Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Ôn tập lớp TCCT Những vấn đề về Đảng cộng sản và lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.3 KB, 23 trang )

Vấn đề 1:
+ Kế thừa những cống hiến vĩ đại của Mác và Ănghen về Đảng cộng sản, Lênin hoàn
thiện lý luận và thông qua hoạt động thực tiển đúc kết 8 nguyên lý về Đảng kiểu mới
của giai cấp công nhân?
+ Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản thể hiện qua những luận điểm nào?
+ Tại ĐH 10 (2006), Đảng ta đã bổ sung vào kho tàng lý luận CN Mác – Lê nin những
nguyên tắc nào?
a. Những đặc trưng cơ bản về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân:
Nội dung 8 nguyên tắc:
1. Chủ nghĩa Mác là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hoạt động của chính Đảng
cộng sản.
- Học thuyết của Mác là học thuyết vạn năng chính xác;
- Là một học thuyết hoàn mỹ và chặt chẽ, cung cấp cho mọi người một thế giới quan hoàn
chỉnh;
- Kế thừa tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người tạo ra đầu thế kỷ 19: Triết học Đức,
Kinh tế chính trị Anh, Chủ nghĩa xã hội Pháp.
2. Đảng cộng sản là đội tiên phong chính trị có tổ chức và là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ
nhất, cách mạng nhất và giáp ngộ nhất của giai cấp công nhân.
Đảng là đội tiên phong chính trị, là đội ngũ có tổ chức chặt chẽ nhất, có giác ngộ nhất
của giai cấp công nhân, là người định hướng chính trị, người giáo dục động viên tổ chức
quản lý hành động cách mạng.
- Về tư cách người đảng viên phải có giáp ngộ lý lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, có trình độ lý
luận chính trị nhất định về chủ nghĩa Mác - Lê nin, nắm được đường lối của Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
- Đảng là của giai cấp chứ không phải toàn bộ giai cấp. Đảng chỉ thu hút vào đội ngũ cũa của
mình những người giác ngộ nhất có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động.
3. Khi có chính quyền, Đảng là hạt nhân lãnh đạo chính trị của chủ nghĩa xã hội và là bộ
phận của hệ thống đó.
- Đảng là đội tiên phong giác ngộ, có tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp, do đó trong hệ
thống chính trị XÃ HỘICN chỉ có Đảng mới đủ phẩm chất chính trị và năng lực xứng đáng


là người lãnh đạo.
- Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội thành công.
4. Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động
của đảng.
- Đây là nguyên tắc tổ chức cao nhất.
- Thực hiện dân chủ là nhằm phát huy cao nhất trí tuệ và mọi khả năng sáng tạo của những
chiến sỹ tiên phong trong đảng.
- Coi nhẹ dân chủ là phá hoại tính tập thể trong lãnh đạo, dẫn đến tình trạng tập trung,
chuyên quyền độc đoán .
- Tập trung là quyền lực tập thể giao cho người lãnh đạo để thực hiện ý chí của đa số.
- Le nin nói: “Chúng tôi luôn luôn bảo vệ dân chủ trong nội bộ Đảng. Nhưng chúng tôi
không bao giờ phản đối chế độ tập trung của Đảng. Chúng tôi chủ trương chế độ tập trung
1
1


dân chủ của Đảng”.
5. Đảng là một khối thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức; tự phê bình và phê bình là
quy luật phát triển của Đảng.
- Đoàn kết thống nhất trong đảng bắt nguồn từ bản chất của giai cấp công nhân, muốn đưa
cách mạng đến thắng lợi, đảng phải có sự thống nhất về ý chí, chặt chẽ tuyệt đối.
- Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng để nâng cao trí tuệ, phát huy và giải quyết
những mâu thuẫn trong đảng, phải có tính đảng tíng nguyên tắc cao.
- Lê nin đã khẳng định: Nếu 1 chính đảng nào không dám nói thật bệnh tật của mình ra,
không dám chuẩn đoán bệnh 1 cách thẳng tay và tìm phương cứu chữa bệnh đó thì Đảng đó
sẽ không xứng đáng được người ta tôn trọng.
6. Đảng gắn bó chặt chẽ với nhân dân, kiên quyết đấu tranh để ngăn ngừa và khắc phục bệnh
quan liêu xa rời nhân dân.
7. Đảng phải tích cực kết nạp những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân và nhân dân lao

động vào Đảng và kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn và những phần tử cơ hội ra
khỏi Đảng.
- Le nin dạy rằng: Chúng ta cần những Đảng viên mới, không phải để quảng cáo mà để làm
việc thực sự. Những người đó, chúng ta kêu gọi họ vào hàng ngũ của Đảng ta. Chúng ta mở
rộng cửa Đảng để đón những người lao động.
8. Tính quốc tế của Đảng cộng sản, chủ ngĩa quốc tế của giai cấp công nhân là bản chất của
Đảng cộng sản.
- Chủ nghĩa quốc tế không phải là lời nói suông, không phải là lời tỏ tình đoàn kết, không
phải là nghị quyết mà là hành động.
* Trong 8 nguyên tắc đó:
- Nguyên tắc bảo đảm sự sống còn của Đảng: Nguyên tắc 1, 4, 5, 6, 7
Ví dụ:
+ Nguyên tắc 6: Đảng liên hệ mật thiết với quần chúng nhân dân, đảng với dân như cá với
nước, đảng sống trong lòng nhân dân, trong kháng chiến chống Mỹ, Ngô Đình Diệm đã từng
thực hiện phương châm tát nước bắt cá.
Đảng xa dân thì hách dịch cựa quyền, dân không có đảng thì không có người chỉ huy.
+ Nguyên tắc tổ chức cơ bản của Đảng: Nguyên tắc 4: Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ
bản trong xây dựng tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của đảng.
Nếu đảng xa rời nguyên tắc Tập trung dân chủ thì sẽ bị tiêu diệt, Tập trung dân chủ về
mặt đường lối, hành động là tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, địa phương phục tùng trung
ương, cấp dưới phục tùng cấp trên.
b. Tư tưởng của Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản thể hiện qua những luận điểm nào?
1. Đảng cộng sản là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng;
2. Đảng cộng sản Việt Nam là kết quả của sự kết hợp của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, phong
trào công nhân và phong trào yêu nước.
3. Đảng cộng sản Việt Nam là Đảng của giai cấp công nhân, đồng thời là đảng của dân tộc
Việt Nam.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Đảng ta là đảng của giai cấp công nhân, đồng thời cũng là
của dân tộc, không riêng tư, không thiên vị”
4. Đảng cộng sản Việt Nam phải được xây dựng theo các nguyên lí Đảng kiểu mới của giai

cấp công nhân.
- Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát thành những nguyên lí chủ yếu của cách mạng Việt
2

2


Nam:
+ Tập trung dân chủ;
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách;
+ Tự phê và phê bình;
+ Kỷ luật, nghiêm túc và tự giác;
+ Đoàn kết, thống nhất trong Đảng;
+ Đức và tài, quan hệ giữa đức và tài của người cán bộ;
+ Liên hệ mật thiết với nhân dân;
+ Xây dựng chi bộ đảng bộ cơ sở và đội ngũ đảng viên;
+ Lề lối, phong cách làm việc.
5. Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
6. Đảng cộng sản Việt Nam phải thường xuyên chăm lo xây dựng và chỉnh đốn Đảng
- Theo Bác, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là 2 vấn đề quan hệ biện chứng, phải trên cơ sở
xây dựng Đảng để chỉnh đốn Đảng và ngược lại.
c. Đại hội 10 bổ sung thêm 4 nguyên tắc:
(1). Tự phê bình và phê bình (sữa đổi)
(2). Đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng (sữa đổi)
(3). Gắn bó mật thiết với nhân dân (bổ sung)
(4). Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. (bổ sung)

3

3



Vấn đề 2:
+ Quá trình tìm đường cứu nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đối với chủ nghĩa Mác
– Lênin từ 1911 đến 1920 và những cống hiến của Người về chính trị để chuẩn bị thành
lập chính Đảng đầu tiên ở Việt Nam.
+ Theo đồng chí, cuối năm 1929 đầu năm 1930, lịch sử Đảng bộ Quảng Trị có những
vấn đề gì nổi bật.
* Nhận xét về phong trào yêu nước của nhân dân ta đầu TK 20:
Ngày 1.9.1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta. Đến năm 1884 với việc ký
hiệp ước Patơnốt, triều đình nhà Nguyễn đã đầu hàng và câu kết với thực dân Pháp thống trị
nhân dân Việt Nam. Xã hội Việt Nam trở thành xã hội thuộc địa nữa phong kiến. Mâu thuẫn
dân tộc giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giai cấp giữa nhân dân lao
động chủ yếu là nhân dân lao động với chế độ phong kiến ngày càng phát triển gay gắt.
Quá trình khai thác bốc lột thuộc địa của thực dân Pháp trên các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, quân sự, văn hóa, giáo dực đã làm biến đổi tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam. Những
biến đổi bên trong đã tạo cơ sở xã hội cho việc tiếp thu những tư tưởng mới ở bên ngoài: tư
tưởng cách mạng tư sản Pháp (1789), phong trào Duy Tân - nhật bản (1868), cuộc vận động
duy tân (1898) và cách mạng tân hợi của Trung Quốc (1911), cách mạng tháng 10 Nga
(1917). Bối cảnh đó đã làm bùng nổ các khuynh hướng cứu nước đầu thế kỉ 20.
Ngay từ khi thực dân P xâm lược, mặc dù triểu đình nhà Nguyễn từng bước đầu hàng
thực dân Pháp, nhưng nhân dân ta đã liên tiếp nổi dậy cầm vũ khí chống bọn cướp nước.
Phong trào Cần vương (1885-1896) với những cuộc đấu tranh vũ trang tiêu biểu do các sĩ
phu phong kiến yêu nước lãnh đạo, cũng như phong trào nông dân yên thế do Hoàng Hoa
Thám lãnh đạo (1884-1913), thể hiện tinh thần bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta
những năm cuối TK 19 đầu TK 20, nhưng cuối cùng các cuộc khởi nghĩa đều bị thực dân
Pháp đàn áp.
Thất bại của phong trào Cần Vương chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng phong kiến
trong việc giải quyết nhiệm vụ dành độc lập dân tộc do lịch sử đặt ra. Vua Thành Thái nêu
cao tinh thần chống Pháp bị thực dân Pháp bắt đi đày (1907), vua Duy Tân tiến hành khởi

