Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

TIỂU LUẬN tự DO hóa tài CHÍNH KINH NGHIỆM của TRUNG QUỐC, CANADA và bài học đối với VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.42 KB, 20 trang )

TIỂU LUẬN: TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH - KINH NGHIỆM
CỦA TRUNG QUỐC, CANADA VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Từ khi thực hiện chính sách mở cửa, nền kinh tế Việt Nam đã có
những bước tiến đáng kể trong việc ổn định và phát triển trên cơ sở từng
bước thâm nhập vào nền kinh tế thế giới. Việc chính thức gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam á (năm 1995) kèm theo là những cam kết tham gia
khu vực Mậu dịch tự do châu á (AFTA) và việc ký kết Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ là những mốc sự kiện lịch sử quan trọng trong tiến trình gia nhập
Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của Việt Nam. Theo đà phát triển đó,
Việt Nam sẽ phải mở cửa thị trường ở hầu hết các lĩnh vực, trong đó có thị
trường dịch vụ tài chính. Bài viết này xem xét những mặt tích cực và tiêu
cực của việc tự do hoá tài chính đã từng diễn ra ở các nước trên thế giới,
nghiên cứu những kinh nghiệm mở cửa của thị trường Trung Quốc (một
nước đang phát triển và có những điều kiện kinh tế xã hội và chính trị gần
giống với Việt Nam) và Canada (một nước phát triển và đã là thành viên
của GATT hơn 50 năm), từ đó rút ra một số bài học cho tiến trình mở cửa
thị trường tài chính của Việt Nam trong thời gian sắp tới.
I. Những khía cạnh của tự do hoá tài chính.
1. Những mặt lợi
Nhìn từ góc độ kinh tế, hoạt động dịch vụ tài chính cũng giống như
các hoạt động trao đổi mua bán các hàng hoá và dịch vụ khác, có thể có
những tác động tích cực đến thu nhập và sự tăng trưởng của tất cả các đối
tác tham gia. Lợi ích của việc tự do hoá các hoạt động thương mại trong
lĩnh vực dịch vụ tài chính có thể có được nhìn nhận trên một số giác độ sau:
a. Tự do hoá tài chính sẽ tăng thêm áp lực cạnh tranh làm cho khu vực
dịch vụ tài chính hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn, đồng thời giúp các


tổ chức tài chính nội địa có điều kiện cải thiện năng lực quản lý.
b. Tự do hoá tài chính sẽ làm tăng thêm chất lượng các dịch vụ tài


chính được cung cấp (do sự độc quyền bị loại bỏ). Người tiêu dùng có thể
được hưởng những sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tiện ích với chi phí và
thời gian ít nhất.
c. Tự do hoá các dịch vụ tài chính đem đến nhiều cơ hội cho việc
chuyển giao công nghệ và làm giảm thiểu những rủi ro có tính hệ thống.
d. TỰ do hoá các dịch vụ tài chính tạo điều kiện cho việc thiết lập một
chính sách kinh tế vĩ mô có hiệu quả hơn phù hợp với những điều kiện trong
một nền kinh tế mở, trên cơ sở đó thực hiện phân phối nguồn lực một cách
có hiệu quả trên cơ sở khai thác tối đa lợi thế kinh tế trong nước và thế giới.
Kết quả của nhiều nghiên cứu đã cho thấy những lợi ích đề cập trên
đây là thực tế. Một nghiên cứu của các nhà kinh tế học thuộc Ban thư ký
của WTO (năm 1997) đã kết luận rằng việc mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính ở các nước theo đuổi chính sách mở cửa đã có tác dụng đáng kể trong
việc thúc đẩy cạnh tranh và nâng cao hiệu quả. Do đó, chi phí dịch vụ giảm
đi đáng kể, chất lượng dịch vụ được nâng cao, các loại hình dịch vụ được đa
dạng hoá và khách hàng được tiếp cận với các loại hình dịch vụ một cách
nhanh nhất. Việc mở cửa thị trường tài chính tại các nước này cũng đồng
thời góp phần củng cố lại các tổ chức trung gian tài chính và tạo nhiều cơ
hội hơn cho các nhà đầu tư, thông qua việc nâng cao hiệu lực quản lý và
giảm nhiều rủi ro. Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính ở hầu hết các
nước cũng góp phần thúc đẩy chính phủ các nước chủ nhà cải tiến phương
pháp quản lý vĩ mô nền kinh tế và thay đổi cách thức can thiệp vào thị
trường, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện hàng lang pháp lý và hệ thống
kiểm tra, giám sát của chính phủ đối với những lĩnh vực dịch vụ này.
Các nhà nghiên cứu lập luận rằng sở dĩ tự do hoá tài chính có tác
động tích cực đến nền kinh tế chính là nhờ tác động lợi thế của kinh tế quy
mô (Economy of scale), do vậy các tổ chức tài chính có thể hạ giá thành
phục vụ. Bên cạnh đó, việc loại bỏ yếu tố độc quyền, tăng cường sự cạnh



tranh là nhân tố có tính quyết định trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ,
đa dạng hoá các loại hình sản phẩm và mở rộng cơ hội lựa chọn cho người
tiêu dùng.
Một nghiên cứu được thực hiện ở Mỹ nhằm xem xét tác động của cải
cách trong lĩnh vực Ngân hàng theo hướng mở cửa thị trường vào những
năm 1970 và 1980 cho thấy: việc cải cách đó đã góp phần làm tăng trưởng
khoảng 0,5 đến 1,2% tổng sản phẩm quốc nội trong khoảng thời gian 10
năm sau khi cải cách được thực hiện (theo Jayaratune và Strahan, 1996).
Năm 1997, Bộ trưởng ngân khố Mỹ - Robert E. Rubin đưa ra kế hoạch
nhằm hiện đại hoá hệ thống dịch vụ tài chính ở Mỹ và phác thảo những lợi
ích của kế hoạch dựa trên những tính toán thực tế như sau:
Thời gian trước đây, khi chúng ta cho phép cạnh tranh mạnh hơn
trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, người tiêu dùng đã được hưởng những lợi
ích đang skể... Năm 1995 giới tiêu dùng Mỹ chi phí vào khoảng 300 tỷ đôla
vào các hoạt động bảo hiểm, dịch vụ ngân hàng và môi giới chứng khoán.
Giả sử rằng, do kết quả cạnh tranh của kế hoạch hiện đại hoá hoạt động
dịch vụ tài chính mà chi phí dịch vụ đối với người tiêu dùng có thể giảm đi
1% thì cũng đã tiết kiệm được khoảng 3 tỷ đôla một năm. Tuy nhiên dựa
trên những cơ sở thực tế, tỷ lệ tiết kiệm chi phí hoàn toàn có thể đạt đến
mức 5% - tức là vào khoảng 15 tỷ đôla mỗi năm - một con số hoàn toàn
không nhỏ đối với nền kinh tế, (Robin, 1997).
Tương tự như vậy, một loạt các nghiên cứu thực hiện ở Châu Âu và
Mỹ cũng chỉ ra rằng: ngành ngân hàng có thể giảm bớt chi phí, nâng cao lợi
nhuận khoảng từ 20 đến 50% thông qua việc nâng cao hiệu quả của các
loại dịch vụ được cung cấp. Các cơ quan quản lý và kiểm soát ngân hàng
quốc gia cũng có thể nâng cao hiệu quả với mức độ tương tự do phát huy
lợi thế của kinh tế quy mô trong hoạt động chi trả và thanh toán (Berger,
Hunterr và Timme 1993).
Cho đến nay những nghiên cứu về hiệu quả của các tổ chức tài chính ở
những thị trường mới nổi chưa có nhiều. Song, một số kết quả điều tra đã



