1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ MAI ANH
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT HỮU MAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
NGHỆ AN – 2012
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
TRẦN THỊ MAI ANH
ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT HỮU MAI
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC
MÃ SỐ: 60.22.23
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. ĐINH TRÍ DŨNG
NGHỆ AN – 2012
3
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề..................................................................................................1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu....................................................................6
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu......................................................................6
5. Phương pháp nghiên cứu.................................................................................6
6. Cấu trúc luận văn.............................................................................................7
Chương 1. TỔNG QUAN VỀ SỰ NGHIỆP TIỂU THUYẾT HỮU MAI..........8
1.1. Khái niệm tiểu thuyết và ưu thế của thể loại................................................8
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết.................................................................................8
1.1.2. Đặc điểm và ưu thế của tiểu thuyết.........................................................12
1.2. Nhìn chung về con người và sự nghiệp sáng tác của Hữu Mai..................16
1.2.1 Con người Hữu Mai.................................................................................16
1.2.2. Sự nghiệp văn học...................................................................................17
1.3.Tiểu thuyết trong sự nghiệp văn học của Hữu Mai.....................................18
Chương 2. ĐẶC ĐIỂM TIỀU THUYẾT HỮU MAI NHÌN TRÊN
PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG.........................................................27
2.1.Lựa chọn đề tài............................................................................................27
2.1.1. Đề tài người chiến sĩ quân đội.................................................................28
2.1.2. Đề tài đất nước, nhân dân........................................................................35
2.2. Cảm hứng sáng tác.....................................................................................41
2.2.1. Cảm hứng sử thi......................................................................................42
2.2.2. Cảm hứng lãng mạn................................................................................48
4
2.2.3. Cảm hứng hiện thực................................................................................56
Chương 3. ĐẶC ĐIỂM TIỂU THUYẾT HỮU MAI NHÌN TRÊN
PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT..................................................66
3.1. Nghệ thuật xây dựng nhân vật....................................................................66
3.1.1 Miêu tả ngoại hình....................................................................................67
3.1.2. Miêu tả hành động...................................................................................72
3.1.3. Miêu tả nội tâm.......................................................................................80
3.2. Giọng điệu..................................................................................................88
3.2.1. Giọng ngợi ca..........................................................................................88
3.2.2. Giọng trữ tình thiết tha sâu lắng..............................................................93
3.2.3. Giọng chiêm nghiệm, triết lý...................................................................96
3.3. Ngôn ngữ nghệ thuật................................................................................100
3.3.1.Sử dụng lớp ngôn ngữ đại chúng...........................................................100
3.3.2.Sử dụng lớp ngôn ngữ quân sự, chính trị...............................................104
3.3.3.Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất thơ......................................................108
KẾT LUẬN....................................................................................................111
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................113
5
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Hữu Mai được xem là nhà văn chiến sĩ, ông được biết tới như một cây
bút trưởng thành trong khói lửa của cách mạng, kháng chiến. Ông là người đã
chấp bút những bộ hồi ức trứ danh của Đại tướng Võ Nguyên Giáp như: Từ
nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào quên, Điện Biên Phủ lịch sử
và điểm hẹn, Chiến đấu trong vòng vây… Nhắc đến Hữu Mai người ta cũng nhắc
tới những bộ tiểu thuyết đồ sộ, vang tiếng một thời như: Cao điểm cuối cùng
(1960), Vùng trời (3 tập, 1975, 1976, 1980), Đất nước (1984), Ông cố vấn (3 tập,
1985, 1987, 1990), Người lữ hành lặng lẽ (2003)…cùng những bộ phim sử thi
hoành tráng như: Hoa ban đỏ, Ông cố vấn, Nguyễn Ái Quốc ở Hồng Kông…Tìm
hiểu tiểu thuyết Hữu Mai, chúng ta sẽ hiểu hơn nền văn xuôi cách mạng trên
chặng đường vận động hơn nửa thế kỷ.
1.2. Có thể nói thành công lớn nhất trong sự nghiệp văn học của Hữu Mai
phải kể đến các tác phẩm tiểu thuyết, thể loại chủ công của văn xuôi. Tiểu thuyết
của ông khá đa dạng: tiểu thuyết sử thi, tiểu thuyết tư liệu, tiểu thuyết thế sự.
Hữu Mai là một nhà tiểu thuyết tình báo, có chân trong hiệp hội Quốc tế những
nhà tiểu thuyết tình báo. Tuy vậy, cho đến nay vẫn thiếu những công trình
nghiên cứu chuyên sâu, hệ thống về tiểu thuyết của ông. Tìm hiểu đặc điểm tiểu
thuyết Hữu Mai là đề tài cần thiết góp phần khẳng định sự nghiệp cầm bút của
nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Hữu Mai là một nhà văn được nhiều thế hệ độc giả quan tâm và yêu mến.
Tác phẩm của ông được xem như những thước phim lịch sử sống động, hấp dẫn.
Đọc tiểu thuyết của Hữu Mai người ta không thấy đau đầu và khó hiểu mà đọc
6
đến đâu hiểu trọn ý tác giả đến đó. Hữu Mai không giỏi về tiểu thuyết tâm lí.
Thành công của ông có thể nói là việc đưa những nhân vật lịch sử, sự kiện lịch
sử trở nên sống động hấp dẫn hơn với người đọc. Qua những tiểu thuyết của ông,
chúng ta như xem lại những thước phim chân thật về sự kiện, con người lịch sử.
Đó là những câu chuyện đầy kịch tính về cuộc đời, số phận người anh hùng được
tái hiện chân thực, sống động với các chi tiết chọn lọc.
Trong số những công trình nghiên cứu về tiểu thuyết Hữu Mai ta phải kể
đến lời giới thiệu bộ tiểu thuyết Vùng trời của Phan Cự Đệ, in trong Phan Cự Đệ
tuyển tập, tập 1. Bài viết dài 23 trang có nhan đề Bộ tiểu thuyết Vùng trời của
Hữu Mai đã đánh giá một cách tổng quát nhất những đặc điểm nội dung và nghệ
thuật của bộ tiểu thuyết Vùng trời. Đây cũng được xem là một công trình nghiên
cứu lớn nhất về tiểu thuyết của Hữu Mai mà chúng tôi có. Phan Cự Đệ đưa ra
vấn đề cốt lõi nhất của Vùng trời là trả lời được câu hỏi lịch sử lớn nhất một thời
đó là: “Vì sao mà không quân Việt Nạm lại có khả năng đánh thắng không quân
Mỹ trên mảnh đất của mình bằng cách đánh của người Việt Nam? Vì sao chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc lại có một sức mạnh vô địch, có khả năng đánh bại cuộc
chiến tranh hủy diệt của đế quốc Mỹ” [11, 670]. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng
chủ đề của tác phẩm là “lí tưởng yêu nước bắt nguồn từ tư tưởng “Không có gì
quý hơn độc lập tự do” được phát triển lên đỉnh cao của Chủ nghĩa xã hội là
nguồn gốc sức mạnh Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng chống Mỹ giải phóng
và thống nhất đất nước” [11, 670]. “Chúng ta chiến thắng vì chúng ta có những
thế hệ không quân yêu nước và anh hùng, vì có đường lối chiến lược chiến thuật
đúng đắn và sáng tạo, vì có sức mạnh tổng hợp của chiến tranh nhân dân” [11,
670]. Trong bộ tiểu thuyết này “ Hữu Mai đã tạo được một bút pháp trẻ trung
mềm mại khá hấp dẫn bằng cách kết hợp các yếu tố anh hùng ca và tình ca, hiện
thực và lãng mạn (…) Người đọc luôn luôn được thay đổi thực đơn, thay đổi
cảm giác, luôn luôn bị hút vào những cuộc phiêu du hấp dẫn trên bầu trời, dưới
mặt biển, những cuộc khám phá của khoa học đang tiến tới chinh phục những thế
7
giới thiên nhiên kỳ lạ” [11, 688]. Vùng trời đã sử dụng một khối lượng tư liệu
phong phú, chính xác. Với tư cách là một cuốn tiểu thuyết, nó không dừng ở sự
việc mà cố gắng đi sâu vào những mối quan hệ giữa người và người, nêu lên
những vấn đề về hạnh phúc, tình yêu, lý tưởng, đạo đức mới xã hội chủ nghĩa.
