Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Ảnh hưởng của môi trường lên một số chỉ tiêu sinh lí, sức khỏe của công nhân khai thác đá tại xã Cẩm Thành, huyện Cẩm Thủy tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (741.94 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

NGÔ SỸ HỌC

ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LÊN MỘT SỐ CHỈ TIÊU
SINH LÝ, SỨC KHỎE CỦA CÔNG NHÂN KHAI THÁC ĐÁ
TẠI XÃ CẨM THÀNH, HUYỆN CẨM THỦY
TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC

Nghệ An, 2012


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ƠN
TRƯỜNGLỜI
ĐẠICẢM
HỌC
VINH
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ quý báu
từ phía nhiều tập thể và cá nhân.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS Nguyễn Ngọc Hiền,
người đã quan tâm tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi từ những ngày đầu tiến hành đề tài

NGƯỜI THỰC HIỆN: NGÔ SỸ HỌC

cho đến khi luận văn được hoàn thành.
Tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường, Khoa đào tạo Sau Đại Học Trường đại học Vinh, cùng toàn thể các thầy cô trực tiếp giảng dạy chuyên nghành
Sinh học Thực Nghiệm đã tạo mọi điều kiện để luận văn được hoàn thành.



ẢNH HƯỞNG CỦA MÔI TRƯỜNG LÊN MỘT SỐ CHỈ TIÊU
Qua đây tôi cũng xin chuyển lời cảm ơn đến tập thể cán bộ y bác sĩ bệnh
SINH LÝ, SỨC KHỎE CỦA CÔNG NHÂN KHAI THÁC ĐÁ
viện đa khoa huyện Cẩm Thủy, Trung tâm Y tế Dự phòng Thanh Hóa, Trung tâm
TẠI XÃ CẨM THÀNH, HUYỆN CẨM THỦY
Quan trắc và BVMT Thanh Hóa, Chi Cục Bảo vệ môi trường Thanh Hóa và tập thể
THANH
cán bộ công nhân của CôngTỈNH
ty TNHH
Tân HồngHÓA
Phúc.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, người thân trong gia đình đã cổ vũ động viên

Chuyên ngành: Sinh học thực nghiệm
Mã số:60.42.30

để tôi có thêm quyết tâm và nghị lực thực hiện thành công đề tài.

Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đồng
nghiệp.
Vinh, ngày tháng năm 2012
Tác giả

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC SINH HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS: Nguyễn Ngọc Hiền

Nghệ An, 2012



LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ quý báu
từ phía nhiều tập thể và cá nhân.
Trước tiên tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo TS Nguyễn Ngọc
Hiền, người đã quan tâm tận tình và trực tiếp hướng dẫn tôi từ những ngày đầu tiến
hành đề tài cho đến khi luận văn được hoàn thành.
Tôi xin chân thành cảm ơn BGH nhà trường, Khoa đào tạo Sau Đại Học Trường đại học Vinh, cùng toàn thể các thầy cô trực tiếp giảng dạy chuyên nghành
Sinh học Thực Nghiệm đã tạo mọi điều kiện để luận văn được hoàn thành.
Qua đây tôi cũng xin chuyển lời cảm ơn đến tập thể cán bộ y bác sĩ bệnh
viện đa khoa huyện Cẩm Thủy, Trung tâm Y tế Dự phòng Thanh Hóa, Trung tâm
Quan trắc và BVMT Thanh Hóa, Chi Cục Bảo vệ môi trường Thanh Hóa và tập thể
cán bộ công nhân của Công ty TNHH Tân Hồng Phúc.
Xin chân thành cảm ơn bạn bè, người thân trong gia đình đã cổ vũ động viên
để tôi có thêm quyết tâm và nghị lực thực hiện thành công đề tài.
Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn đồng
nghiệp.
Vinh, ngày tháng năm 2012
Tác giả


MỤC LỤC
Trang

LỜI CẢM ƠN......................................................................................................1
LỜI CẢM ƠN.......................................................................................................i
MỤC LỤC............................................................................................................ii
DANH MỤC CÁC CHỮ TẮT VÀ KÍ HIỆU........................................................iii
DANH MỤC CÁC BẢNG.....................................................................................v
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ...............................................................................vi
MỞ ĐẦU...............................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài...........................................................................................1
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài....................................................................3
Chương 1..............................................................................................................3
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU......................................................3
Cơ sở phương pháp luận của đề tài..............................................................3
Môi trường và các khái niệm liên quan.........................................................................3
Ô nhiễm môi trường .....................................................................................................6
Khái niệm về sức khỏe và bệnh nghề nghiệp................................................................8
Ảnh hưởng của ô nhiễm tiếng ồn lên con người...........................................................9
Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí.............................................................................10

Tình hình nghiên cứu.................................................................................16
Chương 2............................................................................................................29
ĐỊA ĐIỂM, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.......................29
Đối tượng và địa điểm nghiên cứu.............................................................29
Đối tượng nghiên cứu.................................................................................29
Địa điểm nghiên cứu..................................................................................29
Phương pháp nghiên cứu............................................................................30
2.2.3. Phương pháp thu thập số liệu và tiêu chuẩn đánh giá......................30
Chương 3............................................................................................................31
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN........................................................31
Thực trạng môi trường lao động tại mỏ đá Dải Áo ..................................31
Một số chỉ số vi khí hậu và nồng độ bụi......................................................................31
Nồng độ một số khí thải tại địa điểm nghiên cứu........................................................35
Chỉ số về độ ồn tại địa điểm nghiên cứu....................................................................38

Chỉ tiêu hình thái của công nhân.................................................................40
Một số chỉ tiêu sinh lý ở công nhân............................................................41
Kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý ở công nhân.............................................41
Bàn luận kết quả nghiên cứu một số chỉ tiêu sinh lý ở công nhân..............................49


Thực trạng sức khỏe và tỷ lệ bệnh tật của công nhân................................55
Thực trạng sức khỏe của công nhân tại mỏ đá Cẩm Thành.........................................55
Tỷ lệ bệnh tật của công nhân........................................................................................57


KẾT LUẬN.........................................................................................................63
KIẾN NGHỊ........................................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO...................................................................................68

DANH MỤC CÁC CHỮ TẮT VÀ KÍ HIỆU
Thứ tự
1
2
3
4
5
6
7
8

Chữ viết tắt
BC
ĐĐNC
ĐTNC
HSSH
HGB
HATT
HATTr



Tên thường của chữ viết tắt
Bạch cầu
Địa điểm nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Hằng số sinh học
Hemoglobin: Nồng độ hemoglobin trong máu
Huyết áp tâm thu
Huyết áp tâm trương
Lao động