cho thấy, tiềm năng nâng cao hiệu quả và giảm thiểu chi phí thông qua mở
rộng cạnh tranh là rất lớn. Khả năng lợi ích mang lại càng cao nếu hệ thống
tài chính có khả năng cạnh tranh càng lớn.
Tóm lại, lợi ích tối thượng của tự do hoá tài chính là tạo ra một sự
cạnh tranh bình đẳng trong một thị trường trước đây vốn được đặc trưng
bằng những yếu tố độc quyền. Cạnh tranh chính là động lực thúc đẩy việc
giảm thiểu chi phí, nâng cao chất lượng phục vụ, phân tán rủi ro và tạo cơ
hội phát huy lợi thế kinh tế quy mô, tăng cường chuyển giao công nghệ và
tạo môi trường thay đổi chính sách quản lý vĩ mô nền kinh tế. Trên cơ sở đó,
tăng cường năng lực cạnh tranh và sẵn sàng đối phó với những bất thường
có thể xảy ra trên bình diện quốc tế.
2. Những mặt trái
Tiềm năng lợi ích của tự do hoá tài chính là rất lớn, tuy nhiên tự do
hoá tài chính cũng cố những mặt trái nhất thiết phải được nghiên cứu kỹ
lưỡng, đặc biệt trong điều kiện xu thế tự do hoá tài chính cũng mới chỉ
dừng lại ở những bước đi ban dầu. Những hạn chế của tự do hoá tài chính
thông thường được nhìn nhận trên hai giác độ:
Thứ nhất: Tự do hoá tài chính có thể làm tăng thêm khả năng gây ra
khủng hoảng tài chính nếu tiến trình tự do hoá được thực hiện một cách
nôn nóng, sai trình tự hoặc thiếu đồng bộ trong các biện pháp quản lý vĩ mô
ở cả cấp độ quốc gia và quốc tế.
Mở cửa thị trường tài chính và khủng hoảng tài chính ngân hàng đã
từng là nỗi ám ảnh tưởng như có mối quan hệ nhân quả đối với các nước
thi hành chính sách này trong khoảng thời gian trước đây. Một nghiên cứu
phân tích về các cuộc khủng hoảng ngân hàng trên thế giới đã cho thấy 18
trong 25 trường hợp được nghiên cứu, khủng hoảng tài chính đã diễn ra
theo sau việc tự do hoá tài chính khoảng 5 năm. Do vậy, nhiều người cho
rằng khủng hoảng ngân hàng là sự kiện kéo theo của cải cách hệ thống tài

chính theo hướng mở cửa. Thậm chí, nhiều chính phủ cho rằng đó là cái giá
phải trả của tự do hoá tài chính. Trớ trêu thay, nhận định này dường như


được minh chứng bởi các cuộc khủng hoảng ngân hàng diễn ra ở
Argentina, Brazil, Chile trong những năm 70, khủng hoảng tiền tệ ở Mexico
năm 1994 - 1995 và Thailand năm 1997 .Những cuộc khủng hoảng như vậy
đã làm cho chính phủ của các nước Đông Nam á tỏ ra thận trọng khi cân
nhắc vấn đề cải cách, mở cửa và tự do hoá tài khoản vốn.
Tuy nhiên, theo nhiều nhà nghiên cứu, việc mở cửa thị trường tài
chính, bản thân nó thực chất không phải là nguyên nhân sâu xa dẫn đến
khủng hoảng tài chính - ngân hàng . Việc cải cách hệ thống tài chính và tự
do hoá có chăng chỉ lật tẩy và làm trầm trọng thêm những yếu kém trong
thẻ chế và các chính sách tài chính vĩ mô vốn dĩ đã tiềm ẩn, và do đó làm
tăng thêm rủi ro của việc dẫn đến khủng hoảng tài chính. Những cải cách
tài chính theo hướng mở cửa đã diễn ra ở những nước này thực chất không
gây cản trở hoặc làm phương hại đến lợi ích thực thụ, mà chỉ góp phần
phơi bày những điểm yếu của hệ thống tài chính nội địa trước những điều
kiện của hệ thống tài chính quốc tế mà thôi.
Năm 1995, hai nhà nghiên cứu Kamisky và Reinhart và một số nhà
nghiên cứu khác đã xác định một loạt các nhân tố đằng sau những vụ đổ vỡ
ngân hàng trên thế giới. Những nhân tố này gồm: sự không ổn định có tính
vĩ mô như sự thất thường của hoạt động thương mại; tính áp đặt trong
chính sách tỷ giá và lãi suất; sự bùng nổ của hoạt động cho vay; sự sụt giá
tài sản, sự du nhập vốn một cách ồ ạt; sự chuẩn bị chưa kỹ lưỡng để sẵn
sàng tiến hành mở cửa, và sự không tuân thủ tính logic và trình tự của
những cải cách tài chính.
Nói cách khác, nguyên nhân chính của các cuộc khủng hoảng tài chính
lại chính là những yếu kém tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng, sự thiếu lành
mạnh của hệ thống chính sách quản lý vĩ mô, sự thiếu vắng của một chế độ