Thượng tướng Đào Đình Luyện đánh giá cao Vùng trời với giá trị lịch sử
“giá trị của bộ tiểu thuyết sử thi này là ở tính chân thật lịch sử”.
Bàn về tiểu thuyết Cao điểm cuối cùng, Thượng tướng Hoàng Văn Thái
đánh giá cao tính chân thật lịch sử và diễn biến, nhân vật đã tạo nên sức cuốn hút
người đọc: “Cuốn sách đã rung động tôi vì nó đã phản ánh được khá trung thực
cuộc chiến đấu và những con người đã viết nên một trang sử chói lọi của dân tộc.
Tính chân thật đặc biệt của bối cảnh lịch sử, sự việc diễn biến và các nhân vật
được xây dựng nên trong cuốn tiểu thuyết đã làm cho nó trở nên hấp dẫn, lôi
cuốn người đọc, đồng thời tạo ra cho Cao điểm cuối cùng trong một chừng mực
nào đó giá trị một sử liệu”. Ông cũng thẳng thắn nhận xét: “Tuy nhiên trong khi
miêu tả phân tích tinh vi những diễn biến tâm lí, tình cảm của các nhân vật cán
bộ, đặc biệt là cán bộ tiểu tư sản, Hữu Mai đã tỏ ra còn bị hạn chế khi đi sâu vào
tâm hồn của những cán bộ, những chiến sĩ xuất thân từ những thành phần cơ
bản. Điều đó đã hạn chế một phần sự thành công của anh”. Đây là những lời
nhận xét của Thượng tướng – một người từng tham gia chỉ đạo chiến dịch Điện
Biên Phủ – về Cao điểm cuối cùng được nhà xuất bản văn học đăng làm lời tựa
mở đầu cho cuốn sách. Trong Cao điểm cuối cùng, có mặt từ người chiến sĩ đến
đồng chí Tổng tư lệnh với tư cách là nhân vật văn học. Cuốn sách không chỉ
ngợi ca những người lính Việt Nam anh hùng mà còn đề cập đến những ác liệt
và mất mát trong chiến tranh mà trước đó văn học vẫn né tránh. Tiểu thuyết ra
đời năm 1960 khi đất nước còn đang gồng mình chống Mỹ, khi mà hầu hết các
tác phẩm văn học đều mang âm hưởng sử thi ca ngợi nhưng Hữu Mai đã mạnh
dạn đề cập đến những mảng tối kị. Đó là khó khăn, mất mát, là sự nhụt chí trong
8
tư tưởng người lính, là sự đào ngũ khi không còn giữ được lập trường. Đây cũng
là một nét mới và một sự mạo hiểm trong văn học thời kì này.
Tiếp theo Cao điểm cuối cùng, Vùng trời với những thành công vang dội,
Hữu Mai cho xuất bản Đất nước, cũng viết về đề tài chiến tranh cách mạng.
Cuốn tiểu thuyết này tuy được đánh giá cao nhưng không vượt qua nổi hai bóng
lớn là Cao điểm cuối cùng và Vùng trời. Nói về Đất nước, một tác giả đã nhận
xét: “Chiến tranh được miêu tả bằng một ngòi bút hiện thực nghiêm ngặt, có mặt
sáng tối, đi đôi với cái nhìn tổng quát, những lời bình giá của tác giả giúp người
đọc hiểu rõ những biến cố lịch sử của cuộc sống hòa quyện với biện chứng nhỏ
tâm hồn hồn các nhân vật tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm” [39,6].
Tiểu thuyết Ông cố vấn xuất hiện được xem là một hiện tượng chưa từng
có, là của hiếm của văn học Việt Nam. Xung quanh tác phẩm này có rất nhiều
những lời khen ngợi và những đánh giá khác nhau. Ông cố vấn có khi được xem
như một cuốn tiểu thuyết lịch sử, nhưng cũng có khi được nhắc đến là một tiểu
thuyết tình báo. Với tác phẩm này ông được bạn đọc trong nước và quốc tế biết
đến với tư cách là một nhà tiểu thuyết tình báo, một nhà văn viết truyện trinh
thám tầm cỡ. Đây là một hiện tượng “chưa từng thấy trong lịch sử văn học
những năm sau đổi mới” (Ngô Vĩnh Bình). Một số nhà nghiên cứu như Nguyễn
Đăng Mạnh, Bùi Duy Tân…xem Ông cố vấn rất có giá trị ở phương diện một
tiểu thuyết tình báo (Từ điển tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà
trường).
Tiểu thuyết Không phải huyền thoại là cuốn tiểu thuyết cuối cùng trong sự
nghiệp cầm bút của Hữu Mai. Cuốn tiểu thuyết được ra đời trong cuộc “vận
động sáng tác về đề tài chiến tranh Cách mạng và lực lượng vũ trang nhân dân”
(2001 - 2004). Nó trở thành một trong mười cuốn sách xuất sắc nhất được Tổng
cục chính trị tặng bằng khen. Ông đang sửa lại bản thảo Không phải huyền thoại
lần hai thì lâm bệnh nặng và qua đời. Không phải huyền thoại được đến với độc
giả là do nhà thơ, nhà báo Hữu Việt (con trai nhà văn) cung cấp cho nhà xuất bản
9
Quân đội để in lần đầu tiên. Không phải huyền thoại là cuốn tiểu thuyết lịch sử
đầu tiên về Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống
Pháp và cao trào chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Nhận định về Không phải
huyền thoại ta phải kể đến những bài viết Không phải huyền thoại đăng trên
www.baomoi.com, Không phải huyền thoại và những tiết lộ thú vị đăng trên
www.tinmoi.vn cùng một số bài đăng trên báo Tuổi trẻ, báo Quân đội nhân dân.