9

MCH

Mean Corpuscular Hemoglobin: Lượng huyết sắc tố
trung bình trong Hồng cầu

10
11
12
13
14
15
16
17
18

RBC

SX
SL
TSHH
TST
TCVSLĐ
WBC
WHO
BVMT

Red Blood Cell: Số lượng Hồng cầu
Sản xuất
Số lượng
Tần số hô hấp
Tần số tim
Tiêu chuẩn vệ sinh lao động
White Blood Cell: Số lượng Bạch cầu
World Health Organization: Tổ chức Y tế thế giới
Bảo vệ môi trường


DANH MỤC CÁC BẢNG


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, các vấn đề môi trường và ô
nhiễm môi trường ngày càng được đặt ra một cách cấp thiết bởi diễn biến phức tạp

và khó lường cùng những hệ lụy mà nó gây ra với đời sống của động thực vật nói
chung và sức khỏe con người nói riêng. Bởi vậy, nghiên cứu thực trạng môi trường
và mức độ ảnh hưởng của điều kiện môi trường lên con người là vấn đề đang được
nhân loại.quan tâm.
Việt Nam là một nước có khí hậu nhiệt đới gió mùa ẩm, với đặc trưng nóng
ẩm, nền nhiệt luôn cao. Trong bối cảnh thế giới đang phải đối mặt với những hiểm
họa sinh thái tiềm tàng gây ra những hậu quả nghiêm trọng như hiệu ứng nhà kính,
lỗ thủng tầng ôzon, mưa axít, sa mạc hoá,... làm cho trái đất ngày một nóng lên đã
uy hiếp, đe doạ đến sự tồn vong của con người và của cả tương lai trái đất. Trong
những năm gần đây, nước ta đã không ngừng đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Những lợi ích mà công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa mang lại được thể
hiện rất rõ qua tình hình tăng trưởng kinh tế - xã hội trong nước. Tuy nhiên quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa cũng tác động đến môi trường sống của con
người. Bởi vậy có nhiều vấn đề về môi trường đang được đặt ra và cần phải giải
quyết.
Thanh Hoá là một tỉnh có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa
dạng. Thanh Hoá có tới 250 điểm khoáng sản với 42 loại khoáng sản khác nhau,
nhiều loại có trữ lượng lớn so với cả nước như đá vôi, đá sét, phụ gia để sản xuất xi
măng, đá ốp lát, Crôm... Được phân bổ tại các huyện như Bỉm Sơn, Nông Cống,
Cẩm Thuỷ, Tĩnh Gia, Như Thanh, Ngọc Lặc...
Những năm qua, ngành VLXD Thanh Hóa, đặc biệt là khai thác, chế biến
đá - nguồn nguyên liệu sẵn có tại địa phương, đã có bước tiến dài, không những đáp
ứng nhu cầu ngày càng cao về vật liệu xây dựng, vật liệu trang trí trong nước, mà
còn là mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh của tỉnh. Cẩm Thuỷ là một huyện trung du
miền núi nằm ở phía Tây-Bắc của tỉnh Thanh Hoá, là nơi giàu khoáng sản nhất
trong tỉnh. Tại đây có nhiều mỏ khoáng sản đã được đăng ký Nhà nước như vàng
(Au), chì - kẽm (Pb-Zn), Sắt (Fe), Antimon(Sb), Pyrit(Py), Photspho(P),... đặc biệt


có nhiều dãy núi đá các loại - một tài nguyên phong phú phục vụ cho khai thác sản

xuất VLXD nội địa và xuất khẩu.
Bên cạnh mặt tích cực về giải quyết nhu cầu việc làm và đảm bảo đời sống
cho nhiều người lao động thì thực trạng còn nhiều vấn đề đáng báo động về điều
kiện môi trường làm việc. Do đặc trưng công việc là loại hình lao động nặng nhọc
với cường độ lao động cao trong môi trường không khí bị ô nhiễm nặng vì bụi đá
và tiếng ồn quá lớn. Lao động trong điều kiện có nhiều yếu tố bất lợi như vậy bệnh
tật dễ phát sinh, thần kinh suy nhược dẫn đến sức khỏe giảm sút và gây ảnh hưởng
tới khả năng lao động cũng như năng suất lao động. Những ảnh hưởng xấu của điều
kiện môi trường lao động không chỉ tác động đến người công nhân trong hoạt động
lao động sản xuất mà còn gây tác hại trong suốt quá trình sống của họ. Đặc biệt tại
Thanh Hóa, với đặc thù khí hậu chịu ảnh hưởng của gió nóng khô Tây Nam tức
Phơn Trường Sơn và thường xuyên chịu tác động của các điều kiện tự nhiên bất lợi
như nhiệt độ cao, nóng ẩm và nóng khô, mưa nhiều, bức xạ lớn, vi sinh vật phát
triển thuận lợi,… thì mức độ ô nhiễm môi trường lao động tại các khu khai thác đá
càng trở nên trầm trọng.
Bởi vậy, công tác điều tra, xác định, đánh giá mức độ và tình trạng ô nhiễm
cũng như tác hại, ảnh hưởng của nó lên sự phát triển hình thái, sinh lý, sức khỏe,
bệnh tật của con người và đề ra biện pháp xử lý khoa học hữu hiệu nhằm ngăn chặn
và hạn chế những tác động tiêu cực đến môi trường là một yêu cầu cấp thiết. Mặt
khác, từ trước đến nay chưa có một nghiên cứu, đánh giá cụ thể nào về ảnh hưởng
của môi trường lao động lên các chỉ tiêu sinh lý, sức khỏe, bệnh tật của công nhân
làm việc tại các khu khai thác đá trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
Nhằm làm sáng tỏ thực trạng môi trường lao động và ảnh hưởng của nó tới
người lao động. Tôi thực hiện đề tài: “ Ảnh hưởng của môi trường lên một số chỉ
tiêu sinh lý, sức khỏe của công nhân khai thác đá tại xã Cẩm Thành, huyện
Cẩm Thủy, tỉnh Thanh Hóa”.


2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Đánh giá thực trạng và sự ô nhiễm môi trường không khí (một số chỉ số

vi khí hậu, nồng độ bụi, khí thải, tiếng ồn).
2.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường lên một số chỉ tiêu sinh lý và sức
khỏe, bệnh tật của công nhân làm việc tại công trường khai thác đá.
2.3. Đề xuất các vấn đề cần được quan tâm về môi trường tại khu vực nghiên
cứu.

Chương 1
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Cơ sở phương pháp luận của đề tài

Môi trường và các khái niệm liên quan
Những định nghĩa về môi trường cho đến nay vẫn chưa được thống nhất
chung trong nghành khoa học sinh học, bởi xét theo những khía cạnh khác nhau,
môi trường được hiểu theo những cách khác nhau.