giám sát, kiểm tra có hiệu quả và sự sai lệch trong đường lối cải cách, chứ
không phải xuất phát từ bản thân quá trình tự do hoá tài chính.
Thứ hai: tài chính thường được coi là công cụ quản lý chiến lược và là
lĩnh vực đặc biệt cần được nắm giữ bởi Nhà nước để tập trung thực hiện


những mục đích quan trọng của một quốc gia. Việc mở cửa thị trường tài
chính có thể có nguy cơ làm xao nhãng hoặc thiếu tập trung trong việc điều
hành để thực hiện những mục tiêu đó vì các tổ chức, doanh nghiệp nước
ngoài sẽ không quan tâm đến một mục đích nào khác hơn là mục đích lợi
nhuận. Đặc biệt, trong điều kiện hệ thống tài chính nội địa có khả năng
cạnh tranh kém, nền tài chính có nguy cơ bị thống trị bởi các tổ chức, doanh
nghiệp tài chính nước ngoài thì quyền lực kiểm soát, khống chế và điều
khiển thị trường tài chính của Nhà nước sẽ dần bị thu hẹp lại, và do đó có
thể phương hại đến mục tiêu chiến lược của quốc gia. Hơn nữa, việc mở cửa
thị trường tài chính nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng có thể sẽ dẫn đến
nhiều hiện tượng tiêu cực, thiếu lành mạnh như lừa đảo, phá sản, đổ vỡ...
gây thiệt hại đến lợi ích của người tiêu dùng.
Tuy nhiên, theo lập luận của nhiều nhà nghiên cứu, sự thâm nhập của
các tổ chức tài chính nước ngoài có thể đưa đến những lợi ích đáng kể (như
đã đề cập ở trên). Hơn nữa, những mặt trái của việc mở cửa thị trường tài
chính có thể được khống chế hoặc hạn chế ở mức thấp nhất nếu năng lực
cạnh tranh của hệ thống tài chính nội địa được cải thiện đáng kể trước khi
tiến hành mở cửa. Khả năng đó là hiện thực nếu nó được trợ giúp bởi một
chế độ giám sát kiểm tra thận trọng có hiệu quả và một trình tự mở cửa
hợp lý . Nói cách khác, việc có tận dụng được những lợi ích tiềm năng đó với
một chi phí thấp nhất hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào đường lối cải tổ
của chính sách các nước theo đuổi chính sách mở cửa đó.
Trên thực tế, có rất ít những bằng chứng chứng minh rằng sự có mặt
của tổ chức tài chính nước ngoài làm phương hại và phá huỷ sự an toàn

của hệ thống tài chính của một nước. "Sự có mặt của các tổ chức tài chính
nước ngoài thực chất lại làm tăng thêm sự đa năng của hệ thống tài chính,
và do đó làm tăng thêm tính ổn định cần có. Hơn nữa, sự hiệu quả của chính
sách tài chính tiền tệ phụ thuộc phần lớn vào chính sách tỷ giá và chính
sách di chuyển vốn của nước chủ nhà chứ không phụ thuộc vào sự có mặt
hay không của các tổ chức tài chính nước ngoài" (Dobson & Jacquet, 1998).
II. Kinh nghiệm của Trung Quốc và Canada trong việc mở cửa


thị trường dịch vụ tài chính
Năm 2000, một nhà nghiên cứu (Yang Qian) đã phân tích mức độ cam
kết mở cửa thị trường của các nước thành viên WTO trong khuôn khổ hiệp
định GATT. Một trong những kết luận đáng chú ý được rút ra là: Mức độ
cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính nhìn chung không phụ thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế của các nước thành viên. Một số nước phát
triển đưa ra những cam kết không được cởi mở lắm trong khi đó có những
nước đang phát triển hoặc kém phát triển vẫn cam kết mở cửa thị trường
rộng rãi hơn. Quyết sách để đưa ra mức độ mở cửa thị trường dường như
phụ thuộc nhiều hơn vào những lợi ích tiềm năng có thể mang lại và khả
năng cạnh tranh của hệ thống dịch vụ tài chính nội địa. Hay nói đúng hơn là
nó phụ thuộc vào tính hiệu quả và những thành tựu đã đạt được của công
cuộc cải cách hệ thống tài chính ngân hàng của một nước thành viên theo
hướng hội nhập Điều đó có nghĩa là sẽ không có một công thức chung
chuẩn xác nào áp dụng cho tất cả các nước khi tiến hành mở cửa kinh tế.
Tuy nhiên, ở một chừng mực nhất định, việc tham khảo kinh nghiệm và
những bài học thực tế về việc mở cửa thị trường ở một số nước là cần thiết
cho những nước đi sau.
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc bắt đầu chính sách mở cửa kinh tế vào năm 1979. Tuy
nhiên, trong 5 năm đầu tiên của thời kỳ mở cửa, công cuộc cải cách dường

như chưa chạm đến hệ thống tài chính ngân hàng. Dấu hiệu cải cách trong
hệ thống tài chính thực sự mới xuất hiện vào năm 1984 khi hệ thống ngân
hàng tách thành hai cấp: ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc) và Ngân hàng thương mại. Kể từ đó mới xuất hiện dấu hiệu
cạnh tranh giữa các ngân hàng và ở một mức độ thận trọng, các ngân hàng
nước ngoài bắt đầu được phép thành lập và hoạt động ở Trung Quốc.
Nhìn chung cho đến nay, hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn
bị chính phủ khống chế và kiểm soát chặt chẽ. Mức độ mở cửa cho các ngân
hàng nước ngoài hoạt động còn rất hạn chế.Những đặc điểm chính của thị


trường dịch vụ tài chính của Trung Quốc như sau:
HỆ thống ngân hàng:
Bốn ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước kiểm soát trên 80% thị phần
và thực hiện việc phân phối tín dụng dựa trên kế hoạch tín dụng của trung
ương. Những ngân hàng này giữ một phần lớn các khoản tiền gửi nằm
ngoài kênh gửi tiền chính thức nhằm mục đích đầu cơ. Các ngân hàng
thương mại thực hiện hoạt động cho vay ngầm nhiều hơn hoạt động cho
vay chính thức. Tỷ lệ đọng vốn, không có khả năng thanh toán tại các doanh
nghiệp Nhà nước lớn.
Các ngân hàng nước ngoài chỉ được phép hoạt động ở một số vùng
kinh tế đặc biệt. Chính phủ Trung Quốc không cho phép các ngân hàng đầu
tư nước ngoài mở chi nhánh.Ngân hàng nước ngoài có thể hoạt động dưới
dạng liên doanh hoặc 100% vốn nước ngoài nếu được cơ quan có thẩm
quyền cho phép và phải gửi 30% vốn tối thiểu vào Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc.Họat động giao dịch của ngân hàng nước ngoài chủ yếu hạn
chế trong khuôn khổ các ngoại tệ mạnh (gần đây có cấp phép cho một số ít
ngân hàng nước ngoài được thực hiện giao dịch bằng đồng nhân dân
tệ).Ngân hàng nước ngoài chỉ được thực hiện các hoạt động dịch vụ bán
buôn (wholesale banking). Trước khi mở chi nhánh, ngân hàng nước ngoài