Bài viết Không phải huyền thoại trên www.baomoi.com nhận xét đây là “một
quyển sách công phu và chân thực khiến người đọc tưởng như cảm thấy hơi thở
của lịch sử rất gần đây”. Còn bài viết Không phải huyền thoại và những tiết lộ
thú vị của báo www.tinmoi.vn nói về cuộc trò chuyện của phóng viên với con trai
cố nhà văn Hữu Mai – nhà văn, nhà báo Hữu Việt xung quanh cuốn tiểu thuyết
cuối cùng của nhà văn quân đội Hữu Mai. Hữu Việt thân mật chia sẻ: “Các nhân
vật lịch sử trong những cuốn tiểu thuyết trước đây thường có độ lùi rất xa so vời
thời gian chúng ta. Nhưng với cuốn tiểu thuyết lịch sử Không phải huyền thoại
mà cha tôi đã viết chọn Đại tướng Võ Nguyên Giáp làm trung tâm thì hình ảnh
của Đại tướng được tôn trọng tuyệt đối, dù đã được tiểu thuyết hóa. Hơn nữa,
cha tôi may mắn có nhiều năm giúp Đại tướng Võ Nguyên Giáp thể hiện những
hồi ức về chiến tranh chống Pháp. Ông cũng từng sống và lăn lộn ở chiến trường
Điện Biên Phủ nên những gì ông viết trong cuốn tiểu thuyết được xem như một
góc nhìn riêng của nhà văn về Đại tướng Võ Nguyên Giáp”. Bài báo đã có
những tiết lộ thú vị về hình ảnh vị Đại tướng trong cuốn tiểu thuyết và những
điểm nhấn của nó.
Các tác phẩm của Hữu Mai hầu hết là tiểu thuyết về đề tài chiến tranh
cách mạng. Các tác phẩm đó đều được xâu chuỗi bởi cảm hứng lãng mạn, hiện
thực và lí tưởng cách mạng. Phần lớn nhân vật của ông đều đẹp về tâm hồn và
nhân cách. “Họ đúng như ta từng biết, từng tưởng tượng và thú vị thay họ cũng
chả phải như ta nghĩ. Họ là người khác thường độc đáo và họ cũng là người bình
thường” (Nguyên An).
10
Hữu Mai là một nhà văn có tài và có tâm trong sự nghiệp văn học. Ông
khiêm tốn chỉ coi “những trang viết của mình là việc “ghi lại” những gì đã biết
về một thời kì lịch sử hiếm có, rất đẹp và rất phong phú của dân tộc mà mình
may mắn vừa là nhân chứng vừa là người trong cuộc” (Ngô Vĩnh Bình). Dù chỉ
là ghi lại nhưng bất cứ ai khi đã đọc tác phẩm của Hữu Mai đều không thể phủ
nhận tài năng và cái duyên của ông với văn học, với tiểu thuyết. Những bài viết
về Hữu Mai cũng như về những tác phẩm của ông không nhiều nhưng đó thật sự
là những gợi ý quý báu giúp chúng tôi thực hiện đề tài này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Như tên luận văn đã chỉ ra, đối tượng nghiên cứu của chúng tôi ở công
trình này là “Đặc điểm tiểu thuyết Hữu Mai”.
3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát
Luận văn chủ yếu tập trung khảo sát một số tiểu thuyết tiêu biểu của Hữu
Mai như:
- Cao điểm cuối cùng (2007), NXB Văn học
- Vùng trời (3 tập, 1994), NXB Quân đội nhân dân
- Đất nước (2003), NXB Quân đội nhân dân
- Ông cố vấn (3 tập, 1988), NXB Quân đội nhân dân
- Không phải huyền thoại (2010), NXB Trẻ
4. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn nhằm tìm hiểu những đặc điểm nổi bật của tiếu thuyết Hữu Mai
trên một số yếu tố thuộc bình diện nội dung và nghệ thuật. Qua đó nhằm khẳng
định những đóng góp của Hữu Mai trên văn đàn Việt Nam ở phương diện tiểu
thuyết về đề tài chiến tranh cách mạng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp:
- Phương pháp xã hội-lịch sử
11
- Phương pháp phân tích-tổng hợp
- Phương pháp so sánh
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính của
luận văn được triển khai thành ba chương:
Chương 1: Tổng quan về sự nghiệp tiểu thuyết của Hữu Mai
Chương 2: Đặc điểm tiểu thuyết Hữu Mai nhìn trên phương diện nội dung
Chương 3: Đặc điểm tiểu thuyết Hữu Mai nhìn trên phương diện nghệ
thuật
12
Chương 1
TỔNG QUAN VỀ SỰ NGHIỆP TIỂU THUYẾT CỦA HỮU MAI
1.1. Khái niệm tiểu thuyết và ưu thế của thể loại
1.1.1. Khái niệm tiểu thuyết
Tiểu thuyết là thể loại chủ yếu của loại hình văn xuôi tự sự. Tiểu thuyết có
tên gọi tiếng Anh là Novel. Ở Trung Quốc trước đây, tiểu thuyết được dùng chỉ
chung cho các thể loại truyện (đoản thiên tiểu thuyết, trung thiên tiểu thuyết,
trường thiên tiểu thuyết). Người Việt Nam quen gọi các truyện dài có quy mô
lớn là tiểu thuyết, còn truyện vừa và truyện ngắn thì gọi chung là truyện.Trong
lịch sử văn học nhân loại, tiểu thuyết đạt nhiều thành tựu rực rỡ. Những pho tiểu
thuyết chương hồi của Trung Quốc, những bộ tiểu thuyết cổ điển đồ sộ của
phương Tây đã trở thành nguồn mạch dồi dào góp phần làm cho diện mạo của
thể loại tiểu thuyết ngày càng phong phú, đa dạng. Ở Việt Nam, thời kì trung đại
chỉ xuất hiện vài ba tiểu thuyết chương hồi viết bằng chữ Hán. Khái niệm tiểu
thuyết mãi đến những năm đầu thế kỉ XX mới thực sự hình thành cùng với sự
phát triển của thể loại. Tuy xuất hiện muộn nhưng tiểu thuyết sớm đạt những
thành tựu so với các thể loại khác. Sự xuất hiện của tiểu thuyết đánh dấu một
bước tiến trong lịch sử văn học và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu
của những người yêu thích văn chương.