nghiã năm 1916 cũng bị đàn áp. Đó là những cố gắng cuối cùng của phong trào yêu nước
theo ý thức hệ phong kiến.
Vào đầu tk 20 trước sự ảnh hưởng của các khuynh hướng cứu nước ở các nước Châu á,
ở Việt Nam xuất hiện 2 xu hướng cứu nước theo phong trào dân chủ tư sản:
Xu hướng bạo động của Phan Bội CHâu: chủ trương xây dựng chế độ quân chủ lập
hiến như ở Nhật (1904), sau khi thất bại năm 1912 với tổ chức Việt Nam quang phục hội,
chủ trương xây dựng 1 chế độ cộng hòa tư sản như Trung Quốc, nhưng cuối cùng “một trăm
thất bại mà không một thành công”
Xu hướng cải cách của Phan Châu Trinh: ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản Pháp, lên
án gay gắt tội ác của thực dân Pháp, quan lại phong kiến sâu mọt, chủ trương cải cách đất
nước. Sai lầm của Phan Châu Trinh là phản đối bạo động, dựa vào Pháp để đánh dổ phong
kiến, chẳng khác gì “xin giặc rủ lòng thương”
Do hạn chế về lịch sử, về giai cấp, nên các phong trào yêu nước đầu tk 20 không thể
tìm được 1 phương hướng giải quyết đúng đắn cho cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nên
cuối cùng cũng bị thực dân Pháp dập tắt.
Sau chiến tranh thế giới lần 1, phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản
phát triển mạnh. Tổ chức tiêu biểu nhất cho khuynh hướng tư sản ở Việt Nam là Việt Nam
4

4


quốc dân Đảng. Tổ chức này chủ trương đánh đuổi đế quốc, xóa bỏ chế độ phong kiến, mô
phỏng theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, nhưng chưa đưa ra được 1 đường lối
chính trị cụ thể, rỏ ràng, chưa xây dựng được 1 hệ thống tổ chức thống nhất. Do vậy khi tiến
hành khởi nghĩa cũng bị thực dân Pháp dìm trong máu lửa.
Sự thất bại của khuynh hướng yêu nước đầu tk 20 vì không có cương lĩnh, đường lối
chính trị đúng đắn nhằm giải quyết triệt để các mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam;
không tập hợp được lực lượng của toàn dân tộc; không có có phương pháp đấu tranh thích
hợp và thiếu sự lãnh đạo của 1 đảng chính trị đủ mạnh.

1 yêu cầu cấp thiết đặt ra trước dân tộc Việt Nam là cần phải lựa chọn 1 con đường cứu
nước, giải phóng dân tộc theo xu thế của thời đại và nhu cầu của nhân dân Việt Nam.
Từ nhỏ Nguyễn Ái Quốc đã có chí đuổi giặc Pháp, giải phóng đồng bào. Người rất
khâm phục tinh thần yêu nước của các bậc tiền bối, nhưng không tán thành con đường cứu
nước của các cụ. Vượt qua tầm hạn chế của những sĩ phu yêu nước đương thời, Người quyết
chí ra nước ngoài tìm con đường cứu nước mới.
* Quá trình tìm đường cứu nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đối với chủ nghĩa
Mác – Lênin từ 1911 đến 1920
Sống trong cảnh đất xâm lăng, nhân dân bị đạo đày gian khổ, ngày 05/6/1911, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, sau bao năm đi đến nhiều nước trên thế giới và
trải qua nhiều nghề lao động khác nhau. Người đã rút ra một kết luận: ở đâu bọn đế quốc
thực dân cũng tàn bạo độc ác, ở đâu người lao động cũng bị bóc lột dã man.
Cuối năm 1917, Người từ nước Anh trở lại nước Pháp và tham gia các hoạt động xã
hội. Năm 1919, Người gia nhập Đảng xã hội Pháp. Vào 6/1919, các nước thắng trận họp hội
nghị Vecxay, Nguyễn Ái Quốc đã thay mặt những người Việt Nam yêu nước ở Pháp gửi tới
hội nghị Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam, gồm 8 điểm đòi chính phủ Pháp thực hiện
quyền tự do, dân chủ, bình đẳng cho dân tộc Việt Nam. Tháng 7/1920, Người đã đọc bản sơ
thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I. Lênin
đăng trên Báo Nhân đạo của Đảng xã hội Pháp và ở đó Người đã tìm thấy con đương giải
phóng dân tộc. Cuối 12.1920, tại ĐH lần thứ 18 Đảng xã hội Pháp họp ở Tua, Người đã bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế III và tham gia sáng lập Đảng cộng sản Pháp. Sự kiện đó
đã dánh dấu bước chuyển biến tư tưởng chính trị của NGUYỄN ÁI QUỐC, từ lập trường
yêu nước chuyển sang lập trường cộng sản, đồng thời cũng đưa cách mạng VIỆT NAM
bước sang giai đoạn phát triển mới – gắn phong trào cách mạng VIỆT NAM với phong trào
Chủ nghĩa quốc tế.
Sau khi đã tìm được con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, từ năm 1921, Người
tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước đồng thời tích cực truyền bá CN
Mác - Lênin về VIỆT NAM nhằm chuẩn bị tiền đề về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho sự ra
đời của chính Đảng tiên phong ở Việt Nam.
* Những cống hiến của Người về chính trị để chuẩn bị thành lập chính Đảng đầu

tiên ở Việt Nam
Lãnh tụ NGUYỄN ÁI QUỐC đã hình thành 1 hệ thống luận điểm chính trị (sau này phát
triển thành những nôi dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng):
- Chỉ rỏ bản chất của Chủ nghĩa thực dân, xác định chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung
của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới.
- Xác định Cách mạng giải phóng dân tộc là 1 bộ phận của cách mạng vô sản thế giới.
Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và cạch mạng “chính quốc” có quan hệ
chặt chẽ với nhau, hổ trợ cho nhau nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng giải phóng
dân tộc có thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính
5
5


quốc.
- Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc
phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần
phải xây dựng khối công nông làm động lực cách mạng, đồng thời tập hợp được sự tham gia
đông đảo của các giai tầng khác.
- CÁCH MẠNG muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có Đảng cách mạng nắm
vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải được trang bị CN Mác - Lenin
- CÁCH MẠNG là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, chứ không phải của 1 vài
người. “Công nông là gốc CÁCH MẠNG; còn học trò, nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ … là
bầu bạn CÁCH MẠNG của công nông”. CÁCH MẠNG “là việc chung cả dân chúng chứ
không phải việc 1, 2 người”. Vì vậy, cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần
chúng đấu tranh từ thấp đến cao.
Hệ thống quan điểm CÁCH MẠNG đúng đắn và sáng tạo đó là nội dung tư tưởng
CÁCH MẠNG giải phóng dân tộc theo CN Mác Lênin của Người. Hệ thống quan điểm trên
được truyền vào Việt Nam nhằm chuẩn bị về tư tưởng và chính trị cho việc thành lập Đảng
Trên đây là những cống hiến quan trọng của NGUYỄN ÁI QUỐC về lý luận CÁCH
MẠNG thuộc địa, là sự chuẩn bị về chính trị cho một Đảng chân chính sắp ra đời ở Việt

Nam
Hệ thống quan điểm, lý luận về con đường CÁCH MẠNG của Nguyễn Ái Quốc trở
thành tư tưởng cách mạng hướng đạo phong trào dân tộc và các tổ chức chính trị theo
khuynh hướng CÁCH MẠNG vô sản, dẫn đến sự ra đời của các tổ chức cộng sản ở Việt
Nam: Đông Dương cộng sản Đảng (6-1929), An Nam cộng sản Đảng (7-1929) và Đông
Dương cộng sản liên đoàn (9-1929).
Yêu cầu bức thiết đặt ra lúc này là phải thống nhất các tổ chức Đảng thành một Đảng
duy nhất để lãnh đạo CÁCH MẠNG Việt Nam đấu tranh giành độc lập. Từ ngày 3 đến ngày
7/2/1930 hội nghị thống nhất Đảng đã họp tại Cửu Long (Hương Cảng), dưới sự chủ trì của
NGUYỄN ÁI QUỐC, đã nhất trí hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy
tên là Đảng cộng sản VIỆT NAM; thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt,
Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của các hội quần chúng.
Văn kiện quan trọng của Đảng được Hội nghị thông qua là “Cương Lĩnh cách mạng đầu tiên
của Đảng cộng sản VIỆT NAM”.
* Theo đồng chí, cuối năm 1929 đầu năm 1930, lịch sử Đảng bộ Quảng Trị có
những vấn đề gì nổi bật?
Cuối năm 1929 đầu năm 1930, cũng như nhiều địa phương khác trong cả nước, Quảng
Trị là nơi tập trung những mâu thuẫn gay gắt giữa nhân dân các dân tộc trong tỉnh với bè lũ
cướp nước và bán nước. Đời sống của tất cả các giai cấp, các tầng lớp vốn đã cực khổ lại
càng điêu đứng hơn bởi chính sách bóc lột dã man của thực dân Pháp và bọn phong kiến tay
sai để bù đắp cho những thiệt hại do cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới gây ra. Cả Quảng Trị
từ thành thị đến thôn quê, từ đồng bằng ven biển đến vùng rừng núi sục sôi không khí cách
mạng. Tình hình căng thẳng giống như 1 đồng cỏ khô chỉ cần có ngọn lửa cách mạng châm
ngòi là bùng lên quyết liệt.
Cuối năm 1928, phong trào vô sản hóa góp phần thúc đẩy phong trào công nhân tiến
nhanh từ giai đoạn tự phát sang giai đoạn tự giác và là biện pháp quan trọng rèn luyện những
người trí thức yêu nước và cách mạng, làm cho họ sớm nhận thức được nhu cầu bức thiết
phải cải tổ Thanh niên và lập ra 1 chính đảng của giai cấp công nhân, 1 đảng có khả năng tập
hợp, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh chống đế quốc, chống phong kiến giành độc
lập cho dân tộc, tự do dc cho nhân dân.