Khái niệm về môi trường đã được thảo luận rất nhiều và từ lâu. Nhìn
chung có những quan niệm về môi trường như sau:
Môi trường bao gồm các vật chất hữu cơ và vô cơ quanh sinh vật. Theo định
nghĩa này thì không thể nào xác định được môi trường một cách cụ thể, vì
mỗi cá thể, mỗi loài, mỗi chi vẫn có một môi trường và một quần thể, một quần xã
lại có một môi trường rộng lớn hơn [25].
Môi trường là những gì cần thiết cho điều kiện sinh tồn của sinh vật.
Theo định nghĩa này thì rất hẹp, bởi vì trong thực tế có yếu tố này là cần
thiết cho loài này nhưng không cần thiết cho loài kia dù cùng sống chung
một nơi, hơn nữa cũng có những yếu tố có hại hoặc không có lợi vẫn tồn tại và tác
động lên cơ thể và ta không thể loại trừ nó ra khỏi môi trường tự nhiên.
Môi trường là một phần của ngoại cảnh, bao gồm các hiện tượng và các
thực thể của tự nhiên..., mà ở đó, cá thể, quần thể, loài... có quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp bằng các phản ứng thích nghi của mình. Từ định nghĩa này ta có thể phân

biệt được đâu là môi trường của loài này mà không phải là môi trường của loài
khác. Chẳng hạn như mặt biển là môi trường của sinh vật màng nước
(Pleiston và Neiston), song không phải là môi trường của những loài sống ở đáy
sâu hàng ngàn mét và ngược lại [31].
Đối với con người, môi trường chứa đựng nội dung rộng hơn. Theo định
nghĩa của UNESCO (1981) thì môi trường của con người bao gồm toàn bộ các hệ
thống tự nhiên và các hệ thống do con người tạo ra, những cái hữu hình (đô thị, hồ
chứa...) và những cái vô hình (tập quán, niềm tin, nghệ thuật...), trong đó con người
sống bằng lao động của mình, họ khai thác các tài nguyên thiên nhiên và nhân tạo
nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Như vậy, môi trường sống đối với con
người không chỉ là nơi tồn tại, sinh trưởng và phát triển cho một thực thể sinh vật là
con người mà còn là “khung cảnh của cuộc sống, của lao động và sự nghỉ ngơi của
con người”.
Cấu trúc môi trường tự nhiên gồm 4 thành phần cơ bản (4 môi trường
chính) như sau:
- Thạch quyển hoặc địa quyển hoặc môi trường đất (Lithosphere): bao gồm
lớp vỏ trái đất có độ dày 60-70 km trên phần lục địa và từ 2-8 km dưới đáy đại
dương và trên đó có các quần xã sinh vật.


- Thủy quyển (Hydrosphere) hay còn được gọi là môi trường nước (Aquatic
environment): là phần nước của trái đất bao gồm nước đại dương, sông, hồ,
suối, nước ngầm, băng tuyết, hơi nước trong đất và không khí.
- Khí quyển (Atmosphere) hay môi trường không khí: là lớp không khí bao
quanh trái đất.
- Sinh quyển (Biosphere) hay môi trường sinh vật: gồm động vật, thực vật và
con người, là nơi sống của các sinh vật khác (Sinh vật ký sinh, cộng sinh, biểu
sinh ...) [54].
Căn cứ vào luật bảo vệ môi trường do Quốc hội khóa XI (ngày 29 tháng 11
năm 2005) thông qua thì: “Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân

tạo bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống sản xuất, sự tồn tại, phát triển
của con người và sinh vật” [35].
1.1.1.1. Môi trường sống
Môi trường sống là tổng các điều kiện bên ngoài có ảnh hưởng tới sự sống và
sự phát triển của các cơ thể sống.
Môi trường sống của con người là tổng hợp các điều kiện vật lý, hóa học,
sinh học, xã hội bao quanh con người và có ảnh hưởng tới sự sống, sự phát triển của
từng cá nhân và toàn bộ cộng đồng người. Các thành phần của môi trường sống có
ảnh hưởng trực tiếp tới con người trên trái đất gồm sinh quyển, thủy quyển, khí
quyển và thạch quyển [6].
1.1.1.2. Môi trường đất
Môi trường đất là nơi trú ngụ của con người và hầu hết các sinh vật cạn,
là nền móng cho các công trình xây dựng dân dụng, công nghiệp và văn hóa
của con người.
Đất là một nguồn tài nguyên quý giá, con người sử dụng tài nguyên đất vào
hoạt động sản xuất nông nghiệp để đảm bảo nguồn cung cấp lương thực thực phẩm
cho con người. Nhưng với nhịp độ gia tăng dân số và tốc độ phát triển công nghiệp
và hoạt động đô thị hoá như hiện nay thì diện tích đất canh tác ngày càng bị thu hẹp,
chất lượng đất ngày càng bị suy thoái, diện tích đất bình quân đầu người giảm.
Khi nghiên cứu về môi trường đất chúng ta nghiên cứu trên bề mặt trái đất và
sâu vào lòng đất từ 60-70 km. Ngoài biển khơi chúng ta nghiên cứu đến phía dưới
đáy sâu nhất của biển từ 2-8 km.[16], [36].


1.1.1.3. Môi trường nước
Môi trường nước bao gồm tất cả các loại nguồn nước như: nước đại dương,
sông hồ, nước đóng băng, nước ngầm,…
1.1.1.4. Môi trường không khí
Môi trường không khí (Khí quyển) là lớp không khí bao phủ xung quanh bề
mặt trái đất có khối lượng 5,2.108 kg < 0,0001 % trọng lượng trái đất.

Khí quyển có tác dụng duy trì sự sống trên trái đất, ngăn chặn tác động độc
hại của các tia tử ngoại, tia hồng ngoại hay các sóng từ. Khí quyển đóng vai trò
quan trọng trong việc giữ cân bằng nhiệt lượng của trái đất thông qua quá trình hấp
thụ tia tử ngoại phản xạ từ mặt trời và phản xạ tia nhiệt từ mặt đất lên. Khí quyển ở
tầng thấp có chức năng cung cấp oxy và dioxitcacbon cần thiết cho sự sống trên trái
đất, cung cấp nitơ cho quá trình cố định đạm ở thực vật và là môi trường vận
chuyển nước từ đại dương vào đất liền, tham gia vào quá trình tuần hoàn nước.
Thành phần không khí bao gồm 78,09 % thể tích khí N2; 20,94 % thể tích khí
O2; 1-4 % thể tích hơi nước; 0,03 % thể tích CO2; các khí trơ khác như Xe, He, H2 [41].
1.1.1.5. Môi trường lao động
Môi trường lao động bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội mà trong đó con
người tiến hành các hoạt động lao động chân tay và trí óc của mình [13].
1.1.1.6. Môi trường xã hội
Môi trường xã hội là tổng thể các quan hệ giữa người với người tạo nên sự
thuận lợi hoặc trở ngại cho sự tồn tại và phát triển của các cá nhân và cộng đồng
loài người [5].
1.1.1.6. Môi trường lao động
Môi trường lao động bao gồm các yếu tố tự nhiên và xã hội mà trong đó con
người tiến hành các hoạt động lao động chân tay và trí óc của mình [11].