Tiểu thuyết là một thể loại văn xuôi có hư cấu, thông qua nhân vật, hoàn
cảnh, sự việc để phản ánh bức tranh xã hội rộng lớn và những vấn đề của cuộc
sống con người, biểu hiện tính chất tường thuật, tính chất kể chuyện bằng ngôn
ngữ văn xuôi theo những chủ đề xác định. Xung quanh khái niệm tiểu thuyết có
nhiều vấn đề phức tạp, không dễ thống nhất. Đi tìm một định nghĩa đầy đủ về
tiểu thuyết có thể đáp ứng cho mọi trường hợp trong thực tế văn học là điều khó
13
có thể thực hiện được. Theo từng góc độ, khía cạnh khác nhau, nhấn mạnh
những đặc điểm này hay đặc điểm kia của tiểu thuyết mà người nghiên cứu đưa
ra những quan điểm khác nhau về tiểu thuyết. Có nhiều định nghĩa về tiểu
thuyết. Galaieve cho rằng: “Tiểu thuyết là một hình thức tự sự lớn mô tả đời
sống riêng của con người trong mối quan hệ rộng lớn của xã hội”. Theo
Biêlinxki: “Tiểu thuyết là sử thi của đời tư”, “tái hiện hiện thực với sự trần trụi
của nó”. Turghênhep lại nhấn mạnh “tiểu thuyết là lịch sử cuộc sống”. Theo
M.Bakhtin: “Tiểu thuyết là loại văn chương duy nhất luôn luôn biến đổi, do đó
nó phản ánh sâu sắc hơn, cơ bản hơn, nhạy bén hơn sự chuyển biến của bản thân
hiện thực” [3, 27] và tiểu thuyết là sản phẩm tinh thần tiêu biểu nhất cho thời đại
mới của lịch sử loài người, là thành quả rực rỡ có giá trị như một bước ngoặt
nhảy vọt thực sự vĩ đại của hàng ngàn năm văn chương thế giới” [3, 8]. Cũng
theo Bakhtin, tiểu thuyết là “thể loại văn chương duy nhất đang biến chuyển và
chưa định hình. Những lực cấu thành thể loại còn đang hoạt động trước mắt
chúng ta, thể loại tiểu thuyết ra đời và trưởng thành dưới ánh sáng thiên thanh
bạch nhật của lịch sử. Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng
ta chưa thể sự đoán khả năng uyển chuyển của nó [3, 21]. Giáo sư Nguyễn Văn
Trung trong Xây dựng tác phẩm tiểu thuyết thì cho rằng: “Không có một thẩm
mỹ học tổng quát bao gồm những tiêu chuẩn phổ biến cho mọi công trình xây
dựng tiểu thuyết, vì bất cứ một thẩm mỹ học nào về tiểu thuyết cũng chỉ là một
trong nhiều quan niệm thẩm mỹ học khác”.
Trong mối tương quan với các thể loại khác, tiểu thuyết nổi bật lên ở khả
năng phản ánh một cách toàn vẹn và sinh động hiện thực cuộc sống. Nó vừa có
khả năng tái hiện những bức tranh mang tính tổng thể của xã hội, vừa đi sâu
khám phá số phận cá nhân. Milan Kunđêra, một nhà tiểu thuyết gia lớn đã có
nhiều điểm tương đồng với Bakhtin khi ông cho rằng: Tiểu thuyết phải khám phá
cuộc sống đằng sau tấm màn giả trang bị xé rách, tức là tiểu thuyết phải bóc trần
tất cả những gì diễn ra đằng sau tấm màn hào nhoáng che phủ thế giới. Lẽ dĩ
14
nhiên việc bóc trần này không chỉ đơn giản là mô tả hiện thực ở những góc khuất
tối, tiêu cực. Tiểu thuyết hiện đại không chủ trương khai thác bề mặt sự kiện mà
chú tâm truy tìm những tầng sâu của ý thức con người trước vấn đề xã hội. Thế
giới bên trong con người không phải chỉ là một cõi nhỏ nhoi và bị khép kín trong
những định chế của ý thức hệ và văn hóa. Ngược lại, nó có thể là một thế giới
cực kì phong phú, chứa đựng tất cả những mảnh đa sắc của hiện thực thế giới vô
biên bên ngoài. Tiểu thuyết không chỉ là một thể loại mà còn là một giai đoạn,
một cấp độ mới trong tư duy nghệ thuật con người về thế giới. Cả M. Bakhtin và
M. Kunđêra đều xem tiểu thuyết là thể loại tiếp xúc với khu vực hiện tại đang
diễn ra, chưa định hình, còn nhiều biến đổi do đó nó phản bỏ khoảng cách sử thi,
nó dân chủ trong quan hệ thẩm mĩ với hiện thực, với đối tượng, với độc giả.
Các nhà lí luận của Việt Nam cũng có nhiều ý kiến bàn về tiểu thuyết.
Trong bài Bàn về tiểu thuyết đăng trên báo Nam Phong (1921), Phạm Quỳnh đã
diễn đạt cách hiểu tiểu thuyết của mình theo nhiều hình thức: “Tiểu thuyết là một
truyện viết bằng văn xuôi, viết ra để tả tình tự người ta, phong tục xã hội hay là
những sự tích kì lạ, đủ làm cho người đọc có hứng thú”. Cách hiểu của ông toát
lên sự khẳng định tiểu thuyết là một kiểu văn hư cấu từ những hoàn cảnh thực.
Cũng với một cách cắt nghĩa theo kiểu báo chí phù hợp với công chúng bình dân
và trình độ hiểu biết lí luận của văn chương quốc ngữ buổi đầu như vậy, Phạm
Quỳnh đã tập trung nhiều hơn cho một chỉ dẫn tương đối cụ thể về kết cấu và
phô diễn cốt lõi nhất của nghệ thuật viết tiểu thuyết hiện đại. Sau khi Bàn về tiểu
thuyết xuất hiện, một hình thức văn chương vừa mới nhen nhóm trong đời sống
văn chương hiện đại Việt Nam đã được cấp cho một tên gọi với những nội hàm
cụ thể, rành mạch và cũng có thể thấy hầu hết những luận bình về tiểu thuyết sau
này đều nương theo cách hình dung và quan niệm của Phạm Quỳnh để nhìn
nhận, đánh giá các tác phẩm thuộc thể tiểu thuyết vừa ra đời. Các nhà nghiên cứu
sau này tiếp tục chỉ rõ sự kế thừa những đóng góp mang tính vạch đường của
tiểu luận này cho cả đời sống sáng tác cũng như nghiên cứu văn chương. Bàn về
15
tiểu thuyết của Phạm Quỳnh có tính chất như một cương lĩnh dẫn đường chỉ lối
cho các cây bút Việt Nam tiếp tục bình luận và viết về thể loại này. Sau này
Nguyễn Công Hoan hiểu “Tiểu thuyết là một truyện bịa ý như thật. Nhà tiểu
thuyết là người biết bịa truyện”. Còn Nguyễn Đình Thi nhấn mạnh: Tiểu thuyết
là thể loại mang tính tổng hợp nên nó đòi hỏi phải có sự hiểu biết nhiều ngành
nghệ thuật khác nhau. Ông cho rằng người viết tiểu thuyết là người vẽ lên hình
ảnh của sự vật như một họa sỹ và đi trong tâm hồn của con người mà diễn đạt
những tình cảm vô hình như một nhà thơ hoặc một nhạc sỹ. Người viết tiểu
thuyết điều khiển các nhân vật và các nhân vật va chạm với nhau như một người
viết kịch hoặc như một đạo diễn điện ảnh. Người viết tiểu thuyết kể lại các sự
việc như một phóng viên và tìm hiểu đánh giá sự việc như một nhà bình luận. Vũ
Bằng lại cho rằng bổn phận của nhà tiểu thuyết là tả chân cuộc đời, tả chân tư
tưởng người đời. Các ý kiến trên đã cho chúng ta có một cái nhìn khá đầy đủ hơn
về tiểu thuyết.