phải có ít nhất 3 năm hoạt động dưới dạng văn phòng đại diện và phải có số
vốn ít nhất 100 triệu nhân dân tệ (NDT).
Hiện tại ở Trung Quốc có vào khoảng 540 văn phòng đại diện, 130 chi
nhánh, 6 liên doanh và 5 ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Tuy nhiên, chỉ có
9 ngân hàng được phép kinh doanh bằng NDT và hoạt động kinh doanh
dịch vụ cũng chỉ được phép thực hiện tại Thượng Hải và Quảng Châu. Trong
tương lai những hạn chế của các ngân hàng nước ngoài có thể được nới
lỏng cả về mặt địa lý, đối tượng phục vụ và lĩnh vực hoạt động. Tuy nhiên,
việc nới lỏng đó ơ rmức độ nào và với những điều kiện gì còn tuỳ thuộc vào
sự đàm phán trên cơ sở lợi ích.Chính phủ Trung Quốc tuyên bố rõ ràng
Trung Quốc sẽ không hy sinh những lợi ích căn bản của mình để theo đuổi


mục tiêu thành viên WTO và coi sự ổn định của mình là mục đích lớn nhất
khi tham gia hội nhập.
Thị trường bảo hiểm
Thị trường bảo hiểm còn nhỏ bé và thống trị bởi các công ty bảo hiểm
Nhà nước. Nhà nước quyết định tỷ lệ hoa hồng bảo hiểm. Đa số tiền bảo
hiểm thu được được gửi tại tài khoản có tính lãi.
Công ty bảo hiểm nước ngoài muốn được cấp phép hoạt động đầy đủ
phải chờ đợi trong khoảng thời gian 3 năm thẩm định. Sở hữu vốn nước
ngoài trong các công ty liên doanh chỉ giới hạn đến 49%. Cho đến nay mới
chỉ có khoảng 3 giấy phép được cấp cho các công ty bảo hiểm nước ngoài.
Việc hồi hương vốn bị hạn chế nghiêm ngặt. Các hãng bảo hiểm nước ngoài
bị hạn chế trong việc cạnh tranh với các công ty bảo hiểm thương mại của
Nhà nước. Chiính phủ Trung Quốc cam kết rằng khi trở thành thành viên
WTO, Trung Quốc sẽ loại bỏ những hạn chế về địa lý và định lượng trong
khoảng thời gian 5 năm. Bên cạnh đó, việc cấp phép đầu tư sẽ chỉ dựa trên
cơ sở các tiêu chí thận trọng theo thông lệ quốc tế. Những hạn chế về tỷ lệ
sở hữu vốn đối với các doanh nghiệp liên doanh cũng sẽ bị loại bỏ.

Thị trường chứng khoán
Thị trường chứng khoán ở Trung Quốc chưa phát triển.Thị trường
trái phiếu rất mỏng.Thị trường trái phiếu phi chính phủ không đáng kể.
Trung QUỐC chưa có Luật chứng khoán quốc gia. Chính phủ kiểm soát giao
dịch chứng khoán của các công ty, doanh nghiệp sở hữu Nhà nước. Chỉ có
khoảng 1/3 số cổ phiếu được giao dịch Quỹ hỗ tương không được phép
thành lập.
Các công ty nước ngoài kinh doanh trong lĩnh vực chứng khoán không
được phép thành lập chi nhánh hoặc công ty con, mà chỉ được phép thành
lập dưới dạng liên doanh. Sở hữu vốn nước ngoài được phép đến 85%. Các
văn phòng đại diện không được phép thực hiện hoạt động kinh doanh
chứng khoán của các công ty có vốn nước ngoài chỉ được phép đối với loại


chứng khoán có mệnh giá bằng ngoại tệ (Bshare). KHÔNG được phép thực
hiện các giao dịch phái sinh (Options...) Việc hồi hương lợi nhuận phải được
chính phủ phê duyệt.
Như vậy, có thể thấy rằng việc cải cách kinh tế theo hướng mở cửa tuy
đã được thực hiện trên hai thập kỷ, song Trung Quốc vẫn tỏ ra hết sức dè
dặt trong việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính. Sự cho phép thâm nhập
của một số tổ chức nước ngoài trong lĩnh vực này dường như chỉ có tính
chất thử nghiệm và chỉ giới hạn trong một số khu vực địa lý nhất định với
nhiều điều kiện ngặt nghèo.Thị trường dịch vụ tài chính vẫn gần như được
thống soái tuyệt đối bởi các tổ chức tài chính nội địa và chủ yếu là khu vực
Nhà nước. Yếu tố cạnh tranh trong các hoạt động dịch vụ tài chính chưa
phát triển thực sự và có lẽ đây là một trong những nguyên nhân chính
khiến hệ thống tài chính của Trung Quốc vẫn còn mang nặng dấu ấn "kế
hoạch hoá" với hiệu quả hoạt động thấp và khả năng cạnh tranh kém -xét
trên bình diện quốc tế. Với những đặc điểm đó, Trung Quốc cần có thời gian
và những cải cách mạnh mẽ hơn, trước khi thực hiện việc tự do hoá theo

những cam kết khi gia nhập WTO.
2. Kinh nghiệm của Canada
Canada là một trong những nước có trình độ phát triển kinh tế cao
nhất thế giới (là thành viên của khối G7) với tư cách thành viên lâu đời của
OECD, GATT và gần đây là NAFTA. Vì vậy, lĩnh vực dịch vụ tài chính không
những phát triển và có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế
Canada, mà còn có tính cạnh tranh cao trên thị trường quốc tế. Năm 1997,
khu vực dịch vụ tài chính ở Canada chiếm tới 5,2% GDP và thu nạp 4,5% lao
động của toàn bộ nền kinh tế. Do việc mở cửa thị trường nên hoạt động
dịch vụ tài chính ở Canada mang tính quốc tế hoá cao, nhiều tổ chức, công
ty nước ngoài thực hiện hoạt động kinh doanh tại Canada và ngược lại,
nhiều tổ chức, công ty của Canada thực hiện các hoạt động kinh doanh ở
nước ngoài. Hoam Kỳ là đối tác kinh doanh lớn nhất chiếm tới hơn 50% giá
trị dịch vụ kể cả nhập khẩu và xuất khẩu. Tuy mức độ mở cửa thị trường
ngày càng trở nên thông thoáng trog thời gian gần đây (đặc biệt kể từ khi