Ô nhiễm môi trường
Trước khi tìm hiểu về ô nhiễm môi trường chúng ta cần biết về tiêu chuẩn
môi trường. Trong bộ môn khoa học môi trường, tiêu chuẩn môi trường được hiểu
là những chuẩn mực cần thiết đảm bảo để thành phần môi trường đó phù hợp với
đối tượng sử dụng nó. Cụ thể như đối với môi trường nước thì tiêu chuẩn nước
phục vụ sinh hoạt khác với tiêu chuẩn nước phục vụ nông nghiệp, tiêu chuẩn nước


sinh hoạt nói chung như tắm giặt, ăn uống,… lại khác với chất lượng nước yêu cầu
cho công nghiệp thực phẩm (nước giải khát), nước y tế,...

Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm
tiêu chuẩn môi trường [19].
Chất gây ô nhiễm là những nhân tố làm cho môi trường trở thành độc
hại. Thông thường, tiêu chuẩn môi trường là những chuẩn mực, giới hạn cho phép
được quy định dùng làm căn cứ để quản lý môi trường.
Sự ô nhiễm môi trường có thể là hậu quả của các hoạt động tự nhiên như
hoạt động núi lửa, thiên tai, lũ lụt, bão,… hoặc các hoạt động do con người thực
hiện trong công nghiệp, giao thông và trong sinh hoạt [9].
1.1.2.1. Ô nhiễm không khí
Ô nhiễm không khí là sự có mặt của các chất trong khí quyển sinh ra từ hoạt
động của con người hoặc các quá trình tự nhiên và nếu nồng độ đủ lớn và thời gian
đủ lâu chúng sẽ ảnh hưởng đến sự thoải mái, dễ chịu, sức khỏe hoặc lợi ích của con
người hoặc môi trường.
• Ô nhiễm không khí do bụi
Bụi là tập hợp nhiều hạt có kích thước nhỏ bé, tồn tại lâu trong không khí
dưới dạng bụi bay, bụi lắng và các hệ khí dung nhiều pha gồm hơi, khói, mù.
Về mặt sinh học bụi gây tổn hại cho da, mắt, gây nhiễm trùng và dị ứng,
… Đặc biệt với kích thước nhỏ hơn 10 µm, bụi gây tổn thương cho cơ quan hô
hấp, nhất khi phổi nhiễm bụi thạch anh do hít phải không khí có chứa bụi bioxit
silic lâu ngày [22], [43].
1.1.2.2. Ô nhiễm tiếng ồn
Ô nhiễm tiếng ồn là tập hợp những âm thanh có cường độ và tần số khác
nhau, được sắp xếp một cách không có trật tự, gây ra cảm giác khó chịu cho
người nghe, cản trở người ta làm việc và nghỉ ngơi.
Nói cách khác, tất cả các âm thanh có tác dụng kích thích quá mức,
hoặc xảy ra không đúng lúc, đúng chỗ, cản trở con người hoạt động và nghỉ
ngơi đều bị coi là tiếng ồn.
Tần số của tiếng ồn cũng như tần số âm được đo bằng số lần rung động
trong một giây, đây là âm thanh cộng hưởng, đơn vị tính là hertz (Hz). Tai ta có
thể tiếp thu được các âm thanh từ 16-20.000 Hz, ở mức 16 Hz tai ta đã cảm nhận



được và ở mức 20.000 Hz là ngưỡng chịu đựng cuối cùng của tai những người
bình thường. Mức nghe bình thường là khoảng từ 500-5.000 Hz, khả năng tách
âm của tai ta giới hạn từ 0,3 đến 1 % Hz.
Về biên độ của tiếng ồn cũng là sự cộng hưởng của các biên độ hay
cường độ âm thanh cụ thể. Xuất phát từ áp lực của âm thanh lên thính giác chúng
tạo ra một năng lượng âm Egr/cm2/s, 1 Egr/cm2/s: 6,4 Bar (Bar là đơn vị đo áp
lực dễ thực hiện). Thông thường ngưỡng cảm ứng với áp lực âm thanh (tiếng
ồn) của tai ta là từ 109 Egr/cm2 còn ngưỡng đau tai ta không chịu được là đến
10+4 Egr/cm2/s. Trên cơ sở này người ta lấy khoảng cách từ 109-10+4 bao gồm 13
bậc và lấy làm đơn vị thể hiện cường độ của tiếng ồn, nó sẽ được quy định là 13
Bell. Trong thực hành vệ sinh lao động người ta còn chia nhỏ ra thành Dexibell
(dB) để dễ ứng dụng [35].

Khái niệm về sức khỏe và bệnh nghề nghiệp
Theo tổ chức y tế thế giới (WHO – World Health Organization), Sức khỏe là
trạng thái thoải mái dễ chịu toàn diện về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải
chỉ bao gồm có tình trạng không bệnh hay thương tật. Có một sức khỏe tốt nhất là
một trong những quyền cơ bản của con người dù thuộc bất kỳ chủng tộc, tôn giáo,
chính kiến chính trị hay điều kiện kinh tế – xã hội nào [64].
Sức khỏe là một đặc điểm, một nhu cầu thiết yếu đồng thời là một trong
những quyền cơ bản của con người. Mọi người đều có nghĩa vụ bảo vệ và nâng cao
sức khỏe cá nhân và cộng đồng. Sức khỏe cũng là một tài nguyên cơ bản mà mọi
người cũng như cộng đồng đều có trách nhiệm bảo vệ, khai thác và sử dụng hợp lý
hơn bất cứ loại tài nguyên nào khác [4].
Bệnh nghề nghiệp là hiện trạng bệnh lý mang tính chất đặc trưng nghề
nghiệp hoặc liên quan đến nghề nghiệp. Do tác hại thường xuyên và kéo dài của
điều kiện lao động xấu.
Thông thường, người ta hiểu bệnh nghề nghiệp mang tính chất đặc trưng

của một nghề nào đó do yếu tốc độc hại trong nghề tác động thường xuyên lên cơ
thể người lao động, gây nên những rối loạn bệnh lý cấp hoặc mạn tính. Có thể nói
bệnh nghề nghiệp là một trong các loại bệnh môi trường bao gồm cả tình trạng
cấp tính và mạn tính (nhiễm độc cấp tính do oxytcarbon, viêm phế quản mạn tính


trong môi trường có nhiều bụi) [34], [39].