Trong Lí luận văn học, tập 2 có bàn về thuật ngữ tiểu thuyết. Tên gọi tiểu
thuyết xuất hiện từ rất sớm. Thuật ngữ này xuất hiện ở Trung Quốc dùng chỉ
chung cho các thể loại truyện (đoản thiên tiểu thuyết, trung thiên tiểu thuyết,
trường thiên tiểu thuyết). Ở phương Tây, tiểu thuyết có tên là novel (Anh),
roman (Pháp), fiction (Mỹ), nhấn mạnh tới các truyện mới lạ, tân kì, giàu tưởng
tượng, hư cấu. Ở Việt Nam đến đầu thế kỉ XX, người ta mới sử dụng thuật ngữ
tiểu thuyết như Trung Quốc. Tuy nhiên cách hiểu của ta lại mang nội hàm hiện
đại của thể loại văn học châu Âu. Trong tiếng Việt hiện đại, người ta dùng thuật
ngữ này để chỉ các tác phẩm truyện có quy mô lớn.
Mục Tiểu thuyết trong Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa: “Tiểu thuyết
là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn
không gian và thời gian. Tiểu thuyết có thể phản ánh nhiều cuộc đời, những bức
tranh phong tục đạo đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện
nhiều tính cách đa dạng [51, 328]. Định nghĩa này đã nói được khả năng bao
16
quát rộng của tiểu thuyết qua những đặc trưng cơ bản: Cái nhìn cuộc sống từ góc
độ đời tư ; tái hiện cuộc sống không thú vị hóa, lãng mạn hóa mà miêu tả cuộc
sống như thực tại vốn có; nhân vật trong tiểu thuyết là những con người nếm
trải; cốt truyện không chỉ duy nhất đóng vai trò chủ yếu mà cả những yếu tố
“thừa” chứa trong nó thành phần chính yếu; khoảng cách người trần thuật và nội
dung người trần thuật được rút ngắn.
Tiểu thuyết là thể loại chủ công của văn học. Tiểu thuyết mang đến cho
người đọc một bức tranh tổng thể về cuộc sống đa màu đa diện. Đây là thể loại
có vị trí đặc biệt trong loại hình văn xuôi tự sự. Nhiều nhà văn đã tìm đến với thể
loại này và gặt hái được rất nhiều thành công. Tiểu thuyết cũng mang đến những
giải thưởng và làm nên tên tuổi của nhiều cây bút, trong đó có nhà văn Hữu Mai.
1.1.2. Đặc điểm và ưu thế của tiểu thuyết
Tiểu thuyết là loại hình tiêu biểu căn bản của văn xuôi ở mỗi thời kì văn
học. So với các thể loại khác, truyện ngắn chỉ thỏa mãn con người bởi những câu
chuyện được hạn định bằng vấn đề và số lượng nhân vật. Kịch đem lại cho con
người thưởng thức những thời khắc đầy xung đột, căng thẳng, còn tiểu thuyết
đem đến một bức tranh tổng thể về cuộc sống, có khả năng lôi cuốn và dẫn độc
giả đi từ khởi đầu đến kết thúc, chứa đựng nhiều sự tò mò. Trong quá trình vận
động và phát triển, diện mạo của tiểu thuyết không ngừng thay đổi. Tiểu thuyết
mang trong mình những đặc điểm riêng và trở thành những điểm ưu thế đưa tiểu
thuyết trở thành thể loại chủ công của văn học.
Tiểu thuyết mang trong mình những đặc trưng riêng về cả nội dung lẫn
hình thức.
Nhìn từ phương diện thi pháp, M. Bakhtin cho rằng thể loại tiểu thuyết có
ba đặc trưng cơ bản: Một là tính ba chiều có ý nghĩa phong cách học tiểu thuyết
gắn liền với ý thức đa ngữ được thể hiện rong tiểu thuyết. Hai là sự thay đổi cơ
bản của các tọa độ thời gian của hình tượng văn học trong tiểu thuyết. Ba là khu
vực mới, nơi xây dựng văn chương tiểu thuyết chính là khu vực tiếp xúc tối đa
17
cái hiện tại ở thì không hoàn thành của nó. Còn nói về các thành tố tạo nên tiểu
thuyết, ông cho rằng đó là sử thi (tự sự), văn hùng biện và văn hóa carnaval. Tiểu
thuyết chứa trong mình tất cả các loại hình tự sự. Biểu hiện cơ bản của văn hùng
biện là tinh thần đối thoại và tính chất đa thanh được thể hiện trong ngôn ngữ
tiểu thuyết. Tiếng ồn ào, cười cợt, giễu nhại vốn rất quen thuộc trong các lễ hội
carnaval thì cũng trở thành tinh thần cơ bản của thể loại này.
Các nhà nghiên cứu sau này đã chỉ ra năm đặc trưng cơ bản của thể loại
tiểu thuyết.
So với các thể loại khác của loại tự sự như ngụ ngôn, sử thi thì đặc điểm
tiêu biểu nhất của tiểu thuyết là cái nhìn đời sống từ góc độ đời tư. Đặc trưng này
thoạt đầu được hình thành ngay trong tiểu thuyết cổ đại. Càng về sau, đời tư
càng trở thành yếu tố tiêu điểm để miêu tả cuộc sống một cách tiểu thuyết. Tùy
theo từng thời kì phát triển, cái nhìn đời tư có thể sâu sắc tới mức thể hiện được
hoặc kết hợp được các chủ đề thế sự hoặc lịch sử dân tộc. Những yếu tố đời tư
càng phát triển thì tính chất tiểu thuyết càng tăng, ngược lại yếu tố lịch sử dân
tộc càng phát triển thì chất sử thi càng đậm đà.
Nét tiêu biểu thứ hai làm cho tiểu thuyết khác với truyện thơ, trường ca,
thơ trường thiên và anh hùng ca là chất văn xuôi, tức là một sự tái hiện cuộc
sống với những chi tiết giống như thật, không thi vị hóa, không lãng mạn hóa, lí
tưởng hóa. Trong thơ trường thiên, người ta chỉ có thể miêu tả con người bằng
thủ pháp ước lệ và khái quát. Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời, đang
sinh thành, tiểu thuyết hấp thụ vào bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang, bề bộn
của cuộc đời bao gồm cả cái cao cả lẫn cái tầm thường, nghiêm túc và buồn cười,
bi và hài, cái lớn lẫn cái nhỏ. Chính chất văn xuôi đã mở ra một vùng tiếp xúc tối
đa với hiện tại đang sinh thành làm cho tiểu thuyết không bị giới hạn trong nội
dung phản ánh.
Thứ ba, cái làm cho nhân vật tiểu thuyết khác với nhân vật kịch, nhân vật
truyện trung đại là ở chỗ nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải” trong khi
18
các nhân vật kia thường là nhân vật hành động, nhân vật nêu gương đạo đức.
Nhân vật “con người nếm trải” luôn tư duy, chịu đau khổ, dằn vặt của cuộc đời.
Tiểu thuyết miêu tả nhân vật như con người đang biến đổi trong hoàn cảnh, con
người đang trưởng thành do cuộc đời dạy bảo. Con người được miêu tả trong
hoàn cảnh, không tách nó khỏi hoàn cảnh một cách giả tạo, không cô lập cũng
như không cường điệu sức mạnh của nó. Trong khi hành động, nhân vật của tiểu
thuyết “lãnh đủ” mọi tác động của đời. M. Bakhtin nhận xét: Con người trong
tiểu thuyết khác với con người trong sử thi là không đồng nhất với chính nó.