6

6


Đầu 5.1929, tại ĐH của tổng bộ VIỆT NAM thanh niên cách mạng đồng chí hội lần
thứ nhất họp tại Hương Cảng (TQ), Đoàn Đại biểu Bắc kỳ đã đưa ra đề nghị giải tán Thanh
niên, thành lập ĐẢNG CỘNG SẢN nhưng chỉ được thiểu số ủng hộ nên không thành.
Cùng thời điểm này, ngày 15/5/1929, Trần văn Cung đến Quảng Tri gặp Nguyễn Đình
Cương bàn về vấn đề giải tán thanh niên, thành lập nhóm cộng sản ở địa phương.
Ngày 16/5/1929, Nguyễn Đình Cương đã triệu tập số hội viên thanh niên tích cực ủng
hộ việc tổ chức cộng sản tại làng Long Hưng (Hải Lăng) để giới thiệu khái quát về CNCS và
chuyên chính vô sản, đường lối CÁCH MẠNG ở Đông Dương. Tại đây, tất cả hội viên
thanh niên có mặt nhất trí tuyên bố giải tán thanh niên, thành lập tổ chức cộng sản. Nhóm
cộng sản đầu tiên của Quảng Trị được thành lập gồm các đồng chí: Nguyễn Đình Cương,
Đoàn Lân, Trần Hữu Dực, Trịnh Đức Tân, Hoàng thị Ái, Nguyễn Đạm, Trần Ngung.
Nhóm cộng sản đầu tiên này đã đề ra phương hướng hoạt động đúng đắn, coi trọng các
công tác xã hội như mở lớp dạy chữ, vận động xóa bỏ hủ tục, vận động tiêu dùng hàng nội,
giúp đỡ dân nghèo… Thông qua Đoàn Bá Thừa, để nhóm cộng sản Quảng Trị vận động bà
Đoàn Thị Ái ở An Tiêm nuôi đồng chí Trần Hữu Dực, mở lớp dạy trẻ em học và làm nơi
liên lạc và cơ sở hoạt động của nhóm.
Ngày 19/6/1929, Nhóm cộng sản Quảng Trị được đồng chí Nguyễn Phong Sắc – Bí thư
xứ ủy lâm thời Trung kỳ đưa truyền đơn và tài liệu của Đông dương cộng sản Đảng để in và
phát rộng rải trong tỉnh và khu vực Trung kỳ, nội dung truyền đơn là vạch rõ mục tiêu
phương hướng đất tranh CÁCH MẠNG của Đông dương cộng sản Đảng. Việc rãi truyền
đơn và thư của Đông dương cộng sản Đảng đã ảnh hưởng vang dội trong tầng lớp nhân dân,
việc làm này đã làm cho bọn quan lại của chính phủ nam triều tìm mọi biện pháp đối phó,
bắt Đảng viên và Hội viên thanh niên.
Ngô Đình Diệm - Tri phủ Hải Lăng, tên phản động đội lốt tôn giáo, tên tay sai đắc lực
của thực dân Pháp đã không từ một thu đoạn để chống phá CÁCH MẠNG, hắn cho thu giử

truyền đơn, cất giấu tài liệu, bắt giam thanh niên, chỉ trong 2 tháng (7 và 8 năm 1929), toàn
tỉnh Quảng Trị bị bắt 60 người, trong đó có 39 hội viên VIỆT NAM Thanh niên CÁCH
MẠNG Đồng Chí Hội và cùng nhiều đảng viên Tân việt, hội viên của Hưng nghiệp hội xã.
Những người bị bắt bị giam ở nhà đày Lao bảo và nhà lao Quảng Trị. Trong thời gian
bị giam ở nhà lao Quảng Trị, đồng chí Trần Hửu Dực cùng một số đảng viên cộng sản, Hội
viên viên VIỆT NAM thanh niên cÁCH MẠNG Đồng Chí Hộị đã giúp đở nhau lúc ốm đau,
đối phó với kẻ địch, cùng nhau tổ chức đấu tranh chống lại chế độ hà khắc của nhà tù, đòi
cải thiện sinh hoạt trong nhà tù, tổ chức tuyệt thực 7 đến 10 ngày mỗi đợt. Cuối cùng tên ám
sát tỉnh Quảng trị đã đến trại giam tuyên bố giải quyết các yêu sách mà các đồng chí đưa ra.
Dù ở trong tù nhưng đồng chí Trần Hửu Dực vẫn vận động anh em bớt suất ăn của
mình hàng ngày để lấy tiền mua giấy mực xuất bản tờ báo tiến lên, nội dung tờ báo giới
thiệu về Đảng Cộng sản Đông dương và giải thích chủ trương của đảng bằng mọi phương
pháp để xây dựng lại cơ sở đảng tại Quảng Trị.
Tháng 11/1929, Đoàn Bá Thừa đã thành lập chi bộ An Tiêm gồm 4 đồng chí: Đoàn Bá
Thừa, Nguyễn Kháng, Nguyễn Bệc, Nguyễn thị Trúc.
Trong thời gian này, Lê Viết Lượng được đồng chí Hoàng Thị Ái cung cấp tình hình
Quảng Trị, Lê Viết Lượng đã bắt mối với Lê Thế Tiết, khi gặp nhau họ bàn cách tổ chức
thành lập các chi bộ: Tường Vân (Triệu Phong), Tân Tường (Cam Lộ), cùng với chi bộ An
tiêm, đây là ba chi bộ được thành lập sớm nhất tại Quảng trị.
Sau khi Đảng cộng sản VIỆT NAM được thành lập (03/2/1930) việc XÂY DỰNG cơ
sở Đảng, thành lập các chi bộ ở Quảng trị đã được xúc tiến mạnh mẽ hơn và đã có hàng chục
chi bộ được thành lập.
7

7


Đầu tháng 4/1930, đồng chí Trần Hửu Dực đã họp với các bí thư chi bộ ở nhà ông
Nguyễn Huyên ở làng Vệ Nghĩa để bàn bạc thống nhất vạch ra một số công việc phải làm.
Giữa tháng 4/1930, phái viên của phân khu xứ ủy Trung kỳ đến gặp đồng chí lê Thế

Tiết tại Gia đình ở làng Tường Vân bàn về việc lập Ban vận động thành lập Đảng bộ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM tỉnh Quảng Trị
Ngày 21/4/1930 Hội nghị đã được tổ chức tại nhà ông Nguyễn Phu ở làng Đại Hào
(Triệu Phong), Hội nghị đã nhất trí thành lập Ban chấp hành lâm thời của Đảng bộ ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM tỉnh Quảng Trị gồm 3 ủy viên: Lê Thế Tiết, Nguyễn Hữu Mãi,
Trần Hữu Dực, cử đồng chí Lê Thế Tiết làm Bí thư tỉnh ủy đầu tiên của Đảng bộ Quảng Trị.
Sự ra đời của các chi bộ Đảng và đặc biệt sự kiện thành lập Tỉnh ủy lâm thời vào 4
-1930 đã đáp ứng yêu cầu lãnh đạo của phong trào cách mạng tỉnh Quảng Trị.

8

8


Vấn đề 3:
+ Từ bản chất của nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ được nghiên cứu, từ
thực tiển cuộc sống, quá trình thực hiện nguyên tắc này được thể hiện như thế nào tại
địa phương đơn vị?
+ Để thực hiện tốt Tập trung dân chủ trong tổ chức hoạt động, sinh hoạt nơi tổ chức
Đảng đồng chí phải làm gì, làm như thế nào?
• Nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và
hoạt động của Đảng và nhà nước ta, nguyên tắc này đã được chỉ rỏ tại điều 9, điều lệ
ĐẢNG CỘNG SẢN Việt Nam:
“ĐẢNG CỘNG SẢN Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ. Nội dung cơ
bản của nguyên tắc đó là
1. Cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách.
2. Cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh đạo
ở mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên. Giữa hai kỳ đại hội, cơ quan lãnh đạo
của Đảng là Ban Chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là ban chấp hành đảng bộ, chi bộ (gọi tắt

là cấp uỷ).
3. Cấp uỷ các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội cùng
cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới; định kỳ thông báo tình hình hoạt động của mình đến
các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình.
4. Tổ chức đảng và đảng viên phải chấp hành nghị quyết của Đảng. Thiểu số phục tùng
đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn Đảng
phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban Chấp hành Trung ương.
5. Nghị quyết của các cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có hơn một
nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. Trước khi biểu quyết, mỗi thành viên được
phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có ý kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu và báo
cáo lên cấp uỷ cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với nghị quyết của Đảng. Cấp uỷ có thẩm
quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó; không phân biệt đối xử với đảng viên có ý kiến thuộc
về thiểu số.
6. Tổ chức đảng quyết định các vấn đề thuộc phạm vi quyền hạn của mình, song không
được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, P luật của Nhà nước và n-quyết
của cấp trên.”
Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa hiện nay việc thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những khâu then chốt để thực hiện thành công.
* Đối với của đơn vị, tình hình thực tiển tại Báo cáo chính trị của Chi bộ cơ quan đơn vị
trong Đại hội đảng nhiệm kỳ vừa rồi:
- Những việc đã làm được trong việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ ở đơn vị?
- Những việc chưa làm được trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở đơn vị?
(Chú trọng đến việc triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng khóa X: 20NQ/TW (về giai cấp công nhân), 24-NQ/TW, (về thanh niên) 25-NQ/TW (về trí thức),
26-NQ/TW (nông nghiệp, nông dân, nông thôn) trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
* Trước thực tiển đó, cần phải thực hiện tốt những giải pháp sau:
- Đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức về nguyên tắc tập trung dân chủ
cho các cán bộ đảng viên, đi đôi với phát huy dân chủ rộng rãi trong nội bộ Đảng và trong
9


