệp (như đã
trình bày), bởi vậy, kiến trúc nhà ở hai bên đường thường có chức năng kép: mua bán (hoặc
dịch vụ) và cư trú nên kiểu kiến trúc cũng đáp ứng yêu cầu này. Nhà thì cửa rộng, có không
gian phía trước dành cho việc giao dịch, mua bán, chứa hàng (hoặc phía sau). Phần còn lại
dành cho việc cư trú, hầu như không có chỗ đậu xe riêng. Tất cả điều đó đồng nghĩa với mọi
sinh hoạt mưu sinh diễn ra khắp nơi. Vì vậy, vỉa hè như một không gian trung chuyển chức
năng thứ nhất (mua bán). Người bán tiếp nhận và chuyển hàng hóa vào nhà thông qua vỉa hè,
người mua cần một nơi để dừng lại mua rồi di chuyển...


Lớn hơn nữa, các sinh hoạt này vốn đã hình thành và thẩm thấu trong cộng đồng cư dân qua thời gian, không gian
quen thuộc. Trong đó, vỉa hè tồn tại và mang vác tất cả những sinh hoạt, cách sống, lối sống đã được địn h hình từ
kiểu đô thị thương nghiệp nông nghiệp có từ bao đời. Do vậy, vỉa hè tồn tại không chỉ có mục đích duy nhất là giao
thông mà còn là phương tiện kiếm sống của cộng đồng người.
Nếu trong quá trình lao động những giá trị thẩm mỹ được hình thành, thì trong một chừng mực, vỉa hè gắn liền với
việc sử dụng và "tiêu dùng " các giá trị đó. Tất nhiên, việc "tiêu dùng" các giá trị thẩm mỹ theo kiểu nào đó còn phụ
thuộc vào trình độ, nội dung kiểu mẫu thẩm mỹ cũng như hình thức do xã hội đặt ra, trong đó có những trường hợp
bắt nguồn từ truyền thống hoặc được nảy sinh bởi nền sản xuất và các yêu cầu thẩm mỹ hiện tại.
Thực tế, không gian vỉa hè tồn tại trong bối cảnh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn đang ở những bước khởi
điểm thì những hoạt động vốn có của nó cần thời gian chuyển đổi hơn là xóa bỏ một cách nhanh chóng. Bởi vậy,
không ít những dằng co, tranh cãi giữa cư dân với những người thực thi công việc quản lý đô thị diễn ra hằng ngày,
như một minh chứng về sự mâu thuẫn giữa quan điểm của người quản lý với cư dân ở cách xét đoán chức năng
của nó. Kết quả là "trật tự mỹ quan" như mong muốn không mất đi, mà tất cả những điều đó như những dòng nước
tràn xuống lòng đường với nguyên sự bề bộn của nó.
Có thể quan niệm vỉa hè (hay các kiến trúc công cộng khác) chỉ còn một công năng duy nhất (giao thông, ca nhạc,
hội chợ...) còn nhiều khía cạnh để bàn. ở đây, nhìn ở góc độ thẩm mỹ kiến trúc có thể thấy rằng "mâu thuẫn" không
phù hợp với đặc điểm của nó, bởi trong một kiến trúc không bao giờ là sự ức chế, mâu thuẫn giữa cái có ích và cái
thẩm mỹ.