Ảnh hưởng của ô nhiễm tiếng ồn lên con người
1.1.4.1. Tác hại toàn thân
Những ảnh hưởng của tiếng ồn lên cơ thể con người được đặc biệt quan tâm
bởi ngày nay ô nhiễm tiếng ồn càng trở nên nghiêm trọng do sự phát triển của
nghành công nghiệp xây dựng, giao thông vận tải và sự gia tăng dân số. Mức tiếng
ồn từ 50 dBA trở lên ở các khu nhà ở có thể gây ra các rối loạn một số quá trình
thần kinh ở vỏ não. Chỉ những tiếng ồn ở mức 40-45 dBA là không gây ra những
biến đổi đáng kể nào về mặt chức phận ở con người.
Tiếng ồn gây tác hại toàn thân trên cơ thể người tiếp xúc thường gặp nhất
là rối loạn sinh lý cấp tính và mạn tính. Nguyên nhân của hiện tượng này là do
tiếng ồn kích thích thần kinh trung ương dẫn đến hiện tượng mất cân bằng trong
điều chỉnh hệ thần kinh thực vật gây nên suy nhược cấp tính hệ thần kinh thực vật
của cơ thể. Quá trình suy nhược kéo dài sẽ chuyển sang giai đoạn mạn tính bởi lẽ
tác động của tiếng ồn thường xuyên, sự kích thích liên tục, quá trình ức chế xuất
hiện do ngưỡng đáp ứng của hệ thần kinh tăng lên, xuất hiện và ức chế bảo vệ, hệ
thần kinh ngoại tiên có thể bị viêm và khả năng điều hoà của hệ thần kinh thực vật
có thể bị rối loạn.
Về tim mạch, thường có những biểu hiện như đau vùng trước tim, đánh
trống ngực, hạ huyết áp tâm thu, mạch chậm,... Nếu khám thực thể có thể thấy
dấu hiệu hưng phấn cơ quan tiền đình (điều khiển thăng bằng và định hướng), cơ
lực giảm, run mi mắt, run các đầu chi, giảm phản xạ xương khớp, dấu hiệu
vạch da đỏ lâu mất, mạch và huyết áp không ổn định, điện tâm đồ có những

thay đổi bất thường,... Các triệu chứng trên đây là những dấu hiệu chủ yếu của
một bệnh được gọi là bệnh ồn. Hậu quả của những rối loạn bệnh lý trên đây là
sức khỏe bị giảm sút, giảm khả năng lao động và tạo tiền đề cho những bệnh lý
tiếp theo [12], [14].
1.1.4.2. Tác hại tới cơ quan thính giác
Những âm thanh rất mạnh và đột ngột như tiếng bom, tiếng súng lớn,
tiếng mìn nổ,... có thể gây rách màng nhĩ, xô đẩy lệch các xương nhỏ ở tai
giữa, làm tổn thương cả tai trong, máu chảy ra ngoài tai, gây đau nhức dữ dội.


Các thương tổn này có thể phục hồi nhờ điều trị tích cực, nhưng chức năng
nghe của tai vẫn bị giảm sút nhiều.
Trong điều kiện lao động sản xuất, tổn thương bệnh lý ở cơ quan
thính giác thường xảy ra một cách từ từ, qua nhiều giai đoạn và khó phục hồi.
Hậu quả sau cùng là gây ra điếc nghề nghiệp. Điếc nghề nghiệp diễn biến rất
chậm, hàng chục năm. Chậm nhưng vẫn tiến triển và không có quy luật về thời
gian. Diễn biến lâm sàng có thể chia ra thành các giai đoạn sau:
Giai đoạn thích nghi là thời gian mới tiếp xúc với tiếng ồn quá tiêu
chuẩn cho phép, ngưỡng nghe tạm thời tăng lên khoảng 10-15 dBA so với bình
thường (10 dBA) như vậy lúc này ngưỡng nghe khoảng 20-25 dBA, tuy nhiên
nếu tách ra khỏi môi trường có tiếng ồn cao thì ngưỡng nghe trở lại bình
thường (hồi phục).
Giai đoạn mệt mỏi thính giác: do thính giác chịu tác động quá lâu,
ngưỡng nghe tăng lên 30-40 dBA kéo dài nên khi ra khỏi môi trường lâu mới
hồi phục lại bình thường.
Giai đoạn điếc nghề nghiệp: cơ quan thính giác bị tổn thương không hồi
phục mặc dù người bệnh được đưa ra khỏi môi trường có tiếng ồn vượt tiêu
chuẩn cho phép. Cả cơ quan Cotri và dây thần kinh thính giác ở tai trong đều
bị tổn thương [16], [26].


Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí
1.1.5.1. Ảnh hưởng lên sức khỏe con người và động vật sống trên mặt đất
Ô nhiễm không khí đối với cơ thể con người và động vật trước hết là qua
đường hô hấp cũng như là tác động trực tiếp lên mắt và lên da của cơ thể. Nguy
hiểm nhất là một số chất ô nhiễm không khí gây bệnh ung thư. Tác động của các
chất ô nhiễm vào đường hô hấp mạnh hay yếu, một phần còn phụ thuộc vào sự
hoà tan của chúng trong nước. Nếu các chất ô nhiễm có tính hoà tan trong nước
thì khi ta hít thở không khí, chúng sẽ hoà tan với dung dịch lỏng trên đường hô
hấp và gây tác động lên cơ quan này. Tính chất xâm nhập vào phổi của nhiều loại
chất ô nhiễm còn liên quan đến sự có mặt của các khí dung trong không khí. Bình
thường các chất ô nhiễm này không xâm nhập vào sâu trong khí quản và phế quản
nhưng nhờ có các khí dung hấp thụ mà có khả năng thâm nhập vào sâu hơn trong


phổi và cho đến tận các phế nang.
Những nghiên cứu dịch tễ học cho thấy một hàm lượng lớn các chất ô
nhiễm không khí góp phần vào hoặc gây ra những bệnh liên quan đến đường hô
hấp. Một nghiên cứu của Đại học Harvard cho thấy hàng năm có khoảng 60.000
người chết do các bệnh có liên quan đến ô nhiễm không khí dạng hạt bụi. Riêng
tại nước Mỹ có tới 28 triệu người mắc các bệnh hô hấp mãn tính nhưng vẫn
thường xuyên phải tiếp xúc với khói mù độc hại hàng ngày làm cho bệnh tật của
họ càng trên trở nên trầm trọng hơn [18].
Ô nhiễm môi trường không khí đã làm tăng tỷ lệ số người mắc các bệnh về
hô hấp (viêm họng, viêm mũi, viêm xoang), bệnh hô hấp dưới (viêm phổi, hen,
lao), bệnh suy nhược thần kinh, bệnh đau đầu, bệnh tim mạch, bệnh ngoài da,
bệnh về mắt và các chứng dị ứng. Ở nơi nào môi trường không khí càng bị ô
nhiễm nặng thì tỷ lệ người mắc bệnh càng lớn. Với những tác nhân gây ô nhiễm
khác nhau thì gây ra những ảnh hưởng khác nhau về bản chất và mức độ lên cơ
thể người và động vật. Cụ thể như sau:
- Cacbon monoxit: có tác dụng mạnh với hemoglobin (mạnh gấp 250 lần