9


nhân dân, nhằm khai thác và phát huy tối đa tiềm năng sáng tạo của đảng viên và quần
chúng.
- Củng cố, phát huy dân chủ, phải tăng cường kỷ luật chặt chẽ, nghiêm minh trong
Đảng, làm cơ sở để thiết lập kỷ cương, duy trì trật tự, an toàn ở địa phương.
- Tăng cường kiểm tra giám sát tổ chức đảng và đảng viên chấp hành điều lệ Đảng, chấp
hành đường lối, chính sách và thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
- Thực hiện nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, không ngừng nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy đảng. Đây là giải pháp quan trọng vừa phát huy dân
chủ, vừa tăng cường kỷ luật.
* Quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc Tập trung dân chủ cần chú ý đến 5 biện pháp sau:
+ Một là, phát huy dân chủ rộng rãi trong nội bộ đảng và trong nhân dân, nhằm khai thác và
phát huy những tiền năng sáng tạo của đảng viên và quần chúng.
- Tạo điều kiện để đảng viên và quần chúng tham gia xây dựng chủ trương nghị quyết của
đảng bộ, biện pháp phát triển sản xuất…
- Coi trọng giáo dục cho đảng viên và nhân dân về nhiệm vụ quyền hạn của mỗi đảng viên.
- Thực hiện chế độ thông tin trong nội bộ Đảng.
- Phê bình và tự phê bình, thực hiện nghiêm quy chế Dân chủ cơ sở.
+ Hai là, cùng với phát huy dân chủ phải tăng cường kỷ luật chặt chẽ nghiêm minh trong
đảng làm cơ sở thiết lập kỷ cương duy trì trật tự an toàn XÃ HỘI ở địa phương.
- Chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc chế dộ sinh hoạt đảng.
- Những hiện tượng vi phạm PHÁP LUẬT nhất thiết phải xử lý theo PHÁP LUẬT, không
bao che nhân nhượng để xử lý nội bộ.
+ Ba là, tăng cường kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành điều lệ đảng, chấp hành
đường lối, chính sách và thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Coi trong tăng cường công tác kiểm tra, đảm bỏa chủ trương nghị quyết được chấp hành,
uốn nắn sai sót trong chấp hành, hoặc bổ sung hoàn chỉnh các chủ trương nghị quyết.

+ Bốn là, thực hiện nghiêm túc nguyên tắc lãnh đạo tập thể, cá nhân phụ trách, không ngừng
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy đảng là giải pháp quan trọng để vừa
phát huy dân chủ vừa tăng cường kỷ luật.
- Tính tập thể trong sinh hoạt và hoạt động lãnh đạo là bản chất của Đảng công sản.
- Xa rời tính tập thể không tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc lãnh đạo tập thể là hạ thấp vai
trò lãnh đạo của tổ chức Đảng, về thực chất là phủ nhận vai trò lãnh đạo của đảng trên thực
tế.
- Duy trì chế độ sinh hoạt, học tập của cấp ủy, trong việc học tập đào tạo cập nhật kiến thức.
+ Năm là, giải quyết tốt mối quan hệ giữa cấp ủy với chính quyền và tổ chức khác trong hệ
thống chính trị.
- Đây là biện pháp quan trọng để thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ.
- Quy chế làm việc phải xây dựng theo hướng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ
thống chính trị thực sự bảo đảm quyền lực chính trị và hiệu lực quản lý điều hành của CQ
địa phương.
* Thực trạng chi bộ đảng của đồng chí trong quá trình vận dụng các biện pháp nêu trên:
+ Trong quá trình vận dụng các biện pháp nêu trên Chi bộ đảng đã thực hiện tương đối tốt
các nguyên tắc nêu trên :
Ví dụ: Liên hệ phần thứ 2:
- Tổ chức Đảng và đảng viên phải chấp hành nghiêm chỉnh các nguyên tắc chế độ sinh hoạt
10

10


Đảng, các chỉ thị nghị quyết của cấp trên, nghị quyết của chi bộ.
- Gương mẫu chấp hành và vận động nhân dân chấp hành nghiêm chỉnh hiến pháp, pháp luật
và chính sách của nhà nước.
- Xử lý kịp thời, nghiêm minh, chính xác các hiện tượng vi phạm kỷ luật Đảng.
- Chưa làm được:
• Một số thông tin cần phải công khai, kịp thời, đầy đủ

• Cán bộ Đảng viên ngại phê bình cấp trên.
• Công tác kiểm tra chưa được thường xuyên.
- Hướng khắc phục:
• Thường xuyên thực hiện tốt chế độ thông tin, mở rộng thông tin trong cán bộ đảng viên.
• Phát huy dân chủ, cấp trên tôn trọng ý kiến cấp dưới, nhất là những ý kiến góp ý có tính
chất xây dựng, khắc phục những thành kiến cá nhân.
• Tăng cường công tác kiểm tra đảng viên chấp hành điều lệ Đảng

11

11


Vấn đề 5:
+ Để đánh thắng các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ ở miền nam từ 1954 -1975,
Đảng ta đề ra đường lối chủ trương đúng đắn khoa học được thể hiện như thế nào?
+ Những hiểu biết của đồng chí về giai đoạn này về Đảng bộ và Nhân dân Quảng Trị?
1. Chủ trương, nhiệm vụ của đảng ta trong quá trình lãnh đạo cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam từ 1954-1975
Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết (7.1954), cách mạng Việt Nam có những thắng
lợi mới nhưng cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức. Yêu cầu bức thiết đặt ra cho
Đảng ta là phải hoạch định được đường lối cách mạng đúng đắn, vừa phù hợp với tình hình
trong nước, vừa phù hợp với xu thế của thời đại.
* Chủ trương tiếp tục thực hiện cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giai
đoạn 1954-1960
Vào giai đoạn cuối của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Đảng ta Nắm vững âm
mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ ở Việt Nam và Đông Dương, nên ngay trước ngày ký Hiệp
định Giơnevơ, Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) từ ngày 15
đến ngày 17-7-1954, đã xác đinh: "Hiện nay đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân thế
giới và nó đang trở thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mọi

việc của ta đều nhằm chống đế quốc Mỹ".
Ngày 22-7-1954, Chủ tịch Hồ CHí Minh ra Lời kêu gọi đồng bào và cán bộ chiến sĩ cả
nước: "Trung Nam Bắc đều là bờ cõi của ta, nước ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào cả
nước nhất định được giải phóng"
Tiếp đó, tháng 9-1954, Bộ chính trị ra nghị quyết về tình hình mới, nhiệm vụ mới và
chính sách mới của Đảng. Nghị quyết đã chỉ ra những đặc điểm chủ yếu của tình hình trong
lúc cách mạng Việt Nam bước vào 1 giai mới là: từ chiến tranh chuyển sang hòa bình; nước
nhà tạm chia làm 2 miền; từ nông thôn vào thành thị; từ phân tán chuyển thành tập trung”.
Thực hiện Chỉ thị của Bộ Chính trị về tình hình và công tác của các đảng bộ miền Nam,
tháng 10-1954, Xứ ủy Nam Bộ được thành lập, do Lê Duẩn, ủy viên Bộ Chính trị làm Bí
thư.
Từ thực tiễn cuộc đấu tranh cách mạng của nhân dân miền Nam, tháng 8-1956, Lê
Duẩn đã dự thảo Đường lối cách mạng miền Nam. Bản Đường lối cách mạng miền Nam
được đưa ra thảo luận tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ họp tháng 12-1956.
Bản Đường lối vạch rõ, để chống Mỹ-Diệm, nhân dân miền Nam chỉ có con đường cứu
nước và tự cứu mình là con đường cách mạng. Ngoài con đường cách mạng không có một
con đường khác. Mục đích của cách mạng miền Nam là phải đánh đổ chính quyền độc tài
phát xít Mỹ - Diệm, thực hiện một chính quyền liên hiệp dân chủ có tính chất dân tộc, độc
lập, để giải phóng nhân dân miền Nam ra khỏi ách đế quốc phong kiến độc tài phát xít Mỹ Diệm để cùng với toàn quốc thực hiện hòa bình, thống nhất, độc lập dân tộc.
Tháng 12-1957, tại Hội nghị lần thứ XIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, nước ta tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược cách
mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ
cách mạng nói trên đều quan trọng, coi nhẹ một nhiệm vụ nào cũng đều sai lầm.
Tháng 1-1959, Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp Hội nghị lần thứ XV. Trên cơ sở
phân tích tình hình thế giới và trong nước, Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: Nhiệm vụ cơ bản của
cách mạng miền Nam là giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc, hoàn thành
cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam; Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương cũng
12