ký kết hiệp định chung về thương mại dịch vụ nói chung - GATT - và hiệp
định về dịch vụ tài chính nói riêng - FSA), song việc mở cửa thị trường dịch
vụ tài chính ở Canada cũng không có nghĩa là tự do hoá hoàn toàn.
HỆ thống ngân hàng
Trước khi tham gia ký kết hiệp định về thương mại dịch vụ tài chính
giữa các nước thành viên WTO (năm 1997), cả một thời kỳ dài Canada áp
dụng luật 10/25 trong lĩnh vực ngân hàng. Luật này quy định cá nhân (tổ
chức) nước ngoài không được phép sở hữu quá 10% (25%) bất kỳ loại cổ
phiếu nào của một ngân hàng nhất định được thành lập theo một điều
khoản riêng (Schedule I). Bên cạnh đó, việc mở chi nhán hoặc văn phòng đại
diện trực tiếp từ các ngân hàng nước ngoài là điều không thể. Các ngân
hàng nước ngoài muốn hoạt động tại Canada phải thành lập dưới hình
thức công ty con hoạt động bằng vốn độc lập của chính công ty con đó theo

một điều khoản riêng (Shcedule II) và không được tham gia vào các hoạt
động dịch vụ bán lẻ. Những hạn chế này là những trở ngại đáng kể đối với
sự thâm nhập của các ngân hàng nước ngoài, nhưng đồng thời lại được coi
là những biện pháp an toàn chon sự hoạt động của các ngân hàng nội địa
tránh được sự cạnh tranh và đảm bảo tính chủ quyền điều hành của chính
phủ trong một chừng mực nhất định.
Các ngân hàng được thành lập theo Schedule I đều là những ngân
hàng lớn có mạng lưới toàn quốc với hơn 8000 chi nhánh, nắm giữ trên
90% tài snr của toàn bộ ngành ngân hàng và chủ yếu do người Canada sở
hữu. NHỮNG công ty con của các ngân hàng nước ngoài được thành lập
theo Schedule II chỉ chiếm một thị phần nhỏ và chuyên biệt trong một số
lĩnh vực như dịch vụ đầu tư, dịch vụ vay trả, thanh toán đối với các doanh
nghiệp kinh doanh.
Sau hiệp định FSA, một số hạn chế đối với hoạt động của các ngân
hàng nước ngoài đã được loại bỏ. Chẳng hạn luật sở hữu không quá 10% cổ
phần nay được áp dụng chung cho cả cá nhân trong nước và nước ngoài,
luật sở hữu không quá 25% cổ phần (đối với tổ chức hoặc nhóm cá nhân)


được loại bỏ, các ngân hàng nước ngoài được phép mở chi nhánh trực tiếp
tại Canada... Tuy nhiên một số hạn chế cần thiết vẫn được giữ nguyên.
Chẳng hạn : chi nhánh của ngân hàng nước ngoài (ngân hàng cho vay hoặc
dịch vụ) không được phép thực hiện các hoạt động thuộc về chức năng
chuyên biệt của các công ty tài chính được quy định trong luật ngân hàng.
Chi nhánh của ngân hàng nước ngoài thực hiện chức năng dịch vụ chỉ được
phép nhận những khoản tiền gửi dưới 150.000 đô la Canada.... Một số bang
còn đòi hỏi đa số thành viên của hội đồng quản trị phải là cư dân Canada
hoặc quy định người nước ngoài có thể không được hưởng quyền bầu cử
khi họ nắm giữ cổ phiếu của ngân hàng Canada trong một số trường hợp
nhất định.

Thị trường bảo hiểm
Mức độ mở cửa thị trường bảo hiểm ở Canada tỏ ra thông thoáng
nhất so với các lĩnh vực khác trong hoạt động dịch vụ tài chính. Các hãng
bảo hiểm nước ngoài chiếm thị phần đáng kể. Chẳng hạn, theo số liệu báo
cáo của WTO, tổng số phí bảo hiểm y tế và nhân thọ của các hãng nước
ngoài chiếm 27%. Tỷ lệ này trong hoạt động bảo hiểm thương tật và bảo
hiểm tài sản là 65%. Trong tổng số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế,
55 công ty là chi nhánh của các công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng
số 132 công ty bảo hiểm nhân thọ và y tế, 55 công ty là chi nhánh của các
công ty bảo hiểm nước ngoài. Trong tổng số 196 công ty bảo hiểm tài sản
và bảo hiểm thương tật được thành lập theo luật liên bang thì 122 công ty
là chi nhánh của các hãng nước ngoài.
Mặc dù việc mở cửa thị trường bảo hiểm đã ở mức cao song vẫn có
những hạn định ràng buộc nhất định khi cam kết tham gia hiệp định FSA.
Những ràng buộc này chủ yếu là những quy định về hình thức cung ứng
dịch vụ, quyền sở hữu vốn hoặc quyền điều hành. Chẳng hạn, Canada đòi hỏi
tất cả các dịch vụ bảo hiểm phải được thực hiện thông qua hình thức hiện
diện thương mại (Commercial presence). Một số bang như (Quebec) quy
định người không phải là cư dân Canada không được phép sở hữu (gián
tiếp hay trực tiếp) quá 30% cổ phiếu có quyền bầu cử nếu không có sự chấp


thuận của cấp bộ trưởng (Ministerial Approval). Một số băng khác không
cấp giấy phép hoạt động đại lý bảo hiểm cho những người không phải là cư
dân thuộc bang đó, hoặc một khoản thuế đặc biệt sẽ được áp dụng đối với
khoản hoa hồng bảo hiểm thuần trả cho người không phải là đối tượng cư
trú ở Canada. Quebec còn yêu cầu ba phần tư thành viên của hội đồng quản
trị phải là công dân Canada và phần lớn phải định cư tại Quebec...
Thị trường chứng khoán
Canada có lẽ là nước duy nhất trong số những nước phát triển duy trì