Trong sử thi, con người có địa vị như thế nào thì hành động như thế ấy, phù hợp
với cương vị, địa vị của mình. Trái lại, trong tiểu thuyết, một người có địa vị cao
nhưng có thể hành vi lại rất thấp hèn, một người ở dưới đáy xã hội lại có thể có
hành động rất cao thượng. Miêu tả thế giới bên trong, phân tích tâm lí là một
phương diện rất đặc trưng cho tiểu thuyết. Gắn với đặc điểm này, kinh nghiệm
sống cá nhân của nhà văn có vai trò đặc biệt. Thomas Wolf, một nhà tiểu thuyết
nổi danh người Mỹ cho rằng: Mọi tác phẩm nghiêm túc suy đến cùng đều có tính
chất tự truyện. Một người muốn sáng tạo một cái gì chân thực và có giá trị thì
phải sử dụng kinh nghiệm và tái hiện trong cuộc sống của mình.
Thứ tư, điều làm cho tiểu thuyết khác với các thể loại khác là ở thành phần
của nó. Thành phần chính chủ yếu của tiểu thuyết không phải chỉ là cốt truyện và
tính cách nhân vật như ở truyện vừa và truyện ngắn trung cổ. Ngoài hệ thống sự
kiện, biến cố và những chi tiết tính cách, tiểu thuyết miêu tả sự tư duy của nhân
vật về thế giới, về con người, phân tích cặn kẽ các diễn biến tình cảm, trình bày
tường tận tiểu sử của nhân vật, mọi chi tiết mối quan hệ giữa người với người.
Thứ năm, tiểu thuyết xóa bỏ khoảng cách giữa người trần thuật và nội
dung trần thuật như một khoảng cách về giá trị của anh hùng ca để miêu tả hiện
thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật. Tiểu thuyết cho phép
người trần thuật tiếp xúc, nhìn nhận các nhân vật một cách gần gũi như những
người bình thường, có thể hiểu họ bằng kinh nghiệm của mình. Người viết tiểu
19
thuyết có thể nhìn hiện tượng từ nhiều chiều, nhiều điểm nhìn, đa chủ thể, sử
dụng nhiều giọng nói. Tiểu thuyết hấp thụ mọi loại lời nói khác nhau của đời
sống. Ngôn ngữ tiểu thuyết là một hiện tượng đa ngữ, một bộ bách khoa thư về
ngôn ngữ. Cuộc sống trong tiểu thuyết là một cái gì đó chưa xong xuôi. Kết cấu
của tiểu thuyết cũng là kết cấu ngỏ. Việc xóa bỏ khoảng cách giữa người trần
thuật và nội dung trần thuật làm cho tiểu thuyết trở thành một thể loại dân chủ,
cho phép người trần thuật có thể có thái độ thân mật thậm chí suồng sã đối với
nhân vật của mình.
Bàn về đặc trưng hình thức của tiểu thuyết. M. Bakhtin nhận định: hình
thức của tiểu thuyết chưa xong xuôi, nó không đông cứng thành những quy
phạm của thể loại đã hoàn thành. Các yếu tố cơ bản mà tác phẩm tự sự nào cũng
có như nhân vật, cốt truyện, hoàn cảnh, chi tiết, kết cấu lời văn tiểu thuyết lại
được phát triển phong phú nhất và không ngừng thay đổi.
Theo quan niệm truyền thống, so với các thể loại văn học khác, nhân vật
tiểu thuyết được miêu tả nhiều mặt, tinh tế, chi tiết như con người sống. Từ tính
cách, cá tính đến số phận, từ hành động đến tâm lí, từ các loại quan hệ đến ngôn
ngữ đều được các nhà tiểu thuyết quan tâm khám phá. Các thuộc tính của nhân
vật được miêu tả trong quá trình, trong tổng hòa mọi bình diện, từ ý thức đến vô
thức, từ tư tưởng đến bản năng, tự mặt xã hội đến mặt sinh học…Sự miêu tả
nhân vật ở đây đạt được tính toàn vẹn. Tiểu thuyết không chỉ viết về một số
người mà còn viết về cả một gia tộc, một thế hệ, thậm chí nhiều hơn thế. Bức
tranh tiểu thuyết không có giới hạn . Chính vì vậy tiểu thuyết phải mang cho
mình một dung lượng lớn. Sự không hạn định này cho phép tiểu thuyết miêu tả
một tập thể hàng trăm nghìn người, hoạt động ở mọi miền không gian rộng lớn
từ miền biển đến miền núi hay đồng bằng, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai.
So với các thể loại khác, cốt truyện của tiểu thuyết có thể đơn tuyến hay
đa tuyến, đan bện nhiều quãng thời gian. Cách trần thuật của tiểu thuyết cũng đa
dạng nhiều ngôi. Cốt truyện của thể loại này tự do, linh hoạt. Ngôn ngữ phong
20
phú, đa dạng trong trần thuật…Những đặc điểm này làm cho hình thức của tiểu
thuyết đạt được trình độ phát triển cao nhất trong văn học tự sự.
Với các đặc điểm và ưu thế cả về nội dung và hình thức đã làm cho tiểu
thuyết trở thành thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng
nghệ thuật của các thể loại văn học khác. Chính hiện tượng này đã làm cho tiểu
thuyết luôn luôn vận động và không ngừng biến đổi. Nó cũng làm cho tiểu
thuyết vững vàng là thể loại chủ công của văn học trong mọi thời đại.
1.2. Nhìn chung về con người và sự nghiệp sáng tác của Hữu Mai
1.2.1. Con người Hữu Mai
Nhà văn Hữu Mai tên thật là Trần Hữu Mai. Ông sinh năm 1926 (tại thành
phố Thanh Hóa), mất năm 2007 (tại Hà Nội). Quê gốc của ông ở thành phố Nam
Định, tỉnh Nam Định. Ông sáng tác văn học với hai bút danh chính là Hữu Mai
và Trần Mai Nam.
Hữu Mai là con một gia đình viên chức nhỏ. Thời học trung học , ông còn
phải đi dạy kèm chữ cho trẻ con. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, ông tham gia
tự vệ thành, chiến đấu ở Hà Nội. Sau đó ông vào bộ đội, phụ trách báo Quân
Tiên Phong (báo của đại đoàn 308). Ông tham gia nhiều chiến dịch lớn, trong đó
có chiến dịch Điện Biên Phủ. Năm 1956, ông chuyển về tham gia thành lập rồi
làm biên tập tạp chí Văn nghệ Quân đội, trưởng phòng Văn nghệ Quân đội. Năm
1983, ông chuyển sang công tác ở Hội Nhà văn với cấp hàm Đại tá. Ông là Ủy
viên Ban thư kí thường trực Ban chấp hành của Hội khóa III, khóa IV. Ngoài ra
ông còn là thành viên của Hiệp hội Quốc tế những nhà văn viết truyện trinh thám
(AIEP, thành lập tại Mêhicô năm 1989).
Hữu Mai là một người có tài và có tâm. Ông là người suốt đời trút tâm lực
cho văn học, luôn hướng về cái đẹp, cái thiện ở đời. Khi được hỏi về sự nghiệp
cầm bút, ông đã thẳng thắn giãi bày.“Viết đối với tôi không chỉ là trách nhiệm
đối với một thời kỳ lịch sử đẹp nhất của dân tộc, mà còn là một nhu cầu tự thân.