12



nêu rõ cần tăng cường công tác Mặt trận để mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; củng cố,
xây dựng Đảng bộ miền Nam thật vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức để đủ sức
lãnh đạo trực tiếp cách mạng miền Nam.
* Giai đoạn 1961-1965: Đảng lãnh đạo nhân dân đánh thắng chiến lược chiến
tranh đặc biệt
Đầu năm 1961Tổng thống Mỹ Kennơđi đưa ra chiến lược “phản ứng linh hoạt” với 3
kiểu chiến tranh: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và chiến tranh tổng lực. Đặc điểm
của chiến tranh đặc biệt là dùng quân đội tay sai làm công cụ chiến tranh.
Tình hình đó đặt ra yêu cầu mới cho Đảng ta trong việc xác định quyết tâm và đề ra
đường lối kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nhằm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng
miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Tháng 1/1961, Bộ chính trị chủ trương chuyển từ khởi nghĩa sang chiến tranh cách
mạng, từng bước đưa đấu tranh vũ trang lên cùng với đấu tranh chính trị. Tháng 10/1961,
Trung ương cục miền nam được thành lập để trực tiếp chỉ đạo cách mạng miền nam, đẩy
mạnh xây dựng lực lượng cả quân sự lẫn chính trị trên cả 3 vùng chiến lược. Thực hiện
phương châm “hai chân, ba mũi, ba vùng”với nguyên tắc đảng bám dân, dân bám đất, du
kích bám địch”
* Giai đoạn 1965 - 1968 đã đánh bại chiến lược "chiến tranh cục bộ"
Việc đế quốc Mỹ mở cuộc "Chiến tranh cục bộ", ồ ạt đưa quân đội viễn chinh Mỹ và
các nước chư hầu vào trực tiếp xâm lược miền Nam đã làm cho tương quan lực lượng trở
nên bất lợi cho ta.
- Trước hành động gây "Chiến tranh cục bộ" ở miền Nam, tiến hành chiến tranh phá
hoại ra miền Bắc của đế quốc Mỹ, Hội nghị Trung ương lần thứ 11 (tháng 3/1965) và lần thứ
12 (tháng 12/1965) đã tập trung đánh giá tình hình và đề ra đường lối kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước trên cả nước.
Kết hợp với những thắng lợi về quân sự và chính trị, ngày 28/1/1967 Hội nghị lần thứ
13, BCH Trung ương khoá III đã quyết định mở mặt trận ngoại giao nhằm tranh thủ sự ủng
hộ của quốc tế, phát huy sức mạnh tổng hợp để đánh Mỹ.

Hội nghị lần thứ 14 BCH Trung ương khoá III tiếp tục khẳng định:”Anh dũng tiến
lên, thực hiện tổng công kích và tổng khởi nghĩa, giành thắng lợi quyết định cho sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước”
Cuộc tổng tiến công và nỗi dậy Mậu Thân 1968 là một đòn chiến lược đánh vào tận
hang ổ của kẻ thù làm cho chiến lược “chiến tranh cục bộ” của Mỹ thất bại.
* Giai đoạn: 1969-1975: đánh thắng chiến lược “VIỆT NAM hoá chiến tranh”,
giải phóng miền nam thống nhất đát nước.
Tháng 1/1970, Hội nghị lần thứ 18, BCH Trung ương khoá III đề ra nhiệm vụ trước
mắt là đẩy mạnh cuộc kháng chiến tren tất cả các mặt, vừa tấn công vừa xây dựng lực lượng,
giành thắng lợi từng bước đi đến giành thắng lợi quyết định.
13

13


Tháng 7/1973, Hội nghị lần thứ 21, BCH Trung ương khoá III đã ra nghị quyết:”
Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước và nhiệm vụ của cách mạng
VIỆT NAM trong giai đoạn mơi”. Nghị quyết khẳng định “ con đường của cách mạng miền
nam là con đường bạo lực cách mạng. Bất kể trong tình hình nào, ta cũng phải nắm vững
thời cơ, giữ vững đường lối chiến lược tiến công và chỉ đạo linh hoạt để đưa cách mạng
miền nam tiến lên”
Sau một thời gian chuẩn bị, từ ngày 30/9/1974 đến ngày 10/8/1974, Bộ chính trị họp
bàn về chủ trương giải phóng miền Nam. Tại hội nghị này, BỘ CHÍNH TRỊ đã phê chuẩn kế
hoạch hai năm và kế hoạch tác chiến năm 1975. Từ ngày 8/12/74 đến 8/01/75, BỘ CHÍNH
TRỊ tiếp tục họp lần 2. Hội nghị chỉ rõ “ nắm vững thời cơ lịch sử, mở nhiều chiến dịch tổng
hợp liên tiếp, đánh những trận quyết định, kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước”
Với sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của Đảng, quân ta đã vượt lên mọi gian khổ hy
sinh, bền bỉ và anh dũng chiến đấu, lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh xâm lược
của đế quốc Mỹ. buộc Mỹ phải xuống thang chiến tranh, chấp nhận ngồi vào bàn đàm phán
với ta tại Pari; mà đỉnh cao là Đại thắng Mùa Xuân 1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch

sử, đập tan toàn bộ chính quyền địch, buộc chúng phải tuyên bố đầu hàng vô điều kiện, giải
phóng hoàn toàn miền Nam.
2. Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị giai đoạn từ 1954-1975
- Từ 1954-1960:
+ Quảng Trị đấu tranh chính trị đòi thi hành Hiệp định Giơnevơ, tiếp thu “Đề cương cách
mạng miền Nam”. Khôi phục và phát triển lực lượng, tạo thế tiến lên tiến công địch.
+ Khu vực Vĩnh Linh ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm
căn cứ vững chắc cho cách mạng miền Nam.
- Từ 1961-1965:
+ Quảng Trị chống chiến lược “ Chiến tranh đặc biệt” của đế quốc Mỹ.
+ Khu vực Vĩnh Linh thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Sẵn
sàng đối phó với âm ưu leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc của Mỹ, tích cực chi viện
sức người, sức của cho chiến trường Quảng Trị.
- Từ 1965-1968:
+ Quảng Trị chống “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ. Thực hiện tiến công nổi dậy xuân
Mậu Thân 1968, giải phóng Khe Sanh-Hướng Hóa.
+ Khu vực Vĩnh Linh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.
Tịch cực chi viện cho chiến trường Quảng Trị. Giữ vững sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
- Từ 1968 đến tháng 1/1973:
+ Quảng Trị chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ. Tiến công nổi
dậy giải phóng quê hương, 81 ngày đêm chống địch phản kích tái chiếm.
+ Khu vực Vĩnh Linh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Dốc
toàn lực vào chiến dịch giải phóng Quảng Trị.
- Từ 01/1973-30/4/1975:
+ Đấu tranh đòi thi hành Hiệp Định Pari, ra sức xây dựng và củng cố vùng giải phóng.
+ Vĩnh Linh khôi phục và phát triển kinh tế, tổ chức đời sống, bảo đảm quốc phòng na ninh.
+ Chiến dịch xuân hè 1975: Giải phóng phần đất, phần đân còn lại; góp phần tham gia vào
14


14


chiến dịch giải phóng Huế - Đà Nẵng và chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Tổng kết sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ trong thời kỳ Quảng Trị tiến hành 2
chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
chúng ta thấy những thành tự và ưu điểm đạt được là rất to lớn, cơ bản, góp phần đưa sự
nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, ở mỗi thời
kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử, chúng ta vẫn có những khuyết điểm, nhược điểm, thậm chí có sai
lầm dẫn đến tổn thất – đó là điều khó tránh khỏi. Hơn 20 năm lãnh đạo và tổ chức cuộc
chiến tranh giải phóng, Đảng ta đã rút ra được những bài học hết sức quý báu, làm phong
phú thêm kho tàng kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam; trong đó, có phần đóng góp quan
trọng của Đảng bộ và nhân dân Quảng trị.

15

15


Vấn đề 6:
+ Đặc điểm Miền Bắc sau năm 1954, bước vào thời kỳ quá độ lên XHCN, 21 năm (5475) vừa XÂY DỰNG CNXH vừa là hậu phương lớn cho CÁCH MẠNG Miền Nam,
nhân dân Miền Bắc đã thu hái những kết quả rất đáng tự hào - Hãy chứng minh.
+ Những hiểu biết của Đồng chí về giai đoạn này của Đảng bộ và nhân dân khu vực
Vĩnh Linh.
1. 21 năm vừa XÂY DỰNG CNXH vừa là hậu phương lớn cho CÁCH MẠNG Miền
Nam, nhân dân Miền Bắc đã thu hái những kết quả rất đáng tự hào - Hãy chứng minh.
MIỀN BẮC bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, từ 1 nền kinh tế nông nghiệp nghèo
nàn, lạc hậu, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, cùng 1 lúc phải tiến hành 2 nhiệm vụ chiến
lược: vừa xây dựng đất nước, vừa trực tiếp chống chiến tranh phá hoại của đế quốc mỹ và
chi viện cho cách mạng MIỀN NAM giành thắng lợi hoàn toàn.

21 năm xây dựng cnxh nhưng chỉ 10 năm MIỀN BẮC thật sự có hòa bình, MIỀN
BẮC phải trải qua 3 lần khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Phần lớn thời gian, trí tuệ, sức lực
của Đảng, Nhà nước và nhân dân MIỀN BẮC là dành cho chiến tranh giải phóng MIỀN
NAM và bảo vệ MIỀN BẮC. hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quôca mỹ đối với MIỀN
BẮC gần như xóa bỏ tất cả những gì MIỀN BẮC đã xây dựng về CSVC-KT của CNXH,
nhưng Miền bắc vẫn vững vàng vượt qua những khó khăn, thử thách nặng nề đó, tiếp tục
xây dựng cnxh và đã đạt được những thành tựu cơ bản:
Mặc dù đế quốc Mỹ và chính quyền tay sai ở MIỀN NAM có nhiều âm ưu phá hoại
hòng xóa bỏ những thành tựu mà CÁCH MẠNG đã đạt được trên đất nước ta, nhưng MIỀN
BẮC vẫn tiếp tục đi lên CNXH, làm cơ sở vững chắc cho cuộc đấu tranh thống nhất nước
nhà.
Bằng việc cải tạo các thành phần kinh tế, chuyển nền kinh tế quốc dân nhiều thành
phần với nhiều hình thức sở hữu, thành nền kinh tế thuần nhất 1 chế độ sở hữu với 2 hình
thức: sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể. MIỀN BẮC đã xóa bỏ được chế độ người bốc lột
người, xóa bỏ chế độ phong kiến hàng nghìn năm, bước đầu xây dựng được QHSX XHCN,
xây dựng kết cấu kinh tế - xã hội mới.
Sản xuất nông nghiệp – công nghiệp địa phương có sự phát triển rộng khắp, bảo đảm
sản xuất phát triển và nâng cao trình độ sản xuất lên 1 bước. Đã xây dựng được Cơ sở vất
chất – kỹ thuật quan trọng của CNXH, xây dựng nhiều khu công nghiệp và nhiều công trình
lớn của đất nước. Đặc biệt, trong điều kiện chiến tranh ác liệt đã không để xảy ra nạn thiếu
đói trầm trọng.
Sự nghiệp giáo dục, y tế, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao đều phát triển. Công tác
đào tạo đội ngũ khoa học kỹ thuật và công nhân tăng gấp nhiều lần so với khi mới giải
phóng. Mạng lưới y tế được mở rộng từ trung ương đến cơ sở, từ đồng bằng đến miền núi.
An ninh chính trị và trật tự xã hội được giữ vững. Đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân
được ổn định và có nhiều mặt được cải thiện.
Trong chiến tranh phá hoại giắc Mỹ đã ném xuống MIỀN BẮC 2,5 triệu tấn bom đạn.
Song với sức mạnh vật chất và tinh thần của truyền thống dân tộc và của chế độ XHCN,
quân và dân MIỀN BẮC đã bắn rơi 4.181 máy bay Mỹ, bắt sống 472 giặc lái, đánh bại các
cuốc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, giáng một đòn quyết định vào ý chí xâm lược

của đế quốc Mỹ đối với nước ta, góp phần tạo thế và lực mới cho CÁCH MẠNG MIỀN
NAM.
MIỀN BẮC đã làm tròn nhiệm vụ hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn MIỀN
16