Thẩm mỹ không phải là những gì bất biến và khép kín, nó là hệ thống mở luôn dung nạp, tiếp nhận thêm nhân tố
mới để làm giàu và phong phú thêm cuộc sống của con người. Thẩm mỹ trong kiến trúc đô thị không bao giờ đóng
kín và cũng không bao giờ mang tính toàn cầu. Có lẽ vấn đề thẩm mỹ kiến trúc công trình công cộng ở đô thị không
thể xem nhẹ các yếu tố "di sản" vốn đã định hình từ cội nguồn xa xưa của nó. Mỗi đô thị được hình thành đều có "di
sản " sâu xa, nó là nhân tố đặc biệt để tạo nên bản sắc riêng của đô thị nói chung và kiến trúc nói riêng. Nghĩa là
khi tái cấu trúc phải tìm ra cái gì cần lưu giữ, cái gì không giữ được, cái gì cần phát triển... Nếu chỉ nhấn mạnh đến
quy luật chung mà không chú ý đến tính đặc thù, bản sắc riêng của mỗi đô thị sẽ dẫn đến những áp đặt, duy ý chí...
Cho nên sự thay đổi kiến trúc đô thị phù hợp với xu thế phát triển là điều cần thiết, nhưng những yếu tố truyền
thống của đô thị cũng cần phải được đặt ra trong quá trình phát triển của nó.




Thẩm mỹ của quá trình quy hoạch đô thị

Đô thị hóa là một trào lưu không thể cưỡng lại, chính vì vậy việc đón đầu bằng quy hoạch
là việc làm không thể thiếu của bất cứ nhà quản lý đô thị nào. Quy hoạch là chiến lược, là định
hướng, cách quy hoạchtheo kiểu "giải quyết" đáp ứng yêu cầu trước mất như hiện nay đã đẩy
các yếu tố thẩm mỹ và quy hoạch đô thị vào tình cảnh rượt đuổi lẫn nhau, thậm chí triệt tiêu
nhau.
Kiến trúc luôn gắn liền với thẩm mỹ đô thị, trong đó quy hoạch đô thị luôn phải đi trước
nhằm đảm bảo các điều kiện về không gian, cảnh quan, môi trường kể cả nội dung kiến trúc
phải cần phù hợp với từng vị trí để duy trì không gian văn hóa đô thị, chứ không phải là phân
địa bàn quán lý, xây dựng một số cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phân chia lô cho từng căn nhà rồi
gọi đó là quy hoạch.
Một khi không tạo ra được cái tiện ích thì khó có thể nói tới cái thẩm mỹ. Quy hoạch đô thị
chỉ có thể thành công nếu như nó mang lại cái "thẩm mỹ" hòa hợp với tất cả các hoạt động
khác. Bởi vậy, quy hoạch đô thị không thể chỉ có một ngành mà nó cần sự phối hợp của nhiều
người, nhiều ngành, thậm chí có những ngành không có liên quan gì đến kiến trúc đô thị như
sử học, khảo cổ học, dân tộc học, thống kê... Mở một con đường phải biết nơi lịch sử nó đi

qua, đặc điểm của môi trường dân cư (đã, đang và sẽ sinh sống), thậm chí cần phải biết cả
những vấn đề ở dưới lòng đất... Nói một cách chung nhất, các yếu tố thẩm mỹ là nền tảng cho
mọi chiến lược quy hoạch và kiến trúc đô thị. Không nắm vững nó, không hiểu nó các yếu tố
thẩm mỹ đô thị sẽ bị phá hủy và các chính sách quản lý cũng sẽ bị triệt tiêu.