sự hoạt động của thị trường chứng khoán trên cơ sở điều luật và quản lý
của các bang. Chính phủ liên bang không tham gia điều chỉnh hoặc ban
hành điều luật hoạt động của thị trường chứng khoán. Vì vậy mức độ tự do
hoá hoàn toàn phụ thuộc vào quy định riêng của từng bang. Tuy nhiên sự
ràng buộc nói chung của đa số các bang thường là: cung cấp dịch vụ thông
qua sự hiện diện thương mại, người mua bán chứng khoán phải đăng ký để
thực hiện giao dịch thông qua các nhà môi giới, ít nhất một giám đốc hoặc
một cán bộ chủ chốt của một hãng kinh doanh chứng khoán phải là cư dân
của Canada trong thời hạn ít nhất một năm mới đủ điều kiện cho phép
thành lập.
Tóm lại: Việc tự do hoá tài chính ở Canada đã có lịch sử lâu dài và
được coi là một trong những yếu tố quan trọng làm cho hệ thống dịch vụ tài
chính của Canada có tính cạnh tranh cao Canada không có trở ngại gì đáng
kể trong việc thực hiện những cam kết mở cửa thị trường dịch vụ tài chính
trong khuôn khổ FSA của WTO. Ngược lại, việc tham gia FSA sẽ là cơ hội lớn
cho các ngành dịch vụ tài chính của Canada có điều kiện mở rộng các hoạt
động đó ra nước ngoài, đặc biệt là các nước đang phát triển. Tuy vậy, vẫn
có thể thấy rằng việc mở cửa thị trường dịch vụ ngân hàng vẫn còn tương
đối thận trọng (so với vị thế của một nước phát triển và so với các hoạt
động dịch vụ khác). Những hạn chế được quan tâm nhất đối với việc mở
cửa thị trường là Nhà nước hạn chế về tỷ lệ sở hữu vốn, hình thức cung cấp
dịch vụ, và tính chất cư trú của những người nắm giữ quyền quyết định đối
với các tổ chức tài chính được phép thành lập và hoạt động tại Canada. Tất


cả những hạn chế về mặt đối xử quốc gia và quốc tế nêu trên được coi là
cần thiết nhằm đảm bảo một chế độ giám sát, kiểm tra có hiệu quả, duy trì
sự khống chế của chính phủ đối với toàn bộ hệ thống tài chính và do đó đảm
bảo sự ổn định bền vững của nền kinh tế Canada.


III. Những kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc mở cửa thị
trường tài chính
1. Một số đặc điểm cơ bản về thị trường dịch vụ tài chính ở Việt
Nam và mức độ mở cửa đối với các nhà kinh doanh nước ngoài
Việt Nam đã thi hành chính sách đổi mới kinh tế và thực hiện việc mở
cửa bắt đầu từ năm 1986. Xu thế này ngày càng được khẳng định bằng một
loạt các mối quan hệ liên kết kinh tế được thiết lập vào những năm sau đó
như tham gia ASEAN (1995), APEC (1998), ký kết Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ (2000)... Song song với những cải cách kinh tế, hệ thống tài chính
cũng có những cải tổ văn bản theo hướng hiệu quả, cạnh tranh và mở cửa
từng bước.
HỆ thống ngân hàng của nước ta thực sự có những thay đổi căn bản
vào những năm đầu của thập kỷ 90 khi được tách làm 2 cấp: ngân hàng
Nhà nước và ngân hàng thương mại với hai chức năng riêng biệt. Sự cải tổ
này đã đem đến những thay đổi đáng kể theo chiều hướng tích cực làm cho
hệ thống ngân hàng ngày càng thích ứng với cơ chế thị trường hơn. Tuy
vậy, nhìn một cách khái quát, hệ thống ngân hàng ở nước ta vẫn chưa đáp
ứng được những yêu cầu của công cuộc cải cách và vẫn có thể coi là chưa
phát triển. Một số hạn chế chủ yếu là:
+ Non trẻ trong kinh nghiệm và kỹ năng nghề nghiệp
+ HỆ thống các văn bản pháp quy chưa hoàn chỉnh
+ Thiếu phương tiện và nhân viên lành nghề


+ Hạn chế về công cụ thanh toán, chi trả
+ Tỷ lệ cho vay không có khả năng thu hồi vốn lớn
+ Thiếu vắng một cơ chế giám sát kiểm tra có hiệu quả
Được coi là một phần của công cuộc cải cách, Việt Nam cũng đã cho
phép các ngân hàng nước ngoài hoạt động. Một ngân hàng nước ngoài
muốn hoạt động tại Việt Nam có thể thành lập dưới 3 dạng: văn phòng đại

diện, ngân hàng liên doanh hoặc chi nhánh ngân hàng nước ngoài.
Nếu mở văn phòng đại diện thì ngân hàng nước ngoài không được
phép thực hiện các hoạt động vì mục đích lợi nhuận như cho vay, nhận tiền
gửi, mở thư tín dụng... Hiện có khoảng trên dưới 50 văn phòng đại diện của
các ngân hàng nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam (Asean Year Book,
1999).
Nếu thành lập chi nhánh hoặc ngân hàng liên doanh thì có thể thực
hiện một số các hoạt động thông thường của nghiệp vụ kinh doanh ngân
hàng (cả nội và ngoại tệ) như: cho vay, chiết khấu, thanh toán... hoặc các
hoạt động khác được ngân hàng Nhà nước Việt Nam cho phép.Hiện đã có 4
ngân hàng liên doanh và khoảng 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đang
hoạt động tại Việt Nam. Mặc dù vậy, thị phần hoạt động của các ngân hàng
nước ngoài tại Việt Nam vẫn còn nhỏ. Bốn ngân hàng thương mại quốc
doanh vẫn chiếm thị phần lớn nhất (trên 80%) trong việc huy động tiền gửi
và cho vay.
Thị trường bảo hiểm của Việt Nam có phần rộng mở hơn đối với hoạt
động của các công ty bảo hểim nước ngoài. Chính sách mở cửa được thực
hiện bắt đầu từ năm 1993 khi chính phủ ban hành chỉ thị 100/CP cho phép
các nhà bảo hiểm nước ngoài được phép đầu tư vào Việt Nam dưới các hình
thức: liên doanh, mở chi nhánh hoặc 100% sở hữu vốn nước ngoài. Hiện giờ
đã có 16 công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam
trong đó có 4 công ty liên doanh và 4 công ty 100% vốn nước ngoài. Mặc dù
vậy cac công ty bảo hiểm Nhà nước vẫn giữ vị trí thống soái. Năm 1999


doanh thu của các công ty bảo hiểm Nhà nước chiếm khoảng 89% tổng
doanh thu ngành bảo hiểm.Tuy nhiên, doanh thu bảo hiểm của các công ty
nước ngoài đang có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây và có
tểh sẽ chiếm thị phần đáng kể trong một tương lai không xa.
Thị trường chứng khoán ở Việt Nam mới được hình thành vào tháng