16


NAM, hoàn thành tốt nghĩa vụ quốc tế. Đồng cam cộng khổ, sát cánh với đồng bào MIỀN
NAM đánh thắng đế quốc Mỹ xâm lược và bè lũ tay sai, giải phóng hoàn toàn MIỀN NAM
thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên CNXH.
Nhìn chung, sau 21 năm cải tạo và xây dựng, MIỀN BẮC đã bước đầu kiến lập được
1 hình thái KT-XH XHCN với QHSX XHCN và những CSVC-KT ban đầu của CNXH, với
1 Nhà nước chuyên chính vô sản được củng cố, đặt trên những nền móng vững chắc, đem lại
những th.đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực.
Với những thành tự mà MIỀN BẮC đã đạt được như đã nêu ở trên, Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng (12.1976) khẳng định: Không thể nào có thắng lợi của
cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước nếu không có MIỀN BẮC XHCN… MIỀN BẮC đã
dốc vào cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước toàn bộ sức mạnh của chế độ XHCN và đã
làm tròn một cách xuất sắc căn cứ địa CÁCH MẠNG của cả nước, xứng đáng là pháo đài vô
địch của CNXH.
2. Khu vực Vĩnh Linh
- Từ 1954-1960:
+ Khu vực Vĩnh Linh ra sức khôi phục và phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội làm
căn cứ vững chắc cho cách mạng miền Nam.
- Từ 1961-1965:
+ Khu vực Vĩnh Linh thực hiện kế hoạch Nhà nước 5 năm lần thứ nhất (1961-1965). Sẵn
sàng đối phó với âm ưu leo thang chiến tranh đánh phá miền Bắc của Mỹ, tích cực chi viện
sức người, sức của cho chiến trường Quảng Trị.
- Từ 1965-1968:

+ Khu vực Vĩnh Linh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của đế quốc Mỹ.
Tịch cực chi viện cho chiến trường Quảng Trị. Giữ vững sản xuất, xây dựng chủ nghĩa xã
hội.
- Từ 1968 đến tháng 1/1973:
+ Khu vực Vĩnh Linh đánh thắng cuộc chiến tranh phá hoại lần thứ hai của đế quốc Mỹ. Dốc
toàn lực vào chiến dịch giải phóng Quảng Trị.
- Từ 01/1973-30/4/1975:
+ Vĩnh Linh khôi phục và phát triển kinh tế, tổ chức đời sống, bảo đảm quốc phòng na ninh.
Tổng kết sự lãnh đạo và chỉ đạo của Đảng bộ trong thời kỳ Quảng trị tiến hành 2
chiến lược cách mạng: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng XHCN, chúng ta
thấy những thành tựu tự và ưu điểm đạt được là rất to lớn, cơ bản, góp phần đưa sự nghiệp
cách mạng của Đảng và nhân dân ta đến thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ, mỗi
giai đoạn lịch sử, chúng ta vẫn có những khuyết điểm, nhc điểm, thậm chí có sai lầm dẫn
đến tổn thất – đó là điều khó tránh khỏi. Hơn 20 năm lãnh đạo và tổ chức cuộc chiến trang
giải phóng, Đảng ta đã rút ra được những bài học hết sức quý báu, làm phong phú thêm kho
tàng kinh nghiệm của cách mạng Việt Nam; trong đó, có phần đóng góp quan trọng của
Đảng bộ và nhân dân Quảng Trị.

17

17


Vấn đề 7:
+ Sau đại thắng mùa xuân 1975, tổ quốc thống nhất, Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước
tiến lên xây dựng CNXH và từng bước tìm tòi con đường đổi mới, đỉnh cao là Đại hội
lần VI/1986 được gọi là Đại hội đổi mới đất nước. Những hiểu biết của đồng chí về giai
đoạn lịch sử này.
+ Cùng với cả nước, Đảng bộ và nhân dân Quảng trị gặt hái được những thành tựu
nào sau 28 năm đổi mới quê hương.

Đảng CSVN, đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động của dân tộc
VIỆT NAM; từ khi ra đời đến nay, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta đánh thắng 2 đế quốc hùng
mạnh vào bậc nhất thế giới đó là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành lấy hòa bình thống
nhất cho tổ quốc. Sau khi đất nước thống nhất, Đảng đã lãnh đạo nhân dân tiến lên xây dựng
CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển của CNTB, đồng thời từng bước tìm tòi con đường đổi
mới đất nước để từng bước ổn định đời sống của nhân dân, hướng đến mục đích xây dựng
một đất nước Việt Nam độc lập, tự do và hùng mạnh.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng cộng sản VIỆT NAM, họp từ ngày 15
đến 18 tháng 12/1986. Dự Đại hội có 1.129 đại biểu tham dự thay mặt cho 1,9 triệu đảng
viên trong cả nước. Đại hội đã nghe Báo cáo chính trị của BCH Trung ương đảng khóa V và
nhiều văn kiện quan trọng khác. Đồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm tổng Bí thư.
Đại hội VI được gọi là Đại hội đổi mới đất nước vì:
- Đại hội đã chủ trương thay những cái củ, cái không còn phù hợp bằng những cái mới hơn,
cái tốt hơn, tiến bộ hơn trước. Đại hội đã thẳng thắn phê bình về những sai lầm, khuyết điểm
của Đảng trong 10 năm qua, đồng thời đề ra các mục tiêu, hướng đi phù hợp với tình hình
mới. Đại hội quyết định đẩy mạnh xây dựng CNXH theo nhận thức tư duy mới và hệ thống
các chủ trương chính sách theo cơ chế quản lý mới. Đường lối đổi mới được hình thành từ
những khởi động đổi mới từng phần ở địa phương. Đảng và Nhà nước đã kịp thời tổng kết
thực tiển, điều chỉnh cơ chế, chính sách để thúc đẩy kinh tế phát triển nhằm khắc phục
những tác động xấu của khủng hoảng Kinh tế - XÃ HỘI.
- Trải qua nhiều tìm tòi khảo nghiệm từ thực tiễn và đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rỏ
hơn về thời kỳ qúa độ và về CNXH, những quy luật khách quan đang vận động trong thời kỳ
quá độ, Đại hội đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện với những nội dung cơ bản sau:
+ Đổi mới tư duy lý luận, nhận thức rỏ về CNXH, về các quy luật khách quan những đặc
trưng của thời kỳ quá độ.
+ Đổi mới về quan điểm chính sách kinh tế:
* Về Đổi mới cơ cấu kinh tế: Có chính sách sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế, xác
định nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ.
- Đại hội xác định các thành phần kinh tế đang tồn tại ở nước ta gồm có: KT XHCN, KT cá
thể tiểu chủ, KT tư bản tư nhân, KT tự cấp tự túc ở vùng núi cao. Cùng với việc xác định

kinh tế nhiều thành phần, Đảng còn chủ trương điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư, tập trung thực
hiện 3 chương trình mục tiêu về lương thực, thực phẫm và hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu.
Bố trí lại cơ cấu sản xuất, xem nông nghiệp là vị trí hàng đầu.
* Về Đổi mới cơ chế quản lí kinh tế: xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính,
bao cấp từ lâu đã không tạo được động lực phát triển cho nền kinh tế chuyển sang hạch toán
kinh doanh XHCN, kết hợp kế hoạch và thị trường là 2 đặc trưng cơ bản của cơ chế quản lý
mới đó là: tính kế hoạch và sử dụng đúng quan hệ hàng hóa - tiền tệ
+ Đổi mới chính sách đối ngoại, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại: Đại Hội
xác định trong những năm tiếp theo, Nhà nước ta xác định nhiệm vụ chính trên lĩnh vực đối
18