so với oxy), lấy oxy của hemoglobin và tạo thành cacboxyhemoglobin, làm
mất khả năng vận chuyển oxy của máu và gây ra ngạt.
Nhiễm độc cấp CO thường bị đau đầu, ù tai, chóng mặt, buồn nôn, mệt
mỏi, co giật, rồi bị hôn mê. Nếu bị nhiễm nặng thì bị hôn mê ngay, chân tay
mềm nhũn, mặt xanh tím, bị phù phổi cấp. Nhiễm độc mãn tính CO thường bị
đau đầu dai dẳng, chóng mặt, mỏi mệt, sút cân.
- Sulfur dioxit: với nồng độ thấp gây kích thích hô hấp. Với nồng độ cao
gây ra bệnh tật và có thể tử vong.
- Khí clo: có tác dụng đoạn trên của đường hô hấp. Khí clo gây độc hại
cho người và động vật. Tiếp xúc với môi trường có nồng độ clo cao sẽ bị xanh
xao, vàng vọt, bệnh tật và có thể bị chết.
- Chì và các hợp chất của chì: Chì rất độc đối với người. Chì qua
đường hô hấp, tiêu hóa và gây độc cho hệ thần kinh, sự tạo máu và làm rối
loạn tiêu hóa. Người bị nhiễm chì có thể bị đau bụng, táo bón, kèm theo
huyết áp cao, suy nhược thần kinh, rối loạn cảm giác, tê liệt, giảm bạch cầu,
viêm dạ dày, viêm ruột,…


- Nitơ dioxit: Khí NO2 với nồng độ 100 ppm có thể làm chết người chỉ sau
vài phút, với nồng độ 5 ppm có thể gây tác hại bộ máy hô hấp sau mấy phút tiếp
xúc, với nồng độ 15-50 ppm gây nguy hiểm cho tim, phổi, gan sau vài giờ tiếp
xúc, với nồng độ khoảng 0,06 ppm cũng có thể gây bệnh phổi cho người nếu
tiếp xúc lâu dài. Đây là loại khí gây nguy hại nhiều cho người [19].
- Bụi có thể gây ra một số bệnh như:
+ Bệnh phổi nhiễm bụi: do người hít thở bụi khoáng, bụi amiang, bụi than
và kim loại. Người sẽ bị xơ phổi, suy giảm chức năng hô hấp.
+ Bệnh ở đường hô hấp: Tùy theo nguồn gốc các loại bụi mà gây ra
bệnh viêm mũi, họng, phế quản. Bụi hữu cơ như bông, gai, đay dính vào niêm
mạc gây viêm phù thụng tiết nhiều niêm dịch, về lâu dài bụi gai lanh có thể gây
viêm loét lòng khí phế quản.

Bụi vô cơ rắn có cạnh góc sắc nhọn lúc đầu thường gây ra viêm mũi làm
cho niêm mạc đầy lên, tiết nhiều niêm dịch, hít thở khó. Sau vài năm chuyển
thành viêm mũi teo, giảm chức năng lọc giữ bụi của mũi, gây ra bệnh phổi
nhiễm bụi. Bụi crom, asen gây viêm loét thủng vách mũi vùng trước sụn lá mía.
Bụi len, bột thuốc kháng sinh gây dị ứng, gây ra viêm mũi, viêm phế quản, hen,…
Bụi mangan, phốt phát, bicromat kali, gỉ sắt gây ra bệnh viêm phổi, làm
thay đổi tính miễn dịch sinh hóa của phổi. Một số bụi kim loại có tính phóng xạ
gây ra bệnh ung thư phổi như bụi uran, coban, crom, nhựa đường.
+ Bệnh ngoài da: Bụi đồng gây ra bệnh nhiễm trùng da rất khó chữa. Bụi
tác động các tuyến nhờn làm cho da bị khô gây ra các bệnh ở da như trứng cá,
viêm da. Loại bệnh này các thợ đốt lò hơi, thợ máy sản xuất xi măng sành sứ hay
bị mắc phải.
Bụi gây kích thích da, sinh mụn nhọt lở loét như bụi vôi, bụi dược phẩm,
thuốc trừ sâu, đường. Bụi nhựa than dưới tác dụng của ánh nắng làm cho da
sưng tấy bỏng, ngứa, mắt sưng đỏ, chảy nước mắt. Bụi còn gây chấn thương
mắt, viêm màng tiếp hợp, viêm mi mắt,… Bụi kiềm, bụi axit có thể gây ra bỏng
giác mạc, để lại sẹo, làm giảm thị lực, nặng hơn có thể bị mù.
+ Bệnh ở đường tiêu hóa: bụi đường, các loại bột có thể gây sâu răng, làm
hỏng men răng. Bụi kim loại, bụi khoáng to nhọn có cạnh sắc đi vào dạ dày gây
viêm niêm mạc dạ dày, rối loạn tiêu hóa. Bụi chì gây ra bệnh thiếu máu, giảm


hồng cầu và gây rối loạn thận.
Bụi vi sinh vật có nhiều tác hại tới sức khỏe con người, gây ra các bệnh
dịch, bệnh đường hô hấp, bệnh đau mắt và bệnh đường tiêu hóa.
Theo các nghiên cứu mới đây cho biết, các hạt rất nhỏ trong không khí
bị ô nhiễm có thể gây ra hiện tượng vón cục trong máu vì khi phổi bị sưng tấy
do ô nhiễm không khí đã tiết ra Interleukin - 6, đây là một hợp chất thuộc hệ
thống miễn dịch dẫn tới chứng viêm tấy và dường như làm vón cục máu.
Với động vật được chăn nuôi cũng như động vật hoang dã đều nhạy cảm

đối với ô nhiễm môi trường không khí lớn hơn con người. Ở một số nước công
nghiệp lớn, một số loài động vật đã bị diệt vong vì ô nhiễm môi trường [20], [33].
1.1.5.2. Ảnh hưởng của ô nhiễm không khí đối với thực vật
Những thành phần ô nhiễm trong môi trường không khí như sulfurơ SO 2,
hydro florua HF, natri clorua NaCl, các hơi, bụi từ công nghiệp luyện đồng, chì,
kẽm, nhuộm,… Đặc biệt là hơi khí bốc ra từ các lò nung vôi, nung gạch thủ công,
ngay cả khi nồng độ của chúng còn thấp cũng đã làm chậm quá trình sinh trưởng
của thực vật, nồng độ cao làm vàng lá, làm hoa quả bị lép, bị nứt, bị thúi và mức
độ cao hơn thì lá cây cũng như hoa quả đều bị rụng, chết hoại. Các loại bụi đất đá
bám vào cây lá nhiều cũng ảnh hưởng đến sinh trưởng của thực vật vì làm giảm
quá trình lục diệp hoá quang hợp của cây.
Hầu hết các chất ô nhiễm trong môi trường không khí đều có tác hại xấu
đến thực vật, gây ảnh hưởng có hại đối với nghề nông và nghề làm vườn. Các loại
tác hại do chất ô nhiễm không khí có thể gây ra cho thực vật là: chết hoại, tổn hại
sắc tố và tác động đến sự sinh trưởng, phát triển. Trong đó, biểu hiện chính là làm
cho cây trồng chậm phát triển đặc biệt là sương khói quang hoá đã gây tác hại rất
lớn đối với các loại rau: rau diếp, đậu Hà Lan, lúa, ngô, các loại cây ăn quả và các
loại phong lan.
Tuy nhiên, cũng có chất ô nhiễm có tác dụng tốt đối với thực vật, có tác
dụng tăng cường sinh trưởng cây, đặc biệt là đối với các loại tảo như là các chất
photpho, nitơ và cacbon. Nhưng trong truờng hợp chúng làm kích thích sự phát
triển thì chúng lại phát triển các lá quá nhanh, là nguyên nhân làm cho các phiến là
bị quăn xoắn lại.
1.1.5.3. Ảnh hưởng đối với vật liệu