Ngày nay, trên thế giới nhất là các quốc gia có nền kinh tế phát triển, thẩm mỹ kiến trúc trong đô thị có thể xem là vấn đề không thể thiếu của
bất cứ một kiến trúc đô thị nào. Sự hình thành và phát triển đô thị ở nước ta hiện nay tuy có những đặc điểm riêng (miền núi, đồng bằng...)
nhưng không có sự khác biệt quá lớn về văn hóa, lối sống cộng đồng (tôn giáo, dân tộc...). Đây cũng là một lợi thế hết sức quan trọng để
thiết lập các dạng kiến trúc đô thị vừa mang đặc trưng riêng vừa gắn kết với các yếu tố chung của nền văn hóa dân tộc. Tất nhiên, trong
chiến lược phát triển không thể bỏ quy luật chung, phù hợp với xu thế phát triển của thời đại. Cái quan trọng là những giải pháp ấy phải bất
đầu từ thực tế để định ra những hình thức, bước đi, biện pháp phù hợp với mỗi vùng, mỗi địa phương, mỗi đô thị.
Xã hội càng phát triển, nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao, thì vai trò thẩm mỹ kiến trúc ở đô thị không thể chỉ là quảng cáo,
bandrole, cờ hoa... mà nó gắn liền với các hoạt động sống của đô thị với hai khía cạnh: kinh tế và văn hóa. Nói một cách khác, thẩm mỹ
trong kiến trúc đô thị có những giá trị thuộc về vật chất (nhà cửa, cơ sở hạ tầng) có những giá trị thuộc tinh thần (lối sống, cách ăn mặc, mưu
sinh... ). Như vậy, quan niệm về các yếu tố thẩm mỹ trong kiến trúc đô thị là một quan niệm mang tính tổng quát, nó gắn liền với sự phát triển
xã hội như là một hệ thống toàn vẹn, trong đó mỗi yếu tố luôn thích ứng với nhau và thúc đẩy toàn bộ cuộc sống đô thị đi lên.


Xét trên nguyên tắc, trong kiến trúc đẹp là cái có ích, một kiến trúc đẹp là một kiến trúc thuận tiện, tương ứng với
chức năng của nó. Những tồn tại trong kiến trúc đô thị được đặt ra chính là những bất cập giữa cái thẩm mỹ và cái
có ích. Vì thế, thẩm mỹ của kiến trúc tự nó cũng gắn liền với cái có ích, đồng thời sự thống nhất cụ thể các mặt có
ích và thẩm mỹ của các công trình kiến trúc cho phép tạo nên đặc trưng không gian đô thị. Lịch sử đã chứng minh
quá trình tiến triển của xã hội loài người, từ kiến trúc nguyên thủy đến hiện đại, mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ có những
đặc điểm riêng biệt. Mặc dầu từng bước xu hướng kỹ thuật mới hình thành, kiến trúc cũng thay đổi với nhiều kiểu
dáng phong phú, các giải pháp mang tính kỹ thuật cao, nhưng khát vọng vươn tới cái "đẹp của con người thì không
thay đổi.
Vấn để thẩm mỹ trong kiến trúc đô thị sẽ còn là vấn đề rất hấp dẫn, nhiều công trình nghiên cứu cho đến ngày nay
đều thống nhất các yếu tố thẩm mỹ luôn gắn liền với kiến trúc đô thị như là một thực thể không tách rời. Ai cũng có
thể đồng ý rằng, cái đẹp ở kiến trúc không chỉ là những hình khối vươn cao, trải rộng, lại càng không phải là một hệ

thống các khối hình được phủ màu, mà nó phản ánh diện mạo của một nền văn minh, rộng hơn là một nền văn
hóa. Và có lẽ, vai trò của các yếu tố thẩm mỹ trong kiến trúc đô thị luôn là hiện thân giá trị cái đẹp.


Tổ hợp kiến trúc một ngôi nhà ở, phong cách một ngôi nhà ở
được xác định bởi bố cục mặt bằng, công năng của nhà ở, giải
pháp kết cấu, vật liệu xây dựng của ngôi nhà đó. Chính vì vậy mà
người ta nói việc phát triển nhà ở phải cùng với hoàn thiện không
ngừng tổ chức bên trong căn nhà ở.
Những phương tiện chính để tổ hợp mặt đứng nhà ở là: các
nhóm cửa sổ, ban công, logia và cầu thang.
Kích thước cửa sổ phòng ở phụ thuộc vào yêu cầu chiếu sáng,
giải pháp kết cấu và nội thất nhà ở. Ngày nay do tiến bộ của khoa
học kỹ thuật mà đã có nhiều những giải pháp cho kết cấu cũng
như thi công công trình và đặc biệt là sự ra đời của nhiều loại vật
liệu mới thông minh đã làm cho các hình thức cửa sổ không còn
chỉ đơn thuần là phục vụ yêu cầu chiếu sáng nữa mà nó mang
yếu tố về thẩm mỹ nhiều hơn (có thể ngắn, dài, vượt nhịp thậm
chí toàn bộ đều là kính…)
Ban công và logia cộng với cây xanh trang trí sẽ làm kiến trúc
nhà ở thêm đẹp và tươi mát. Đối với logia sân, nếu ở vào vị trí
thích hợp sẽ trở thành những phòng khách xanh rất tiện lợi,
ngoài hiệu quả của bong đổ cũng làm tăng thêm vẻ đẹp của ngôi
nhà. Khi thiết kế ban công và logia cũng cần chú ý tới hình thức
của lan can để làm tăng thêm hiệu quả về mặt thẩm mỹ.