7-2000. Thực chất đây mới chỉ là thị trường ở thuở sơ khai và chưa ổn định.
Tổng lượng giao dịch còn hết sức mỏng so với toàn bộ nền kinh tế. Vì vậy, sự
tham gia của các hãng nước ngoài trong lĩnh vực này hiện nay gần như
không có. Hơn nữa, hệ thống luật pháp cũng như chính sách tạo hàng hoá
cho thị trường chứng khoán cũng sẽ còn nhiều thay đổi, nên sự đầu tư của
các công ty nước ngoài thông qua thị trường chứng khoán cũng mới chỉ
dừng lại ở mức độ quan sát thăm dò.
Tóm lại: thị trường dịch vụ tài chính ở Việt Nam có thể coi là chưa
phát triển và đang trong quá trình cải tổ, cơ cấu lại để nâng cao sức cạnh
tranh và thích ứng với môi trường kinh tế, xã hội đang ngày càng thay đổi
theo xu thế quốc tế hoá.theo xu thế này, Việt Nam đã dần dần mở cửa nền
kinh tế nói chung và thị trường dịch vụ tài chính nói riêng để từng bước hội
nhập vào nền kinh tế thế giới. Trong một chừng mực nhất định, có thể nói
rằng chính sách đó đã tương đối thành công và trở thành một nhân tố
mang lại sự cải thiện về tính hiệu quả, tính ổn định và tính cạnh tranh trong
lĩnh vực dịch vụ tài chính - một lĩnh vực vốn được Nhà nước kiểm soát chặt
chẽ và mang nặng tính hành chính bao cấp trong thời gian trước đây. Sự
mở cửa thị trường của Việt Nam có thể coi là tương đối hào phóng so với
một số nước đang phát triển. Điều này đặc biệt đúng nếu so sánh giữa Việt
Nam và Trung Quốc- một nước đang phát triển có nhiều điều kiện kinh tế,
xã hội, chính trị khá tương đồng với Việt Nam và là nước đã có những cải
cách kinh tế đi trước Việt Nam một thập kỷ. Tuy nhiên điều đó cũng không
có nghĩa rằng sự mở cửa khá nhanh đó sẽ tác động tiêu cực đến nền kinh tế
Việt Nam mà ngược lại, tiến trình đó có thể đã là một động lực thúc đẩy
quan trọng làm cho công cuộc cải tổ của Việt Nam nhanh đi đến đích hơn và
do đó có khả năng thích ứng với nền kinh tế thế giới một cách hiệu quả


hơn.Chiến lược này một lần nữa được khẳng định thông qua việc ký kết
hiệp định thương mại Việt - Mỹ (trong đó có những cam kết về việc mở cửa,

trao đổi thương mại trong lĩnh vực dịch vụ tài chính)- một bước đi quan
trọng trong tiến trình gia nhập WTO của Việt Nam.
2.Những bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam.
Dựa trên những phân tích về lợi ích mà rủi ro về việc tự doa hoá tài
chính, kinh nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc và Canada và thực
tiễn cải cách hệ thống tài chính của Việt Nam trong thập kỷ vừa qua, một số
khuyến nghị có thể rút ra là:
Thứ nhất: Việt Nam nên tiếp tục tiến hành việc mở cửa dần dần thị
trường tài chính với một phạm vi thích hợp và một trình tự hợp lý sao cho
vừa đảm bảo nâng dần năng lực và khả năng cạnh tranh vừa thích nghi và
tiến gần hơn đến những tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Sự thành công về
việc xúc tiến mở cửa thị trường tài chính thời gian qua đã cho thấy rằng, sự
tham gia của các hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài
chính cũng đã mang lại lợi ích đáng kể như tăng cường sự cạnh tranh, hạ
thấp chi phí, nâng cao chất lượng dịch vụ, tăng cường chuyển giao công
nghệ, kinh nghiệm quản lý và tăng thêm tích luỹ vốn cho nền kinh tế. Kinh
nghiệm mở cửa thị trường của Trung Quốc cũng đã cho thấy , do có sự bảo
hộ quá lâu thông qua những điều kiện ngặt nghèo không cho phép sự du
nhập phổ biến của hoạt động kinh doanh quốc tế, nên công cuộc cải cách đã
diễn ra trên hai thập kỷ song hệ thống dịch vụ tài chính ở Trung Quốc vẫn
kém phát triển với tính cạnh tranh thấp. Đây là một trong những điểm bất
lợi đáng kể để khi Trung Quốc gia nhập WTO trong tương lai.
Thứ hai: Việc mở cửa thị trường dịch vụ tài chính không thể không
gắn liền với một tiến trình cải cách liên tục hệ thống dịch vụ tài chính ở
nước ta hiện nay. Phân tích ở trên đã cho thấy rằng, mặc dù đã có 10 năm
cải cách song hệ thống dịch vụ tài chính ở nước ta vẫn còn ở điểm xuất phát
thấp, kém hiệu quả và vẫn mang nặng dấu ấn của thời kỳ bao cấp.Thực
trạng đó không thể cứ tiếp tục duy trì thông qua việc bảo hộ bằng cách hạn