18


ngoại đó là: Công bố chính sách khuyến kích nước ngoài đầu tư vào VIỆT NAM với nhiều
hình thức nhất là các nghành và cơ sở đòi hỏi kỷ thật cao; đồng thời coi trọng và động viên
Việt kiều góp phần xây dựng đất nước bằng nhiều cách.
+ Đổi mới về vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước: Nhà nước tăng cường quản lý kinh tế
- xã hội bằng hệ thống pháp luật, tăng cường bộ máy nhà nước từ TƯ đến địa phương thành
1 hệ thống nhất có sự phân định về nhiệm vụ và quyền hạn theo từng cấp, đồng thời phân
biệt rõ ràng về chức năng quản lý hành chính kinh tế với quản lý sản xuất kinh doanh.
- Giữ vững pháp luật, kỷ cương nhà nước trật tự xã hội; giữ vững quốc phòng an ninh. Xây
dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao với đội ngũ cán bộ có phẫm chất chính trị và năng
lực quản lý nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội
+ Đổi mới nội dung và phong cách lãnh đạo của Đảng, tăng cường sức chiến đấu và năng
lực tổ chức thực tiễn của Đảng: Đường lối đổi mới được xác định trên cơ sở đổi mới duy lý
luận, nhận thức rõ hơn về CNXH và thời kỳ quá độ lên CNXH để vận dụng phù hợp vào
thực tiển cách mạng VIỆT NAM
- Cần khắc phục bệnh quan liêu, xa rời thực tế, xa rời quần chúng, thực sự gắn bó với dân,
lấy dân làm gốc. Khắc phục sự lạc hậu về nhận thức, lý luận với những quan điểm sai lầm

lệch lạc, lỗi thời. Nâng cao đạo đức CÁCH MẠNG gắn với nâng cao trí tuệ hiểu biết nâng
cao sức chiến đấu của Đảng.
Từ thực tiễn của hơn 20 năm đổi mới có thể khái quát một số bài học sau đây.
• Một là, trong quá trình đổi mới phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
• Hai là, đổi mới toàn diện, đồng bộ, có kế thừa, có bước đi, hình thức và cách làm phù
hợp.
• Ba là, đổi mới phải vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động,
sáng tạo của nhân dân, xuất phát từ thực tiễn, nhạy bén với cái mới.
• Bốn là, phát huy cao độ nội lực, đồng thời ra sức tranh thủ ngoại lực, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới.
• Năm là, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, 0 ngừng đổi mới hệ
thống chính trị, xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo
đảm quyền lực thuộc về nhân dân.
Đại Hội 6 của Đảng đã hoạch định đường lối đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để. Đó
là sự kết tinh trí tuệ của toàn Đảng, toàn dân và cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao của
Đảng trước đất nước và dân tộc. Đường lối do Đại hội đề ra thể hiện sự phát triển tư duy lý
luận, khả năng tổng kết và tổ chức thực tiễn của Đảng, mở ra thời kỳ mới của sự nghiệp cách
mạng nước ta trên con đường đi lên CNXH.
Liên hệ ở Quảng Trị:
Để lãnh đạo nhân dân vượt qua khó khăn ngặt nghèo trong SX – ĐS, phá vỡ thế bao
vây, cấm vận của các thế lực thù địch, đưa đất nước vượt qua khủng hoảng KT-XH, vững
bước đi lên, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 6 của Đảng đã kịp thời tổng kết thực tiễn, đề
ra đường lối đổi mới của Đảng, Đảng bộ và nhân dân tỉnh Quảng Trị phát huy tinh thần sáng
tạo, độc lập tự chủ, nhanh chóng vượt qua khó khăn, thử thách, khôi phục và phong trào KTXH. Gần 30 năm qua, Quảng Trị đã thu được những thành tựu to lớn sau:
- Về kinh tế: Nền kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng khá, bình quân 5 năm 2005 – 2010 đạt
10,8%; GDP bình quân đầu người năm 2010 ước đạt 16 triệu đồng, tương đương 845 USD;
tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2010 ước đạt 850 tỷ đồng, tăng bình quân 15,5%/năm.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng giá trị trong GDP năm 2010 của các ngành:
19


19


công nghiệp và xây dựng 37,5%; nông - lâm - ngư nghiệp 27,4%; thương mại - dịch vụ
35,1%. Các ngành, lĩnh vực sản xuất kinh doanh phát triển. Sản xuất nông nghiệp tiếp tục
phát triển toàn diện và theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với xây dựng nông
thôn mới. Giá trị của ngành nông – lâm - ngư nghiệp bình quân 5 năm tăng 3,5%/năm. Công
nghiệp và xây dựng tiếp tục phát triển, năng lực sản xuất, kinh doanh của ngành không
ngừng tăng lên, giá trị của ngành bình quân 5 năm tăng 21%/năm. Thương mại - dịch vụ phát
triển cả về quy mô, ngành nghề, thị trường, hạ tầng kỹ thuật và hiệu quả kinh doanh; giá trị
của ngành bình quân 5 năm tăng 8,4%/năm. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng
nhanh, trong 5 năm huy động được 17.479 tỷ đồng, tăng gấp 3 lần giai đoạn 2000 - 2005. Kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển khá toàn diện trên tất cả các vùng.
- Văn hoá - xã hội: đạt được những tiến bộ mới, đời sống nhân dân tiếp tục được nâng lên.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá cơ sở được củng cố và phát triển.
Các thiết chế văn hoá, thể thao được đầu tư xây dựng mới. Sự nghiệp giáo dục - đào tạo tiếp
tục phát triển cả về mạng lưới, quy mô và chất lượng. Công tác nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ
khoa học - công nghệ được chú trọng. Thực hiện các chính sách chăm sóc sức khoẻ nhân
dân, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, chăm sóc người có công, an sinh xã hội có
nhiều tiến bộ. Trong 5 năm giải quyết việc làm mới cho 42.500 lao động. Tỷ lệ hộ nghèo
năm 2010 giảm xuống còn 13%.
- Quốc phòng - an ninh: được tăng cường, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh
nhân dân được củng cố; an ninh chính trị ổn định, trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
- Công tác quản lý, điều hành của các cấp chính quyền có chuyển biến tiến bộ, hiệu lực, hiệu
quả được nâng lên. Công tác cải cách hành chính được đẩy mạnh. Hệ thống tổ chức các cơ
quan tư pháp được tăng cường, chất lượng công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án được
nâng lên. Công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm đạt kết quả bước
đầu. Quan hệ đối ngoại tiếp tục được mở rộng và có hiệu quả, nhất là đối với các nước láng
giềng trong khu vực, góp phần khai thác tốt hơn lợi thế tuyến hành lang kinh tế Đông - Tây.

Những thành tựu to lớn đó đã tạo ra thế và lực mới đưa Quảng Trị tiếp tục đẩy mạnh sự
nghiệp CNH-HĐH, thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh”; xây dựng quê hương Quảng Trị anh hùng ngày càng văn minh, giàu đẹp,
vững bước tiến lên CNXH.

20

20


Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản về xây dựng tổ chức và hoạt động của Đảng.
Nó đảm bảo sự thống nhất ý chí và hành động, tạo nên sức mạnh vô địch của Đảng
cách mạng. Hiện nay Đảng ta đang hoạt động trong hoàn cảnh môi trường mới rất
phức tạp, nó mở ra thời cơ và cả những thách thức mới hết sức gay gắt, đòi hỏi Đảng
ta hơn bao giờ hết phải được củng cố vững mạnh không những về chính trị, tư tưởng
mà cả về tổ chức. Đảng phải trở thành một khối đoan kết thống nhất chặt chẽ mới
hoàn thành được vai trò, sứ mệnh của mình trong giai đoạn hiện nay. Muốn vậy, Đảng
phải thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và cụ thể hóa những nội dung
của nguyên tắc này trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng, xem đó là nguyên tắc sống
còn của Đảng.
Đảm bảo nguyên tắc tập trung chủ là vấn đề sống còn của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
Bài học từ sự sụp đổ của các Đảng cộng sản Liên xô và Đông âu cho thấy rằng việc vi phạm
nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ là một trong những nguyên nhân làm giảm sút
sức chiến đấu của Đảng, làm tan vỡ Đảng về mặt tổ chức. Chương II, điều 9 - Điều lệ Đảng
chỉ rõ “Đảng cộng sản Việt Nam tổ chức theo nguyên tắc tập trung dân chủ”. Nội dung cơ
bản của nguyên tắc đó bao gồm :
Một là cơ quan lãnh đạo các cấp của Đảng do bầu cử lập ra, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá
nhân phụ trách.
Hai là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng ta là Đại hội đại biểu toàn quốc. Cơ quan lãnh
đạo ỡ mỗi cấp là đại hội đại biểu hoặc Đại hội Đảng viên. Giữa 2 kỳ Đại hội cơ quan lãnh

đạo của Đảng là Ban chấp hành Trung ương, ở mỗi cấp là Ban chấp hành đảng bộ, chi bộ
(gọi tắt là cấp ủy)
Ba là cấp ủy các cấp báo cáo và chịu trách nhiệm về hoạt động của mình trước đại hội
cùng cấp, trước cấp uỷ cấp trên và cấp dưới, định lỳ thông báo tình hình hoạt động của mình
đến các tổ chức đảng trực thuộc, thực hiện tự phê bình và phê bình
Bốn là tổ chức Đảng và Đảng viên phải chấp hành Nghị quyết của Đảng . Thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, cá nhân phục tùng tổ chức, các tổ chức trong toàn
Đảng phục tùng Đại hội đại biểu toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương
Năm là Nghị quyết của các cấp cơ quan lãnh đạo của Đảng chỉ có giá trị thi hành khi có
hơn một nửa số thành viên trong cơ quan đó tán thành. trước khi biểu quyết, mỗi thành viên
được phát biểu ý kiến của mình. Đảng viên có y kiến thuộc về thiểu số được quyền bảo lưu
và báo cáo lên cấp trên cho đến Đại hội đại biểu toàn quốc, song phải chấp hành nghiêm
chỉnh Nghị quyết, không được truyền bá ý kiến trái với Nghị quyết của Đảng . cấp uỷ có
thẩm quyền nghiên cứu xem xét ý kiến đó , không phân biệt đối xử với Đảng viên có ý kiến
thuộc về thiểu số
Sáu là tổ chức Đảng quyết định các vấn đề thuộc về phạm vị quyền hạn của mình , song
không được trái với nguyên tắc, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và
Nghị quyết của cấp trên
Tập trung dân chủ là một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức và sinh hoạt đảng. Từ khi
thành lập Đảng đến nay, trong từng giai đoạn cách mạng cũng như từng nhiệm vụ cụ thể,
nguyên tắc tập trung dân chủ luôn được coi trọng trong sinh hoạt đảng và tổ chức thực hiện
chủ trương, đường lối của Đảng từ Trung ương tới cơ sở, là yếu tố quan trọng để Đảng ta
không ngừng phát triển về mọi mặt.
Hội nghị Trung ương sáu (lần 2) khoá VIII của Đảng đã thông qua nghị quyết quan trọng đối
với công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, trong đó nhấn mạnh: “Tập trung dân chủ là nguyên
tắc cơ bản trong tổ chức, sinh hoạt và hoạt động của Đảng”, “Nâng cao nhận thức thống nhất
trong Đảng về nguyên tắc tập trung dân chủ. Xây dựng và bổ sung các quy định, quy chế
21