Chất ăn mòn kim loại nhiều nhất là SO2. Nó ăn mòn gián tiếp hợp kim
cứng như thép ở nồng độ trung bình 0,002 ppm. Ở nồng độ 0,009 ppm SO 2 có tác
dụng đối với vải sơn, tranh ảnh, công trình xây dựng. Giấy cũng đổi màu do SO 2
tác đồng làm chúng trở nên giòn và dễ rác. Sương mù H 2SO4 làm hư hỏng và làm

giảm giá trị các vật liệu xây dựng như đá cẩm thạch và đá vôi.
NOx gây thiệt hại đối với các loại bông tơ nhân tạo ở nồng độ 0,6-2 ppm
trong vòng 2-3 tháng. Khi có hơi ẩm, các hạt Nitrat (từ HNO 3) được hấp thụ làm
biến chất các hợp kim đồng-niken, gây cứng giòn cao su.
Bụi gây bẩn quần áo, nhà cửa và các vật dụng, có tác dụng tăng cường han
gỉ kim loại đặc biệt là bụi than, bụi xi măng có chứa SO2 [6], [33].
1.1.5.4. Ảnh hưởng đến khí hậu
Ô nhiễm môi trường không khí không những gây ảnh hưởng xấu đối với
khí hậu khu vực mà còn gây ảnh hưởng tới khí hậu toàn cầu.
- Hiệu ứng nhà kính: Các khí nhà kính (greenhouse gas) gồm cacbon dioxit
(CO2), metan (CH4), các khí cloflocacbon (CFC), các khí oxit nitơ (NO X), ozon (O3)
có đặc tính không hấp thu các bức xạ sóng ngắn của mặt trời mà nó giữ lại các bức
xạ hồng ngoại (sóng dài) phản xạ từ trái đất, ngăn không cho năng lượng thoát ra
ngoài không gian, làm nhiệt độ khí quyển tăng lên. Nhiệt độ trái đất đã tăng lên
khoảng 0,5 oC trong 100 năm qua. Hậu quả trực tiếp của sự gia tăng hiệu ứng nhà
kính là gia tăng nhiệt độ môi trường toàn cầu và dẫn đến những ảnh hưởng đến đời
sống kinh tế và hệ thống sinh thái toàn cầu. Các sinh vật không thích nghi được với
tốc độ gia tăng nhiệt độ sẽ bị suy thoái. Hạn hán, lũ lụt, bão sẽ diễn ra thường xuyên
hơn, mạnh hơn, mực nước biển dâng cao, ngập lụt vùng đồng bằng, xói mòn bờ
biển, muối hóa cửa biển, biến động trầm tích,…
- Mưa axit: Mưa axit hình thành do các khí SO X, NOX, Cl2,… phản ứng với
hơi nước trong khí quyển tạo thành các axit H 2SO3, H2SO4, HNO3, HCl, HNO2,
… làm các giọt mưa mang tính axit (pH ≤ 5). Mưa axit làm tăng độ axit của đất,
hòa tan và rửa trôi các nguyên tố dinh dưỡng trong đất (Ca, Mg, K), hòa tan các
kim loại độc hại (Hg, Cd, Al,…), hủy hoại mùa màng, gây độc cho ao hồ, ô
nhiễm nước ngầm. Mưa axit gây nguy hại đối với người và động vật, làm hỏng
công trình xây dựng.


- Tầng ozon và lỗ thủng tầng ozon: Ozon tập trung nhiều nhất trong tầng

bình lưu của khí quyển (ở độ cao khoảng 25 km). Tầng ozon ở trạng thái bình
thường ngăn được 90 % tia tử ngoại loại B (UVB) (bước sóng λ = 280-320 nm) do
mặt trời chiếu xuống trái đất. Tuy nhiên khi trong không khí có các chất có khả
năng phản ứng với ozon trên tầng bình lưu dưới tác động của các tia tử ngoại, làm
giảm nồng độ ozon tại một số nơi trên trái đất (Nam cực). Các chất phá hủy tầng
ozon là dẫn xuất halogen của hydrocacbon được ứng dụng nhiều như CFCs
(cholorofluorocarbons) như CFC-11 (CFCl3) và CFC-12 (CF2Cl2) dùng làm tác
nhân lạnh, dung môi tẩy rửa, chất đẩy, chất tạo xốp,… halon 1301 là hóa chất chữa
cháy, cacbon tetraclorua (CCl4), metyl cloroform (C2H3Cl3) dùng làm dung môi,
metyl bromua (CH3Br) dùng làm chất diệt khuẩn, bảo quản lương thực, chất phụ gia
cho nhiên liệu vận tải, các hợp chất oxit nitơ (NO X) là sản phẩm của đốt cháy nhiên
liệu. Ozon ở tầng bình lưu suy giảm làm tăng các tia tử ngoại loại B (UV-B) trên bề
mặt trái đất gây bệnh ung thư da, đục thủy tinh thể cho con người và động vật, làm
biến đổi gen các sinh vật, ảnh hưởng đến hệ thống miễn dịch, hủy hoại hệ sinh thái
trên trái đất.
Riêng với khí hậu địa phương, ô nhiễm không khí gây ra những ảnh hưởng sau:
- Tăng cao nhiệt độ
Nhiệt độ tối thiểu trong ngày ở vùng đô thị cao hơn vùng nông thôn xung
quanh 2-5 oC và nhiệt độ trung bình năm thường cao hơn 0,5-1,3 oC. Nguyên nhân
là do đốt nhiên liệu và các quá trình sản xuất theo phương pháp gia công nhiệt đã
tỏa lượng nhiệt lớn vào môi trường không khí, đồng thời diện tích bề mặt nhà cửa,
đường xá, sân bãi chiếm nhiều, chúng hút bức xạ mặt trời nhiều hơn mặt đất có
cây xanh ở nông thôn. Mặt khác, lượng nước bốc hơi hút nhiệt ở thành phố ít hơn
ở nông thôn. Ngược lại, độ ẩm tương đối của không khí ở thành phố thấp hơn ở
nông thôn 2-8 %.
- Giảm bức xạ mặt trời và tăng độ mây
Các bụi khói, sương mù ô nhiễm môi trường không khí đô thị có tác dụng
hấp thụ 10-20 % bức xạ mặt trời và làm giảm tầm nhìn, tức là làm giảm độ trong
suốt của khí quyển. Các bụi, các sol khí do hoạt động sản xuất, giao thông và sinh
hoạt của con người thải vào không khí có khả năng tạo ra các hạt nhân ngưng