chế sự thâm nhập của các hoạt động đầu tư quốc tế, mà cần phải được bảo
hộ thông qua những cải cách triệt để trên cơ sở đó tạo ra năng lực tự bảo
vệ trong điều kiện cạnh tranh quốc tế khi tiến hành hội nhập. Một trong
những nguyên nhân chủ yếu của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ
diễn ra trên thế giới (cùng với những nguyên nhân khác) là sự yếu kém của
chính bản thân hệ thống tài chính ngân hàng nội địa của các nước thi hành
chính sách mở cửa. Do đó, đã không đối phó nổi những trận bão táp tài
chính nảy sinh do hiệu ứng của đầu tư quốc tế mang lại. Việc mở cửa thị
trường nếu quá đột ngột do không cho sự cai cách đáng kể để nâng cao
năng lực của hệ thống tài chính nội địa trước khi tiến hành mở cửa sẽ rất
dễ dẫn đến tình trạng hỗn loạn, bất lợi và mất khả năng kiểm soát của
chính phủ đối với lĩnh vực dịch vụ tài chính. Vì vậy, cải cách và loại bỏ dần
tính hành chính bao cấp của hệ thống tài chính nội địa cho thích ứng với
kinh tế thị trường trong môi trường quốc tế được coi là một trong những
chiến lược mang lại sự thành công khi tham gia hội nhập.
Thứ ba: Cải cách hệ thống dịch vụ tài chính không có nghĩa chỉ là
những cải cách về mặt cơ cấu tổ chức, năng lực nghề nghiệp, mà phải được
tiế hành toàn diện cả về quan điểm và phương pháp điều hành vĩ mô của
toàn bộ hệ thống gắn với những điều kiện quốc tế. Trong đó, những cải cách
về hệ điều hành chính sách tỷ giá, quản lý ngoại tệ và chính sách lãi suất
phải được coi là đặc biệt quan trọng vì chúng hết sức nhạy cảm đối với nền
kinh tế. Bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng tiền tệ trên thế giới đã cho
thấy, việc duy trì một chế độ tỷ giá chính thức quá xa so với tỷ giá thực, việc
thả lỏng trong quản lý ngoại tệ và việc quá lạm dụng chính sách lãi suất để
tác động vào nền kinh tế một cách cưỡng bức trong một thời gian dài nếu
không được điều chỉnh để tiến gần hơn với những điều kiện quốc tế sẽ là
một bất lợi lớn khi tiến hành mở cửa thị trường và tham gia hội nhập, thậm
chí sẽ là nguyên nhân trực tiếp gây ra khủng hoảng.
Thứ tư: Cải cách tài chính song song với việc mở cửa dần dần thị
trường dịch vụ tài chính cần phải được hỗ trợ đồng thời bằng việc hoàn

thiện hệ thống luật pháp, nhằm tạo ra một hành lang pháp lý ổn định, hiệu


quả và minh bạch, tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp trong nước
với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng đối xử quốc gia
(National Treatment). Trong đó, đặc biệt chú ý đến những cơ sở pháp lý
đảm bảo quyền giám sát kiểm tra của chính phủ và các cơ quan bảo vệ
pháp luật đối với các hoạt động kinh tế của các doanh nghiệp, kể cả doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo sự khống chế của Nhà
nước trong việc duy trì sự ổn định và sự lành mạnh của thị trường dịch vụ
tài chính.Trước mắt cần xoá bỏ ngay sự đối xử ưu đãi về thuế đối với các
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dịch vụ tài chính
nhằm đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng giữa doanh nghiệp nội địa và
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Thứ năm: Việt Nam cần tập trung tối đa vị thế của một nước đang
phát triển trong các cuộc đàm phán song phương và đa phương để được
hưởng những ưu đãi hoặc nhượng bộ trong việc thực hiện nghĩa vụ với tư
cách thành viên, đặc biệt trong thời gian chuyển đổi (Phase - in Period).
Những nhượng bộ và những ưu đãi này sẽ là những điều kiện tốt để cơ cấu,
cải tổ lại và tăng cường tiềm lực cạnh tranh sao cho có thể đứng vững
trước sự du nhập của các thế lực cạnh tranh quốc tế khi thị trường được tự
do hoá hoàn toàn. Trong thời gian trước mắt, việc tham gia và thực hiện tốt
các hiệp định khu vực như AFTA, APEC nên được đặt ở vị trí ưu tiên hàng
đầu và coi đó là bước đệm - bước đúc rút kinh nghiệm trước khi tiến tới
đàm phán gia nhập WTO trong tương lai.
Cuối cùng, khi tiến hành đàm phán mở cửa thị trường dịch vụ tài
chính, chúng ta cũng không nên loại bỏ những hạn chế cần thiết về tỷ lệ sở
hữu vốn của người nước ngoài (cá nhâm hoặc tổ chức), đồng thời kèm theo
những ràng buộc về hình thức đầu tư và nhân sự điều hành hoặc sử dụng
lao động để đảm bảo lợi ích chủ quyền quốc gia và duy trì sự kiểm soát của

Nhà nước đối với thị trường tài chính. Việc mở cửa thị trường nên được
tiến hành rộng rãi trước hết đối với thị trường bảo hiểm. Đối với lĩnh vực
ngân hàng và thị trường chứng khoán cần phải có những bước đi hết sức
thận trọng, bằng những biện pháp bảo vệ thận trọng để tiến tới việc mở


cửa một cách toàn diện khi đủ điều kiện cho phép. Bài học này thậm chí
cũng còn có giá trị đối với các nước phát triển có khả năng cạnh tranh cao
như Canada hoặc một số nước thành viên trong khối G7.
Tóm lại: Khu vực dịch vụ tài chính trên thế giới đã thể hiện rõ xu
hướng toàn cầu hoá trong vòng hai thập kỷ gần đây. TỰ do hoá tài chính
toàn cầu đã mang lại những lợi ích to lớn xét trên cả khía cạnh hiệu quả và
chất lượng dịch vụ. Thật không may, trong thời gian trước đây, một số nền
kinh tế chuyển đổi theo đuổi chính sách tự do hoá tài chính đã lâm vào
những cuộc khủng hoảng tài chính trầm trọng. Nỗi ám ảnh về khả năng xảy
ra khủng hoảng đã trở thành một trong những nguyên nhân chính khiến
các nước thành viên WTO tỏ ra do dự trong việc cam kết mở cửa thị trường
dịch vụ tài chính. Đây cũng là mối quan tâm chung của các nước chưa phải
là thành viên của WTO nhưng đang trong quá trình xin gia nhập vào tổ
chức này.
Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu đã chỉ ra rằng: trong đa số các
trường hợp, lợi ích của tự do hoá tài chính, hoàn toàn có thể vượt trội
những chi phí rủi ro có thể xảy ra trong quá trình cải cách.Khủng hoảng tài
chính diễn ra ở một số nước trên thế giới không có nguyên nhân sâu xa bắt
nguồn từ việc tự do hoá tài chính mà bắt nguồn từ chính những yếu kém
tiềm ẩn trong hệ thống ngân hàng, sự thiếu vắnt của một chế độ giám sát có
hiệu quả cũng như những sai lầm trong chính sách quản lý tiền tệ và chính
sách tỷ giá hối đoái.




×