21



thực hiện nguyên tắc này. Cụ thể hoá nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; chế độ
trách nhiệm của người đứng đầu; quy định cụ thể về bảo lưu ý kiến, bảo đảm cho người có ý
kiến bảo lưu được phát biểu đầy đủ trong tổ chức đảng và một số cơ quan lý luận thích
hợp”(1). Trong các kỳ Đại hội lần thứ IX, X và XI, Đảng ta tiếp tục khẳng định phải phát huy
dân chủ trong sinh hoạt, coi trọng và thực hiện đúng quy chế làm việc, thực hiện nghiêm kỷ
luật Đảng. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng còn mở rộng nội hàm của nguyên tắc tập trung
dân chủ trong sinh hoạt Đảng, đó là: “Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp
chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị
những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân” (2). Đây là một nét mới trong công tác
lãnh đạo của Đảng xuất phát từ tình hình thực tiễn và nhằm đấu tranh ngăn chặn các hiện
tượng độc đoán, chuyên quyền, vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc tập trung dân chủ trong
sinh hoạt đảng tại nhiều cấp ủy, cơ sở đảng từ Trung ương tới địa phương.
Phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng nhằm xây dựng đoàn kết thống
nhất trong Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng là một trong những
nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác xây dựng đảng giai đoạn hiện nay. Để thực
hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi phải giải quyết đồng bộ nhiều vấn đề mang tính hệ thống và
trên cơ sở bảo đảm giữ vững các nguyên tắc sinh hoạt đảng.
Một là, tăng cường giáo dục cho cán bộ, đảng viên có nhận thức đúng, đầy đủ về bản chất,
nội dung của nguyên tắc tập trung dân chủ; về mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập
trung và dân chủ.
Cấp ủy, TCCSĐ các cấp cần tổ chức nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung, bản chất và
mối quan hệ biện chứng giữa tập trung và dân chủ gắn với việc liên hệ, kiểm điểm về nhận
thức và thực hiện nguyên tắc này ở đảng bộ, đơn vị mình. Lấy nhiệm vụ chính trị của cơ
quan, đơn vị làm trọng tâm, trong quá trình nghiên cứu, quán triệt phải chỉ ra được kết quả
và những yếu kém trong tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tìm ra các nguyên
nhân chủ quan, khách quan của việc thực hiện chưa tốt hoặc cố tình vi phạm nguyên tắc để
khắc phục, bảo đảm sự thống nhất về ý chí và hành động trong đảng bộ, chi bộ và đơn vị.
Trong quá trình quán triệt cần phải xác định rõ vai trò cá nhân của cán bộ lãnh đạo, người

đứng đầu đơn vị, đồng thời cụ thể hoá chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn và các mối quan hệ
phối hợp công tác của từng cán bộ, đảng viên, của từng cấp uỷ, tổ chức đảng.
Hai là, nâng cao chất lượng sinh hoạt định kỳ; xây dựng, ban hành các quy định cụ thể hoá
nguyên tắc tập trung dân chủ trong cấp ủy và tổ chức đảng.
TCCSĐ các cấp phải duy trì nghiêm chế độ sinh hoạt định kỳ. Để buổi sinh hoạt định kỳ có
chất lượng, cấp uỷ, bí thư hoặc phó bí thư chủ trì sinh hoạt phải làm tốt việc chuẩn bị nội
dung, xây dựng dự thảo nghị quyết bám sát nhiệm vụ chính trị của cơ quan, đơn vị và tạo
mọi điều kiện cho đ.viên đóng góp XÂY DỰNG nghị quyết. Người chủ trì sinh hoạt phải
lắng nghe và tập hợp các ý kiến của đảng viên; khi có nhiều ý kiến khác nhau về một vấn đề
cần phải điều hành thảo luận đi đến thống nhất trước khi biểu quyết. Đối với những vấn đề
quan trọng cần bỏ phiếu kín, phải chấp hành nghiêm quy trình bỏ phiếu, tổ chức kiểm phiếu
chặt chẽ, công bố kết quả công khai và lập biên bản bảo lưu kết quả. Mọi đ.viên phải nghiêm
chỉnh thực hiện nghị quyết đã được tập thể thông qua, việc cố tình thực hiện ý kiến riêng đã
bị đa số bác bỏ là vi phạm nguyên tắc.
Nguyên tắc tập trung dân chủ thực hiện thông qua các quy định cụ thể được thống nhất trong
cấp ủy và tổ chức đảng. Nghị quyết Đại hội lần thứ IX của Đảng đã chỉ rõ: “Cán bộ, đảng
viên ở bất cứ cương vị nào đều phải chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, nghị
quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Thi hành kỷ luật nghiêm khắc mọi vi phạm về
nguyên tắc, nhất là đối với những vấn đề về quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách
22

22


của Đảng”(3). Việc xây dựng, ban hành các quy định cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ
phải đảm bảo yêu cầu tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách và mở rộng sinh hoạt dân chủ.
Theo đó, mỗi cấp ủy, TCCSĐ cần phải ban hành quy định về chế độ trách nhiệm của người
đứng đầu, xác định rõ chế độ, chức trách của cán bộ lãnh đạo, quản lý; quy định cụ thể các
quy tắc phối hợp trong lãnh đạo và tổ chức thực hiện nghị quyết của bí thư, cấp ủy và đảng
viên. Cấp ủy viên, người đứng đầu và các đảng viên phải tự giác chấp hành các quy định đã

đề ra.
Ba là, thực hiện tốt tự phê bình và phê bình (TPB, PB) trong sinh hoạt đảng; tăng cường
kiểm tra việc thực hiện Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế hoạt động của
cấp uỷ và tổ chức đảng.
TPB, PB là nguyên tắc quan trọng trong xây dựng và chỉnh đốn Đảng. Nhờ có TPB, PB mà
Đảng ta không ngừng trưởng thành, giữ vững vai trò lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
Thực hiện TPB, PB về thực chất đó là: “Khuyến khích, động viên cán bộ, đảng viên tự giác
nhận và quyết tâm sửa chữa khuyết điểm, có quy định đối với cán bộ, công chức, đảng viên
vi phạm pháp luật mà tự giác khai báo, khắc phục hiệu quả, được hưởng chính sách khoan
hồng của Đảng, Nhà nước, kiên quyết xử lý nghiêm đối với những người cố tình vi phạm,
che giấu khuyết điểm; động viên, khen thưởng, bảo vệ những người dám đấu tranh, tố cáo
những khuyết điểm và sai phạm ngay trong tổ chức của mình. Nghiêm cấm trù dập những
người đấu tranh, phê bình thẳng thắn, có ý thức xây dựng” (4). Và với tinh thần ấy, trong giai
đoạn hiện nay cần thực hiện nghiêm túc và hiệu quả vũ khí TPB, PB. Theo Nghị quyết
Trung ương 4 (khóa XI) về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, TPB, PB
trước hết phải được người đứng đầu cấp uỷ, cơ quan, đơn vị gương mẫu thực hiện. Trên cơ
sở cụ thể hoá quy chế dân chủ ở cơ sở, cấp ủy và các tổ chức đảng cần có cơ chế phù hợp để
lấy ý kiến góp ý, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên hằng năm. Việc tổ chức TPB,
PB phải được tiến hành trên tinh thần dân chủ, thẳng thắn và xây dựng; phải trên tinh thần
đồng chí, thương yêu lẫn nhau, để cùng tiến bộ. TPB, PB phải chân thành và tự giác, tránh
lợi dụng phê bình để vu cáo, đả kích đồng chí, đồng đội, gây rối nội bộ; khắc phục tình trạng
nể nang, hình thức, bao che cho nhau, thấy đúng không kiên quyết bảo vệ, thấy sai không
dám đấu tranh hoặc khi được phê bình thì tiếp thu một cách miễn cưỡng và không sửa chữa
khuyết điểm.
Để các quy định về tập trung dân chủ được hiện thực hóa, cấp ủy và các TCCSĐ cần phải
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát. Thực hiện nguyên tắc cấp uỷ cấp trên kiểm tra, giám
sát cấp uỷ cấp dưới, kiểm tra chéo, kiểm tra định kỳ và không định kỳ. Nội dung kiểm tra,
giám sát tập trung vào việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, sinh hoạt
và hoạt động của Đảng cùng với thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Quá trình kiểm tra,
giám sát phải kịp thời phát hiện, làm rõ sai phạm và chấn chỉnh những biểu hiện sai trái, tháo

gỡ những vướng mắc trong thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Mở rộng và phát huy
dân chủ trong sinh hoạt đảng phải đi đôi với đề cao kỷ cương, kỷ luật. Mọi hành vi vô tổ
chức, vô kỷ luật, cố tình không chấp hành nghị quyết, chỉ thị của Đảng, gây chia rẽ, bè phái
đều phải xử lý nghiêm minh. Luôn đề cao cảnh giác trước mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế
lực thù địch nhằm chia rẽ, gây mất đoàn kết nội bộ Đảng.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của Đảng, phản ánh sâu
sắc tính tiền phong của giai cấp công nhân - giai cấp tiên tiến lãnh đạo xã hội. Thực hiện
nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt đảng là yêu cầu khách quan duy trì đoàn kết,
thống nhất về ý chí và hành động trong Đảng; phát huy được trí tuệ, sức mạnh của Đảng
trong thực hiện sứ mệnh lịch sử lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới, đưa cách mạng đi đến thành công.
23

23



×