Khi không sáng tác, tôi thấy mệt mỏi hơn khi làm việc. Mỗi lần viết một cuốn
21
sách, tôi đều dành hết tâm lực của mình để mong nó tới được với người đọc.
Nhưng không may thay, tôi chỉ có một lượng thời gian nhất định.(…)Tôi chỉ
mong ghi lại được nhiều những gì mình đã biết, đã chiêm nghiệm trong cuộc
sống. Làm việc chính là cái mang lại cho tôi sức khỏe và niềm vui" [20].
Nghĩ về Hữu Mai là nghĩ tới những trang viết của một con người suốt đời
đi tìm cái đẹp, cái đẹp trong sự nghiệp đấu tranh vì một đất nước Việt Nam độc
lập, tự do, thống nhất và thịnh vượng, là tưởng nhớ tới một con người nhân hậu,
giàu tình yêu thương và một tấm gương lao động nghệ thuật bền bỉ, kiên cường.
Dù đã có tuổi, nhưng ngày nào nhà văn Hữu Mai cũng cần mẫn “cày bừa” trên
cánh đồng chữ nghĩa. Ông là một người vô cùng kĩ lưỡng trong việc cầm bút.
Chỉ một bài báo nhỏ viết về ông, nhưng ông đã rất cẩn trọng xem rồi sửa rất tỉ
mẩn. Thậm chí, ông vẫn còn tiếp tục trao đổi cho đến khi bài báo đã lên khuôn.
Những điều đó cũng đủ cho ta thấy được thái độ nghiêm túc của nhà văn trong
công việc. Có lẽ chính tinh thần này đã là thế mạnh của ông, giúp ông thành
công khi dựng những bộ tiểu thuyết đồ sộ mang tính lịch sử. Ông không bao giờ
tuyên ngôn hay tự đắc về những gì mình đã làm. Lúc nào ông cũng sống và làm
việc một cách nghiêm túc, say mê đầy khiêm tốn và hết lòng.
Hữu Mai đã ra đi ở tuổi 81, tròn 50 năm là hội viên Hội nhà văn Việt Nam.
Một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn đã ra đi, để lại một khoảng trống vắng
không gì có thể bù đắp được trên bầu trời văn học nước nhà. Nhưng những tác
phẩm của ông vẫn còn đó, mãi tỏa sáng trong lòng độc giả.
1.2.2. Sự nghiệp văn học
Trong cuộc đời gần 60 năm cầm bút của mình, nhà văn Hữu Mai đã có
khoảng 60 tác phẩm được xuất bản. Con số ấy không phải bất cứ nhà văn nào
cũng có được, thậm chí là họ còn phải ước mơ. Trưởng thành từ trong quân đội,
nhà văn Hữu Mai có nhiều tác phẩm viết về đề tài chiến tranh cách mạng và về
lực lượng vũ trang được công chúng biết đến và mến mộ.
22
Ông thành công trên khá nhiều thể loại: tiểu thuyết, truyện ký, hồi ký,…
Về truyện ký, ông có Dải đất hẹp, Trận đánh cuối cùng, Bưu ảnh từ những vùng
đất mới… Ông cũng là người chấp bút những bộ hồi ức trứ danh của Đại tướng
Võ Nguyên Giáp như: Từ nhân dân mà ra, Những năm tháng không thể nào
quên, Chiến đấu trong vòng vây, Những chặng đường lịch sử… Có thể nói thể
loại thành công lớn nhất trong sự nghiệp văn học của Hữu Mai là tiểu thuyết.
Nhiều tiểu thuyết đã xuất bản của ông như những điểm mốc đánh dấu son trong
lịch sử dân tộc: Những ngày bão táp (1957), Cao điểm cuối cùng (1960), Vùng
trời (3 tập – 1975, 1976, 1980), Đất nước (1984), Ông cố vấn (3 tập – 1985,
1987, 1990), Người lữ hành lặng lẽ (2003), Không phải huyền thoại (2007)…
Với những cống hiến của mình, nhà văn Hữu Mai đã vinh dự nhận Giải
thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật đợt I năm 2001 cho các tác phẩm: Cao
điểm cuối cùng, Vùng trời, Ông cố vấn. Trước đó, ông cũng đã nhận nhiều giải
thưởng như: Giải thưởng văn học Bộ quốc phòng ( 1989), Giải A văn xuôi Hội
nhà văn (1990), Giải A văn học về đề tài an ninh Bộ Công An – Hội Nhà văn
Việt Nam.
Hữu Mai là một cây bút tài năng về đề tài chiến tranh người lính. Những
tác phẩm của ông như những thước phim lịch sử sống động về một thời chiến
đấu oanh liệt của dân tộc ta. Để có được điều này trước hết phải nói tới vốn sống
phong phú của một người chiến sĩ luôn xông pha trên mọi trận chiến. Sau đó là
tài năng, tâm huyết của một nhà văn tha thiết muốn ghi lại thật nhiều những gì
mình đã chứng kiến, đã biết, đã sống trong thời kỳ lịch sử đó. Chọn cho mình
một quan niệm viết văn riêng, Hữu Mai đã miệt mài lao động và cống hiến hết
mình cho sự nghiệp cầm bút. Những tác phẩm lừng lẫy một thời cùng những giải
thưởng danh giá đã làm cho tên tuổi Hữu Mai sống mãi.
1.3. Tiểu thuyết trong sự nghiệp văn học của Hữu Mai
Tiểu thuyết Việt Nam ra đời muộn nhưng sớm đạt thành tựu. Ngay từ
những năm ba mươi của thế kỷ XX, tiểu thuyết Việt Nam đã có những bước phát
23
triển đột biến, đánh dấu bằng những sáng tác của Tự lực văn đoàn như: Đoạn
tuyệt, Lạnh lùng (Nhất Linh), Nửa chừng xuân, Thoát ly (Khái Hưng)... và các
tiểu thuyết hiện thực phê phán như: Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Sống mòn (Nam Cao),
Giông tố, Số đỏ ( Vũ Trọng Phụng)…
Từ sau 1945, đất nước phải trải qua ba mươi năm chiến tranh giải phóng
dân tộc. Hiện thực kháng chiến là đề tài chủ yếu của các tác phẩm văn học. Hàng
loạt các tiểu thuyết nổi tiếng ra đời như: Xung kích (Nguyễn Đình Thi ), Vượt
Côn Đảo, Tuổi thơ dữ dội ( Phùng Quán), Dấu chân người lính (Nguyễn Minh
Châu), Hòn Đất (Anh Đức)…
Sau năm 1975, lịch sử văn học Việt Nam bước sang một giai đoạn mới. Từ
đây cũng xuất hiện những dòng cảm hứng văn học mới. Có nhiều tác phẩm viết
về chiến tranh và người lính cách mạng với mạch cảm hứng cũ – cảm hứng sử
thi. Có tác phẩm cũng viết về đề tài này nhưng lại mang một nhận thức mới mẻ
như: Thời xa vắng (Lê Lựu), Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh)…với mạch cảm
hứng thế sự đời tư.