đọng hơi nước trong khí quyển. Hơi nước kết tủa ở vùng đô thị thường lớn hơn


vùng nông thôn 5-10 %.
Dựa vào các thành quả khoa học kỹ thuật ngày nay con người đã có thể
chủ động điều khiển một phần sự biến thiên của khí hậu như là phương pháp nhân
tạo làm giảm bớt sương mù ở sân bay, làm mưa nhân tạo, làm tan cơn bão,… [6].
Tình hình nghiên cứu
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Vào thế kỷ XX, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là nền tảng thúc đẩy sự
phát triển kinh tế công nghiệp và cải tiến mạng lưới giao thông toàn cầu nhưng kéo
theo nó là thách thức về ô nhiễm môi trường mà điển hình là ô nhiễm tiếng ồn và ô
nhiễm không khí. Cuối thế kỷ này, ảnh hưởng của tiếng ồn đối với con người và
động vật được chú ý nghiên cứu một cách có hệ thống. Ở Pháp, Paracella (1962) đã
nghiên cứu về bệnh điếc nghề nghiệp trên công nhân cơ khí. Ông cho rằng dưới tác
động của tiếng ồn trong điều kiện lao động sản xuất, năng suất lao động bị giảm sút
có thể tới 20-40 % so với môi trường lao động yên tĩnh, và tai nạn lao động dễ phát
sinh (tăng 10-20 %). Ở Ý, Exmassini đã nghiên cứu và mô tả ảnh hưởng xấu của
tiếng ồn lên cơ quan thính giác trên các cư dân sống ở thành phố công nghiệp. Các
nghiên cứu của Morrel (1972) trên người và động vật chứng tỏ rằng khi chịu tác
động liên tục của tiếng ồn sẽ gây trạng thái không ổn định thần kinh, dẫn đến suy
nhược, trí nhớ giảm, phản xạ không chính xác. Barr (1974) đã nghiên cứu về tác hại
của tiếng ồn ở dạng xung trên các công trường sử dụng mìn, thuốc nổ phục vụ khai
thác đá [53].
Theo công bố của thời báo Epidemiology and Community Health tại Anh thì
hai nhà khoa học Knox và Gilman đã chứng minh được mối liên hệ giữa ô nhiễm
không khí tại các khu đô thị với bệnh ung thư ở trẻ em mà cụ thể là tìm thấy một
hành lang bệnh ung thư trong vòng ba dặm từ đường cao tốc, sân bay, nhà máy điện
và những khu gây ô nhiễm khác. Các nghiên cứu đã kiểm tra trẻ em chết vì các
bệnh ung thư bạch cầu hoặc những loại khác từ năm 1953-1980, nơi họ sinh ra và

qua đời cho thấy nguy cơ lớn nhất nằm trong khoảng vài trăm mét đến các khu ô
nhiễm trên [61].
Abbey đã tiến hành một nghiên cứu trong thời gian từ năm 1973-1992 để
ước tính tác động lâu dài của PM 10 và các yếu tố môi trường khác lên sức khỏe hô


hấp của người dân. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng PM 10 có mối liên hệ chặt chẽ
đến tỉ lệ tử vong do các bệnh hô hấp ở cả hai giới [53].
Tại Mỹ, nghiên cứu về ô nhiễm không khí tập trung tại 20 đô thị lớn nhất,
liên quan đến 50 triệu dân được tiến hành trong thời gian từ 1987-1994 cho thấy
nguyên nhân tử vong tăng lên 0,5 % khi tăng 10 μg/m3 lượng PM10. Nghiên cứu
cũng ước tính ô nhiễm không khí đã làm tăng tỷ lệ tử vong do bệnh tim mạch và
hô hấp thêm 0,7 % [63].
Hoek. G tiến hành nghiên cứu trên 4492 số người tử vong trong thời gian từ
năm 1986-1994 tại Hà Lan cho thấy 489 trường hợp (11 %) liên quan đến việc sinh
sống tại những con đường giao thông chính [59].
Nghiên cứu của Rosenlund M và cộng sự năm 2001 về ảnh hưởng của tiếng
ồn máy bay lên dân cư lân cận sân bay Stockholm Arlanda cho thấy tỉ lệ tăng huyết
áp là 1,6 % khi độ ồn vượt quá 55 dBA và 1,8 % khi độ ồn vượt quá 72 dBA [62].
Năm 2004, Gauderman WJ, Frank Gilliland và cộng sự đã công bố kết quả
nghiên cứu được thực hiện trong vòng 8 năm trên 1.759 trẻ em đến từ khu vực Nam
California – nơi thường xuyên bị ô nhiễm bởi bụi hạt, khí nitơ,… cho thấy nguy cơ
thấp FEV cao hơn gần 5 lần so với tiêu chuẩn cho phép. Như vậy, tác động của môi
trường ô nhiễm đã gây những phản ứng tiêu cực đến sự phát triển phổi ở trẻ em dẫn
đến những triệu chứng lâm sàng bất thường [57].
Theo nghiên cứu của Miller KA, DS Siscovick, Sheppard L, Shepherd K,
Sullivan JH, Anderson GL, Kaufman JD thuộc đại học Washington (2007) thì nguy
cơ tử vong do đau tim hoặc đột quỵ tăng 76 % khi tăng 10 microgram lượng bụi hạt
trên một mét khối không khí. Nhận định này được đưa ra khi phân tích hồ sơ y tế
của hơn 66.000 phụ nữ sau mãn kinh sống ở 36 thành phố với thời gian tối thiểu 6

năm và ô nhiễm không khí bởi bụi hạt được đo bằng màn hình đặt gần nhà mỗi đối
tượng. Quá trình nghiên cứu cho thấy có 1.816 phụ nữ có cơn đau tim, đột quỵ
trong tổng số 66.000 [63].
Năm 2008, một nghiên cứu về mối liên quan giữa tiếng ồn và nguy cơ bệnh
tim mạch được thực hiện bởi Babisch W thuộc Cơ quan môi trường liên bang, Đức.
Kết quả cho thấy không có nguy cơ rủi ro về tim mạch ở độ ồn 60 dBA và gia tăng
rủi ro đã được tìm thấy khi tăng mức độ ồn lên trên 60 dBA [55].


×