Việc kết hợp cửa sổ, ban công, logia hay cầu thang… chỉ có thể xử lý một cách có quy
luật mới nâng cao được chất lượng mỹ quan của ngôi nhà. Muốn đạt được hiệu quả thống
nhất và biến hóa phải có phương tiện biểu hiện, đó là những quy luật về xử lý không gian

kiến trúc, xử lý mặt đứng gọi là tổ hợp kiến trúc, cụ thể là:


Quy luật về tương phản, vi biến.

Tương phản là sự đối chọi lẫn nhau một cách rõ nét nhất, còn vi biến
chính là sự gần giống nhau của một yếu tố nào đó. Những điều này thường
xuất hiện một cách có chủ đích để tạo nên được một hình thái kiến trúc riêng
biệt.




Quy luật về vần luật và nhịp điệu.

Tính vần luật và nhịp điệu trong nghệ thuật tạo hình cũng như trong một
số ngành nghệ thuật khác được hình thành từ một số hiện tượng và quy luật
thay đổi trong thiên nhiên (sự thay đổi bốn mùa xuân, hạ, thu, đông trong một
năm hay quy luật ngày đêm) tính vần luật và nhịp điệu không chỉ thấy trong
âm nhạc, ca múa mà còn cả trong kiến trúc. Có thể hiểu một cách đơn giản
đó là sự lặp lại một hoặc nhiều yếu tố một cách có chủ đích theo mức độ
khác nhau để tạo hiệu quả cao về mặt thẩm mỹ.




Quy luật về chủ yếu và thứ yếu có trọng điểm.

Cũng như trong các môn nghệ thuật khác, kiến trúc luôn có các yếu tố
chính phụ, những chi tiết cần được nhấn mạnh nổi bật để làm yếu tố chính

và các chi tiết cần phải mờ đi làm nền cho các yếu tố chính… trong nhà ở thì
lối vào chính hay còn gọi là sảnh chính thường phải được nhấn mạnh bằng
các họa tiết hay mầu sắc vật liệu tinh tế nhất định.




Quy luật về liên hệ và phân cách.

Là việc liên hệ và phân cách giữa các bộ phận của nhà ở, giữa không
gian bên trong và bên ngoài. Ví dụ ta có thể dung tam cấp, bồn hoa hay
mảng sân vườn… để không gian trong và ngoài thêm gắn bó với nhau.




Quy luật về tỷ lệ.

Không cứ gì trong kiến trúc mà bất cứ một cái đẹp nào cũng luôn phải
tuân thủ quy luật về tỷ lệ. cũng như trên khuôn mặt một con người, tỷ lệ giữa
mắt, mũi, miệng… luôn phải hài hòa mới được gọi là đẹp, là hoàn hảo. Kiến
trúc cũng vậy, tỷ lệ giữa những ban công, logia, cửa sổ hay các chi tiết trang
trí trên một mặt đứng luôn phải thống nhất theo một tỷ lệ nhất định mới đạt
được yếu tố về mặt thẩm mỹ.


×