Với tư cách là một nhà văn chiến sĩ, trưởng thành trong bom lửa cách
mạng, Hữu Mai vẫn tuyệt đối trung thành với quan điểm sáng tác và định hướng
nghề nghiệp của mình, viết về đề tài đất nước, nhân dân cùng người lính cách
mạng. Hữu Mai tâm sự: “Ngay từ cuốn tiểu thuyết đầu tay về chiến tranh Cao
điểm cuối cùng, tôi đã chọn cho mình cách viết là tái tạo lại một cách chân thực
hiện thực lịch sử chiến tranh. Trong tiểu thuyết, phạm vi sáng tạo của người viết
đúng là rất rộng rãi nhưng tôi không sử dụng cái quyền này. Tôi không có nhiều
tham vọng văn chương, chỉ mong ghi lại thật nhiều những gì mình đã chứng
kiến, đã biết cũng như đã sống trong thời kì lịch sử vừa qua” [21]. Cũng từ đó,
ngòi bút của Hữu Mai rất nhất quán và luôn trung thành với đề tài chiến tranh
người lính. Ông luôn miệt mài đi tìm cái đẹp trong sự nghiệp đấu tranh cách
mạng của dân tộc. Tuy nhiên, ông không miêu tả người lính một chiều và ca ngợi
bằng những ngôn từ bóng bẩy. Đọc tác phẩm của ông, chân dung những người
24
lính cách mạng hiện lên rõ nét qua hành động, nội tâm và qua những sự kiện
chân thực, sinh động. Vẻ đẹp của họ hiện lên qua sự chiêm nghiệm của chính độc
giả. Nhà văn luôn cố gắng hết sức đảm bảo tác phẩm của mình tiếp cận gần nhất
với bản chất, cái lõi sự thật của lịch sử.
Cuốn tiểu thuyết đầu tay về đề tài người lính cách mạng của Hữu Mai là
Cao điểm cuối cùng (1960). Cuốn tiểu thuyết này tuy là tác phẩm hư cấu nhưng
lại được đánh giá “mang giá trị của một sử liệu” ( Thượng tướng Hoàng Văn
Thái). Cuốn tiểu thuyết miêu tả rất chân thực, tỉ mỉ về trận đánh Điện Biên Phủ
lừng lẫy của dân tộc. Ba tiếng Điện Biên Phủ đã trở thành niềm tự hào của Việt
Nam. Nó mở ra một trang chói lọi trong lịch sử kháng chiến chống ngoại xâm
của nhân dân ta và trở thành đề tài của nhiều nhà văn, nhà thơ. Với Cao điểm
cuối cùng, Hữu Mai đã làm sống lại khung cảnh hùng vỹ, khốc liệt và vô cùng
anh dũng của Điện Biên Phủ mùa xuân 1954. Làm nên chiến thắng này là sự
lãnh đạo của Đảng, là sự chỉ huy sáng suốt và đầy tinh thần trách nhiệm của cán
bộ ta, là trí tuệ, công sức của quần chúng và tinh thần quyết chiến quyết thắng, là
máu của quân đội ta. Thượng tướng Hoàng Văn Thái, tham mưu trưởng trực tiếp
chỉ đạo chiến dịch khi đọc Cao điểm cuối cùng đã nhận xét : “Hữu Mai không
chỉ có phản ánh cuộc chiến đấu, anh còn muốn tìm tòi phân tích giải thích vì sao
chúng ta giành được chiến thắng. (…) Anh đã chứng minh được yếu tố quyết
định thắng lợi của quân đội ta là con người, là tinh thần hy sinh chiến đấu cho
chính nghĩa” [40,9]. Bản anh hùng ca về Điện Biên Phủ đã nói thêm một cách
hùng hồn rằng không có một quân đội xâm lược thiện chiến nào có thể chiến
thắng và khuất phục một dân tộc khi họ đã đoàn kết và quyết tâm đấu tranh vì
chính nghĩa giành lại độc lập tự do.
Trong lần kể chuyện viết Cao điểm cuối cùng nhà văn đã tâm sự: “Miền
Bắc được giải phóng, tôi có điều kiện viết cuốn sách mình đã chuẩn bị. Lúc này,
đã trở thành người viết chuyên nghiệp, tôi bắt đầu quan tâm đến việc tìm hình
thức cho tác phẩm đầu tiên về chiến tranh. Tôi muốn tránh con đường người
25
khác đã đi nhất là những nhà văn đã đạt đỉnh cao. Tôi nghĩ lối thoát là bám sát sự
thật, mọi sự thật rất phong phú mà cuộc chiến đấu đã mang lại, như tôi đã biết,
vượt lên mọi sự tưởng tượng. Tôi gặp lại những đồng đội cũ, cán bộ, chiến sĩ 308
và giành nhiều thời gian trở lại chiến trường Điện Biên Phủ, gặp những cán bộ
chiến sĩ đại đoàn 316, những người đã sống chết với những cao điểm A1, C1 tại
phía Đông sau khi cuộc chiến kết thúc đã ở lại Điện Biên Phủ xây dựng nông
trường. Tôi thu thập những chất liệu từ thực tế, tạo nên một câu chuyện, tìm một
bố cục, một cách diễn đạt phù hợp nhằm diễn đạt được tối đa chủ để mình đã xác
định. Sự thật lịch sử được tôn trọng nghiêm ngặt đến từng chi tiết. Tôi không chỉ
tìm nguyên mẫu cho các nhân vật trong cuộc sống mà còn tôn trọng cả không
gian, thời gian trận đánh. Cũng cần nói, trận đánh đã được viết lại đúng như nó
đã diễn ra, nhiều người có thể nhận nhân vật A, nhân vật B trong truyện chính là
hình ảnh của mình, nhưng chúng vẫn phần nào mang tính chất những nhân vật
tiểu thuyết cổ điển vì chúng đã được tái tạo. (…) Với Cao điểm cuối cùng đã
hình thành một cách viết về đề tài chiến tranh của riêng tôi: tôn trọng sự thật lịch
sử một cách tối đa. Tôi nhận thấy mình có khả năng đi vào những đề tài lịch sử
có quy mô” [42].
Tiểu thuyết Cao điểm cuối cùng là tiểu thuyết có vị trí vững chắc trong
danh mục các tiểu thuyết về đề tài chiến tranh có giá trị cao. Một số nhà sử học
nước ngoài như: Georges Boudarel, Bernard Fall ... đã viện dẫn nhiều chi tiết
trong Cao điểm cuối cùng để minh họa cho những công trình nghiên cứu về Điện
Biên Phủ. Điều này phần nào cho thấy giá trị sử liệu hiếm có trong một cuốn tiểu
thuyết.
Sau thành công của Cao điểm cuối cùng, Hữu Mai vẫn tiếp tục đi theo đề
tài mà mình đã chọn. Và ông không ngừng đổi mới hình ảnh người lính của
mình. Ông thể nghiệm mình trên nhiều lĩnh vực và đều rất chắc tay với vốn kiến
thức uyên bác về các lĩnh vực quân sự. Bộ tiểu thuyết ba tập Vùng trời ra đời tiếp
tục gây được nhiều sự chú ý. Đây là bộ tiểu thuyết dày dặn nhất, công phu nhất